Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Tài liệu Tư duy kinh tế Việt Nam pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.68 KB, 22 trang )

Bản quyền © 2008 Nhà xuất bản Tri thức & tác giả Đặng Phong


19
Nhập đề 
NHỮNG THINK TANK XƯA VÀ NAY
1. Sự ra đời của các think tank
Ở nước nào cũng vậy, ở thời đại nào cũng vậy, nền kinh tế phát triển
như thế nào suy cho cùng đều lệ thuộc vào mấy yếu tố cơ bản sau đây:
- Những điều kiện thiên nhiên có sẵn trên xứ sở đó, bao gồm đất đai,
tài nguyên, khí hậu và lực lượng lao động. Nếu không có những cánh
đồng phù sa màu mỡ, với nắng, ẩm, nhiều ánh sáng, nhiều mưa... thì Việt
Nam, Thái Lan khó có thể trở thành những cường quốc về lúa gạo. Nếu
không có những đồng cỏ phì nhiêu ở những xứ như Scotland thì cũng
không thể có những đàn cừu đông đúc và nước Anh khó có thể trở thành
cường quốc về len dạ. Nếu không có những cánh đồng màu mỡ và rộng
mênh mông từ Đông sang Tây, thì nước Mỹ khó có thể trở thành một
cường quốc lúa mì. Nếu không có những mỏ vàng khổng lồ ở miền Tây
nước Mỹ thì người châu Âu không đua nhau sang đó chiếm đất, và do đó
cũng không thể xuất hiện một nước tư bản khổng lồ là nước Mỹ...
- Trình độ kỹ năng, tức những phương tiện kỹ thuật. Đó là cái gạch
nối giữa bàn tay lao động của con người với những điều kiện thiên nhiên.
Với chiếc rìu đá, người ta chỉ có thể hái lượm và săn bắt. Với chiếc lưỡi
cày người ta đã có thể trồng trọt lấy mà ăn. Khi phát minh ra cung tên thì
săn bắn trở thành một nghề ổn định và chế độ phụ quyền ra đời. Với
những chiếc cối xay gió thì bánh mỳ trở thành món ăn chính trong các
bữa ăn của người châu Âu. Từ khi có máy hơi nước, máy nổ, thì cối xay
gió chỉ
còn là đối tượng của du lịch...
- Cả hai yếu tố kể trên đều chịu sự chi phối của một yếu tố thứ ba đó
là chính sách của Nhà nước. Một chính sách tốt có thể làm cho nền kinh


tế trở nên tốt hơn. Ngược lại, một chính sách kinh tế sai lầm có thể dẫn
cả một nền kinh tế hay một ngành kinh tế gặp khó khăn, thậm chí dẫn tới
thảm họa.


20
- Nhưng chính sách kinh tế do đâu mà ra? Do đâu mà nó sai lầm và
do đâu mà nó đúng đắn? Đến lượt nó, chính sách kinh tế lại lệ thuộc vào
một yếu tố vô cùng quan trọng: Tư duy kinh tế. Tư duy kinh tế chính là
sự nhận thức của đầu óc con người đối với thực tiễn kinh tế (thực tiễn
này gồm cả những điều kiện tự nhiên và trình độ kỹ năng của một xã
hội). Đó là xuất phát điểm để đi tới những lựa chọn, những quyết sách.
Tư duy kinh tế có thể là của bản thân những nhà nhà lãnh đạo (vua chúa,
tổng thống, thủ tướng...), nhưng thường là của những nhà tư tưởng.
Nếu trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật, có hàng loạt phát minh đã có
tác dụng làm đảo lộn cả một ngành kinh tế, tạo ra những bước phát triển
nhảy vọt, thì trong kinh tế cũng đã có những nhà cải cách có thể gây ra
những chuyển biến lớn lao trong đời sống kinh tế xã hội. Nhưng khác với
khoa học kỹ thuật là lĩnh vực có thể kiểm nghiệm sự chính xác của
những phát minh bằng những cuộc thí nghiệm trước khi đưa ra sử dụng
đại trà, trong kinh tế không có được những phòng thí nghiệm như thế. Cả
một nền kinh tế trở thành phòng thí nghiệm. Bởi vậy, độ rủi ro ở đây lớn
hơn nhiều so với trong khoa học kỹ thuật. Đã có không ít tư tưởng kinh tế
và chính sách kinh tế dẫn cả một quốc gia đến khủng hoảng, suy thoái.
Chính vì vậy, nghiên cứu về sự hình thành tư duy và cách đưa nó vào
chính sách, tiếp đó đưa chính sách vào thực tiễn kinh tế, rồi đến lượt nó,
thực tiễn kinh tế lại là “chất liệu” để hình thành tư duy... Đó là con đường
đi của lịch sử, mà nếu khai thông thì đời sống kinh tế khai thông, nếu ách
tắc thì đời sống kinh tế ách tắc.
Xét theo những công đoạn cơ bản, ở nước nào cũng vậy, thời đại nào

