Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Hiệu quả hoạt động của mô hình khu công nghệ thông tin tại TP. Hồ Chí Minh trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Trường hợp Công viên Phần mềm Quang Trung (QTSC)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (661.55 KB, 17 trang )

HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA MƠ HÌNH KHU CƠNG NGHỆ
THƠNG TIN TẠI TP. HỒ CHÍ MINH TRONG BỐI CẢNH
CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ 4. TRƢỜNG HỢP
CÔNG VIÊN PHẦN MỀM QUANG TRUNG (QTSC)
NCS.ThS. Trà Thị Thảo1, Lâm Nguyễn Hải Long2
1

Khoa Kế tốn – Tài chính – Ngân hàng, Trường ĐH Công nghệ TP.HCM (Hutech)
1

Công ty TNHH MTV Phát triển Cơng viên phần mềm Quang Trung

TĨM TẮT
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu
đã tạo ra nhiều cơ hội cho các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Là một quốc gia có trình độ
cơng nghệ thấp và lạc hậu so với các nước tiên tiến trên thế giới, cuộc CMCN 4.0 đang tạo ra một vận hội
mới để những nước đi sau có khả năng tiếp thu nhanh nhất những thành tựu công nghệ của nhân loại.
Ngành Cơng nghệ thơng tin (CNTT) nói chung và công nghiệp phần mềm được xem là nền tảng cơ bản
của cuộc CMCN 4.0. Chính vì vậy, để phát triển ngành CNTT thì khơng thể khơng nhắc đến vai trị của
các khu CNTT hay các cơng viên phần mềm (CVPM), nơi được xem như là “bệ đỡ” hỗ trợ, giải quyết các
khó khăn, vướng mắc cũng như cung cấp các dịch vụ và hạ tầng công nghệ để giúp các doanh nghiệp
CNTT tập trung phát triển chuyên môn. Các khu CNTT này được nhiều nước trên thế giới xem là một
trong những mơ hình hiệu quả nhất thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp CNTT. Mục tiêu của bài
viết này nhằm đánh giá hiệu quả các khu CNTT trên phạm vi cả nước và nghiên cứu mô hình thành cơng
của Cơng viên phần mềm Quang Trung (QTSC) để từ đó có những đề xuất, giải pháp nhằm hỗ trợ ngành
CNTT phát triển mạnh trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Từ khóa: Cơng nghiệp 4.0, phần mềm, công viên phần mềm Quang Trung, QTSC.

1. GIỚI THIỆU
1.1. Bối cảnh phát triển khu CNTT tại Việt Nam và trên địa bàn thành phố
Sự bùng nổ của cuộc CMCN 4.0 đang lan tỏa vào mọi mặt của đời sống, mở ra cơ hội phát triển toàn diện


về kinh tế - xã hội của đất nước. Xu hướng số hoá mọi ngành, mọi lĩnh vực là yếu tố quan trọng nhất để
tăng năng suất lao động, tốc độ tăng trưởng, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, hướng tới mục tiêu
chuyển đổi số với ba chủ thể là chính phủ số, kinh tế số và người dân số và sáu trụ cột là hạ tầng kết nối,
dữ liệu, công nghiệp điện tử - viễn thông CNTT, thương mại điện tử, nguồn nhân lực và an tồn an ninh
thơng tin.
Khơng nằm ngoài xu hướng chung này, Việt Nam đang từng bước chuyển đổi số trên mọi lĩnh vực, mọi
mặt của đời sống xã hội. Sự quan tâm hỗ trợ của Chính phủ đối với hoạt động đổi mới sáng tạo, số lượng
dịch vụ công trực tuyến ngày càng tăng, sự xuất hiện của nhiều mơ hình kinh doanh mới dựa trên CNTT
trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, giao thông, du lịch, thương mại, đô thị thông minh... đã và đang là nền
tảng, là bước đi quan trọng để từng bước chuyển đổi sang một quốc gia số. Trên hành trình trở thành một
quốc gia số, ngành CNTT ngày càng khẳng định vị trí và vai trị quan trọng trong hệ thống chính trị, kinh
321


tế - xã hội, có nhiều đóng góp tích cực vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
quốc tế”1.
Theo thông tin từ Bộ Thông tin và Truyền thông (Bộ TT&TT), năm 2018, tốc độ tăng trưởng doanh thu
toàn ngành cao hơn tăng trưởng GDP cả nước, đạt khoảng 2,65 triệu tỷ đồng, ước tăng 112,6% so với năm
20172. Riêng công nghiệp phần mềm của Việt Nam tiếp tục là ngành duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao,
13,8% với doanh thu ước đạt 4,3 tỷ USD, xuất khẩu ước đạt 3,5 tỷ USD. Ngoài các thị trường truyền
thống là Nhật Bản, Bắc Mỹ còn có những thị trường mới nổi như châu Âu, Myanmar…3
Với lực lượng 129 trường đại học, 412 trường cao đẳng nghề và trường trung cấp có đào tạo CNTT, điện
tử, viễn thơng và an tồn thơng tin, năm 2017 nguồn nhân lực CNTT của Việt Nam đạt trên 897.000 người
trong đó lĩnh vực cơng nghiệp phần cứng, điện tử chiếm trên 75%, còn lại là các lĩnh vực phần mềm, nội
dung số và dịch vụ CNTT. Với tốc độ tăng trưởng trung bình 14,9%, đến năm 2020 nhân lực CNTT Việt
Nam sẽ đạt khoảng 1,3 triệu người. Thu nhập bình quân lao động CNTT cũng có bước tăng trưởng đáng
kể, theo đó lĩnh vực phần cứng, điện tử có mức thu nhập tăng 15%, phần mềm và nội dung số cũng có
mức tăng trưởng từ 8 - 10%.4
Theo báo cáo mới nhất của Liên hợp quốc về chỉ số Chính phủ điện tử, Việt Nam đã tăng 1 bậc lên vị trí
88 so với năm 2016. Báo cáo cạnh tranh toàn cầu 2017-2018 của Diễn đàn kinh tế thế giới WEF xếp Việt

Nam ở thứ hạng 55/137 nước về chỉ số cạnh tranh toàn cầu, tăng 5 bậc so với giai đoạn 2015-2016. Trong
báo cáo này, chỉ số sẵn sàng về công nghệ của Việt Nam đứng thứ 79/137 quốc gia. Chỉ số phát triển
CNTT&TT (ICT Development Index - IDI) của ITU năm 2017, Việt Nam xếp hạng thứ 108/176 quốc gia
bằng với năm 2016.
Nhấn mạnh CNTT đóng vai trị nịng cốt trong xây dựng Chính phủ điện tử, chuyển đổi số quốc gia và nền
kinh tế số, Bộ TT&TT nêu rõ, thế giới đang bước vào cuộc CMCN 4.0, xây dựng Chính phủ số hướng tới
nền kinh tế số. Việt Nam khơng đứng ngồi xu thế đó, việc tiến hành tốt chuyển đổi số sẽ giúp Việt Nam
chủ động trong cuộc CMCN 4.0, hướng tới quốc gia thông minh. Đặc biệt, năm 2018, Thủ tướng Chính
phủ đã đồng ý cho Bộ TT&TT chủ trì xây dựng Đề án Chuyển đổi số Quốc gia quốc gia. Đây là nhiệm vụ
trọng đại, bởi nếu thực hiện thành công, Việt Nam sẽ tăng được năng suất lao động lên từ 30 đến 40%,
góp 20 - 30% trong tăng trưởng GDP, tránh được bẫy thu nhập trung bình. Một trong những nhân tố quan
trọng thực hiện chiến lược này đó chính là các doanh nghiệp phần mềm (DNPM), doanh nghiệp CNTT.
Thành phố Hồ Chí Minh với vai trị là vị trí, đầu tàu trong phát triển ngành CNTT của cả nước đã có nhiều
chính sách thúc đẩy phát triển ngành cơng nghiệp này trong suốt thời gian qua. Mặt khác, dù tỷ lệ tăng
trưởng của ngành luôn ở mức cao với hai chữ số nhưng tỷ trọng đóng góp vào kinh tế thành phố cịn rất
nhỏ. Vì vậy nhu cầu cấp bách để phát triển lĩnh vực CNTT trở thành lực lượng chủ lực đóng góp cho kinh
tế của thành phố trong thời gian tới là phải thúc đẩy về số lượng doanh nghiệp cũng như lực lượng lao
động trong ngành này. Làm thế nào số lượng cả doanh nghiệp lẫn lực lượng lao động phải tăng lên hơn
5% trong tổng số lao động của TP.HCM để ngày càng thúc đẩy ngành CNTT của TP.HCM phát triển
mạnh mẽ. Một trong những đòn bẫy mang tính giải pháp chiến lược chính là việc thành lập các khu
CNTT, các công viên phần mềm (CVPM) để thu hút, hỗ trợ cho các doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ
hơn.

Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại cuộc họp với Bộ TT&TT ngày 08/9/2018.
Nguồn: />3
Nguồn: />4
Theo số liệu Sách trắng 2018.
1
2


322


Sự ra đời của các khu CNTT, khu công nghệ cao, CVPM đã tạo ra cơ sở hạ tầng kỹ thuật và môi trường
kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp lĩnh vực CNTT, cơng nghệ cao hoạt động, góp phần phát triển
ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.

1.2. Sự phát triển công viên khoa học trên thế giới
Theo như Tổ chức Văn hóa và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO), có trên 400 khu khoa học cơng nghệ
trên thế giới và số lượng các khu tiếp tục gia tăng theo thời gian. Hoa Kỳ được xem là quốc gia tiên phong
trong việc xây dựng các khu công nghệ và tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ có giá trị cao cho toàn cầu.
Trên trang web của UNESCO thống kê cho thấy Hoa Kỳ có hơn 150 khu khoa học cơng nghệ, theo sau là
Nhật Bản có 111 khu. Trung Quốc đã có kế hoạch xây dựng khu khoa học công nghệ từ giữa thập niên
1980 và hiện có khoản 100 khu.
Trong khu vực châu Á, ngồi hai quốc gia dẫn đầu là Nhật Bản và Trung Quốc, Hàn Quốc cũng được xếp
đứng thứ III trong khu vực này với số lượng 18 khu trải dài khắp các tỉnh thành. Xét trong phạm vi khu
vực các nước Đông Nam Á, Malaysia là quốc gia dẫn đầu có 5 khu công nghệ cao (Johor Technology
Park, kulim Hi-Tech Park, Selangor Science Park, Subang Hi-Tech Industrial Park, và Technology Park
Malaysia) đóng vai trị quan trọng cho cơng cuộc phát triển kinh tế và xã hội của quốc gia này. Sau
Malaysia là Philippines với 3 khu công nghệ (Laguna Technopark, Science City of Munoz và Science
Park of the Philippines) tạo tiền đề cho phát triển ngành cơng nghệ có hàm lượng chất xám cao của quốc
gia này.
Trong một nghiên cứu tổng kết 30 năm phát triển các công viên khoa học công nghệ của Trung Quốc, Hoa
Kỳ, Vương Quốc Anh, Tây Ban Nha, nhóm tác giả Hobbs, Link, & Scott (2017) cho thấy để phát triển
khu công viên khoa học công nghệ ở khắp nơi trên thế giới là làm sao khai thác mối liên kết tốt giữa các
bên có liên quan tham gia trong nội khu và có sự gắn kết giữa các khu với nhau. Tùy đặc thù điều kiện của
mõi khu và chính sách khuyến khích của chính quyền, kết quả đạt được của các khu có khác nhau trong
tiêu chí đánh giá.
Hiện nay, ở Việt Nam nghiên cứu liên quan đến chủ đề này rất còn hạn chế. Chính sách phát triển khu
cơng viên khoa học cơng nghệ vẫn còn nhiều điều khoản cần bổ sung và vẫn cịn đang trong giai đoạn

triển khai thử nghiệm. Vì vậy, rất cần thiết cho việc triển khai nghiên cứu này để thấy rõ hiện trạng phát
triển CVPM và từ đó đề xuất các giải pháp hồn thiện về chính sách phát triển khu CVPM tại Việt Nam.
Từ thực tế phát triển QTSC và xu hướng phát triển của thế giới cũng cho thấy cần qui hoạch mở rộng hơn
thu hút doanh nghiệp khoa học công nghệ khác như công nghệ về sự sống, công nghệ sinh học, và công
nghệ nano đầu tư vào cơng viên để nó trở thành cơng viên khoa học cơng nghệ. Ngồi ra, kết quả nghiên
cứu cung cấp những minh chứng thực tế giúp các nhà hoạch định chính có tham chiếu để hồn thiện hệ
thống pháp lý cho phát triển công viên khoa học công nghệ một cách bền vững tạo sự đột phá về công
nghệ và theo kịp xu hướng phát triển trên thế giới.

2. LÝ THUYẾT TỔNG QUAN
Nhiều nghiên cứu của các học giả trên thế giới đã triển khai nhằm tìm ra mơ hình phát triển khu khoa học
cơng nghệ phù hợp nhất đối cho từng bối cảnh nghiên cứu. Cụ thể, Zhou (2005) có những phân tích đánh
giá về chuyển đổi cơ chế quản lý phù hợp cho bối cảnh của Trung Quốc đối với khu công nghệ cao thành
công tại Zhongguancun, Bắc Kinh. Tác giả đã khai thác những đặc trưng chính thức và khơng chính thức
của khu Zhongguancun so với cái nôi khu công nghệ của Hoa Kỳ tại thung lũng Silicon, California.
Nghiên cứu này cũng đưa ra những điểm mạnh và yếu trong quá trình thúc đẩy phát triển môi trường đổi
mới sáng tạo tại Trung Quốc.

323


Trong một nghiên cứu khác, Vaidyanathan (2008) đã đánh giá những chính sách thay đổi tạo dấu ấn mạnh
mẽ cho chuyển đổi các khu công nghệ phần mềm đến khu công nghệ thông tin kết hợp với công nghệ sinh
học tại Ấn Độ. Ngoài ra, Albahari, Catalano, & Landoni (2013) đã đánh giá một cách có hệ thống về việc
triển khai các khu khoa học công nghệ tại Ý và Tây Ban Nha. Nghiên cứu này cũng đưa ra nhiều bài học
kinh nghiệm có giá trị cho việc xây dựng mơ hình phát triển khu khoa học cơng nghệ.
Một nghiên cứu liên quan đến khu khoa học công nghệ tại Hsinchu, Trung Quốc, Chen, Chien, & Lai
(2013) đã phân tích đánh giá q trình phát triển cụm khu cơng nghệ trong vòng 30 năm. Nghiên cứu này
cũng đưa ra nhiều bài học q giá cho chính sách phát triển mơ hình cụm khu cơng nghiệp. Liên quan đến
việc phát triển cụm khu khoa học và tạo sự gắn kết tại Hàn Quốc và Đài Loan, Yun & Lee (2013) cho thấy

