Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

TIỂU LUẬN phân tích các nội dung cơ bản từ cách tiếp cận tôn giáo học về lễ vu lan của phật giáo và rút ra ý nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.79 KB, 20 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
PHÂN TÍCH CÁC NỘI DUNG CƠ BẢN TỪ CÁCH TIẾP
CẬN TÔN GIÁO HỌC VỀ LỄ VU LAN CỦA PHẬT GIÁO
VÀ RÚT RA Ý NGHĨA

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

- 2021


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
1.
Tôn giáo và lễ hội tôn giáo ở Việt Nam
1.1.
1.2.
1.3.
2.
2.1.
2.2.
2.3.

1
2


2

Tôn giáo ở Việt Nam
Đặc điểm của tôn giáo ở Việt Nam

2

Lễ hội tôn giáo ở Việt Nam
Lễ Vu Lan
Nguồn gốc
Nội dung cơ bản của lễ Vu Lan trong cách tiếp cận tôn giáo

8
10
10

học
Nghi lễ “Bông hồng cài áo” trong lễ Vu Lan

3.
Rút ra ý nghĩa của lễ Vu Lan
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

6

11
12
14
17

18


MỞ ĐẦU
Nước ta là một quốc gia đa tôn giáo. Ở Việt Nam có những tơn giáo nội
sinh (Phật giáo Hồ Hảo, Cao đài…) song hành cùng các tơn giáo du nhập từ
bên ngồi (Cơng giáo, Phật giáo, Tin lành…). Mặc dù được ví là “thư viện tơn
giáo” [2, tr.190], nhưng ở nước ta, các tôn giáo luôn luôn giữ mối đồn kết và
tơn trọng niềm tin tơn giáo lẫn nhau, đồng hành cùng dân tộc trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bên cạnh những giá trị đạo đức, các tơn giáo cịn có hệ thống những lễ hội
rất phong phú. Trước đây, việc tổ chức và tham gia lễ hội là công việc nội bộ
giáo hội và tín đồ trong đạo. Ngày nay, rất nhiều lễ hội tơn giáo khơng cịn là
chuyện riêng của từng tơn giáo mà nó có sức lan toả, ảnh hưởng lớn trong cộng
đồng xã hội như Lễ Giáng sinh, Phục sinh của đạo Công giáo, đạo Tin lành; Lễ
Phật đản, Vu lan của Phật giáo; Đại lễ Hội Yến Diêu Trì Cung của Hội thánh
Cao đài Tây Ninh…
Lễ Vu lan của Phật giáo là một lễ hội tôn giáo lớn ở nước ta, có ảnh
hưởng sâu sắc trong đời sống văn hóa tinh thần người việt. Lễ Vu lan trước đây
mang nặng màu sắc Phật giáo, chủ yếu nhằm mục đích tưởng niệm, ca ngợi đức
Mục Kiền Liên báo hiếu, giải thoát cho mẹ mình khỏi kiếp nạn ở địa ngục và
giáo dục, hướng dẫn phật tử thực hành báo hiếu với cha mẹ mình. Ngày nay, lễ
Vu lan dần trở thành lễ hội mang tính đại chúng. Đại lễ Vu Lan là dịp để nhiều
người tỏ lịng hiếu kính đối với ông bà, cha mẹ, tổ tiên. Do vậy, nghiên cứu vấn
đề “Phân tích các nội dung cơ bản từ cách tiếp cận tôn giáo học về Lễ Vu Lan
của Phật giáo và rút ra ý nghĩa” làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc.

3



NỘI DUNG
1. Tôn giáo và lễ hội tôn giáo ở Việt Nam
1.1. Tôn giáo ở Việt Nam
Tôn giáo, nếu hiểu một cách chặt chẽ, là một hiện tượng xã hội mang tính
lịch sử bao gồm hệ thống ý thức tơn giáo, tổ chức và các hoạt động tôn giáo. Hệ
thống ý thức tơn giáo là tồn bộ những quan niệm về lực lượng siêu nhiên, sự
tồn tại, sức mạnh huyền bí của họ đã được khái quát, được hệ thống hóa thành
hệ thống và những niềm tin, tình cảm tơn giáo được hình thành trên cơ sở những
quan niệm đó.
Như vậy, tôn giáo với tư cách là hiện tượng xã hội, xét chỉ về phương
diện ý thức tơn giáo, nó đã đạt đến trình độ cao hơn, trình độ khái qt hóa, trình
độ hệ thống hóa. Ngồi ra tơn giáo còn bao gồm hệ thống cơ cấu, cơ chế để duy
trì, điều hành mọi hoạt động của tơn giáo như: các tổ chức giáo hội, hệ thống các
nhà tu hành, các nhà quản lý trong các giáo hội, các cơ sở vật chất để duy trì,
thực hành, phát triển các hoạt động tơn giáo và những tín đồ tơn giáo, những
người tự nguyện tuân theo các giáo lý, giáo luật, giáo lễ, chịu sự quản lý, hướng
dẫn về mặt tín ngưỡng của giáo hội.
Xét về mặt lịch sử, tôn giáo với tư cách là tôn giáo (theo nghĩa chặt chẽ
của khái niệm) chỉ xuất hiện khi xã hội loài người đã phát triển đến trình độ nhất
định, tư duy của con người đã đạt đến trình độ có khả năng khái quát, chắt lọc để
hình thành các “biểu tượng” như: “đấng tối cao”; “đấng sáng thế”; “thế giới thần
linh”.., xã hội đã tạo ra điều kiện vật chất để một lớp người có thể thốt ly khỏi
q trình sản xuất, chuyên hành nghề tôn giáo, chăm lo việc xây dựng giáo lý,
giáo luật, giáo lễ, tổ chức giáo hội thực hiện việc hành lễ và truyền bá tôn giáo.
Về mặt pháp lý, để xác định một tôn giáo tồn tại chính thức trong xã hội,
người ta thường dựa vào các yếu tố: có một hệ thống giáo lý, giáo luật, giáo lễ;
có một hệ thống cơ cấu tổ chức bao gồm các nhà tu hành, các nhà quản lý các
giáo phận từ cơ sở trở lên (điều này các tôn giáo cụ thể có khác nhau), hệ thống
cơ sở vật chất để duy trì, thực hành các hoạt động tơn giáo như : nhà thờ của