cũng vậy, mối quan hệ và lộ trình cơ bản từ tư duy đến chính sách vẫn
theo mô hình sau đây:
Bản quyền © 2008 Nhà xuất bản Tri thức & tác giả Đặng Phong


21










Tất nhiên cách tổ chức cụ thể mối quan hệ đó thì ở mỗi thời đại một
khác, mỗi quốc gia một khác.
Trong thời phong kiến

, vua chúa là người đưa ra chính sách. Để vua
chúa có đủ khả năng đưa ra chính sách cũng như điều khiển quốc gia, thì
bản thân vua phải được học hành dạy dỗ từ nhỏ. Hầu hết các bậc vua
chúa ở Việt Nam đều được rèn cặp từ nhỏ bởi những người thầy được
triều đình lựa chọn, gọi là Thái sư. Những Thái sư có ảnh hưởng rất lớn
tới sự hình thành tri thức và cả nhân cách của các bậc vua chúa. Khi lên
cầm quyền, các vị vua về nguyên tắc là người quyết định cuối cùng các
chính sách, trong đó có các chính sách kinh tế. Nhưng những chính sách
đó thường được tham khảo hoặc thậm chí được soạn thảo bởi quần thần.
Mỗi khi vua ngự triều, các vị đại thần tùy theo vua chỉ định mà trình tâu

về những ý tưởng của mình. Trong đám quần thần, cũng có nhiều bậc
trung thần. Nhưng cũng có nơi, có lúc có những nịnh thần và gian thần.
Khi nào trung thần là đa số và được vua nghe, thì triều chính vững vàng.
Khi nào lớp nịnh thần và gian thần thắng thế, thì triều chính suy đồi. Khi
những vị đại thần muốn trình điều gì với vua, phải quỳ tâu cung kính (chỉ
trừ những vị đại thần già yếu được vua cho miễn quỳ, như một đặc cách).
Đó là phép vua, cũng là phép nước. Những điều trình tâu nếu được vua
nghe, vua khen thì có thể chuyển thành quốc sách. Những điều gì dù là


Trong cuốn sách nhỏ này, thiết tưởng không cần thiết phải trình bày quá rộng về thời
kỳ phong kiến ở các nước phương Tây hay ở thế giới Hồi giáo, mà chỉ nói riêng về thời
kỳ phong kiến ở Việt Nam, và cũng rất vắn tắt.

Đời sống
Kinh tế

Tư duy
Kinh tế

Chính sách
Kinh tế


22
lời ngay ý thẳng, lợi cho quốc kế dân sinh, nhưng lại trái tai vua thì có
thể bị trừng phạt, bị hạ nhục, thậm chí bị xử trảm. Cùng với các vị đại
thần, trong triều đình thường khi còn có những nhà tư tưởng lớn, được
coi như những bậc tham mưu cho quốc vương. Họ có thể là một bậc đại
thần, nhưng có thể được tôn làm quân sư, tức là không phụ trách một lĩnh

