Tải bản đầy đủ (.docx) (207 trang)

Giải pháp tài chính nâng cao năng lực cạnh tranh của tập đoàn bưu chính viễn thông việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (814.98 KB, 207 trang )

1
MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:

Trong mọi nền kinh tế, hệ thống doanh nghiệp luôn giữ vai trò chủ đạo
cho sự phát triển quốc gia: sản xuất tư liệu sản xuất trang bị cho nền kinh tế
phát triển với qui mơ lớn hơn, giữ vai trị thoả mãn nhu cầu của dân cư, hàng
xuất khẩu, đóng góp quyết định vào số thu của ngân sách Nhà nước.
Các doanh nghiệp tồn tại trong môi trường cụ thể, để đứng vững và phát
triển phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức về: nguyên liệu, lao động,
môi trường sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm…Các cá thể doanh nghiệp
phải tìm mọi biện pháp để vượt lên trên các doanh nghiệp khác, đây là quá
trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
Nền kinh tế mở, toàn cầu hóa, cạnh tranh doanh nghiệp diễn ra rộng khắp
trong nước, khu vực và toàn thế giới. Kinh tế Việt Nam đã hội nhập sâu, rộng
với kinh tế thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam đang tham gia vào cạnh tranh
ở cấp độ cao, cạnh tranh khốc liệt. Nếu các điều kiện về khả năng tài chính
hạn hẹp, trình độ kỹ thuật- cơng nghệ cịn thấp, chất lượng sản phẩm-dịch vụ
chưa cao, thì nguy cơ mất khả năng cạnh tranh, thất bại của các doanh nghiệp
rất lớn, kể cả trên sân nhà. Để nâng cao khả nâng cao khả năng, năng lực cạnh
tranh của mình, các doanh nghiệp phải sử dụng nhiều giải pháp khác nhau –
trong đó sử dụng các giải pháp tài chính ln đóng vai trị quan trọng hàng
đầu đối với doanh nghiệp. Vị thế và vai trò của tài chính doanh nghiệp giúp
doanh nghiệp đảm bảo hoạt động bình thường và tăng cường năng lực cạnh
tranh, phát triển hoạt động doanh nghiệp trong mọi điều kiện, áp lực thị
trường ngày càng tăng, đối thủ ngày càng nhiều.
Bưu chính – viễn thơng Việt Nam giữ vai trị quan trọng, kết nối thông
tin, trợ lực cho phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trên hai thập kỷ qua và
vai trò này cần được nâng lên, ngày càng cao trong điều kiện hội nhập kinh tế


Quốc tế, cạnh tranh gay gắt trong và ngoài nước.


2
Tập đồn Bưu chính - Viễn thơng Việt Nam (VNPT) có vai trị quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng của
đất nước. Trong những năm qua mặc dù đạt được những thành cơng, tuy
nhiên, vẫn cịn có những vấn đề: năng lực tài chính thấp so với các doanh
nghiệp viễn thông mạnh trên thế giới; Chưa đủ nguồn lực đầu tư rộng rãi công
nghệ viễn thông thế hệ mới 5G; Tiềm lực tài chính hỗ trợ năng lực cơng nghệ
cịn hạn chế; Chưa tự chủ cơng nghệ, mở rộng chiếm lĩnh thị phần thị trường,
sản phẩm mới. Điều này ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh của VNPT
phát huy vai trò là một doanh nghiệp chủ đạo trong lĩnh vực bưu chính, viễn
thơng, cơng nghệ thơng tin của đất nước.
Từ những lý do nêu trên, NCS cho rằng việc tìm ra và bổ sung thêm các
giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Tập đồn Bưu
chính Viễn thơng Việt Nam có tính cấp thiết và ý nghĩa.
2. Những nghiên cứu về VNPT và giải pháp tài chính nâng cao năng
lực cạnh tranh của một số Tổng cơng ty mạnh.
Đã có khơng ít đề tài, luận văn và luận án tiến sỹ nghiên cứu về Tập
Đồn Bưu chính Viễn Thơng Việt Nam, tuy nhiên, nghiên cứu sâu, hệ thống
hóa các giải pháp tài chính tăng cường năng lực cạnh tranh tranh của Tập
đồn Bưu chính Viễn thông Việt Nam trước các đối thủ doanh nghiệp viễn
thơng và tác động của các chính sách tài chính đến năng lực cạnh tranh của
VNPT, thì chưa được nhiều tác giả nghiên cứu sâu và toàn diện, cụ thể:
Thứ nhất: LATS của nghiên cứu sinh (NCS) Hoàng Thị Tuyết [61].
Với tên đề tài: “Kiểm sốt tài chính trong Tập Đồn Bưu chính Viễn
thơng Việt Nam”. Chun ngành: Kinh tế tài chính ngân hàng. Mã số:
62.31.12.01.LA được bảo vệ ngày 20/05/2010. Tại Học Viện Tài Chính.
Nghiên cứu của NCS Hồng Thị Tuyết về kiểm sốt tình trạng tài chính

trong hoạt động kinh doanh của VNPT, làm rõ nhận thức về kiểm sốt tài
chính của tập đồn kinh tế như: Chủ thể, mục tiêu, nội dung, phương thức,


3
cơng cụ, hình thức, tổ chức thực hiện kiểm sốt tài chính trong tập đồn kinh
tế và những yếu tố tác động đến kiểm sốt tài chính trong tập đồn kinh tế.
Trên cơ sở phân tích hiện trạng kiểm sốt tài chính trong tập đồn Bưu chính
Viễn thơng Việt Nam trên cả hai giác độ: kiểm sốt tài chính của Nhà nước
đối với VNPT và Kiểm sốt tài chính của VNPT, qua đó nêu lên những điểm
cịn nhiều bất cập, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế. Luận
án đã đề xuất hệ thống các giải pháp tồn diện, cụ thể, có tính khả thi cao
nhằm hồn thiện và nâng cao hiệu quả kiểm sốt tài chính trong Tập đồn
Bưu chính Viễn thơng Việt Nam.
Luận án của NCS Hồng Thị Tuyết khơng nhấn mạnh đến năng lực cạnh
tranh của Tập đồn Bưu chính Viễn thơng Việt Nam, chưa đề cập đến mối
quan hệ giữa tài chính với nâng cao năng lực cạnh tranh của VNPT. Mặt khác
nghiên cứu này được hoàn thành cách đây một thập kỷ, điều kiện kinh doanh,
mơ hình kinh doanh của VNPT đã thay đổi, định nghĩa các dịch vụ viễn thông
và các điều kiện kinh tế xã hội, tình trạng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
viễn thơng đã thay đổi. Do đó đề tài mà NCS đang nghiên cứu – “Giải pháp
tài chính nâng cao năng lực cạnh tranh của Tập đồn Bưu chính Viễn thơng
Việt Nam”, trong giai đoạn 2015 – 2019, là không trùng với nội dung nghiên
cứu của NCS Hoàng Thị Tuyết.
Thứ hai: LATS của NCS Trần Thị Anh Thư [62].
Với tên đề tài: “Tăng cường năng lực cạnh tranh của Tập đồn Bưu
chính Viễn thơng Việt Nam trong điều kiện Việt Nam là thành viên của tổ
chức thương mại Thế giới”. Chuyên ngành Quản lý kinh tế, mã số:
62.34.01.01. Luận án được bảo vệ ngày 15/06/2012, tại Viện Nghiên cứu
Quản lý kinh tế Trung Ương.