Kitô giáo, chùa của Phật giáo, thánh đường của Hồi giáo, thánh thất của đạo Cao
4


Đài…, các tu viện, các trường đào tạo các nhà tu hành, có những tín đồ tự
nguyện tn theo giáo lý, giáo luật, giáo lễ, chụi sự quản lý, hướng dẫn về mặt
tín ngưỡng của giáo hội.
Việt Nam nằm ở vị trí giữa ngã ba của Đơng Nam Á, giáp biển Đông - là
nơi giao lưu của nhiều luồng tư tưởng văn hố khác nhau và có vị trí thuận lợi
cho việc tiếp thu hai nền văn minh ở phương Đơng, đó là nền văn minh Trung
Hoa và văn minh Ấn Độ. Với địa hình đa dạng và phong phú, thuộc vùng nhiệt
đới gió mùa nên thiên nhiên vừa ưu đãi vừa luôn đặt con người trước những
nguy cơ, thiệt hại nặng nề của thời tiết khắc nghiệt. Do đó, thường nảy sinh tâm
lý sợ hãi dẫn đến nhu cầu cậy nhờ vào sự che chở của các lực lượng siêu nhiên.
Việt Nam vốn là nơi quần cư của nhiều tộc người, lại có sự pha tạp của nhiều
dịng máu nên nhu cầu tâm linh cũng vô cùng phong phú, đa dạng.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là lịch sử thống
nhất và đoàn kết của cộng đồng dân tộc, giữa các tôn giáo và tín ngưỡng bản địa
với các tơn giáo du nhập từ bên ngồi. Ngay từ thế kỷ thứ nhất sau Cơng
ngun, sự du nhập của Phật giáo vào vùng kinh đô Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc
Ninh ngày nay), đã nhanh chóng hồ nhập với tín ngưỡng và văn hố bản địa,
trở thành một bộ phận tất yếu trong đời sống tâm linh của người Việt cổ. Ở Miền
Nam, Phật Giáo Nam Tơng đã bắt đầu hình thành và phát triển ở thời kỳ Vương
quốc Phù Nam (thế kỷ I-VII), tiếp sau đó ảnh hưởng sâu đậm trong cộng đồng
dân tộc Khmer Nam Bộ vào thế kỷ XIII và XIV.
Vào đầu thế kỷ thứ X, Nho giáo bắt đầu du nhập vào Việt Nam qua sự ảnh
hưởng của văn hoá Trung Hoa. Phật giáo phục hưng và trở thành hệ tư tưởng
chính thống của triều đại Lý-Trần (thế kỷ XI-XIV) và chiếm vị trí chủ đạo trong
đời sống tâm linh của người dân thời kỳ này. Tuy nhiên, kể từ thời Hậu Lê (thế
kỷ VI) trở đi, Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng chính trị - đạo đức chính thống

và là một trong những tơn giáo chính trong xã hội phong kiến Việt Nam.
Theo những bước chân của các giáo sĩ truyền giáo Tây Âu, Công giáo đã
được đưa vào Việt Nam từ thế kỷ XVI và sau đó phát triển mạnh ở triều Nguyễn
và thời Pháp thuộc. Cuối thế kỷ XIX, đầu XX, đạo Tin lành bắt đầu du nhập vào
5