vực nào trong triều đình, mà chỉ bàn về kế sách với vua. Những nhà tư
tưởng đó chính là những quân sư, có vai trò tương đương các cố vấn của
nguyên thủ quốc gia ngày nay. Họ được triều đình lựa chọn, được vua
hỏi ý kiến về những vấn đề hệ trọng. Họ suy nghĩ, tìm tòi, phát hiện từ
thực tiễn kinh tế để tìm ra những giải pháp tối ưu trình hoặc bàn bạc với
vua. Nếu được chấp nhận thì nó chuyển thành chính sách. Đến lượt mình,
các nhà vua có thể tự mình nhận thức thực tiễn kinh tế để đưa ra quyết
sách. Nhưng trong phần lớn trường hợp thì những quyết sách đó đều phải
dựa trên sự tham khảo những bộ óc của các quân sư, tức các nhà tư
tưởng. Rất nhiều khi các quan chức địa phương là những người hiểu rất
rõ thực tế, do đó có thể đánh giá được chính sách của Nhà nước chỗ nào
là đúng, chỗ nào chưa đúng, nên đưa ra những giải pháp như thế nào...
Họ trình lên vua dưới hình thức những tờ “sớ”. Có nhiều tờ sớ đã trở
thành quốc sách. Nhưng cũng có nhiều tờ sớ không được vua lắng nghe.
Nếu nhà vua biết lắng nghe, đủ khả năng phân biệt đúng sai, hay dở,
có thể lựa chọn được những tư tưởng tốt để xây dựng chính sách (như Lý
Thường Kiệt đối với triều nhà Lý, Trần Quốc Tuấn đối với triều nhà
Trần, Nguyễn Trãi đối với triều nhà Lê, La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp đối
với Nguyễn Huệ, Lê Quý Đôn với nhà Trịnh, Đào Duy Từ đối với nhà
Nguyễn...). Ngược lại, trong lịch sử cũng đã có không ít những nhà lãnh
đạo tối cao không cần biết đến thực tiễn, không chịu lắng nghe những ý
tưởng kinh tế đúng đắn, nhắm mắt làm bừa, dẫn tới thảm họa. Một trong
những thí dụ điển hình là tờ sớ của Tuần phủ tỉnh Quảng Ngãi Nguyễn
Cư Trinh trình lên chúa Nguyễn đàng trong về tình hình tham quan ô lại,
người làm ra của cải thì ít, người vơ vét thì nhiều, “m
ột con dê mà tới 9
người chăn”... Từ đó Cư Trinh đưa ra một loạt những giải pháp để chấn
hưng kinh tế, khắc phục tình hình suy sụp đương thời. Nhưng tờ sớ ấy
không được lắng nghe, chẳng bao lâu thì sự tiên đoán của Cư Trinh đã
đúng: Nhà Tây Sơn đã nổi lên, nhà Nguyễn đàng trong sụp đổ...

Tại các nước phương Tây từ khi chủ nghĩa Tư bản phát triển, những
tư tưởng kinh tế đã có một “thị trường” rộng lớn hơn. Những tư tưởng
kinh tế không chỉ là chuyện riêng có của vua chúa, mà là của xã hội.
Những trường đại học, những công ty tư bản, những đảng phái khác nhau
Bản quyền © 2008 Nhà xuất bản Tri thức & tác giả Đặng Phong


23
trong xã hội đều cần đến những bộ óc để phân tích tình hình, đưa ra
những giải pháp. Do đó, tư duy kinh tế không chỉ còn là việc riêng của
Nhà nước, mà đã trở thành một thực thể của xã hội, nó có thể tồn tại dưới
nhiều hình thức khác nhau trên “thị trường trí tuệ”. Nhà nước có thể lựa
chọn trên “thị trường” đó những ý tưởng, những chất xám cần thiết để
xây dựng hoặc điều chỉnh những chính sách của mình. Cũng từ đó, có
nhiều hình thức khác nhau để thực hiện mối liên hệ từ tư duy kinh tế đến
chính sách kinh tế.
Xét về những hình thức tổ chức hệ thống các cơ quan sản sinh ra tư
duy kinh tế ở các nước phương Tây, thì có thể chia ra hai nguồn: Nguồn
do Nhà nước tổ chức và nguồn của tư nhân.
Nguồn do Nhà nước tổ ch
ức
Ở Mỹ
Bên lập pháp có Quốc hội là cơ quan làm chính sách kinh tế quan
trọng nhất.
Bên hành pháp, tức là bên Tổng thống có: Hội đồng Các Nhà Tư
vấn Kinh tế (Council of Economic Advisers, CEA).
Ở các nước châu Âu
Từ sau Đại chiến thế giới thứ II, hầu hết các quốc gia châu Âu đều
phỏng theo mô hình CEA của Mỹ và lập ra các Hội đồng tư vấn, với
những tên gọi khác nhau. Chẳng hạn nh