phát triển cụm khu công nghiệp thành công tại hai quốc gia này khi tạo được sự gắn kết hiệu quả những
trường đại học, doanh nghiệp và chính quyền. Sự hợp tác giữa các bên có liên quan đóng vai trò quan
trọng tạo sự chuỗi liên kết chặt chẽ giúp phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm thúc đẩy phát triển
kinh tế xã hội của cụm khu cơng nghệ và quốc gia.
Mặc dù có nhiều nghiên cứu có liên quan đế phát triển khu khoa học cơng nghệ tại nhiều quốc gia khác
nhau, thực tế vẫn còn nhiều thách thức trong việc hoạch định và đưa ra mơ hình phát triển khu khoa học
cơng nghệ kiểu mẫu thành cơng phù hợp nhất. Chính vì vậy, Wasim (2014) đã chỉ ra 4 khía cạnh chính có
tính phổ qt tồn cầu chung cho việc xây dựng mơ hình phát triển theo kiểu mẫu thành công viên khoa
học gồm: Quản trị (governance); tăng trưởng (growth); bền vững (sustainability) và khuynh hướng tương
lai và các nhân tố ngoại vi (Future trends & external factors). Trong đó, xây dựng hệ thống quản trị tốt sẽ
giúp cho các khu công viên khoa học mới thành lập tránh những rủi ro trong giai đoạn đầu phát triển.
Thiết kế chính sách quản trị
Làm sao để quản trị tốt khu khoa học công nghệ là một trong những khía cạnh quan trọng để phát triển
khu. Quản trị ở đây bao gồm thiết lập kế hoạch và thiết kế một môi trường thu hút doanh nghiệp đầu tư
vào khu cơng nghệ. Xây dựng cơ chế chính sách giúp doanh nghiệp gắn kết lâu dài thông qua những hợp
đồng cụ thể trên cơ sở đảm bảo vừa hợp tác chia sẻ thơng tin, vừa đảm bảo an tồn sở hữu trí tuệ. Wasim
(2014) đưa ra các đối tượng quan trọng cần quan tâm trong việc thiết kế chính sách quản trị hiệu quả:
Quản lý khu
Để quản lý khu khoa học cơng nghệ thành cơng cần phải có đội ngũ quản lý chuyên nghiệp được đào tạo
bài bản, có năng lực lên kế hoạch phát triển, có kỹ năng quản lý và vận hành khai thác khu. Ban lãnh đạo
khu cần phải xác định được tầm nhìn và sứ mệnh đồng bộ với các mục tiêu đề ra nhằm thúc đẩy phát triển
bền vững khu khoa học công nghệ. Bên cạnh đó, đội ngũ quản lý cần phải có đủ thẩm quyền và trách
nhiệm hoạch định và hình thành các chính sách cho đặc khu, tính tốn các khoản chi phí và các loại doanh
thu tương ứng. Thành phần của ban lý khu cũng đa dạng tùy theo các giai đoạn hình thành và phát triển
khu khoa học cơng nghệ.
Parry (2014) cho rằng cần phải có qui hoạch tổng thể cho khu cơng nghệ gồm có ba bên tham gia chính: 1)
các trường đại học uy tín, có khả năng nghiên cứu chuyển giao cơng nghệ, thương mại hóa sản phẩm trí
tuệ; 2) chính quyền địa phương tham gia việc qui hoạch phát triển khu phục vụ cho mục tiêu phát triển
kinh tế vùng và tạo lợi thế cạnh tranh thông qua ưu đãi đầu tư; 3) cộng đồng doanh nghiệp. Bên cạnh đó,
việc xây các tiêu chí đánh giá mức độ thành công của một khu công nghiệp là rất quan trọng tạo tiền đề

cho việc mở rộng phát triển mơ hình.
Xây dựng các mơ hình liên doanh liên kết cũng cần cân nhắc để giảm gánh nặng về chi phí và rủi ro trong
giai đoạn xây dựng các khu khoa học cơng nghệ. Ví dụ vào năm 1999, Manchester Science Park, Vương

324


Quốc Anh đã ký thỏa thuận hợp tác với công ty xây dựng và phát triển Pochin Plc xây dựng thành cơng ba
tịa nhà cho khu cơng nghệ Manchester Technopark Limted (Wessner, 2009).
Lựa chọn công nghệ chủ lực
Các khu khoa học công nghệ đương đầu với nhiều lựa chọn công nghệ mang tầm chiến lược. Vấn đề thách
thức lớn nhất là làm sao chọn được cơng nghệ chủ lực đón đầu xu thế phát triển hay là chọn công nghệ cơ
bản chung chung. Tuy nhiên, thực phát triển các khu khoa học công nghệ trên thế giới cho thấy việc lựa
chọn này khơng đơn giản vì nó cịn phù thuộc điều kiện phát triển kinh tế của vùng và quốc gia và các
nguồn lực sẵn có đáp ứng được yêu cầu của việc lựa chọn này.
Trong nghiên cứu của Wessner (2009) cho thấy việc lực chọn công nghệ đặc thù để hình thành khu khoa
học cơng nghệ được quyết định bởi tình hình kinh tế của khu vực, doanh nghiệp và trường đại học. Ví dụ,
khu khoa học cơng nghệ của trường Đại học Maryland, Hoa Kỳ đã tập trung vào lĩnh vực công nghệ thông
tin truyền thông (Information and Communication Technology), khoa học sinh học (bioscience), công
nghệ sinh học (biotechnology), và cơng nghệ nano (nanotechnology). Trong khi đó, khu cơng nghệ cao tại
Zhangjiang, Trung Quốc thì tập trung vào ba lĩnh vực chủ lực là khoa học sự sống (life science), phần
mềm, và cơng nghệ thơng tin. Trong đó, khoa học sự sống chiếm 50% doanh số của toàn khu. Ngược lại,
việc lựa chọn công nghệ cơ bản chung chung thì thường chấp nhận tất cả các ngành nghề có thể đầu tư vào
khu cơng nghệ. Như trong một khảo sát tình hình phát triển tại các khu, Parry (2014) đã ghi nhận các
doanh nghiệp và trường đại học được quyền chọn lựa bất kỳ lãnh vực nào mà họ quan tâm phát triển tại
các khu công nghệ cơ bản chung chung.
Nhóm đối tƣợng mục tiêu (target group)
Nhóm đối tượng này bao gồm cộng đồng khởi nghiệp, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các trung tâm nghiên
cứu và phát triển, các tổ chức nghề nghiệp và các quỹ tương hỗ. Trong nhóm đối tượng này vấn đề quan
trọng là làm sao huy động được nguồn vốn phát triển ban đầu để đặt nền móng vũng chắc cho cộng đồng

khởi nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và các trung tâm nghiên cứu và phát triển. Nguồn vốn này phải đủ lớn để
xây dựng được các vườn ươm công nghệ.
Trong nghiên cứu khu công nghệ và khoa học tại Attica, Hy Lạp, Sofouli & Vonortas (2007) cho thấy
mục tiêu của khu công nghệ này là hỗ trợ các công ty mới phát triển và tận dụng tối đa nguồn lực để triển
khai thương mại hóa các sáng kiến và cơng nghệ cao nhằm tạo ra các thị trường mới và cải thiện nền kinh
tế quốc gia. Thực tế khu công nghệ này thu hút cả công ty đã trưởng thành và cộng đồng khởi nghiệp.
Các bên có liên quan
Các bên có liên quan là một tổ chức hay cá nhân mà có đầu tư, có cổ đơng hay lợi ích cụ thể tại khu khoa
học cơng nghệ. Trong một khảo tình hình phát triển khu công nghệ, Parry (2014) cho thấy 3 bên liên quan
chủ yếu của một khu hiện hữu tại Vương Quốc Anh gồm có trường đại học Surrey, chính quyền địa
phương và doanh nghiệp. Vay trị chính của trường đại học Surrey là tạo ra nguồn thu nhập độc lập và gia
tăng ổn định cho các giáo sư và chuyên viên thông qua việc ký kết làm việc các doanh nghiệp thành lập tại
khu này. Ngoài cơ hội chuyển giao cơng nghệ và thương mại hóa các sản phẩm cơng nghệ, nhà trường cịn
hưởng lợi từ giá trị vơ hình thông qua danh tiếng của trung tâm công nghệ xuất sắc. Vai trị của chính
quyền giúp hồn thiện và triển khai kế hoạch phát triển kinh tế vùng và địa phương. Cộng đồng doanh
nghiệp trong khu tạo môi trường kinh thuận lợi nhằm gia tăng lợi thế cạnh tranh thông qua kỹ năng và
công nghệ.