Việt Nam do các nhà truyền giáo đến từ Bắc Mỹ. Trong nửa đầu và cuối thế kỷ XX
là sự phát triển mạnh mẽ của các tôn giáo bản địa, đáng lưu ý là Phật giáo Hoà
Hảo, đạo Cao Đài, Tứ Ân Hiếu Nghĩa... Cùng với những tín ngưỡng bản địa đã
hình thành từ lịch sử ngàn năm của dân tộc, như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, các
tơn giáo ngoại sinh và nội sinh đã làm phong phú và là bộ phận không thể thiếu
đươc trong đời sống tâm linh và tinh thần của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Như vậy, ở Việt Nam có mặt hầu hết các tơn giáo lớn với đơng đảo các tín
đồ, chức sắc, nhà tu hành của Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo hay một
số tôn giáo bản địa như Cao Đài, Hịa Hảo… Quyền tự do tín ngưỡng và tự do
khơng tín ngưỡng của nhân dân được quy định trong Hiến pháp: Các tơn giáo
đều bình đẳng trước pháp luật. Theo thống kê, ở nước ta hiện nay có khoảng 25
triệu tín đồ tơn giáo, chiếm khoảng 26% dân số cả nước. Trong đó, chủ yếu là
các tơn giáo đó là:
Phật giáo, tính đến tháng 7-2018, số người theo Phật giáo có khoảng 11
triệu người, chiếm hơn 12% dân số cả nước; trong đó có 46.495 chức sắc, 10
nghìn chức việc; có 14.775 cơ sở thờ tự trên tồn quốc, trong đó Phật giáo Bắc
tơng có 23.665 cơ sở thờ tự, Phật giáo Nam tơng có 570 cơ sở thờ tự và phái
Khất sỹ có 540 cơ sở thờ tự. Hiện Giáo hội Phật giáo Việt Nam có hệ thống đào
tạo từ cấp cơ sở tới Học viện Phật giáo gồm: 04 Học viện Phật giáo, 32 trường
Trung cấp Phật học và một số lớp trình độ sơ cấp ở các chùa.
Công giáo hay gọi là Thiên chúa giáo, tính đến tháng 12-2018, Giáo hội
Cơng giáo Việt Nam có khoảng 6 triệu tín đồ, chiếm 6,84% dân số cả nước;
4044 chức sắc, 7500 chức việc: 02 Hồng y; 3 Tổng Giám mục; 33 Giám mục;

2104 linh mục; 7500 tu sĩ (trong đó có 6000 nữ tu); 84 dịng và tu hội; được tổ
chức thành 26 giáo phận, khoảng 3.000 giáo xứ, 6000 giáo họ, 9000 cơ sở thò tự
và 7 đại chủng viện. Đại đa số tín đồ chức sắc Cơng giáo “sống tốt đời, đẹp
đạo”, “Kính chúa u nước”, sống phúc âm trong lòng dân tộc, phục vụ hạnh
phúc đồng bào.
Đạo Tin lành, tính đến tháng 3-2018, đã có hơn 1 triệu tín đồ, chiếm
1,14% dân số cả nước; trong đó có 436 mục sư, 306 mục sư nhiệm chức, 458
6


truyền đạo, 455 chi hội, 4409 điểm nhóm, 351 nhà thờ, với hơn 90 tổ chức và
nhóm Tin lành. Trong số hơn 90 tổ chức, nhóm Tin lành hiện có ở Việt Nam, có
10 tổ chức đã được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động.
Hồi giáo (hay Đạo Ixlam), tính đến năm 2018 ở Việt Nam có khoảng 75
nghìn tín đồ, chiếm 0,08% dân số cả nước, trong đó có 770 chức sắc, chức việc,
79 cơ sở thờ tự (40 thánh đường, 22 tiểu thánh đường, 17 chùa) ở 13 tỉnh, thành
phố, tập trung ở Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Ninh Thuận, Bình Thuận,
An Giang.
Đạo Cao Đài, tính đến tháng 12-2018, đạo Cao Đài có khoảng 2,4 triệu
tín đồ, chiếm 2,76% dân số cả nước, trong đó có 1 vạn chức sắc, 2 vạn chức
việc, 1.290 cơ sở thờ tự, hoạt động ở 37 tỉnh, thành phố, tập trung chủ yếu ở
Trung Bộ và Nam Bộ. Trên phạm vi cả nước, có 34 tỉnh, thành phố có đạo Cao
Đài, chính quyền cấp tỉnh cơng nhận gần 1.000 họ đạo với hơn 20.000 chức Sắc,
chức việc hoạt động ở các Ban Đại diện, Đại diện tỉnh, thành phố và các họ đạo.
Phật giáo Hịa Hảo, tính đến tháng 12-2018, tín đồ Phật giáo Hồ Hảo ở
trong nước có khoảng 1,5 triệu người, chiếm 1,7% dân số cả nước, trong đó có
3.200 chức việc, 94 chùa, 50 Hội quán, 399 tòa đọc giảng ở 22 tỉnh, thành phố,
tập trung đơng nhất là ở An Giang, nơi có Tổ đình Phật giáo Hồ Hảo và Trụ sở
của Ban Trị sự Trung ương.
Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam có gần 1,5 triệu tín đồ, cùng với 4.800

chức sắc, 350.000 hội viên; gần 900 lương y, huấn viên y khoa, y sĩ, y sinh; trên
3.000 người làm công việc chế biến thuốc Nam, hiện diện ở 24 tỉnh, thành phố
phía Nam từ Khánh Hồ tới Cà Mau.
Đạo Baha’i Việt Nam, tháng 8- 2018 được Ban Tơn giáo Chính phủ cấp
quyết định cơng nhận hoạt động. Hiện nay có hơn 7.000 tín đồ Baha’i đang sinh
hoạt trong 93 cộng đồng, phân bố ở 45 tỉnh, thành phố, tập trung đông nhất tại
một số tỉnh, thành phố, như: Hà Nội, Đà Nẵng, Quảng Nam Gia Lai, Ninh
Thuận, Bình Thuận, Cần Thơ, Kiên Giang.