Chủ đề của nghiên cứu này khác mã ngành của NCS đang thực hiện.
Luận án này hệ thống hoá các vấn đề lý luận về cạnh tranh, năng lực cạnh
tranh và tăng cường năng lực cạnh tranh của VNPT trong điều kiện Việt Nam


4
là thành viên của WTO và đề xuất các giải pháp tăng cường năng lực cạnh
tranh của VNPT trong điều kiện Việt Nam là thành viên của WTO.
Hiện nay Việt Nam bên cạnh WTO đã tham gia các cam kết thương mại
thương mại: EVFTA có tác động đến ngành bưu chính viễn thơng và năng lực
cạnh tranh của VNPT khi hiệp định này mở cửa không hạn chế phần lớn các
dịch vụ bưu chính viễn thơng cho đối tác nước ngồi tiếp cận thị trường. Bên
cạnh đó, VNPT đã trải qua nhiều lần tái cấu trúc, có nhiều thay đổi lớn như:
tách Tổng cơng ty Bưu chính, cơng ty Mobifone, cục Bưu điện Trung ương về
Bộ Thông tin và Truyền thơng quản lý. Do đó xuất hiện nhiều vấn đề mới,
giải pháp mới tăng cường năng lực, năng lực tài chính cho VNPT. Mặt khác
nghiên cứu của NCS Trần Thị Anh Thư, đề cập chung các yếu tố và điều kiện
tác động đến năng lực cạnh tranh của VNPT. Trong khi đó đề tài nghiên cứu
của tác giả đề cập đến một yếu tố quan trọng nhất “Giải pháp tài chính” tác
động đến năng lực cạnh tranh của VNPT. Nên nghiên cứu của NCS không
trùng lắp với nội dung luận án của NCS Trần Thị Anh Thư.
Thứ ba: LATS của NCS Nguyễn Mạnh Hùng [64]
Với tên đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành Viễn thông Việt
Nam”. Luận án này của NCS Nguyễn Mạnh Hùng được bảo vệ năm 2013,
phạm vi nghiên cứu về ngành viễn thông Việt Nam, tập trung tới lĩnh vực viễn
thông chủ yếu của ngành: viễn thông di động, viễn thông cố định và Internet,
băng rộng trong môi trường tác động trong nước và ngồi nước ảnh hưởng
đến ngành viễn thơng. Nghiên cứu của NCS Nguyễn Mạnh Hùng đưa ra các
tiêu chí, thước đo tiêu chí làm cơ sở đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành
viễn thông Việt Nam, không đặt vấn đề, giải pháp, điều kiện cụ thể nâng cao

năng lực cạnh tranh của Tập đồn Bưu chính viễn thơng Việt Nam, khơng đi
sâu về nội dung năng lực tài chính, năng lực cạnh tranh của VNPT, do đó
nghiên cứu mà NCS đang thực hiện, không bị trùng lắp với nội dung luận án
của NCS Nguyễn Mạnh Hùng.


5
Thứ tư: LATS của NCS Phạm Thị Minh Hiền [63]
Với tên đề tài: “Sử dụng cơng cụ tài chính nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp ngành dệt may Việt Nam trong điều kiện gia nhập WTO”.
Chuyên ngành tài chính ngân hàng; Mã số: 62.31.12.01.
Luận án được bảo vệ năm 2011. Đề tài nghiên cứu của NCS Phạm Thị
Minh Hiền nghiên cứu về năng lực cạnh tranh và sử dụng các cơng cụ tài
chính vĩ mơ nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dệt may trong điều kiện
Việt Nam gia nhập WTO. Ngành dệt may và ngành viễn thơng có cùng xuất
phát điểm là ngành kinh tế mũi nhọn trong nước. Nghiên cứu về cơng cụ tài
chính để tăng cường giải pháp cho một đơn vị kinh doanh nhà nước lớn. Tuy
nhiên, đối tượng, thời gian nghiên cứu, không gian nghiên cứu là khác biệt
với lựa chọn đề tài nghiên cứu của NCS từ đó các nội dung nghiên cứu về
ngành bưu chính viễn thơng Việt Nam, về lí luận cũng như thực tiễn để đưa ra
các giải pháp tài chính nâng cao năng lực cạnh tranh của Tập đồn Bưu chính
Viễn thơng Việt Nam là hồn tồn riêng biệt.
Thứ năm: LATS của NCS Vũ Duy Vĩnh [65]
NCS Vũ Duy Vĩnh với tên đề tài: “Giải pháp tài chính nâng cao năng lực
cạnh tranh của tổng cơng ty giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế”. Chuyên ngành tài chính ngân hàng; Mã số: 62.31.12.01.
Luận án được bảo vệ năm 2009. Đối tượng nghiên cứu của NCS Vũ Duy
Vĩnh nghiên cứu về năng lực cạnh tranh, tập trung vào giai đoạn Việt Nam hội
nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Phạm vi nghiên cứu là
Tổng công ty Giấy trong mối quan hệ với ngành giấy Việt Nam như: Công ty

Giấy Việt Trì, Cơng ty Giấy Tân Mai ...Như vậy, về đối tượng và phạm vi
nghiên cứu là về Tổng công ty Giấy khác biệt với lựa chọn đề tài nghiên cứu
của NCS. Bên cạnh đó về điểm chung thì Tổng cơng ty giấy Việt Nam và
VNPT là hai doanh nghiệp nhà nước có thể lấy kinh nghiệm sử dụng cơng cụ
các giải pháp tài chính làm bài học kinh nghiệm cho VNPT sau này.


6
Các cơng trình khoa học và nghiên cứu nói trên đề cập đến hồn thiện cơ
chế, chính sách quản lý của nhà nước về lĩnh vực cụ thể như: Kiểm sốt tài
chính, quản lý vốn đầu tư tại VNPT; Đơn vị cụ thể: Tổng công ty Giấy, ngành
dệt may; và điều kiện cụ thể: hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia tổ chức
thương mại thế giới; Và thời gian nghiên cứu đã lâu. Như vậy, đến nay, chưa
có cơng trình nghiên cứu chuyên sâu nào về đối tượng: Giải pháp tài chính để
nâng cao năng lực cạnh tranh của Tập đồn Bưu chính Viễn thơng Việt Nam
giai đoạn 2016 -2020 với số liệu, mơ hình tổ chức mới để đưa ra các giải pháp
tài chính tăng cường năng lực cạnh tranh cho VNPT.
Đề tài nghiên cứu của NCS là: “Giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh của Tập đồn Bưu chính Viễn thơng Việt Nam” được nghiên
cứu khi Tập đoàn hoàn thành tái cơ cấu lần 3 và chuyển quyền quản lý về Ủy
ban quản lý vốn ngoài doanh nghiệp. Nền kinh tế Việt Nam đã ký và thực hiện
các cam kết quốc tế mới cho lĩnh vực viễn thông, sự cạnh tranh ngày càng
mạnh mẽ giữa các công ty viễn thông, công nghệ thông tin trong và ngoài
nước. Do vậy việc nghiên cứu về giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của Tập đồn Bưu chính Viễn thơng Việt Nam giai đoạn hiện nay
là hết sức cần thiết. Đây là đề tài nghiên cứu chuyên sâu mới, không trùng lắp.
Nội dung đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề về lý luận cạnh tranh, về
VNPT trên cơ sở đánh giá thực trạng năng lực tài chính, thị phần dịch vụ,
năng lực cạnh tranh của VNPT, đề xuất các giải pháp tài chính nâng cao năng
lực cạnh tranh của Tập đồn bưu chính Viễn thơng Việt Nam.