325


Nguồn vốn
Nguồn vốn là một trong vấn đề nan giải nhất trong quá trình phát triển và vận hành khu khoa học công
nghệ. Nguồn vốn đầu tư cho hoạt động vườn ươm, khởi nghiệp thông qua tài trợ, vay vốn ưu đãi và các
loại hình cấp vốn khác sẽ thu hút được nhiều doanh nghiệp thành lập tại các khu khoa học công nghệ.
Các học giả (Parry, 2014; Wessner, 2009) cũng cho thấy chính sách đầu tư tài trợ vốn cho khu nghiên cứu
của Mexico là một kinh nghiệm quí giá. Chính phủ Mexico đã thành cơng trong việc thu hút doanh nghiệp
đầu tư nghiên cứu và phát triển thông qua chính sách thuế suất ưu đãi.
Xây dựng các hệ sinh thái
Chen et al., (2013) cho rằng phát triển khu khoa học công nghệ cần phải xây dựng khu thân thiện với môi

trường. Các khu này cần phải tạo được các khoản xanh nhất định và đạt các tiêu chuẩn về bảo vệ mơi
trường của địa phương. Ngồi ra, các nhà quản lý khu còn phải chủ động cải thiện mơi trường và xây dựng
các giải pháp thích hợp giúp làm sạch và khuyến khích sử dụng nguồn năng lượng tái tạo.
Vốn
Start-up

Cơ sở vật chất xanh

Công ty vừa và nhỏ

Năng lượng thay thế

Trung tâm nghiên cứu và
phát triển
Tổ chức hỗ trợ tài chính

Nhóm đối tƣợng

Thiết lập sinh thái

Tiêu chuẩn ISO 14001
EPA

Quản trị
Hình thức sở hữu
Tầm nhìn và nhiệm vụ

Các bên liên quan
Quản lý khu cơng nghệ
Tổ chức R&D

Cơ quan chính quyền phát
triển vùng
Cơ quan chính quyền phát
triển quốc gia

Quản lý

Cấu trúc chi phí và mơ
hình lợi nhuận
Phân tích rủi ro và kế
hoạch giảm tránh

Tập trung công nghệ

Ban điều hành và hội đồng
cố vấn

Cơng ty tư nhân
Chung
(Mọi ngành)

Chun mơn
(Vài ngành)

Phịng quản lý kế hoạch và
dự án
Chính sách khu khoa học
cơng nghệ

Hình 1. Mơ hình quản trị hiệu quả

Nguồn: Tác giả đã sửa đổi bổ sung dựa trên nghiên cứu của Wasim (2014)

Ví dụ khu khoa học cơng nghệ tại Hong Kong là một ví dụ điển hình về mơ hình khu cơng nghệ xanh.
Ngay từ ban đầu khu này có chính sách ủng hộ xây dựng các tòa nhà theo hướng tận dụng năng lượng mặt
trời và tòa nhà phủ xanh. Cụ thể các mái của tòa nhà trong khu đều được phủ thảm thực vật xanh với sự
kết hợp hài hòa năng lượng tái tạo từ nguồn điện lượng mặt trời, hệ thống tưới có điều khiển, hệ cảm nhiệt
giúp điều hịa tưới tiêu, cấp thốt nước và làm cơng tác dự báo thời tiết, vấn đề xử lý chất thải có khả năng
tái tạo và khơng thể tái tạo. Ngồi ra, khu cơng nghệ này cũng ban hành các điều khoản về làm sạch khơng
khí và giảm thiểu khí thải carbon, cam kết kiểm soát chặt chẽ chất lượng khơng khí trong tịa nhà, giảm
thiểu ơ nhiễm khơng khí, có những giải pháp sử dụng năng lượng hiểu quả. Ban quản lý khu cũng cho
triển khai việc giám sát kiểm toán nghiêm ngặt việc quản lý sử dụng nguồn năng lượng. Cuối cùng, với
những giải pháp đồng bộ khu công nghiệp này đã thành công trong việc thực hiện kế hoạch đầu tư cơ sở
vật chất theo hướng tái tạo và khuyến khích sử dụng xe đạp trong nội khu thay vì dùng xe ơ tơ (Hong
Kong Science and Technology Parks, 2012). Thực tế, nhiều khu công nghệ đã triển khai áp dụng xây dựng
326


hệ sinh thái nội dung đạt tiêu chuẩn ISO 14001 (chứng chỉ quốc tế liên quan đến quản lý môi trường).
Hình 1 bên dưới tóm tắt những tiêu chí liên quan đến việc xây dựng và hồn thiện chính sách quản trị cho
khu khoa học công nghệ.

3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Vai trị của QTSC
Cơng viên phần mềm Quang Trung (QTSC) được thành lập vào năm 2001 trong bối cảnh chủ trương của
Nhà nước coi việc xây dựng nền kinh tế tri thức là con đường đi tắt, đón đầu đưa Việt Nam sớm trở thành
nước công nghiệp hiện đại. QTSC được chọn là 1 trong 12 chương trình trọng điểm của TPHCM giai đoạn
2001-2005. QTSC ra đời vào thời điểm Việt Nam chưa ban hành luật CNTT (luật ban hành năm 2006) và
các văn bản hướng dẫn thi hành luật. Trong những năm đầu hình thành, các hoạt động phát triển thu hút
đầu tư của QTSC chủ yếu dựa vào tầm nhìn, tâm huyết của các lãnh đạo thành phố và nhiệt huyết của bộ
máy vận hành.

Vai trò của QTSC khi thành lập nhằm mục tiêu đảm bảo các nhiệm vụ sau:
– Cung ứng cơ sở hạ tầng và dịch vụ đạt tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai
trong việc nghiên cứu, phát triển, sản xuất và xuất khẩu phần mềm.
– Nuôi dưỡng và hình thành các cơng ty phần mềm mới, đào tạo các chuyên viên phần mềm và nhà
quản lý doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước.
– Cung ứng mơi trường làm việc, sinh hoạt trình độ cao và có khả năng thích nghi cho các chun
viên phần mềm.
– Khuyến khích đầu tư của Việt kiều bằng nhiều chính sách ưu đãi. Khai thác sự hợp tác giữa nhà
nước – tư nhân, và hợp tác quốc tế.
Trong quá trình phát triển, QTSC đã hồn thành cơ bản các vai trị, mục tiêu của mình. Từ năm 2015,
QTSC bắt đầu quá trình chuyển đổi để đảm đương các nhiệm vụ lớn hơn nhằm đáp ứng các mục tiêu phát
triển kinh tế của thành phố cũng như thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp phần mềm của cả nước nhất là
trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên tồn cầu.
Với tốc độ và quy mơ hiện nay, QTSC đang thể hiện vai trò là CVPM trọng điểm quốc gia, được chính
phủ đặt nhiều kỳ vọng trở thành ngọn cờ đầu dẫn dắt, hỗ trợ các địa phương có nhu cầu và là chỉ dẫn địa
lý cho ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam trên bản đồ phần mềm thế giới. QTSC đang tiến tới triển
khai mô hình chuỗi CVPM đầu tiên tại Việt Nam, có khả năng cạnh tranh với các CVPM tại khu vực
Đông Nam Á và Châu Á trong lĩnh vực công nghiệp phần mềm.

3.2. Thực trạng
3.2.1. Đánh giá chung
Trên địa bàn thành phố hiện nay có 2 khu đó là QTSC và khu công nghệ phần mềm Đại học quốc gia
TP.HCM (ITP). Được thành lập từ rất sớm trên địa bàn, trải qua nhiều thăng trầm, trong vài năm gần đây
ITP đã có những bước chuyển đáng kể khi tập trung vào hoạt động phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng
tạo. ITP đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ khởi nghiệp trong Đại học quốc gia TP.HCM và cho cộng
đồng khởi nghiệp tại thành phố và một số địa phương, khu vực một cách hệ thống với các chương trình
tương ứng các bước phát triển của khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, từ việc hỗ trợ ý tưởng đến việc hình
thành các nhóm khởi nghiệp.