ư Hội đồng Phân tích Kinh tế của
Thủ tướng Pháp (Conseil d’analyse économique), bao gồm 32 thành
viên. Ngoài ra Quốc hội và phủ Tổng thống còn có Trung tâm Khảo sát
và Nghiên cứu quốc tế (Centre d’Etudes et de Recherches
Internationales), Phủ Tổng thống có Đài quan sát tình hình kinh tế
(Observatoire Français de Conjonctures économiques)... Ở Đức có Hội
đồng Các Nhà Thông thái (Council of Wisemen) của Thủ tướng Đức,
gồm 11 người. Hội đồng Tư vấn Chính phủ của Đan Mạch, Hà Lan,
Thụy Điển, Phần Lan, Italia, Anh. Các Hội đồng này thường họp định kỳ
mỗi tháng một lần để bàn về một số chính sách trước khi có quyết định
cuối cùng. Một số các hội đồng ở Âu châu được thành lập để giúp chính
phủ điều khiển dư luận theo hướng đồng thuận với các chính sách và các
biện pháp kinh tế.
Nguồn tư nhân: think tank là một hiện tượng rất quan trọng trong sự
hình thành tư duy kinh tế
ở các nước phương Tây. Theo nghĩa đen thì có
thể dịch là cái bể chứa những ý tưởng.


24
Về mặt lịch sử, thuật ngữ think tank ra đời ở nước Anh từ thế kỷ
XIX, trong các hoạt động quân sự. Chữ tank ngoài cái nghĩa là bể chứa
còn có nghĩa là lô cốt (về sau, chiếc xe tăng cũng theo nghĩa đó mà được
đặt tên). Trong các hoạt động quân sự, bộ phận tham mưu thường có một
lô cốt được bảo vệ vững vàng, kiên cố, đó là chỗ để các chuyên gia trong
Bộ Tham m
ưu hoạch định các kế hoạch tác chiến. Địa điểm này được gọi
là think tank, tức là cái pháo đài của tư duy chiến lược. Từ thế kỷ XX, ở
Mỹ phát triển hình thức này cả trong các lĩnh vực ngoài quân sự, gồm
kinh tế, chính trị, xã hội... và cũng dùng chữ think tank. Đến nay Mỹ