3.

Mục đích nghiên cứu:

Nhằm làm rõ hơn về mặt lý luận, dùng giải pháp tài chính để hồn thiện
các giải pháp tài chính nâng cao năng lực cạnh tranh cho VNPT.
Đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh và các giải pháp mà VNPT đã
áp dụng, từ đó nêu ra các thành cơng, các mặt hạn chế.


7
Đưa ra các giải pháp tài chính vĩ mơ, vi mô phù hợp với điều kiện hiện
nay nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Tập đồn Bưu chính Viễn thông
Việt Nam.
4.

Đối tượng nghiên cứu:

Để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có nhiều giải pháp
như giải pháp về chiến lược, công nghệ, nhân lực, marketing…Tại luận án
này, đối tượng nghiên cứu là các giải pháp tài chính vĩ mô và vi mô.
5.

Phạm vi nghiên cứu:

Thời gian: Luận án nghiên cứu những tác động của giải pháp tài chính đã
được Tập đồn Bưu chính Viễn thơng Việt Nam áp dụng từ năm 2016 – 2020
để từ đó đưa ra các giải pháp tài chính nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Không gian nghiên cứu: trong phạm vi Tập đồn Bưu chính Viễn thơng

Việt Nam trong ngành viễn thông, CNTT Việt Nam.
6.

Phương pháp nghiên cứu:

Nghiên cứu sinh sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu tài liệu,
thống kê, phân tích, đối chiếu, so sánh, tổng hợp... trên cơ sở phương pháp
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để xem xét đánh giá, giải quyết các
vấn đề đặt ra trong đề tài nghiên cứu.
Các số liệu được sử dụng trong nghiên cứu là các số liệu được thu thập,
tính tốn từ các báo cáo của cơng ty mẹ và báo cáo tài chính của các cơng ty
con trong Tập đồn Bưu chính Viễn thơng Việt Nam. Bên cạnh đó nghiên cứu
sử dụng một số tài liệu, báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tài
chính về tình hình tài chính, doanh thu, thị phần thuê bao, thị phần doanh thu
của các doanh nghiệp bưu chính viễn thơng và cơng nghệ thơng tin.
7.

Những đóng góp mới:

Thứ nhất: Nghiên cứu hệ thống hóa, làm rõ hơn về lí luận cạnh tranh,
nâng cao năng lực cạnh tranh, các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của


8
doanh nghiệp và các giải pháp tài chính nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Thứ hai: Luận án đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh hiện tại của
VNPT cũng như các giải pháp tài chính mà VNPT đang áp dụng nâng cao
năng lực cạnh tranh VNPT từ đó tổng kết những thành công, tồn tại và nguyên
nhân tồn tại. Điểm mới cơ bản của luận án là chỉ ra sự cần thiết phải hoàn

thiện các giải pháp tài chính nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thứ ba: Đề xuất các giải pháp tài chính và một số giải pháp khác nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh của Tập đồn Bưu chính Viễn thơng Việt Nam,
phù hợp với định hướng chiến lược của nhà nước, của doanh nghiệp nên có
tính ứng dụng cao. Đây là những điểm mới riêng có của luận án.
8.

Bố cục luận án:

Bố cục của luận án: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, luận án được chia thành 3 chương:
Chương 1: Năng lực cạnh tranh và giải pháp tài chính nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh và sử dụng các giải pháp tài chính
nâng cao năng lực cạnh tranh của Tập đồn Bưu chính Viễn thơng Việt Nam.

Chương 3: Giải pháp tài chính nâng cao năng lực cạnh tranh của Tập
đồn Bưu chính Viễn thơng Việt Nam.


9
CHƯƠNG 1: NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Cạnh tranh là nguồn gốc và sự phát triển. Trong tự nhiên, đấu tranh sinh tồn
là nguồn gốc của cạnh tranh để tìm mơi trường phát triển, điều kiện sống tốt
nhất. Và nếu quần thể này, hoặc cá thể này, chiếm được vị trí tốt hơn, thì các
quần thể khác sẽ ở vị trí bất lợi, kém hơn hoặc bị tiêu diệt biến mất, nhưng
đồng thời quần thể/cá thể khác sẽ xuất hiện, với khả năng chịu đựng và thích

nghi tốt hơn với môi trường mới. Hiện tượng trên diễn ra thường xuyên, liên
tục, đã dẫn đến đấu tranh sinh tồn ở một cấp độ mới, quyết liệt hơn về qui mô
cũng như phương thức cạnh tranh.
Cạnh tranh diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực, trong nền kinh tế, quá trình cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp để tồn tại và phát triển diễn ra tương tự trong tự
nhiên, nhưng là cạnh tranh để phát triển.
1.1.1. Cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh.
Cạnh tranh, bản chất cạnh tranh là phương pháp, cách thức (thủ thuật)
dành lợi thế về phía mình. Chưa có một định nghĩa hồn chỉnh về cạnh tranh,
nhất quán về thuật ngữ, thực tế có một số định nghĩa về cạnh tranh của nhiều
nhà kinh tế, đã được thừa nhận, điển hình như:
Theo Các Mác [13]: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt
giữa các nhà tư bản để giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và
tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Định nghĩa này phù hợp
với cạnh tranh doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, trong điều kiện phát
triển ổn định, chưa xuất hiện độc quyền. Nói cách khác, thị trường bó hẹp
trong phạm vi quốc gia, chưa xuất hiện trào lưu hội nhập sâu rộng như trong
điều kiện hiện nay. Tuy nhiên định nghĩa này, trên giác độ lợi nhuận thì vẫn
phù hợp trong điều kiện tồn cầu hố về kinh tế.


10
Theo Từ điển tiếng Việt thơng dụng [68] thì: “Cạnh tranh là đua tranh để
dành ưu thế về mình”. Định nghĩa này mang tính tổng quát đúng trong lĩnh
vực kinh tế và cho cả lĩnh vực xã hội nói chung. Tuy nhiên, xét trong lĩnh vực
kinh tế, thì khái niệm này quá rộng, nội dung của nó chưa thể hiện mục tiêu
cụ thể của cạnh tranh, chưa nêu rõ thủ pháp để đạt tới mục tiêu đã định. Cho
nên khái niệm này chưa gắn cụ thể vào cạnh tranh kinh tế trong điều kiện phát
triển và hội nhập hiện nay. Ngồi ra, đã có khá nhiều định nghĩa về cạnh tranh

với những nội dung tương tự, như:
+

Theo Từ điển rút gọn về kinh doanh thì: “Cạnh tranh là sự ganh đua,

kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường, nhằm giành cùng một loại
tài nguyên, sản xuất cùng một loại sản phẩm, hoặc khách hàng về phía mình”.
+

Theo Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp

tác và phát triển kinh tế (OECD) thì: “Cạnh tranh là khái niệm của doanh
nghiệp, quốc gia và vùng trong việc tạo việc làm, tạo thu nhập cao hơn trong
điều kiện cạnh tranh quốc tế”.
+

Theo P.Samuel Son [47] - nhà kinh tế học Hoa Kỳ, thì: “Cạnh tranh là

sự kình địch giữa các doanh nghiệp để dành khách hàng và thị trường”.
Như vậy, tổng hợp theo mục tiêu cạnh tranh kinh tế, quan điểm và nội
dung cạnh tranh giữa các chủ thể trong nền kinh tế thị trường của các nhà kinh
tế là tương đồng. Đó là sự đấu tranh để giành giật thị trường, người tiêu thụ
sản phẩm và các điều kiện sản xuất – kinh doanh. Những khái niệm này vẫn
được sử dụng để nghiên cứu về cạnh tranh trong điều kiện nền kinh tế thị
trường hội nhập quốc tế hiện nay. Những khái niệm trên, mặc dù được đưa ra
trong các thời điểm khác nhau, nhưng nội dung tương đối thống nhất:
• Mục đích của cạnh tranh là giành phần thắng trên thương trường.
• Cơng cụ cạnh tranh (phương tiện, biện pháp) sử dụng mang tính đặc thù.