327



Bảng 1. Các chỉ số chung của hệ sinh thái khởi nghiệp tại ITP

Nội dung

2017

1. Số cơng ty/ nhóm dự án khởi nghiệp

So với cùng kỳ (%)

2018

41

57

139

150

300

200

78

129


165

3. Tổng số người tham gia học tập và làm việc thường xuyên

8.320

9.753

117

3.1. Số lượng sinh viên (người)

5.778

7.586

131

20.000 350.000

1.750

Trong đó:
1.1. Vốn hóa thị trường (tỷ đồng)
2. Số hội nghị, hội thảo

4. Sinh viên tiếp cận cuộc thi khởi nghiệp CiC

Nguồn: Tác giả tổng hợp


Mặc dù tên gọi vẫn là ITP nhưng thật sự ITP khơng cịn là một khu cơng nghệ phần mềm giống QTSC
như trước đây mà đã có sự chuyển đổi về nội dung, hình thức và mục tiêu hoạt động của ITP nhằm đáp
ứng nhu cầu, nhiệm vụ phát triển của Đại học quốc gia TP.HCM và cộng đồng khởi nghiệp sáng tạo trên
địa bàn thành phố. Chính vì vậy, vai trị phát triển ngành cơng nghiệp phần mềm trên địa bàn thành phố
đang tập trung chủ yếu vào QTSC – là nơi thu hút nhiều doanh nghiệp phần mềm lớn và nhiều nhất trong
cả nước.
Trên phạm vi cả nước tại địa phương lớn như Đà Nẵng, Hà Nội, Hải Phòng, Cần Thơ và Thừa Thiên-Huế
đều có khu CVPM hoặc khu CNTT nhưng hầu như đều không đạt hiệu quả cao, một số khu đang chuyển
hướng hoặc định hướng lại cho phù hợp với xu thế phát triển.
Đến thời điểm hiện nay, Bộ TT&TT chỉ công nhận 3 khu đang hoạt động là QTSC (công nhận đầu tiên
vào năm 2009), khu CVPM Đà Nẵng (năm 2011), khu CNTT Cầu Giấy (năm 2013) và một khu đang
trong quá trình đầu tư xây dựng hạ tầng là khu Công viên công nghệ phần mềm Hà Nội (năm 2016). Theo
đánh giá của Bộ TT&TT, QTSC không chỉ là khu CNTT được thành lập đầu tiên trong cả nước mà còn là
khu được đánh giá hoạt động thành công nhất ở Việt Nam, thể hiện được vai trị, vị trí dẫn dắt các địa
phương nghiên cứu, học tập kinh nghiệm để phát triển ngành CNTT cả nước.
Bảng 2. So sánh quy mô giữa QTSC và các khu CNTT trong cả nước
2016

2017

2018

Đơn vị
tính

Cả nƣớc

QTSC

Cả nƣớc


QTSC

Cả nƣớc

QTSC

Khu

03

01

03

01

03

01

Tổng quỹ đất

m2

415.015

430.000

485.015


430.000

485.015

430.000

Tổng diện tích văn phịng
làm việc

m2

375.079

204.136

396.989

204.136

415.864

204.136

Tổng số các doanh nghiệp
hoạt động trong khu

Doanh
nghiệp


560

140

650

150

640

160

Tổng số nhân lực

Người

26.065

9.935

30.965

10.035

Chỉ tiêu
Số lượng các khu
CNTT/CVPM

328


29.765

10.235


Dựa vào bảng trên ta thấy trong năm 2018, QTSC chiếm khoảng 88% tổng diện tích quỹ đất các khu của
cả nước; chiếm 49% tổng diện tích văn phịng làm việc, 34% tổng số nhân lực và 25% số lượng cho các
doanh nghiệp trong các khu. Các doanh nghiệp CNTT hoạt động tại QTSC đa phần là doanh nghiệp nước
ngoài và tư nhân, có quy mơ lớn hơn nhiều địa phương khác. Hiện nay, QTSC có 5 doanh nghiệp có quy
mơ trên 1.000 người làm việc và đang có xu hướng phát triển trong những năm sắp tới. Qua các số liệu
trên cho thấy dư địa phát triển của QTSC cịn rất lớn trong tương lai.
Trước đó, trong năm 2017, theo đánh giá của tập đoàn tư vấn quốc tế KPMG (một trong 4 hãng tư vấn lớn
nhất toàn cầu) thì QTSC xếp thứ 3 trên tổng số 8 khu cơng nghệ nổi bật tại châu Á có sự hỗ trợ của nhà
nước khi đánh giá về các yếu tố liên quan đến hiệu quả hoạt động của khu như tỷ lệ lấp đầy, chính sách
đãi ngộ, hạ tầng viễn thông; đứng thứ 4 khi đánh giá về các yếu tố liên quan đến quy mô, hiệu quả hoạt
động của các doanh nghiệp trong khu, như mức độ thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI), quy mô DN FDI,
tay nghề của nguồn nhân lực… Nhìn tổng thể, QTSC nổi bật lên trong số các khu công nghệ được đánh
giá như là một khu cơng nghệ với chính sách ưu đãi vượt trội, thu hút đa dạng nhà đầu tư từ các ngành
nghề khác nhau và đặc biệt là các doanh nghiệp trong khu đều phát triển bền vững và ngày một lớn mạnh.
Hình 2 mơ tả định vị của QTSC trong khu vực.
Kết quả này cũng cho thấy mức độ tương đồng với thực tế vận hành các khu công viên khoa học trên thế
giới như nghiên cứu của Parry (2014). Việc xây dựng cơ chế chính sách quản lý khu là rất quan trọng. Sự
thành công của QTSC cũng cho thấy dấu ấn của đội ngũ quản lý chuyên nghiệp được đào tạo bài bản và
có năng lực quản trị tốt. Có khả năng tiếp thu và áp dụng thành công những kinh nghiệm quản lý học hỏi
được từ thực tế vận hành của các khu công viên ở nước ngồi. Bên cạnh đó, QTSC cũng đã nhờ các cơng
ty tư vấn có uy tín trên thế giới tham gia tư vấn đánh giá mức độ thành công của QTSC.

Hình 2. Định vị QTSC với các khu cơng nghệ nổi bật tại châu Á

329



3.2.2. Đánh giá hiệu quả trên cơ sở một số chỉ tiêu
Theo các mơ hình lý thuyết về kiểm sốt quản trị, đánh giá hiệu quả tiếp thị địa phương cùng với các tiêu
chí mà tổ chức UNIDO5 đưa ra nhằm đánh giá sự thành cơng của một mơ hình khu cơng nghệ, đặc biệt là
các mơ hình có sự tham gia đầu tư, quản lý của nhà nước thì phương pháp đánh giá hiệu quả thành cơng
có sự khác biệt tương đối so với khu vực tư.
Chính vì vậy, trong phạm vi bài viết này tập trung vào một số chỉ tiêu (i) tỷ lệ diện tích lấp đầy, (ii) hiệu
quả nguồn vốn đầu tư, (iii) hiệu suất sử dụng đất, (iv) năng suất lao động, (v) hỗ trợ và thu hút doanh
nghiệp.
3.2.2.1. Tỷ lệ diện tích lấp đầy
Có thể nói tỷ lệ lấp đầy của các khu CNTT, CVPM trên cả nước đạt trung bình trên 95% cao hơn so với
các khu cơng nghiệp. Tính đến tháng 6/2018, cả nước có 325 khu cơng nghiệp được thành lập với tổng
diện tích đất tự nhiên là khoảng 95.000 ha trong đó có 231 khu đi vào hoạt động và 94 khu đang trong
giai đoạn đền bù, giải tỏa mặt bằng. Tỷ lệ lấp đầy của các khu công nghiệp đạt 53%, riêng các khu đi
vào hoạt động thì tỷ lệ lấp đầy đạt 73%.6 Trong khi đó tỷ lệ lấp đầy của QTSC đạt 88%. Hình 3 mơ tả
diện tích lắp đầy.