chính là nơi phát triển mạnh nhất hệ thống các think tank (khoảng 1.500
think tank, chiếm 50% tổng số think tank trên thế giới).
Ngày nay, các think tank ở Mỹ, ở Anh, ở Pháp hay ở bất cứ nước
phương Tây nào cũng đều có một số đặc điểm sau đây:
- Nó độc lập với hệ thống các cơ quan nhà nước. Nó là một thực thể
nằm giữa đời sống xã hội và bộ máy nhà nước. Nó bao gồm những nhà
bác học, những chuyên gia giỏi về một lĩnh vực nào đó (chính trị, kinh tế,
xã hội, hoặc tổng hợp). Nó suy nghĩ về thực trạng của đất nước và từ đó
đưa ra những lời bình luận, những phân tích, những gợi ý đối với chính
sách của Nhà nước. Nó không trực tiếp dự thảo các chính sách, nhưng nó
bình luận, đánh giá các chính sách hiện hành và đưa ra những gợi ý của
những chính sách mà nó cho là có ích cho đất nước. Bởi vậy ở Mỹ
thường còn gọi các think tank là một loại trường học không có sinh viên,
tức là không giảng dạy, không đào tạo, mà chỉ nghiên cứu một cách hoàn
toàn khách quan, không theo mệnh lệnh của Chính phủ, không bị ràng
buộc bởi một gợi ý trước nào về chính trị.
- Nó có thể nhận và thực hiện những yêu cầu của các cơ quan Nhà
nước, của các công ty, nhưng không theo hướng do người đặt hàng định
trước. Nó chỉ cho những kết quả nghiên cứu mà nó thấy là hợp lý. Những
kết quả nghiên cứu này có thể
trùng hợp, nhưng cũng có thể hoàn toàn
khác với ý đồ của người đặt hàng (người ta ví nó giống như một bác sĩ
khám bệnh và cho đơn, bác sĩ không thể đưa ra kết luận và viết đơn theo
ý muốn của người bệnh, mà hoàn toàn theo cái mà người bác sĩ cho là
đúng). Những kết quả nghiên cứu theo các đơn đặt hàng có thể là: Trả lời
những câu hỏi của các cơ quan chuẩn bị đưa ra chính sách kinh tế. Có thể
diễn giải những yêu cầu của người đặt hàng và vạch cho họ những con
đường để thực hiện những bước đi cần thiết. Có thể góp phần phân tích,
giải trình và thuyết phục dư luận đối với một chính sách mà nhóm nghiên
cứu cho là đúng đắn.

Bản quyền © 2008 Nhà xuất bản Tri thức & tác giả Đặng Phong


25
2. Think tank ở các nước XHCN
Ở các nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa, dù có những hình thức và
thể chế cụ thể khác nhau, đều có chung một số nét cơ bản sau đây
1
:
Cơ sở lý thuyết của toàn bộ các khoa học kinh tế là học thuyết Marx
- Lenin. Những bộ sách được coi là rường cột của học thuyết này trước
hết là bộ Tư bản, Phê phán Cương lĩnh Gotha của Marx, ngoài ra có
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Chống Dühring, Nguồn gốc gia đình...
của Engels, một số tác phẩm của Lenin như Chủ nghĩa đế quốc, Sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga, Nhà nước và cách mạng, Bệnh ấu trĩ
và tả khuynh... Nắm được những tác phẩm đó là điều kiện cơ bản để
được coi là nhà kinh tế học.
Đảng cộng sản là người lãnh đạo toàn diện nền kinh tế. Do đó mọi
chính sách kinh tế bắt đầu từ những cơ quan đầu não của Đảng. Đại hội
Đảng là nơ
i tập hợp trí tuệ của toàn Đảng, đưa ra những chủ trương
đường lối cho cả một thời kỳ dài của đất nước (5,10, 15,20 năm...).
Giữa các kỳ Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương (thường họp 2 kỳ
mỗi năm) là nơi quyết định những chủ trương cụ thể trong ngắn hạn. Bộ
não thường xuyên của Đảng là Bộ Chính trị, mà cơ quan thường trự
c là
Ban Bí thư. Đó là nơi xử lý các vấn đề và hình thành các quyết sách
trước khi đưa ra Ban Chấp hành Trung ương hoặc Đại hội Đảng. Bộ não
này lấy “chất dinh dưỡng” từ một hệ thống các cơ quan nghiên cứu và
tham mưu của Đảng.

Một phương thức rất đặc sắc trong thời kỳ này để các nhà lãnh đạo cao
cấp lấy “chất dinh dưỡng” về tư duy kinh tế là: Học. Đây là một tác phong
cách tốt, mà chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở mọi người:
“Tôi năm nay đã 71 tuổi, ngày nào cũng học. Không học thì
không theo kịp, công việc nó sẽ gạt mình lại phía sau.”
2

Do những điều kiện lịch sử khắc nghiệt của chiến tranh và cách
mạng trước đây, phần lớn các nhà lãnh đạo cao cấp Đảng và Nhà nước
Việt Nam đều không có điều kiện để được đào tạo một cách có hệ thống.
Kinh nghiệm và năng lực lãnh đạo chiến tranh của họ thì cả thế giới phải
kính nể. Nhưng khi đất nước đã hòa bình, thì vấn đề đặt ra đối với khả


1
Kornai Janós. Hệ thống xã hội chủ nghĩa. Nxb Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, 2002,
tr.30.
2
Bài nói chuyện với những cán bộ hoạt động lâu năm, ngày 9/12/1961, Hồ Chí Minh
toàn tập, tập 10, tr.469.