• Mơi trường diễn ra cạnh tranh là cụ thể và đồng nhất.



11
Từ cách trình bầy như trên, thì cạnh tranh kinh tế có thể được hiểu là sự
ganh đua giữa các chủ thể, bằng các công cụ (thủ pháp) đặc thù để giành các
điều kiện sản xuất kinh doanh có lợi nhất, nhằm chiếm lĩnh thị phần, với mục
tiêu tối đa hố lợi nhuận.
Cạnh tranh kinh tế có nội dung rộng hơn cạnh tranh doanh nghiệp do
phạm vi cạnh tranh kinh tế rộng hơn, nhiều ngành nghề, nhiều doanh nghiệp
và mở rộng hơn là cạnh tranh kinh tế quốc gia, quốc tế. Cùng với sự phát triển
kinh tế và mở rộng thị trường, cạnh tranh kinh tế đồng thời cũng được mở
rộng, phát triển và gia tăng theo mức độ cao hơn.
1.1.1.2. Cạnh tranh doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là một chủ thể kinh tế độc lập. Mục tiêu sản xuất – kinh
doanh của doanh nghiệp là chiếm lĩnh thị trường, thu lợi nhuận tối đa. Chính
vì vậy mà các doanh nghiệp cùng sản xuất – kinh doanh cùng loại sản phẩm,
luôn luôn cạnh tranh với nhau, nhằm độc chiếm thị trường. Cạnh tranh là hiện
tượng tất yếu trong nền kinh tế.
Nhiều nhà kinh tế đã đưa ra những giải đáp quan điểm cạnh tranh của
mình, nhằm làm rõ thêm định nghĩa cạnh tranh doanh nghiệp:
Nguồn gốc dẫn đến cạnh tranh theo C.Mác [14]: “Sự phân công lao động
trong xã hội đặt những người sản xuất hàng hóa độc lập đối diện với nhau,
những người này không thừa nhận một uy lực nào khác, ngồi uy lực cạnh
tranh”. Ở góc độ doanh nghiệp, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp được
C.Mác đề cập như sau: “cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu
tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi
trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu lợi nhuận siêu ngạch”. Ở đây,
C.Mác đã đề cập đến vấn đề cạnh tranh trong một không gian hẹp, chủ nghĩa
tư bản lúc này cạnh tranh được xem là sự lấn át, chèn ép lẫn nhau để tồn tại,
quan niệm về cạnh tranh được nhìn nhận từ góc độ khá tiêu cực.



12
Lịch sử hình thành và phát triển của cạnh tranh cho thấy trong thời kỳ
Chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, cạnh tranh mang tính đối kháng là phổ
biến với mục tiêu thơn tính đối phương, buộc đối phương phải phụ thuộc vào
mình. Trong phương thức cạnh tranh này, các chủ thể tham gia cạnh tranh
dùng mọi thủ đoạn để chiến thắng đối phương, cạnh tranh này mang tính hủy
diệt. Loại hình cạnh tranh này có thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển lên
một cấp độ cao hơn, nhưng đã gây nên sự lãng phí tài nguyên, nhân lực…của
xã hội một cách quá mức.
Khi điều kiện tài nguyên thiên nhiên dần bị cạn kiệt, xu thế hội nhập là
một quá trình tất yếu. Các quốc gia, các đối tác kinh tế thấy rằng cạnh tranh
đối kháng là không có lợi cho bất kỳ bên nào và cũng khơng cịn phù hợp với
thực tiễn. Vì vậy các chủ thể kinh tế (cả Nhà nước) đã chuyển cạnh tranh đối
kháng, sang cạnh tranh hợp tác. Thể hiện quan điểm này, trong thực tiễn nhiều
tổ chức hợp tác kinh tế thương mại khu vực và tồn cầu được hình thành: EU,
OECD, NAFTA, AFTA, ASEAN, APEC… và lớn nhất là WTO. Các liên
minh này có tính chất chặt, lỏng khác nhau, nhưng đều thể hiện được
ý chí hợp tác giữa các bên trong liên minh, trong quá trình phát triển sản xuất
– kinh doanh. Hợp tác để phát triển là một xu thế, nhưng cạnh tranh vẫn tồn
tại và sẽ ở mức độ cao hơn. Đồng thời các đối tác trong liên minh vẫn phải
giải quyết mâu thuẫn giữa tự do thương mại và bảo hộ mậu dịch.
Như vậy, cạnh tranh doanh nghiệp là môi trường và động lực của sự phát
triển kinh tế xã hội. Hiểu theo mặt trái, cạnh tranh doanh nghiệp là doanh
nghiệp mạnh đè bẹp doanh nghiệp yếu, là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp
trong việc giành giật khách hàng hoặc thị trường mà kết quả cuối cùng là để
tiêu thụ được ngày càng nhiều hàng hoá với lợi nhuận cao; Theo hướng mở
rộng, trong mối tương quan giữa các doanh nghiệp, xu thế tồn cầu hóa và
nhu cầu mua sắm của xã hội thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là quá trình

các doanh nghiệp tìm tòi, đưa ra các biện pháp, giải pháp kinh tế tích cực,


13
sáng tạo nhằm tồn tại được trên thị trường, thu được nhiều lợi nhuận trên cơ
sở tạo ra các ưu thế về sản phẩm cũng như trong tiêu thụ sản phẩm.
Cạnh tranh và cạnh tranh doanh nghiệp là tất yếu trong nền kinh tế thị
trường. Sự cạnh tranh biểu hiện sự tự do trong sản xuất kinh doanh, đa dạng, có
sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, nhiều người hoạt động sản xuất kinh
doanh và hướng tới đạt được mục tiêu doanh nghiệp trong từng thời kỳ, hướng
tới khách hàng, người tiêu dùng và toàn xã hội. Cạnh tranh giúp cho: (1) Đối với
các doanh nghiệp, cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh quyết định sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp không ngừng cải tiến,
đổi mới, sử dụng công nghệ mới hiện đại tiên tiến, sử dụng nguồn tài nguyên
một cách tối ưu… nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao uy tín, vị thế
của doanh nghiệp trên thương trường. (2) Đối với người tiêu dùng, cạnh tranh
giúp cho chất lượng sản phẩm ngày càng nâng cao, mức giá phù hợp với khả
năng giúp thoả mãn nhu cầu về hàng hoá dịch vụ của người tiêu dùng.

(3) Đối với nền kinh tế thì cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự phát triển bình
đẳng của mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện để giải phóng lực lượng sản
xuất, nâng cao tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiện đại hoá nền sản xuất xã hội.
Cạnh tranh phát huy tính tháo vát và óc sáng tạo của các nhà quản lý doanh
nghiệp, gợi mở định hướng nhu cầu người tiêu dùng thông qua việc tạo ra
nhiều sản phẩm mới, nâng cao chất lượng đời sống xã hội.
Để cạnh tranh doanh nghiệp phát huy tối đa hiệu quả là động lực phát
triển nền kinh tế xã hội, nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc tạo hành
lang pháp lý, xử lý các vấn đề cạnh tranh độc quyền, các vấn đề cộng đồng
như việc yêu cầu doanh nghiệp xử lý các chất thải, ô nhiễm môi trường và các
vấn đề xã hội khác.