Hình 3. Tỷ lệ lấp đầy diện tích đất tại QTSC

Từ năm 2015 đến nay, QTSC chủ trương không mời gọi thêm các nhà đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật mà tập
trung rà soát, chấn chỉnh các nhà đầu tư không thực hiện đúng thủ tục và triển khai thu hồi các lô đất của
những nhà đầu tư không đủ năng lực hoạt động. Ưu tiên dành quỹ đất còn lại để phục vụ cho các hoạt
động sản xuất phần mềm và nghiên cứu phát triển (R&D). Ngoài ra, nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ
cũng như đảm bảo các tiêu chuẩn chung của nội khu, QTSC từng bước nâng cao tiêu chí để lựa chọn nhà
đầu tư. Vì vậy, số lượng nhà đầu tư tại QTSC khơng tăng mà chỉ giảm đi. Hiện nay, diện tích các nhà đầu
tư thuê đất đạt trên 88% tổng diện tích đất giao, cho th tại QTSC. Hình 4 phân loại nhà đầu tư.

5
6


United Nations Industrial Development Organization (Tổ chức phát triển cơng nghiệp Liên hiệp quốc).
Báo cáo tình hình các khu công nghiệp, khu kinh tế của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2018.

330


Kết quả này cũng cho thấy QTSC có sự lựa chọn công nghệ đầu tư đúng đắn phù hợp với trình độ và năng
lực phát triển cơng nghệ của Việt Nam trong thời gian qua. Kết quả này củng tương đồng với nghiên cứu
của Wessner (2009).

Hình 4. Phân loại các nhà đầu tư hoạt động trong QTSC

3.2.2.2. Hiệu quả nguồn vốn đầu tư
Đối với 3 khu CNTT đang hoạt động trong cả nước đều được đầu tư bằng nguồn ngân sách nhà nước.
Tổng đầu tư ngân sách nhà nước từ ngày đầu thành lập cho đến nay của QTSC là 200 tỷ đồng, khu CNTT
Cầu Giấy là 31,4 tỷ đồng và CVPM Đà Nẵng là 162 tỷ đồng. Tuy nhiên, tổng số tiền nộp ngân sách nhà
nước của các đơn vị quản lý khu đã lớn hơn rất nhiều so với tổng số ngân sách đầu tư. Chỉ tính riêng trong
năm 2018, QTSC đã nộp 30 tỷ/200 tỷ đồng, tương đương tỷ lệ thu ngân sách/vốn đầu tư là 15%; CVPM
Đà Nẵng là 14,36 tỷ/162 tỷ, tương đương 9%; và khu CNTT Cầu Giấy là 2 tỷ/31 tỷ tương đương 7%.
Trong khi đó tỷ lệ này đối với các khu cơng nghiệp là 4% đến 5%.7
Bên cạnh đó, với 200 tỷ đồng ngân sách đầu tư thì QTSC đã thu hút 9.800 tỷ đồng từ các nguốn vốn tư
nhân và nước ngoài đầu tư (tương đương 1 đồng ngân đồng bỏ ra thu hút được 49 đồng). Đây là tỷ lệ rất
cao tại các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Tỷ lệ này còn tiếp tục tăng trong tương lai khi mà dư
địa về đất đai, về văn phòng làm việc của QTSC vẫn còn chưa đạt đến mức khai thác tối đa. Hình 5 tình
hình thu hút nguồn vốn.
Kết quả này cũng tương đồng với sự trợ giúp của chính phủ Mexico cho phát triển khu cơng viên nghiên
cứu theo các học giả (Parry, 2014; Wessner, 2009).

7


Theo Báo cáo triển vọng bất động sản khu công nghiệp năm 2017.

331


Hình 5. Tình hình thu hút vốn đầu tư tại QTSC

Mặt khác, nếu tính thu ngân sách của cả tồn khu QTSC chỉ trong năm 2018 ước đạt gần 870 tỷ đồng của
các doanh nghiệp phần mềm đóng góp. Dự báo đến năm 2020, tổng thu ngân sách hàng năm ước đạt gần
1.000 tỷ đồng. Nguồn thu này chủ yếu đến từ các khoản phải nộp như thuế thu nhập cá nhân, thuế nhà
thầu và các khoản phí; thuế và tiền thuê đất của các nhà đầu tư. Nếu dành tồn bộ diện tích 43 ha đất này
của QTSC cho hoạt động kinh doanh bất động sản thì chắc chắn nguồn thu ngân sách sẽ rất nhỏ và chỉ thu
một lần (bán các bất động sản) chứ khơng thể có nguồn thu bền vững như hiện nay. Hình 6 tình hình nộp
ngân sách.

Hình 6. Nộp ngân sách của các doanh nghiệp trong QTSC

Tổng số tiền thuế và các khoản phải nộp cho ngân sách nhà nước tích lũy của các doanh nghiệp nội khu
qua 15 năm (2001 – 2015) ước đạt 1.953,2 tỷ đồng. Giai đoạn trong năm 2011-2015 đạt 1.560 tỷ nhưng
chỉ tính riêng năm 2018 đạt khoảng 870 tỷ đồng. Điều này cho thấy trong những năm đầu thành lập,
QTSC hầu như khơng đóng góp gì cho ngân sách thành phố và ngay cả trong 15 năm đầu tiên thì tổng số
thu ngân sách cũng cịn rất nhỏ. Tuy nhiên, từ cuối năm 2015 đến nay tốc độ tăng trưởng nộp ngân sách
rất tốt. Nguyên nhân chính là số doanh nghiệp có quy mơ lớn hoạt động tại QTSC tăng, quy mô mở rộng
nhân lực của các doanh nghiệp nhỏ và xu hướng tập trung vào các phân khúc có giá trị gia tăng cao của
các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ mới như cung cấp dịch vụ điện tốn đám mây (cloud), AIoT
(trí tuệ nhân tạo và internet vạn vật), công nghệ chuỗi khối (blockchain), dữ liệu lớn (big data) …
3.2.2.3. Hiệu suất sử dụng đất
Trong năm 2018, tổng doanh thu của các doanh nghiệp hoạt động trong QTSC đạt 432 triệu USD trên
tổng diện tích đất 43 ha, tương đương khoảng 10 triệu USD/ha/năm. QTSC vẫn còn rất nhiều dư địa để

332


tăng doanh thu bình quân trên 1 ha đất trong tương lai gần khi mà các cơng trình, tịa nhà mới tiếp tục đưa
vào hoạt động trong những năm sắp tới.
CVPM Đà Nẵng đạt 58 triệu USD trên trên diện tích 1,08 ha, tương đương khoảng 55 triệu USD/ha/năm.
Số liệu này cho thấy hiệu quả sử dụng đất của các CVPM rất cao so với loại hình khu cơng nghiệp, khu
kinh tế với doanh thu trung bình khoảng 1 triệu USD/ha/năm (nếu khơng tính diện tích của Samsung thì
doanh thu trung bình là khoảng 0,5 triệu USD/ha/năm).
3.2.2.4. Năng suất lao động
Về cơ cấu lao động trong các CVPM chủ yếu là lao động chất lượng cao trong lĩnh vực phần mềm và nội
dung số. Năng suất lao động cao hơn nhiều lần so với trung bình của cả nước. Năm 2018, CVPM Đà Nẵng
có năng suất lao động trung bình đạt khoảng 540 triệu đồng/năm và QTSC đạt khoảng 1,01 tỷ đồng/năm
so với 102 triệu đồng/năm năng suất lao động trung bình của cả nước.8 Theo khảo sát gần đây của QTSC
thì 80% lực lượng lao động tại QTSC có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên. Cơ cấu này cao hơn rất
nhiều lần cơ cấu lao động của các khu khác kể cả các khu công nghệ cao trong cả nước.
Ngồi ra, thu nhập bình qn lao động cũng cao hơn nhiều lần so với cả nước. Trong năm 2018, thu nhập
bình quân đầu người của QTSC đạt 20 triệu đồng/người/tháng, gấp gần 4 lần so với bình quân đầu người
của Việt Nam (hơn 5 triệu đồng/tháng) và CVPM Đà Nẵng đạt khoảng 16 triệu đồng, gấp gần 3 lần so với
trung bình cả nước.
3.2.2.5. Hỗ trợ doanh nghiệp và thu hút doanh nghiệp
Một trong những sứ mạng của QTSC khác với những khu CNTT khác chính là dịch vụ hỗ trợ 1 cửa miễn
phí mà QTSC đang cung cấp cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài khi mà bối
cảnh các thủ tục hành chính là một trong những rào cản đáng kể khi triển khai các hoạt động kinh doanh
tại Việt Nam. Với 1 đội ngũ chuyên nghiệp cung cấp hơn 25 loại hình dịch vụ khác nhau từ việc hỗ trợ
thành lập doanh nghiệp đến xin visa, giấy phép lao động,… QTSC đã phát huy tích cực hoạt động này và
là một những giải pháp giữ chân các doanh nghiệp phần mềm hoạt động lâu dài, ổn định tại QTSC. Hình 7
mơ các dịch vụ hỗ trợ.

