Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

aaq

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (58.96 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Anh (chị) hãy viết bài văn phân tích bài thơ Quê Hương của Tế Hanh. Bài làm </b>
văn của một bạn học sinh lớp 8 chuyên Quốc Học Huế (Giải nhất cuộc thi học sinh giỏi
cấp thành phố).


<b>Bài làm</b>


Tế Hanh là người con của xứ sở núi Ấn sông Trà. Đề tài quê hương trở đi trở lại
trong thơ ơng từ lúc tóc cịn xanh cho tới khi đầu bạc! Ơng viết về quê hương bằng cảm
xúc đậm đà, chân chất và dành cho mảnh đất chơn nhau cắt rốn của mình một tình yêu
thiết tha, sâu nặng.


Bài thơ Quê hương sáng tác năm 1938, khi tác giả mới tròn mười bảy tuổi, đang theo
học trung học ở Huế. Bài thơ là nỗi nhớ, là tình yêu nồng nàn đối với quê hương. Từ
những dòng thơ đầu, bằng lời kể mộc mạc, tự nhiên, Tế Hanh đã giới thiệu:


"Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới :
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông."


Quê hương nhà thờ là một cù lao nổi giữa bốn bề sông nước. Dân làng sống bằng
nghề chài lưới, cuộc đời gắn chặt với biển cả mênh mông. Làng cũng nghèo giống như
bao làng biển khác, nhưng khi đi xa, nhà thơ thương nhớ đến quặn lòng. Nhớ nhất là
khung cảnh:


"Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá."


Đồn thuyền nối đi nhau rời bến lúc bình minh. Cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp.
Bầu trời cao lồng lộng đồng điệu với lòng người phơi phới. Hình ảnh các chàng trai xứ
biển vạm vỡ và con thuyền băng băng lướt sóng đã in đậm trong tâm tưởng nhà thơ:


"Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã


Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang."


Hình ảnh so sánh đẹp đẽ và một loạt tính từ, động từ chọn lọc: "hăng", "phăng",
"mạnh mẽ", "vượt",… đã diễn tả đầy ấn tượng khí thế của những con thuyền nối nhau ra
khơi, toát lên sức sống khỏe khoắn và một vẻ đẹp hào hùng.


Trong hai câu tiếp theo, tác giả miêu tả cánh buồm bằng sự so sánh độc đáo, bất ngờ
và lãng mạn:


"Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…"


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

của làng chài bằng hình ảnh cánh buồm trắng căng phồng ngọn gió biển khơi?


Đem so sánh cánh buồm là vật hữu hình với hồn làng một khái niệm vơ hình thì quả
là sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ. Con thuyền ra khơi mang theo những nỗi lo
toan cùng niềm tin yêu, hi vọng của bao người. Nhiệt tình và sức sống của con người
truyền sang cả vật vô tri khiến cho con thuyền dường như cũng có tâm hồn riêng, sức
sống riêng. Nhịp thơ khỏe khoắn, tươi vui thể hiện khí thế sơi nổi và niềm khao khát hạnh
phúc ấm no của người dân làng biển. Sáu câu thơ miêu tả đoàn thuyền ra khơi đánh cá
vừa là bức tranh phong cảnh thiên nhiên tươi sáng, vừa là bức tranh lao động đầy hứng
khởi.


Nếu cảnh đoàn thuyền ra khơi được nhà thơ miêu tả bằng bút pháp lãng mạn bay
bổng thì cảnh đồn thuyền đánh cá về bến được tả thực đến từng chi tiết:


"Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
"Nhờ ơn trời! biển lặng cá đầy ghe",
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng."



Dân làng vui mừng đón đồn thuyền đánh cá trở về trong khơng khí ồn ào, tấp nập.
Những chiếc ghe đầy ắp những con cá tươi ngon thân bạc trắng trơng thật thích mắt. Dân
làng chân thành tạ ơn trời đất đã sóng yên biển lặng để đoàn ngư phủ được an toàn trở về
với làng xóm thân yêu.


Khi những người thân ra khơi đánh cá, người ở nhà đợi chờ trong tâm trạng lo âu.
Nay những con thuyền cập bến bình n với đầy khoang cá bạc, hỏi cịn niềm vui nào lớn
lao hơn thế bởi đó chính là cuộc sống ấm no, hạnh phúc của dân làng.


Biển cả đẹp đẽ, giàu có và hào phóng nhưng cũng thật khó lường bởi lúc thì trời yên
biển lặng, lúc thì bão tố dữ dội. Giữa đại dương mênh mông, làm sao tránh được hiểm
nguy, bất trắc? Chỉ có những người một đời gắn bó, sống chết với biển mới thấu hiểu
điều này. Cuộc sống của dân chài ngàn đời nay phụ thuộc vào thiên nhiên. Họ vất vả, cực
nhọc trăm bề để kiếm miếng cơm manh áo. Vì vậy, giây phút đón người thân sau chuyến
đi biển an toàn trở về bao giờ cũng tràn ngập niềm vui.


Giữa khung cảnh ấy nổi bật lên hình ảnh rắn rỏi, cường tráng của những chàng ngư
phủ quanh năm vật lộn với sóng gió đại dương. Dấu ấn của biển cả đã in đậm trên thân
hình vả trong tâm hồn họ:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Những con thuyền về bến sau chuyến ra khơi được nhà thơ ví như con người nghỉ
ngơi sau một ngày lao động vất vả:


"Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ."


Bao hiểm nguy giờ đã lùi xa, nhường chỗ cho sự thanh thản, bình yên. Nghệ thuật
nhân hóa đã đem đến cho con thuyền vơ tri một đời sống và một tâm hồn tinh tế.



Nhà thơ đã phát hiện ra chất thơ trong đời sống vất vả, cực nhọc của dân quê, đó là
điều đáng quý. Cũng vì vậy mà hình ảnh quê hương trong bài thơ tươi sáng, mang hơi thở
nồng ấm của cuộc đời cần lao.


Hình ảnh quê hương đẹp đẽ với những con người lao động cần cù đã khắc sâu trong
kí ức, hỏi làm sao khi xa cách, nhà thơ khơng thương nhớ đến quặn lịng? Nếu khơng có
tấm lịng gắn bó chân thành, máu thịt với con người cùng cuộc sống lao động ở làng chài
quê hương thì thi sĩ khơng thể sáng tác ra những câu thơ xuất thần như vậy.


Mỗi lần nhớ về quê hương, cảnh đẹp của biển cả như hiển hiện rõ ràng trong tâm trí
nhà thơ:


"Nay xa cách lịng tơi ln tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vơi,
Thống con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tơi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!"


Ở bốn câu thơ kết, nhà thơ trực tiếp bộc bạch nỗi nhớ quê hương khôn nguôi của
mình. Nhớ "Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vơi/ Thống con thuyền rẽ sóng chạy ra
khơi" và nhớ cả "cái mùi nồng mặn" rất đặc trưng của gió biển cùng tất cả những gì thân
thuộc của quê hương. Phải chăng nỗi nhớ da diết ấy chính là sợi dây kết chặt nhà thơ với
quê hương suốt cả cuộc đời?


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×