1.1.1.3. Phân loại cạnh tranh doanh nghiệp.
Cạnh tranh doanh nghiệp chỉ là một thuật ngữ phản ảnh những tiêu chí
của doanh nghiệp thực hiện, nhằm đạt mục tiêu trong kinh doanh. Không


14
phân tích sâu về khía cạnh đạo đức kinh doanh, cạnh tranh doanh nghiệp được
phân loại theo tiêu chí sau:
a. Cạnh tranh theo ngành. Hình thức cạnh tranh này được chia làm hai
loại, là cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành.
Trong nền kinh tế, những doanh nghiệp cung ứng cho thị trường cùng
một loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đặc thù tập hợp lại thành một ngành sản
xuất kinh doanh. Do sở hữu khác nhau, nên mỗi doanh nghiệp có một phương
thức quản trị riêng. Doanh nghiệp có chất lượng quản trị hoàn hảo, bao giờ
cũng thu được lợi nhuận vượt trội. Chính vì lẽ đó mà các doanh nghiệp trong
cùng ngành cũng tìm mọi biện pháp để phân chia thị trường có lợi cho mình,
và là ngun nhân dẫn đến cạnh tranh trong nội bộ ngành.
Trong quá trình cạnh tranh trong nội bộ ngành, nếu hàng hoá dịch vụ của
những doanh nghiệp phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, thì loại hàng
hóa dịch vụ ấy, sẽ mở rộng được thị phần, sẽ phát triển và tăng được lợi
nhuận. Còn các doanh nghiệp khác sẽ bị thu hẹp sản xuất và bị giảm lợi
nhuận. Kết quả của quá trình cạnh tranh này làm cho sản xuất tập trung và
tích tụ cao hơn. Mặt khác, q trình cạnh tranh này sẽ làm cho chất lượng sản
phẩm hàng hoá dịch vụ tốt hơn, đẹp hơn và giá thành, giá bán sẽ hạ hơn,
người tiêu dùng được hưởng lợi nhiều hơn. Kết quả quá trình cạnh tranh nội
bộ ngành sẽ dẫn đến bình qn hóa suất lợi nhuận trong ngành.
Cạnh tranh giữa các ngành.
Trên thị trường, mỗi ngành sản xuất một loại hàng hố đặc thù, khó thay thế
và có suất lợi nhuận riêng. Do đó các ngành có suất lợi nhuận thấp, sẽ tìm cách

chuyển vốn sang ngành có suất lợi nhuận cao hơn. Đây là hình thức cạnh tranh
giữa các ngành. Cạnh tranh giữa các ngành có ý nghĩa tích cực, góp phần hạn
chế tính độc quyền, tạo thế phát triển cân bằng tương đối trong nền kinh tế.
Trong điều kiện trình độ kinh tế phát triển cao, tồn cầu hố, thì vấn đề thị


15
trường đã trở thành sự quan tâm lớn của mọi doanh nghiệp, khái niệm cạnh tranh
giữa các ngành khơng cịn có ý nghĩa tuyệt đối như trước đây. Bởi lẽ giữa các
ngành, các lĩnh vực gần nhau, thậm chí rất xa nhau vẫn có thể xâm nhập vào
nhau, tạo nên một hình thái kinh tế mới: sản xuất – kinh doanh đa lĩnh vực. Đây
là một dạng mới của độc quyền. Tuy nhiên dù dưới hình thái độc quyền nào, thì
trong một khơng gian kinh tế đầy biến động, các tổ chức độc quyền vẫn chưa thể
bỏ được tính tư hữu, bản chất dân tộc, vị trí độc tơn quốc gia… Do đó cạnh tranh
vẫn ln song hành với những hình thái kinh tế này.

b. Theo Cấp độ cạnh tranh.
Theo mức độ, hay cấp độ cạnh tranh, thì cạnh tranh được chia làm hai
loại là cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh khơng hồn hảo.
Cạnh tranh hồn hảo: là một mơ hình mà mọi chủ thể đều bình đẳng,
khơng có độc quyền. Trong cạnh tranh các chủ thể đều được tiếp nhận thông
tin và thụ hưởng những quyền lợi từ Chính phủ như nhau. Vì vậy việc mở
rộng kinh doanh, tăng lợi nhuận của một doanh nghiệp nào đó là do hàng hoá
– dịch vụ của doanh nghiệp này thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng,
nhiều hơn những chủ thể khác, doanh nghiệp được quản trị tốt hơn. Nói cách
khác, năng lực của doanh nghiệp quyết định sự thành cơng của chính mình.
Trong thực tiễn thì cạnh tranh hồn hảo chỉ là mơ hình giả định do khơng
thể có mơ hình bình đẳng. Giả định nếu có sự bình đẳng, nhưng do trình độ
tiếp nhận và xử lý thông tin, sử dụng lao động, tài nguyên… của các doanh
nghiệp lại rất khác nhau, nên hiệu quả SX - KD cũng sẽ rất khác nhau, vì vậy

giữa các doanh nghiệp đã hình thành một khoảng cách tự nhiên: bất bình
đẳng. Sự bất bình đẳng này thường xuyên xuất hiện từ cạnh tranh trí tuệ giữa
các doanh nghiệp và khơng có sự bình đẳng trí tuệ.
Cạnh tranh khơng hồn hảo: là hình thức phổ biến hiện nay. Theo hình
thức này một số chủ thể sản xuất kinh doanh, với các lợi thế của mình về
nguồn ngun nhiên liệu, nhân cơng, địa bàn thuận lợi, có bí quyết SX -


16
KD… có thể chi phối được thị trường về giá cả và số lượng hàng hoá. Tuy
nhiên sự thắng lợi trong cạnh tranh khơng hồn hảo là khơng bền vững ở một
chủ thể. Vì vậy để đảm bảo thắng lợi trong thời gian dài, các chủ thể phải
không ngừng vươn lên trong cạnh tranh, đổi mới khoa học – công nghệ sản
xuất sản phẩm, giữ được bí quyết sản xuất kinh doanh giành lợi thế trên
thương trường. Đây cũng là một trong các qui luật của cạnh tranh.
c.
Theo đạo đức kinh doanh: Cạnh tranh trong kinh tế, được chia
làm hai
loại: Cạnh tranh hợp pháp và cạnh tranh không hợp pháp.
Cạnh tranh hợp pháp: hay còn gọi là cạnh tranh lành mạnh, là cạnh
tranh phù hợp chuẩn mực luật pháp, tập quán và đạo đức kinh doanh.
Cạnh tranh không hợp pháp: là cạnh tranh không lành mạnh, các hành vi
cạnh tranh vi phạm pháp luật, trái với chuẩn mực thông thường và đạo đức
kinh doanh, gây thiệt hại đến uy tín và lợi ích của doanh nghiệp khác hoặc cá
nhân, đối tác. Rộng hơn, loại cạnh tranh này ảnh hưởng đến uy tín của doanh
nghiệp, ảnh hưởng xấu đến quốc gia trên mọi thương trường.
d.