7


Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương có khoảng 15.000 tín đồ sinh sống tập trung ở
các tỉnh: An Giang, Đồng Tháp, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An, Sóc Trăng, Vĩnh
Long, Tiền Giang và Bến Tre.
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có khoảng 78.000 tín đồ, tập trung ở các tỉnh Tây
Nam Bộ như: An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long, Trà Vinh, Tiền
Giang, Kiên Giang, Bà Rịa - Vung Tàu. Trong đó, An Giang là trung tâm của
đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa…
Đồng thời theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cả nước
hiện có khoảng 8.000 lễ hội, trong đó có 7.039 lễ hội dân gian, 332 lễ hội lịch sử
cách mạng, 544 lễ hội tôn giáo, 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài vào và 40 lễ hội
khác. Trong đó, có nhiều tín ngưỡng gắn với lễ và hội, mỗi tín ngưỡng, mỗi
vùng lại có những lễ hội riêng mang đậm nét văn hóa của từng khu vực. Các dân
tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đều có những tín ngưỡng riêng gắn
liền với đời sống kinh tế và tâm linh của mình [5, tr.122].
1.2. Đặc điểm của tơn giáo ở Việt Nam
Một là, Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo.
Việt Nam là một đất nước tuy đất không rộng, người không đông, nhưng
đã và đang tồn tại nhiều loại hình tín ngưỡng, tơn giáo khác nhau. Ở Việt Nam

có thể tìm thấy tất cả các hình thức tín ngưỡng ngun thủy dã từng có mặt trên
thế giới như:Tơ tem giáo, Bái vật giáo, Ma thuật giáo, Vật linh giáo, Sa man
giáo. Những hình thức tín ngưỡng tơn giáo nguyên thủy này ở Việt Nam thể hiện
hết sức phong phú và rộng khắp. Ở Việt Nam vùng nào cũng có đền thờ những
vị anh hùng dân tộc, những người có cơng với dân với nước. Trong phạm vi dân
tộc có đền Hùng, đền những người anh hùng có cơng đánh giặc giữ nước và cứu
nước như đền thờ Lý Thường Kiệt, đền thờ Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn,
đền thờ Lê Lợi, Nguyễn Trãi... Trong từng làng, xã thờ thành hồng làng, trong
dịng họ thờ ơng bà, tổ tiên, những người đã khuất. Ngoài ra trong xã hội cồn tồn
tại rất nhiều các hình thức tín ngưỡng khác nữa. Ví dụ, các đối tượng của tự
nhiên cũng đước sùng bái thần thánh để thờ, cay đa, cây gạo, hòn đá, khúc
sơng… cũng có thể trở thành vật linh thiêng. Có lẽ người Việt Nam ai cũng biết
8


những câu như “thần cây đa ma cây đề”, rồi “sơn thần”, “thủy thần”, “bà chúa
thượng ngàn”… [4, tr.19].
Hai là, tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt nam mang tính quần chúng phổ biến,
nhưng chủ yếu ở cấp độ tâm lý tơn giáo.
Ở Việt Nam, khơng chỉ những tín đồ tơn giáo, mà một bộ phận không nhỏ
quần chúng nhân dân có những tình cảm, tâm trạng, niềm tin gắn với tín ngưỡng
mang tính chất tơn giáo, mặc dù trong thực tế họ không theo tôn giáo nào. Đối
với một bộ phận khá lớn quần chúng nhân dân, tôn giáo chủ yếu thuộc về lĩnh
vực tình cảm, đó là niềm tin mang tính chất truyền thống. Nó như là một cái gì
tự nhiên, như một bộ phận tiềm ẩn của tâm linh, một sự nương tựa, một hy vọng
giải thốt. Nó như một màn sương mờ ảo bao phủ đời sống tinh thần của nhiều
thế hệ người Việt Nam.
Với nội dung như vậy, cần đưa vào khi trình bày đặc điểm cơ bản của tín
ngưỡng tơn giáo ở Việt Nam, bởi lẽ đặc điểm này nói nên phạm vi và trình độ
tác động của tín ngưỡng tơn giáo đối với xã hội.

Ba là, tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam mang tính chất đan xen, hồ đồng.
Khác với Phương Tây và nhiều nước khác, ở Việt Nam khơng có tơn giáo
nào thống trị suốt chiều dài lịch sử, mà vị trí, vai trị của từng tơn giáo cũng biến
động qua các thời đại cùng với sự biến động của lịch sử. Như trên đã thấy, Việt
Nam nhiều hình thức tín ngưỡng tơn giáo tồn tại, thậm chí có những tơn giáo
cóa giáo lý, lễ nghi, cơ cấu tổ chức… khác nhau, nhưng hàng trăm năm qua về
cơ bản khơng có sự kỳ dị tơn giáo, càng khơng có sự xung đột vì lý do dị biệt
tơn giáo, mà các tơn giáo cùng tồn tại hịa bình bên cạnh nhau, hịa hợp với nhau
cùng tồn tại. Thực tế cho thấy ở nhiều làng quê Việt Nam chùa là nơi thờ Phật và
nhà thờ là nơi thờ chúa trời của đạo thiên chúa tồn tại bên cạnh nhau, ngày Phật
Đản, ngày Nôen là ngày vui chung của cả “lương và giáo”. Trong một khơng
gian có thể cùng hiện diện của nhiều tơn giáo như: chùa, nhà thờ, miếu, am,
thánh thất …
Tính chất đan xen, hịa đồng của tín ngưỡng tơn giáo ở Việt Nam thể hiện
khá phong phú đa dạng và khá độc đáo. Đó là sự đan xen hịa đồng giữa các tôn
9