26
năng lãnh đạo lại khác hẳn: Phải giải những bài toán của thời bình, trước
hết là những bài toán kinh tế. Khả năng đó thì hầu như chưa ai có sẵn. Do
đó, hầu hết các vị lãnh đạo cao cấp trong Bộ Chính trị đều có kế hoạch
đặc biệt để học tập về kinh tế và kỹ thuật. Phương thức học là phân công
các nhà khoa học hàng đầu lúc đó đến giảng tại nhà. Những người được
tín nhiệm nhất về việc này là giáo sư Trần Phương, ngoài ra có giáo sư
Đoàn Trọng Truyến, các ông Trần Việt Phương, Đậu Ngọc Xuân, một số

chuyên gia về các lĩnh vực kinh tế - kỹ thuật...
Giáo sư Trần Phương kể lại: “Người đầu tiên làm việc này là
Võ Nguyên Giáp. Vào một dịp ông phải dưỡng bệnh dài ngày, ông
nói với tôi rằng ngày xưa ông có đọc Tư bản của Marx, nhưng không
đầy đủ và hiểu cũng chưa hết. Nay ông đang có một thời gian rỗi rãi,
ông muốn tôi giúp ông hiểu lại toàn bộ hệ thống kinh tế học của
Marx trong bộ Tư bản. Từ đó tôi dành mỗi tuần 2 buổi lên nhà ông
để trình bày một cách có hệ thống từ quyển I đến quyển IV Tư bản.
Thời gian “giảng dạy” kéo dài khoảng 6 tháng thì xong.
Sau đó hình như ông Giáp có giới thiệu với ông Phạm Văn
Đồng, nên ông Đồng lại đề nghị tôi mở lại một “lớp học” như thế
với ông. Ông nói: “Ngày xưa ở Côn Đảo tôi cũng có đọc Tư bản,
quyển 1 thôi, bằng tiếng Pháp, không hiểu được bao nhiêu. Bây giờ
chỉ đạo kinh tế thì phải đọc một cách cơ bản hơn. Mà thì giờ để đọc
toàn bộ bộ Tư bản thì không có. Anh giới thiệu cho tôi một cách vắn
tắt nhất toàn bộ học thuyết kinh tế của Marx qua bộ Tư bản”. Tôi lại
làm như vậy với Thủ tướng Phạm Văn Đồng, cũng trong khoảng thời
gian 6 tháng. Tất nhiên tôi hiểu rằng đối với các vị đó thì không cần
đi quá sâu vào những vấn đề học thuật, mà chỉ giới thiệu những điều
gì thiết thực nhất cho việc chỉ đạo nền kinh tế Việt Nam hiện nay, thí
dụ như lý thuyết về giá trị thặng dư, về tiền tệ, về lao động, về tái sản
xuất mở rộng... Dù sao những tri thức cơ bản đó cũng góp phần để
các vị nhìn nhận và xử lý các vấn đề kinh tế của Việt Nam một cách
có bài bản hơn.
Đối với Lê Duẩn thì khác. Lê Duẩn không yêu cầu tôi phải giảng
giải về kinh tế học của Marx. Ông muốn tự đọc. Chỗ nào ông thấy
cần trao đổi thì ông trực tiếp trao đổi với tôi. Trên cơ sở đó nhiều khi
ông còn đi giảng giải ở trường Nguyễn Ái Quốc, ở các cơ quan về
những tư tưởng kinh tế của Marx.”
3




3
Trao đổi với giáo sư Trần Phương ngày 6/4/2008.

×