Cạnh tranh theo thị trường: Cạnh tranh theo thị trường hay theo địa


bàn kinh doanh, được chia thành hai loại: Cạnh tranh trong phạm vi quốc gia
và cạnh tranh quốc tế. Ngày nay, sự xâm nhập thị trường, mở rộng quan hệ thị
trường và giao lưu kinh tế nói chung, nên trong phạm vi quốc gia vẫn có cạnh
tranh quốc tế. Những loại hàng hố dịch vụ của nước ngồi được tự do lưu
thơng trên thị trường nội địa, chúng cạnh tranh mạnh mẽ về mẫu mã, chất
lượng, phương thức phục vụ… đặc biệt về giá cả, so với những hàng hoá dịch
vụ cùng chủng loại tại bản địa. Doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh trên thị
trường sẽ chịu sự tác động của cạnh tranh quốc tế và cạnh tranh quốc gia. Do
đó có thể khẳng định trong cạnh tranh kinh tế, phạm vi thị trường chỉ là một
khái niệm tương đối. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là cạnh tranh giữa
những người bán với nhau, là cuộc cạnh tranh nhằm giành giật khách hàng và
thị trường, kết quả là giá cả giảm xuống và có lợi cho người mua. Trong cuộc


17
cạnh tranh này, doanh nghiệp nào đuối sức, không chịu được sức ép sẽ phải
rút lui khỏi thị trường, nhường thị phần của mình cho các đối thủ mạnh hơn.
1.1.1.4. Các hình thức cạnh tranh.
Tuỳ vào hồn cảnh thị trường cũng như năng lực cạnh tranh thực tế của
chủ thế kinh doanh, cạnh tranh có thể được diễn ra dưới những hình thức sau:
Cạnh tranh thực tế, đây là những loại hình cạnh tranh với những biểu
hiện cạnh tranh trực tiếp trên thị trường, giữa các doanh nghiệp trực tiếp cạnh
tranh với nhau cùng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ thông qua những phương
tiện cơ bản như giá cả, chất lượng hàng hố, dịch vụ. Hình thức cạnh tranh
này phổ biến nhất, vì đã tham gia vào thị trường, doanh nghiệp buộc phải
cạnh tranh để bán được hàng, để tồn tại và phát triển.
Cạnh tranh tiềm năng là hình thức cạnh tranh tồn tại do những nguyên
nhân tiềm năng trên thị trường. Điều này buộc doanh nghiệp xây dựng và thực
hiện chiến lược cạnh tranh phải tính tới các yếu tố mang tính tiềm năng có thể
xuất hiện trên thị trường như: đa dạng hố sản phẩm, cơng ty mới, những chủ

thể mới có thể gia nhập thị trường…
Cạnh tranh thay thế là hình thức cạnh tranh mà doanh nghiệp dựa trên
khả năng tự thay đổi phương thức, hình thức kinh doanh, cách thức tính giá,
R&D, áp dụng kĩ thuật, công nghệ mới…
1.1.2. Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh biểu hiện ra của cạnh tranh trong kinh tế bao hàm
những nội dung rộng và phong phú, từ cạnh tranh giữa các cá thể, các doanh
nghiệp, các tập đoàn… đến cạnh tranh giữa các liên minh, các quốc gia.
1.1.2.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp là tập hợp các tiêu chí phản ánh thực
lực vật chất và năng lực quản trị của chủ thể so với các chủ thể khác cùng sản
xuất – kinh doanh một loại hàng hóa, dịch vụ trên cùng một thị trường. Trên
cùng một thị trường, có nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất,


18
kinh doanh một loại hàng hóa, dịch vụ. Mục tiêu của mọi doanh nghiệp là
muốn chiếm lĩnh phần hơn về thị phần tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Các doanh
nghiệp sử dụng những thủ pháp cạnh tranh khác nhau để đạt mục tiêu và mục
đích cuối cùng là vượt lên trên đối thủ, chiếm lĩnh thị trường để tối đa hóa lợi
nhuận.
Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp tập hợp nhiều yếu tố, thủ
pháp khác nhau về vật chất và trí tuệ. Hai yếu tố này ban đầu có giá trị như
nhau. Nhưng trong quá trình cạnh tranh phát triển thì trí tuệ lại có giá trị vượt
trội. Trong đó yếu tố trí tuệ chưa có thước đo phổ thơng, vì vậy so sánh trực
quan về năng lực vật chất sẽ là phương pháp so sánh và đánh giá năng lực
cạnh tranh của nghiên cứu.
Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp, được thể hiện ở thị phần hàng hóa,
dịch vụ của doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường trong một thời kỳ. Theo quan
điểm chung của các nhà kinh tế gắn năng lực cạnh tranh doanh nghiệp với ưu

thế của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đưa ra thị trường. Nghĩa
là xem xét thị phần hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp trên một thị trường
nhất định. Để có được kết quả này, phải gắn năng lực cạnh tranh với năng lực
tổ chức quản trị sản xuất – kinh doanh, đổi mới khoa học – công nghệ
(KHCN), giảm chi phí sản xuất kinh doanh, đảm bảo sự phát triển bền vững
của doanh nghiệp. Từ quan điểm chung nêu trên, một số nhà kinh tế đã đưa ra
định nghĩa về năng lực cạnh tranh doanh nghiệp:
Theo Fafchamps, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp là khả năng của
doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp
hơn giá cả của nó trên thị trường. Doanh nghiệp nào có chi phí sản xuất sản
phẩm thấp nhất thì khả năng cạnh tranh là cao nhất. Quan điểm này,
Fafchamps nghiêng về chi phí sản xuất. Nếu chi phí sản xuất thấp hơn giá bán
thì doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh, đồng thời doanh nghiệp nào có chí
phí thấp nhất thì doanh nghiệp đó có khả năng cạnh tranh cao nhất.


19
Năng lực cạnh tranh theo định nghĩa của Fafchamps là chưa toàn diện.
Bởi lẽ khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp khơng phải phụ thuộc chỉ ở giá
bán, mà cịṇ ở mẫu mã hợp thị hiếu tiêu dùng, khả năng thay thế và cơng năng
của hàng hố…Nhiều khi một hàng hố có giá đắt, nhưng hội đủ nhiều tiêu
chí phù hợp với số đơng người tiêu dùng, thì chúng vẫn có thể tiêu thụ nhanh
hơn những hàng hố giá rẻ nhưng đã lạc mốt. Cho nên khả năng cạnh tranh
cần được xem xét một cách toàn diện, theo nhiều tiêu chí và trong điều kiện
kinh tế phát triển. Tiêu chí quan trọng nhất phải xem xét là số lượng hàng hóa
được tiêu thụ chiếm thị phần bao nhiêu và kết quả tài chính thế nào?
Theo Randall: năng lực cạnh tranh doanh nghiệp là khả năng giành được
thị phần và duy trì thị phần sản phẩm của mình trên thị trường với mức lợi
nhuận nhất định (cao hơn các doanh nghiệp cùng loại). Định nghĩa này không
diễn giải cụ thể, nhưng đã bao quát được nội dung về khả năng cạnh tranh của

doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Có thể coi đây là định nghĩa tổng
hợp về năng lực cạnh tranh doanh nghiệp vì đã nhấn mạnh đến kết quả tài
chính trong kinh doanh. Tài chính thu được chính là mục tiêu cuối cùng của
sản xuất – kinh doanh.
Theo Trung Tâm Thông Tin và Dự Báo KT-XH Quốc Gia, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, Việt Nam thì: “Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng
bù đắp chi phí, duy trì lợi nhuận và được đo bằng thị phần của sản phẩm và
dịch vụ của doanh nghiệp trên thị trường”, định nghĩa này đã tổng hợp nội
dung của hai định nghĩa đã nêu ở phần trên.
Những định nghĩa nêu trên tuy cách diễn đạt khác nhau, song đều thể
hiện thống nhất ở những nội dung đó là:
Thứ nhất, sản phẩm của doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu khách hàng, là
chuẩn mực đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì phục vụ
khách hàng là mục tiêu của sản xuất kinh doanh, là động lực của doanh
nghiệp, chiếm được thị phần là thắng lợi của doanh nghiệp.