giáo với tính cách là tơn giáo với các tín ngưỡng dân gian, tơn giáo ngun thủy.
Chúng ta có thể thấy rõ điều này trong các ngôi chùa của Việt Nam. Chùa dúng
ra là nơi thờ Phật, nhưng ở Việt Nam trên bàn thờ Phật ngồi Phật cịn thờ cả các
thần tự nhiên, các thần thánh trong tín ngưỡng đân gian như: Pháp Vân, Pháp
Vũ, Pháp Lôi… Ngay cả, Thiên chúa giáo, Hồi giáo là những tôn giáo độc thần,
trong quan niệm của họ chỉ thờ chúa trời, thờ thánh Ala, nếu thờ các thánh thần
khác bị coi là tà đạo, thì ở Việt Nam tìn đồ của đạo Thiên chúa và đạo Hồi cịn
thờ cả ơng bà tổ tiên, một hình thức tín ngưỡng phổ biến.
1.3. Lễ hội tơn giáo ở Việt Nam
Lễ hội được các nhà khoa học phân thành nhiều loại khác nhau. Có thể
phân loại lễ hội theo niên đại, gần gũi với phân kỳ lịch sử dân tộc Việt Nam,
hoặc phân loại lễ hội theo từng thành tố riêng biệt, hay theo cấu trúc và các

thành tố khác nhau. Tuy nhiên, dù phân loại theo tiêu chí lựa chọn nào, cũng đều
có những yếu tố hợp lý và hạn chế nhất định. Trong tư cách là đối tượng quản
lý, các lễ hội hiện nay đang chưa có sự thống nhất về tên gọi trong các văn bản
pháp lý.
Cục Văn hóa cơ sở (thuộc Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch) là cơ quan
quản lý nhà nước về lễ hội, thống kê các loại lễ hội trên địa bàn cả nước và chia
thành các loại như sau:
Lễ hội dân gian gồm có 7.039 lễ hội, chiếm 88, 36%.
Lễ hội tơn giáo gồm có 5.449 lễ hội, chiếm 6,82%.
Lễ hội lịch sử cách mạng gồm có 332 lễ hội, chiếm 4,16%.
Lễ hội du nhập từ nước ngồi gồm có 10 lễ hội, chiếm 0,12%.
Lễ hội khác có 40 lễ hội, chiếm 0,50%.
Tổng cộng cả nước có 327 lễ hội do cấp tỉnh quản lý. Cấp bộ quản lý 8 lễ hội.
10


Theo cách gọi đã nêu trên, có thể hiểu lễ hội dân gian đồng nhất với khái
niệm lễ hội truyền thống vì đây là những lễ hội gắn bó mật thiết nhất đối với đời
sống văn hóa tinh thần của đại đa số người dân ở khắp các vùng miền Việt Nam.
Bên cạnh những giá trị đạo đức, các tôn giáo cịn có hệ thống những lễ hội
rất phong phú. Trước đây, việc tổ chức và tham gia lễ hội là cơng việc nội bộ
giáo hội và tín đồ trong đạo. Ngày nay, rất nhiều lễ hội tôn giáo không cịn là
chuyện riêng của từng tơn giáo mà nó có sức lan toả, ảnh hưởng lớn trong cộng
đồng xã hội như Lễ Giáng sinh, Phục sinh của đạo Công giáo, đạo Tin lành; Lễ
Phật đản, Vu lan của Phật giáo; Đại lễ Hội Yến Diêu Trì Cung của Hội thánh
Cao đài Tây Ninh…
Trong các dịp lễ Giáng sinh, Phật đản, Vu lan… hàng năm, các tôn giáo
trên địa bàn huyện đều tổ chức lễ chu đáo, trang nghiêm, tuân thủ quy định pháp
luật. Tham gia các lễ hội tôn giáo khơng chỉ có tín đồ trong nội bộ tơn giáo mà
có rất đơng quần chúng nhân dân đến xem lễ. Điều đó chứng tỏ, lễ hội tơn giáo

ngày nay khơng cịn là chuyện riêng của từng tơn giáo mà nó dân trở thành lễ
hội của cộng đồng. Trong các chương trình lễ hội tơn giáo thường lồng ghép một
số hoạt động văn hoá truyền thống, văn nghệ dân gian và hiện đại, một số nội
dung giáo dục đạo đức, nhân sinh… để thu hút nhiều người quan tâm đến dự và
xem lễ. Cùng với các lễ hội khác, lễ hội các tơn giáo trên địa bàn huyện góp
phần làm phong phú đời sống tinh thần của nhân dân địa phương, trong chừng
mực nào đó, lễ hội tơn giáo cũng có tác động tích cực đến nhận thức, hành vi,
đạo đức của nhiều người.
Một trong những đặc trưng của nền văn hố Việt Nam đó là tính dung
hồ: người Việt ln ln muốn sống hồ hợp với tự nhiên, dung hồ với xã hội
và con người. Mặc dù là một đất nước đa tơn giáo, nhưng với tính cách dung hồ
vốn có từ ngàn xưa, người Việt khơng có tư tưởng kỳ thị hoặc chia rẽ tơn giáo.
Do vị trí địa lý đặc biệt, nên từ xa xưa, Việt Nam trở thành nơi giao thoa của các
nền văn hoá trong khu vực và trên thế giới. Mỗi khi có luồng tư tưởng mới, có
11