Hình 7. Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp trong QTSC

8

Số liệu Tổng cục thống kê năm 2018.

333


Song song đó, do đặc thù là hoạt động trong ngành thâm dụng lao động chất xám cao nên việc cập nhật
kiến thức, đào tạo bổ sung các công nghệ mới là một hoạt động thường xuyên được diễn ra liên tục. Với
vai trị của mình, QTSC tập tổ chức các khóa học ngắn hạn để giúp cộng đồng tiếp cận nhanh thông tin về
các hoạt động công nghệ, đặc biệt là bối cảnh cuộc CMCN 4.0. Đây là những khóa đào tạo chung mà
QTSC chủ trì tổ chức cho các doanh nghiệp với mức độ trung bình 2 tuần/khóa. Tính đến nay, số lượt
người tham gia các khóa này đạt 11.903 lượt người (chưa tính các khóa học do doanh nghiệp chủ động tổ
chức). Có thể nói, mơi trường làm việc tại QTSC là một mơi trường mang tính sáng tạo, học thuật cao phù
hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế tri thức. Hình 8 cho thấy việc triển khai đào tạo ngắn hạn.

Hình 8. các khóa đào tạo ngắn hạn tại QTSC

Đối với hoạt động thu hút doanh nghiệp, trong 5 năm đầu thành lập, QTSC chỉ có các doanh nghiệp nhỏ
và siêu nhỏ, số lượng này đã tăng gấp đôi, từ 30 lên 68 doanh nghiệp vào năm 2005. Đến năm 2010,
QTSC có 101 doanh nghiệp tuy nhiên các tên tuổi lớn, các tập đoàn đa quốc gia vẫn chưa xuất hiện và
chất lượng của doanh nghiệp hoạt động chưa thật sự tạo được dấu ấn quốc tế.
Đến năm 2015, QTSC có 120 doanh nghiệp. Trong bối cảnh mới này, bên cạnh các mục tiêu thu hút và
phát triển các doanh nghiệp gia công, xuất khẩu phần mềm, QTSC dần định hướng và thúc đẩy cộng đồng
tiến hành những nghiên cứu, thử nghiệm để tạo ra những sản phẩm, dịch vụ và giải pháp hướng đến phục
vụ thị trường nội địa vốn vẫn còn nhiều cơ hội phát triển nhằm tăng sự đóng góp cho nền kinh tế xã hội.
Bên cạnh đó, với lợi thế là nơi tập hợp cộng đồng CNTT đông nhất cả nước, là nơi cung cấp hơn 250 sản
phẩm, dịch vụ và giải pháp thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau được xuất khẩu trên 20 quốc gia, mục tiêu của
QTSC từ 2015 đến nay và những năm tới là trở thành một địa điểm nghiên cứu, ứng dụng, cung cấp và
chuyển giao các giải pháp công nghệ (tech hub) cho cả nước và khu vực Đông Nam Á. Những thay đổi

này đang góp phần khẳng định vị thế của QTSC trong sự phát triển của ngành CNTT trong nước và nâng
cao hình ảnh thương hiệu đối với cộng đồng quốc tế. Hình 9 thống kê số doanh nghiệp đầu tư tại QTSC
qua các năm.

334


Hình 9. Tình hình thu hút doanh nghiệp hoạt động tại QTSC

Hiện nay, QTSC có 1 doanh nghiệp có quy mô trên 2.000 chuyên viên, 4 doanh nghiệp trên 1.000 người;
6 doanh nghiệp có chứng chỉ CMMI mức độ 5 (mức độ cao nhất của toàn cầu về phát triển phần mềm); 5
doanh nghiệp nằm trong bảng xếp hạng Top 100 tồn cầu và 9 phịng labs nghiên cứu các sản phẩm cơng
nghệ mới.
Kết quả này cho QTSC đã có những bước đi rất bài bản trong việc chọn lựa đối tượng mục tiêu như trong
nghiên cứu của Sofouli & Vonortas (2007) tại khu công nghệ và khoa học Attica, Hy Lạp . Đồng thời
cũng giống như các nghiên khác liên quan đến việc quan tâm đến các bên có liên quan gồm trường đại
học, doanh nghiệp và ban quản lý khu đại diện cho quản lý nhà nước đã được đề cập trong nghiên cứu của
Parry (2014).

4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY KHU CNTT PHÁT TRIỂN:
Để phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế xã hội trong cuộc CMCN 4.0 cũng như tiếp cận những công
nghệ tiên tiến, mới nhất trên thế giới. Các chính sách thu hút đầu tư, các điều kiện hỗ trợ các khu CNTT
hay các khu CVPM phải được điều chỉnh phù hợp để gia tăng khả năng cạnh tranh, thu hút nguồn lực để
góp phần tăng năng suất lao động và hiệu quả quản trị, đẩy nhanh tốc độ đổi mới sáng tạo trong tất cả các
lĩnh vực kinh tế xã hội của đất nước. Vì vậy, để thúc đẩy các khu CNTT, CVPM nói chung cần tập trung
vào một số các giải pháp sau:
Thứ nhất, phải xem các Khu CNTT, CVPM là nơi thúc đẩy, là “bệ đỡ” cho các doanh nghiệp cơng nghệ.
Vì vậy, cần ban hành chính sách tác động mạnh mẽ để khuyến khích phát triển doanh nghiệp phần mềm,
CNTT, khoa học công nghệ được ưu tiên thành lập nhanh chóng với số lượng lớn làm nịng cốt cho kinh
tế tri thức và dịch vụ của địa phương.