20
Thứ hai, thực lực của doanh nghiệp về quản trị và khoa học – công nghệ,
tạo nên sức mạnh của danh nghiệp. Nó khơng những tạo nên những sản phẩm
có đầy đủ các yếu tố để lôi kéo khách hàng, mà cịn xây dựng được thương
hiệu có uy tín trên thị trường.
Thứ ba, để giữ vững và phát triển năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp
phải ln ln tìm cách tạo lợi thế cho mình trước các đối thủ cạnh tranh bằng
các bí quyết sản xuất – kinh doanh và khoa học – công nghệ… chiếm lĩnh thị
phần cao nhất trên cùng một thị trường.
Thứ tư, Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là tổng hợp của nhiều yếu
tố. Để tạo năng lực cạnh tranh, yếu tố quan trọng là năng lực quản trị của
doanh nghiệp. Từ năng lực quản trị, doanh nghiệp sẽ biết khắc phục điểm yếu,
phát huy thế mạnh để tạo lập năng lực cạnh tranh hoàn hảo cho mình trong

hiện tại, cũng như trong tương lai.
Từ những quan điểm nêu trên, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp trong
điều kiện phát triển và hội nhập quốc tế, có thể được hiểu như sau: Năng lực
cạnh tranh doanh nghiệp là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp cùng sản suất
một loại hàng hoá, hoặc cùng cung ứng một loại dịch vụ trên một thị trường,
bằng những bí quyết sản xuất – kinh doanh đặc thù, năng lực quản trị vượt
trội và khả năng vận dụng Khoa học – Công nghệ tạo ra hiệu quả… nhằm
chiếm lĩnh thị phần cao hơn, với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
1.1.2.2. Tiêu chí đánh giá về năng lực cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp là khác nhau dựa vào lĩnh
vực hoạt động, quy mô, khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng và hiệu
quả hoạt động đem lại theo từng thời kỳ. Do đó, các tiêu chí chủ yếu: Sản
phẩm, Thị phần, Kết quả kinh doanh, kênh phân phối, chúng có mối quan hệ
tương hỗ cho doanh nghiệp đạt được mục tiêu và là căn cứ để đánh giá năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
a. Sản phẩm:
Theo C. Mác: Sản phẩm là kết quả của quá trình lao động dùng để phục vụ
cho việc làm thỏa mãn nhu cầu của con người. Trong nền kinh tế thị trường, sản


21
phẩm được quan niệm là bất cứ cái gì đó có thể đáp ứng được nhu cầu thị
trường và đem lại lợi nhuận. Khi hình thành doanh nghiệp, ý tưởng của nhà
đầu tư đã định hình sản phẩm đáp ứng cho nhu cầu thị trường và mang lại lợi
nhuận cho doanh nghiệp. Đánh giá lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp được
tìm hiểu từ sản phẩm doanh nghiệp có trên thị trường theo hai cách: (1) Hàng
hoá sản phẩm của doanh nghiệp có được đa dạng bao gồm: sản phẩm cốt lõi
truyền thống và sản phẩm cải tiến, sản phẩm mới. Mức độ đa dạng của sản
phẩm thể hiện ở danh mục sản phẩm của công ty, tập những loại sản phẩm và
mặt hàng được đưa ra để bán. Đa dạng hố sản phẩm cịn là một biện pháp

phân tán sự rủi ro trong kinh doanh khi mà cạnh tranh trên thị trường ngày
càng trở nên gay gắt, quyết liệt. (2) Khác biệt hóa các sản phẩm của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp tạo ra sản phẩm, dịch vụ độc đáo và hấp dẫn khách
hàng vì sự độc đáo đó. Khác biệt hóa sản phẩm giúp doanh nghiệp khơng bị
cạnh tranh từ các đối thủ vì sự u thích của khách hàng về sự độc đáo mà
doanh nghiệp xây dựng được. Tuy nhiên, về chi phí thì việc khác biệt hóa sản
phẩm sẽ tốn thêm nhiều chi phí nghiên cứu phát triển và khó duy trì sự khác
biệt trong thời gian dài do bị đối thủ bắt chước rất nhanh.
Doanh nghiệp luôn song hành đa dạng hóa sản phẩm và khác biệt hóa
sản phẩm. Doanh nghiệp cần xác định cơ cấu sản phẩm tối ưu và đây là một
trong những yếu tố quyết định tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp
trên thị trường.
Chất lượng sản phẩm được hình thành từ khâu thiết kế tới tổ chức sản xuất,
tiêu thụ hàng hoá và chịu tác động của nhiều yếu tố: công nghệ dây chuyền sản
xuất, nguyên vật liệu, trình độ tay nghề lao động, trình độ quản lý… đáp ứng các
tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn bền, đẹp... có khả năng
thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Doanh nghiệp luôn phải nâng cao chất
lượng sản phẩm. Sản phẩm chất lượng cao giúp gia tăng tốc độ tiêu thụ sản
phẩm, tăng khối lượng hàng hoá bán ra, kéo dài chu kỳ sống của


22
sản phẩm. Sản phẩm chất lượng cao sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp, kích
thích khách hàng mua hàng và mở rộng thị trường, tăng khả năng sinh lời, cải
thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Giá cả hay giá bán của sản phẩm đây là yếu tố quan trọng nhất quyết
định thị phần của doanh nghiệp và khả năng sinh lời của nó. Giá cả là cơng cụ
linh hoạt nhất, mềm dẻo nhất trong cạnh tranh. Những quyết định về giá ln
giữ vai trị quan trọng và phức tạp nhất mà một công ty phải đối mặt trong
hoạt động kinh doanh khi quyền trả tiền thuộc về người mua.

Giá cả có một vị trí quan trọng trong năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp, nó là nhân tố quan trọng trong quá trình quyết định sản xuất và cung
ứng sản phẩm cho thị trường. Giá cả là yếu tố quyết định đến khối lượng sản
phẩm mà doanh nghiệp bán ra (giá cả hợp lý thì bán được nhiều và ngược lại),
nó ảnh hưởng đến lợi nhuận, sức mạnh doanh nghiệp trên thị trường. Như
vậy, để chiến thắng trong cạnh tranh, doanh nghiệp phải xây dựng được giá cả
của sản phẩm cụ thể thành các phương án kinh doanh linh hoạt, từng thời kỳ,
giúp cho doanh nghiệp thu được hiệu quả cao nhất. Doanh nghiệp xử lý tốt
việc định giá, phù hợp chi phí; chiến lược về giá được rà soát lại thường
xuyên để lợi dụng những biến động của thị trường; giá được ấn định như một
yếu tố nội tại của chiến lược xác định vị trí trên thị trường; và giá được thay
đổi linh hoạt đúng mức đối với những mặt hàng khác nhau, những khúc thị
trường khác nhau và những thời điểm mua sắm khác nhau.
b.

Thị phần.