một tôn giáo mới du nhập, truyền bá vào nước ta, ông cha ta thưởng giữ tâm thế
“lấy tĩnh chế động” để quan sát và “gạn đục khơi trong”, tiếp nhận những tinh
hoa của nó, đồng thời Việt hố để nó phù hợp với tâm lý xã hội, thuần phong,
mỹ tục Việt Nam. Có lẽ với đặc tính đó, mà ngày nay, chúng ta rất dễ dàng nhận
thấy, ở hầu hết các lễ hội tơn giáo, ngồi sự hiện diện của tín đồ, cịn có rất nhiều
người dân, thậm chí là tín đồ của các tơn giáo khác cũng đến xem lễ, thăm quan,
du lịch, tìm hiểu văn hố - tín ngưỡng…
Bức tranh tơn giáo đa dạng đã góp phần làm giàu cho đời sống tinh thần của
người Việt, những giá trị đạo đức, nhân văn của các tôn giáo, những cơng trình kiến
trúc, những tác phẩm văn học, nghệ thuật về đời sống tôn giáo… cùng với hệ thống
lễ hội tôn giáo đã tạo nên bức tranh muôn màu của văn hoá Việt Nam.
2. Lễ Vu Lan
2.1. Nguồn gốc

Vu Lan ( ), là từ viết tắt của chữ Vu - Lan - Bồn (  ). “Theo phép
nước Tây Trúc vào ngày tự tứ của các tăng, đặt cỗ bàn linh đình, dâng cúng Phật
tăng để cứu cái khổ treo ngược (đảo huyền) của người đã mất” [1, tr.319].
Trong truyền thống đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng
cây của dân tộc ta, báo hiếu, báo ân tổ tiên, ông, bà, cha, mẹ là một trong những
cảm ơn quan trọng nhất trong cuộc đời mỗi con người.
Ngày lễ Vu Lan báo hiếu của Phật giáo đã trở thành ngày lễ mang đậm nét
nhân văn, làm rạng rỡ đạo lý đền ơn đáp nghĩa của dân tộc.
Lễ Vu Lan xuất phát từ sự tích Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ
mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ (quỷ đói). Vu Lan trở thành ngày lễ hằng năm để
tưởng nhớ công ơn cha mẹ và tổ tiên nói chung, nhắc nhở mỗi người biết trân
trọng những gì mình đang có, nhắc nhở bổn phận làm con phải luôn nhớ đến
công ơn sinh dưỡng của cha mẹ mà làm những việc hiếu nghĩa để thể hiện tình
cảm, lòng biết ơn.
Kể từ khi Phật giáo được truyền vào Việt Nam, ngày lễ Vu Lan (ngày
Rằm tháng Bảy âm lịch hằng năm) đã trở thành truyền thống của tinh thần báo
12


hiếu, báo ân, phù hợp với tinh thần tín ngưỡng thờ tổ tiên thiêng liêng của người
dân Việt.
Qua hàng nghìn năm, Vu Lan báo hiếu luôn là một trong những ngày lễ có
sức sống văn hóa mãnh liệt nhất trong đời sống tinh thần của mỗi người dân Việt
Nam chúng ta.
Ngày nay, lễ Vu Lan khơng đơn thuần chỉ có ý nghĩa tôn giáo thiêng liêng
mà đã trở thành “lễ hội văn hóa tình người”. Pháp hội Vu Lan cịn có ý nghĩa
đặc biệt sâu sắc, hướng mỗi người trở về với cội nguồn dân tộc, về với đạo lý
“Uống nước nhớ nguồn” với tiên tổ.
Ngày lễ Vu Lan là một trong hai lễ lớn nhất của Phật giáo, nhằm báo hiếu
công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, nay không chỉ là ngày lễ của các

Phật tử mà đã trở thành một lễ hội văn hóa tinh thần chung của xã hội, mang đến
thơng điệp về lịng biết ơn và đền ơn như một biểu hiện và cư xử văn hóa đáng
được con người lưu tâm, thực hiện.
2.2. Nội dung cơ bản của lễ Vu Lan trong cách tiếp cận tôn giáo học
Kinh “Vu - Lan - Bồn tức là bữa tiệc cúng Phật và chư tăng để cầu phúc
cho ông bà cha mẹ, cầu cho hồn người thác ở nơi âm cảnh khỏi bị treo ngược” [3,
tr.172]. Xuất phát từ ý nghĩa đó cho thấy kinh Vu - Lan - Bồn là kinh báo hiếu
được tổ chức vào ngày Rằm tháng Bảy hàng năm. “Vu - Lan - Bồn kinh nói về
ngài Mục Kiền Liên là đệ tử của đức Phật vừa đắc đạo liền nhớ tới cơng ơn cha
mẹ. Ngài ngó xuống cõi âm thấy cha mẹ mình đang bị treo ngược vơ cùng cực
khổ. Ngài đem cơm xuống cho mẹ nhưng bà chẳng ăn được” [3, tr.162]. Bởi:
Lòng bỏn xẻn tiền căn chưa dứt,
Sợ chúng ma cướp dựt của bà.
Cơm đưa chưa tới miệng đà,
Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu”
Mục Kiều Liên hỏi đức Phật cách cứu gỡ,
13