Thứ hai, phát triển Khu CNTT, CVPM là định hướng chiến lược, tạo hạ tầng để thúc đẩy phát triển công
nghiệp CNTT. Đây là hướng đi phù hợp để góp phần đưa Việt Nam tiến nhanh trong cuộc CMCN 4.0.
Tuy nhiên, sự ưu tiên chỉ mới dừng lại ở một số chủ trương, chính sách, thiếu nguồn lực đầu tư phát
triển. Chính vì vậy, nếu Nhà nước bố trí nguồn lực đầu tư phát triển, cùng với sự đồng hành, quyết tâm
của chính quyền địa phương thì có thể đạt nhiều kết quả hơn nữa, tương xứng với tiềm năng và xu thế
phát triển.
Thứ ba, trong thời gian qua, Chính phủ triển khai rất nhiều hoạt động về cuộc CMCN 4.0 và xem đây như
là một trong giải pháp quan trọng để thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học, công nghệ.
335


Tuy nhiên, cần có cơ chế để các khu CNTT, CVPM tự do sáng tạo, tạo môi trường cho các hoạt động thử
nghiệm công nghệ. Cơ chế này phải nhanh và thật sự thơng thống để có thể giúp doanh nghiệp, nhất là
doanh nghiệp Việt có điều kiện thúc đẩy hồn thiện các sản phẩm mẫu. Chính vì vậy cần phải ban hành
các văn bản hướng dẫn thực hiện chi tiết trong việc thử nghiệm các sản phẩm nghiên cứu để làm sao việc
triển khai ứng dụng được diễn ra nhanh chóng thuận lợi. Nếu chưa triển khai phạm vi rộng thì cho phép
các khu CNTT, các CVPM được ưu tiên thử nghiệm theo cơ chế 1 cửa.
Thứ tư, tiếp tục tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp công nghệ và các trường đại học,
cao đẳng trên địa bàn. Một trong những thách thức hiện nay là nhu cầu nhân lực cho ngành CNTT, đặc
biệt là ngành phần mềm ln rất cao chính vì vậy cần phải có cơ chế phối hợp, đặt hàng các cơ sở đào tạo
để đáp ứng nhu cầu nhân lực cũng như dự báo xu hướng phát triển ngành công nghệ mới như AIoT, dữ
liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây (Cloud), …Ngồi ra các doanh nghiệp cơng nghệ tham gia đóng
góp ý kiến vào các chương trình thực tập, kiến tập, đào tạo bồi dưỡng các khóa ngắn hạn đáp ứng nhu cầu
nguồn nhân lực trong CMCN 4.0.
Thứ năm, điều chỉnh, bổ sung một số điều trong Luật CNTT cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành
luật cho phù hợp với các điều kiện, bối cảnh cuộc CMCN 4.0 nhằm theo kịp và đón đầu xu hướng phát
triển cơng nghệ trên thế giới.
Ngồi những giải pháp tổng thể nói trên, là một CVPM hàng đầu tại Việt Nam, QTSC cũng cần có những
điều chỉnh chính sách phù hợp nhằm bắt kịp nhịp độ phát triển chung trong dòng chảy cơng nghệ, cụ thể:
Một là, chính quyền thành phố cần bổ sung quy hoạch các quỹ đất sạch có vị trí thuận lợi để QTSC có thể

nhân rộng các mơ hình hiện hữu nhằm phát huy hiệu quả, thương hiệu và các lợi thế để thu hút thêm các
doanh nghiệp cơng nghệ trong và ngồi nước đến hoạt động.
Hai là, có cơ chế thí điểm mở rộng QTSC tại một số địa điểm trong cả nước trên cơ sở tận dụng các ưu thế
của địa phương nhằm tối ưu hóa hiệu quả đầu tư, kinh nghiệm quản lý của QTSC để từ đó thúc đẩy phát
triển ngành CNTT cho các địa phương.
Ba là, xây dựng cơ chế tài chính phù hợp, tạo các điều kiện thuận lợi để QTSC có thể chủ động trong các
hoạt động về đầu tư cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đầu tư trong việc kiến tạo các sản phẩm, dịch vụ công nghệ
phù hợp với bối cảnh cuộc CMCN 4.0 trên cơ sở QTSC được chủ động sử dụng lợi nhuận kiếm được thay
vì phải sử dụng nguồn ngân sách nhà nước đầu tư.
Bốn là, về chiến lược lâu dài việc chọn lựa đối tượng nên mở rộng thêm việc thu hút các doanh nghiệp
công nghệ khác như công nghệ sinh học, công nghệ về sự sống, cơng nghệ trí tuệ nhân tạo… để phát triển
mở thay đổi khu CVPM thành khu công viên khoa học cơng nghệ. Trong đó ngồi các doanh nghiệp, cộng
đồng khởi nghiệp, cịn các Viện và Trường có năng lực nghiên cứu hàng đầu của Việt Nam tham gia cùng.

5. KẾT LUẬN
Qua q trình nghiên cứu, phân tích, đánh giá về các khu CNTT, CVPM trong cả nước cho thấy vai trị
quan trọng của mơ hình này trong việc phát triển ngành CNTT nói riêng và kinh tế địa phương nói chung
trong bối cảnh xu hướng cơng nghệ đang có những thay đổi mạnh mẽ. Có thể các mơ hình này đã được
các nước tiên tiến trên thế giới triển khai thực hiện từ khá lâu. Theo xu hướng chung, lĩnh vực CNTT trên
thế giới sẽ tiếp tục là một trụ cột của nền kinh tế tri thức. Vì vậy, mơ hình khu CNTT, CVPM là một trong
những giải pháp quan trọng giúp chúng ta thu hút và hình thành nhanh một số lượng lớn doanh nghiệp
CNTT làm nòng cốt cho nền kinh tế tri thức trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 tiến tới bắt kịp với các tiến bộ
công nghệ của thế giới.

336


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1]


AFG-ASFFI (2001) Recommendations on Corporate Governance, pp.7-9.

[2]

Albahari, A., Catalano, G., & Landoni, P. (2013). Evaluation of national science park systems: a
theoretical framework and its application to the Italian and Spanish systems. Technology Analysis
and Strategic Management, 25(5), 599–614. />
[3]

Bộ Thông tin và Truyền thông (2018) Báo cáo Sơ kết 5 năm thực hiện Nghị định 154/2013/NĐ-CP
ngày 08/11/2013 của Chính phủ quy định về khu CNTT tập trung và 04 năm triển khai Quy hoạch
tổng thể phát triển khu CNTT tập trung đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025, Trang 2.

[4]

Chen, C. P., Chien, C. F., & Lai, C. T. (2013). Cluster policies and industry development in the
Hsinchu Science Park: A retrospective review after 30 years. Innovation: Management, Policy and
Practice, 15(4), 416–436. />
[5]

Hobbs, K. G., Link, A. N., & Scott, J. T. (2017). Science and technology parks: an annotated and
analytical literature review. Journal of Technology Transfer, 42(4), 957–976.
/>
[6]

London Stock Exchange, Corporate Governance, A practical guide, pp. 56-61.

[7]

OECD, Guidelines on Corporate Governance of State-owned Enterprises, pp.12-14.


[8]

Parry, M. (2014). The Surrey Research Park: A Case Study of Strategic Planning for Economic
Development. In In: Oh DS., Phillips F. (eds) Technopolis. Springer, London (pp. 315–346).

[9]

QTSC (2015) Báo cáo tổng kết 15 năm hình thành và phát triển (2001-2015) và định hướng giai
đoạn 2016-2020 của CVPM Quang Trung, Phụ lục 02

[10] Sofouli, E., & Vonortas, N. S. (2007). S&T Parks and business incubators in middle-sized
countries: The case of Greece. Journal of Technology Transfer, 32(5), 525–544.
/>[11] UNIDO (2012), Europe and Central Asia on industrial parks, as a tool to foster local industrial
development.
[12] UNIDO (2014), Fostering Inclusive and Sustainable local industrial development in Eupore and
Central Asia, the second regional conference on the road of the new generation of science, industrial
and technology parks.
[13] Vaidyanathan, G. (2008). Technology parks in a developing country: The case of India. Journal of
Technology Transfer, 33(3), 285–299. />[14] Wasim, M. U. (2014). Factor for Science Park Planning. World Technopolis Review, 3(2), 97–108.
[15] Wessner, C. W. (2009). Understanding Research, Science and Technology Parks: Global Best
Practices (Report of a Symposium), National Research Council of The National Academies.
National Academies Press, Washington, DC.
[16] Yun, S., & Lee, J. (2013). An innovation network analysis of science clusters in South Korea and
Taiwan.
Asian
Journal
of
Technology
Innovation,

21(2),
277–289.
/>[17] Zhou, Y. (2005). The making of an innovative region from a centrally planned economy:
Institutional evolution in Zhongguancun Science Park in Beijing. Environment and Planning A,
37(6), 1113–1134. />337



×