Thị phần là phần thị trường tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp
đó đang nắm giữ. Để nhận biết sự hiện hữu và chiếm lĩnh thị phần của doanh
nghiệp ta nhận diện thông qua thương hiệu và hệ thống kênh phân phối của
doanh nghiệp.
Thương hiệu của doanh nghiệp ra đời gắn liền với sản phẩm và dịch vụ.
Thương hiệu của doanh nghiệp không chỉ là thuật ngữ, thương hiệu là hình


23
tượng về doanh nghiệp, về hàng hóa (sản phẩm) và đằng sau nó là chất lượng
hàng hóa, dịch vụ, cách ứng xử của doanh nghiệp với khách hàng, cộng đồng,
những hiệu quả tiện ích đích thực cho người tiêu dùng do hàng hóa và dịch vụ
mà nó mang lại...

Thương hiệu là đại diện nhận diện của doanh nghiệp, là một tài sản vơ
giá của doanh nghiệp, nó là tài sản vơ hình mà doanh nghiệp đã xây dựng
trong nhiều năm bằng uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng. Tài sản đó
có thể đưa lại nguồn lợi nhuận rất lớn khi doanh nghiệp biết khai thác hết vai
trò của nó. Doanh nghiệp có thương hiệu sẽ tự tin hơn trong hoạt động sản
xuất kinh doanh vì đã có một thị trường khách hàng trung thành tiêu dùng sản
phẩm của doanh nghiệp. Thương hiệu là tài sản nên có thể bán hoặc mua. Khi
đã trở thành tài sản của doanh nghiệp, thương hiệu góp phần nâng cao năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp bằng uy tín đối với khách hàng, là tài sản thế
chấp hay kêu gọi đầu tư hoặc tham gia góp vốn khi liên doanh.
Thương hiệu là tài sản quý giá cho doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp
gia tăng được khả năng tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, đem lại lợi ích và tăng
cường năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần có chiến
lược xây dựng được thương hiệu hấp dẫn và lôi cuốn người tiêu dùng, thu lợi
cho doanh nghiệp. Phát triển thương hiệu thành cơng nó sẽ giúp doanh nghiệp
tồn tại và phát triển thành công trên thị trường đầy biến động và gia tăng lợi
ích cho mình.
Kênh phân phối: Kênh phân phối được hiểu là con đường đi của sản
phẩm từ người sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng. Kênh phân phối được
nhà sản xuất hay doanh nghiệp thiết kế hình thành một dịng vận chuyển
quyền sở hữu hàng hóa cho đến tay người sử dụng, khách hàng cuối cùng.
Thương hiệu tốt, thị phần chiếm lĩnh giúp giảm áp lực trên kênh phân
phối của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu đưa được sản
phẩm đến người tiêu dùng nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu của khách hàng.


24
Doanh nghiệp phải giảm các trung gian, giảm được khoảng cách về thời gian,
khơng gian, nhanh chóng chuyển quyền sở hữu giữa người sản xuất và người
tiêu dùng, mang lại hiệu quả cao trong kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh,

cụ thể: (1) Hệ thống kênh phân phối giúp điều chỉnh số lượng và chủng loại hàng
hóa được thực hiện ở mỗi cấp độ của kênh phân phối, làm phù hợp giữa sản xuất
chun mơn hóa theo khối lượng với nhu cầu tiêu dùng cụ thể rất đa dạng. Điều
này giúp giải quyết sự không thống nhất về số lượng, chủng loại sản phẩm trong
suốt quá trình phân phối. (2) Hệ thống kênh phân phối có vai trị tích lũy sản
phẩm hàng hóa; Và có vai trị chia nhỏ: tức là phân chia số lượng hàng hóa lớn
thành số lượng nhỏ hơn, do vậy sản phẩm gần thị trường hơn.

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong chiến lược kênh phân phối
luôn phải đặt trong chiến lược kinh doanh chung toàn doanh nghiệp và sẽ đạt
hiệu quả cao khi có sự cố gắng, phối hợp nhịp nhàng, ăn ý của các bộ phận,
các thành viên trong hệ thống kênh phân phối. Đó là phát triển các hệ thống
chiến lược về sản phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến liên hợp để đáp ứng nhu
cầu của thị trường, mục tiêu tốt hơn so với đối thủ cạnh tranh, phát triển nhận
diện thương hiệu doanh nghiệp, thương hiệu sản phẩm ở mỗi thời kỳ, mỗi giai
đoạn khác nhau mà công ty có hướng đầu tư khác nhau hướng tới khách hàng.
Thị phần: Yếu tố thị phần là một trong tiêu chí đánh giá năng lực cạnh
tranh. Thị phần được hiểu là tỷ lệ phần trăm thị trường doanh nghiệp đã chiếm
lĩnh được. Hay thực chất nó là sự phân chia thị trường của doanh nghiệp đối
với các đối thủ cạnh tranh trong ngành.
Thương hiệu dẫn đầu thường chiếm thị phần lớn nhất. Do vậy, thị phần
là một trong những tiêu chí đầu tiên đánh giá mức độ thành công của doanh
nghiệp. Thị phần là cơng cụ phân tích, giúp các chủ doanh nghiệp theo dõi sự
tăng và giảm của một dấu hiệu của khả năng cạnh tranh tương đối của các sản
phẩm hoặc dịch vụ của công ty. Khi tổng thị trường cho một sản phẩm hoặc
dịch vụ tăng lên, một cơng ty duy trì được thị phần của mình sẽ tăng doanh


25
thu ở mức độ và tốc độ tương tự như tổng thị trường. Một cơng ty có thị phần

chi phối sẽ tăng doanh thu nhanh hơn các đối thủ cạnh tranh.
Lợi thế thị phần trong cạnh tranh, doanh nghiệp chiếm thị phần chi phối
có khả năng dẫn dắt thị trường: Khả năng sinh lời tốt, dễ dàng tiếp cận khách
hàng, người tiêu dùng, có lợi thế định giá sản phẩm hấp dẫn, chính sách chiến
lược khách hàng cho mỗi loại sản phẩm, dẫn dắt khách hàng khi tạo ra các sản
phẩm khác biệt công dụng mới, tăng khối lượng tiêu dùng mà các doanh
nghiệp khác khó theo kịp.
Các cơng ty dẫn đầu đều muốn là doanh nghiệp đứng đầu, giữ vị trí thị
phần số một, khẳng định năng lực cạnh tranh tốt của doanh nghiệp phải hành
động trên ba hướng: (1) Tìm cách tăng tổng nhu cầu thị trường; (2) Bảo vệ thị
phần hiện tại của mình bằng những hành động tự vệ và tiến công; (3) Tăng
thêm thị phần của mình hơn nữa, cho dù quy mơ thị trường khơng thay đổi.
Thị phần đóng vai trị quan trọng, nhưng thị phần không phải là yếu tố
duy nhất trong việc xác định vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp.
Cạnh tranh phải nằm trong một sân chơi bình đẳng và kích thích sản xuất xã
hội. Để xác định vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp, cịn cần phải
tính đến các yếu tố bổ trợ khác như rào cản gia nhập, hiện trạng cạnh tranh
trên thị trường liên quan trong đó vai trị của nhà nước rất quan trọng trong
điều tiết thị trường nhằm đem lại môi trường kinh doanh bình đẳng cho các
doanh nghiệp.
c. Hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh
chung toàn doanh nghiệp, từng lĩnh vực, bộ phận trong doanh nghiệp.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là một phạm trù
kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực: lao động, máy móc, thiết bị,
tiền vốn… nhằm đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đã hoạch định đề ra.


×