Phật mới bảo rõ ràng căn cội,
Rằng mẹ ông gốc tội rất sâu.
Dầu ơng thần lực nhiệm mầu,
Một mình khơng thể ai cầu được đâu.
Do vậy, “Đức Phật dạy ngài muốn cứu vớt mẹ phải đến ngày Rằm tháng
Bảy, khi có đủ chư tăng đại đức hội về làm tiệc mà cúng Phật và khoản đãi chư
tăng. Dựa vào sức lành của các ngài mà siêu độ được vong linh, làm cho cha mẹ
bà con hiện còn sống được thêm phúc đức” [3, tr.145]. Mỗi năm đến Rằm tháng
Bảy, “đem trăm thức phẩm vật dâng cúng Tam Bảo thì sẽ cứu được cha mẹ của
bảy đời”. Đức Phật khuyên các đệ tử về sau nên giữ lệ cúng Phật, Tăng trong
ngày Rằm tháng Bảy để báo hiếu cha mẹ.

Ngày Rằm tháng Bảy mỗi năm,
Vì lịng hiếu thảo ơn thâm phải đền.
Làm theo lời Phật dạy
Lễ cứu tế chí thành sắp đặt,
Ngõ cúng dường chư Phật chư Tăng.
Ấy là báo đáp, thù ân,
Sinh thành dưỡng dục song thân buổi đầu,
Ðệ tử Phật, lo âu gìn giữ,
Mới phải là Thích tử Thiền môn,
Vừa nghe dứt pháp Lan Bồn,
14


Môn sinh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan,
Mục Liên với bốn ban Phật tử,
Nguyện một lịng tín sự phụng hành.
Khi thực hiện đúng lời Phật dạy, mẹ của Mục Liên đã được giải thốt. Từ đó
về sau tín đồ Phật giáo đã duy trì gọi Rằm tháng Bảy hàng năm là ngày lễ Vu Lan
hay còn gọi là lễ báo hiếu. Theo quan niệm Phật giáo việc báo đáp đạo hiếu cho
đấng sinh thành khơng chỉ lúc cha mẹ cịn sống mà còn phải báo đáp ngay cả khi
cha mẹ đã mất. “Ai đối với cha mẹ khơng có lịng tin, khuyến khích, hướng dẫn, an
trú các vị ấy vào lòng tin; đối với cha mẹ theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an
trú các vị ấy vào thiện giới; đối với cha mẹ xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an
trú các vị ấy vào bố thí; đối với cha mẹ theo ác tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an
trú vào trí tuệ. Như vậy là làm đủ và trả đủ cho mẹ cha” [3, tr.135]. Ngày lễ Vu Lan
đã trở thành ngày lễ để tín đồ Phật giáo suy nghĩ về đạo lý nhân quả, chiêm nghiệm
về cuộc sống, lòng hiếu thuận, sự kính trên nhường dưới…
2.3. Nghi lễ “Bơng hồng cài áo” trong lễ Vu Lan
Thực hành hiếu đạo là bổn phận, trách nhiệm của bất kỳ ai, trong bất kỳ
hoàn cảnh nào của cuộc sống thường nhật.

Nghi lễ “Bông hồng cài áo” trong lễ Vu Lan đã trở thành nét văn hóa
truyền thống có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, là dịp nhắc nhở mỗi người con, trong
cuộc sống dù bộn bề lo toan nhưng vẫn luôn từng giờ, từng phút không quên báo
hiếu với cha mẹ đã vất vả, chắt chiu, hi sinh tất cả vì con.

15


Nguồn gốc của nghi lễ. Đại đức Thích Giác Giáo, Ủy viên Ban Văn hóa
Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trụ trì chùa Kim Ngưu (Lăng Quốc
Hoa, Bắc Ninh) cho biết, “Bông hồng cài áo” mùa lễ Vu Lan bắt nguồn từ các
tác phẩm viết về mẹ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, sáng tác những năm 1960.
Thiền sư có một chuyến cơng tác tại Nhật Bản và người Nhật đã cài lên
ngực ông một hoa hồng trắng. Thấy làm lạ, thiền sư về tìm hiểu và nhận ra ý
nghĩa cao đẹp của hành động này.
Nhờ đó, tác phẩm vào những năm 1960 của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
mang tên “Bông hồng cài áo” và bông hoa hồng làm biểu tượng cho lễ Vu Lan
báo hiếu của nhà Phật bắt đầu được ra đời.
Hoa hồng biểu trưng cho sự tri ân, hiếu thảo và lòng biết ơn của con đối
với cha mẹ, dù cho họ khơng cịn trên cõi đời này. Đồng thời, hoa hồng còn thể
hiện cho một tình yêu chân thành, son sắc, sự cao quý và ngát hương.
Ý nghĩa từng màu sắc của hoa hồng. Đại đức Thích Giác Giáo cho biết,
trong buổi lễ Vu Lan thiêng liêng, ai còn cha mẹ sẽ được cài lên ngực áo một
đóa hoa hồng đỏ thắm, đó là một lời nhắc nhở rằng mình vẫn cịn cả cha và mẹ,
còn cả một bầu trời yêu thương cao rộng để cảm nhận niềm hạnh phúc và tự nhủ
luôn biết cố gắng để làm vui lòng cha mẹ.
Cha như mặt trời, mẹ như mặt trăng. Cha tuy đôi lúc lành lùng, cấm đốn,
nghiêm khắc với con nhưng những điều đó chỉ mong muốn con trở thành người,
cũng như ánh mặt trời vậy, tuy gay gắt, nóng bức và khó chịu, nhưng nhờ mặt trời
mà cỏ cây hoa lá hấp thu quang hợp tạo ra khí oxi, nhờ đó mà ta có oxi để thở.

Mẹ như mặt trăng, ln dịu hiền, dìu bước ta qua màn đêm tăm tối, bao
dung những lỗi lầm của đứa con thơ dại của mình. Mẹ già hơn trăm tuổi vẫn
thương con 80.

16


Ai mất cha hoặc mẹ thì nhè nhẹ cài lên ngực mình đóa hồng nhạt, ai mất
cả hai đấng sinh thành thì cài lên ngực mình hoa trắng buồn thương. Hoa hồng
trắng còn muốn nhắc nhở con người rằng phải sống thật tốt, ý nghĩa để người ra
đi cảm thấy tâm hồn được an nhiên, thanh thản và khơng cịn vướng bận chuyện
trần gian.
“Tơi khơng khóc khi cài hoa trắng
Vì trong hoa tơi thấy Cha mẹ Tơi cười”
Thay vì cài bông hồng đỏ hoặc trắng để chỉ cho cha mẹ hiện tiền, những
người tu sĩ cịn có cha mẹ rộng hơn, lớn hơn, cao cả hơn. Đó là tất cả chúng
sinh, vì thế cài bơng hồng vàng để tỏ rõ lý tưởng cao quý này.
Theo đạo Phật, màu vàng là màu của giải thoát, màu của đất. Trên đất,
chúng ta có thể dẫm, đạp, cày xới, hay làm bất cứ gì… đất vẫn trơ trơ, vì đất là
sức sống, là nhẫn nhục, cưu mang tất cả, chấp nhận tất cả. Vì coi tất cả chúng
sinh là cha mẹ, là quyến thuộc, họ hàng và quan trọng nhất là quả vị của những
vị Phật tương lai.
Màu vàng còn là màu của tuệ giác, tượng trưng cho sự bng bỏ, giải
thốt. Do đó, trong ngày Vu Lan người tu sĩ cũng muốn mượn màu sắc của hoa
màu vàng để nói lên tinh thần đúng nghĩa của mùa Vu Lan là sự giải thoát.
3. Rút ra ý nghĩa của lễ Vu Lan
Cùng với Phật giáo, “Đức Báo ân” cũng đã thấm sâu vào đời sống xã hội
Việt Nam, góp phần khơng nhỏ vào việc củng cố và thăng hoa đạo lý “uống
nước nhớ nguồn” của dân tộc, đặc biệt là việc hiếu kính đối với ông bà và cha
mẹ - nét độc đáo trong văn hóa đạo đức của Việt Nam. Lễ Vu Lan đã thực sự trở

thành ngày hội của tình thương yêu con người. Đó là hạt nhân cơ bản nhất trong
nguyên lý “từ bi, hỷ xả”, “vô ngã, vị tha” của Phật giáo. Người Việt tiếp nhận
đạo Phật không chỉ ở nội dung triết lý sâu sắc ẩn chứa trong hệ thống giáo lý,
17


mà quan trọng hơn là những nguyên tắc, hành vi đạo đức mang tính nhân văn
cao cả, hướng con người tới những giá trị chân - thiện - mỹ.
Có thể nói, đạo đức Phật giáo là một trong những nhân tố quan trọng góp
phần định hình các quan niệm, chuẩn mực và hệ giá trị đạo đức trong xã hội. Tín
ngưỡng Phật giáo phổ biến trong đại đa số nhân dân. Người dân khơng biết gì về
triết lý cao xa của Phật, mà chỉ biết cầu phúc, chỉ biết chuyện quả báo, luân hồi.
Từ lâu rồi, triết lý Phật giáo đã trở thành một thứ đạo đức học từ bi, bác ái, cứu
khổ, cứu nạn, là hạt nhân, chúng sinh có thể hiểu và làm được, khơng cao xa, rắc
rối như triết lý Phật giáo nguyên thủy. Tu nhân, tích đức ở kiếp này để an vui,
hưởng phúc ở kiếp sau.
Phật giáo đã giải quyết vấn đề cội nguồn của đạo đức và các chuẩn mực
đạo đức trong đó có “Đức Báo ân”. Con đường đạo đức của Phật giáo là con
đường tự giác, tự chứng và tự nguyện. Toàn bộ giáo lý Phật giáo về đạo đức chỉ
dẫn con đường sống hạnh phúc ngay trong hiện tại, đi vào hạnh phúc ngay tại
trần gian giữa dịng đời vơ thường. Do đó, mục tiêu mang lại cuộc sống an lạc,
hạnh phúc cả về vật chất lẫn tinh thần cho con người cũng là giá trị mang chuẩn
mực đạo đức. Phật giáo hướng dẫn Phật tử và chúng sinh phương thức xử lý các
mối quan hệ của con người trong xã hội (quan hệ giữa cha mẹ và con cái; quan
hệ giữa vợ chồng; quan hệ anh em, họ hàng, làng xóm; quan hệ giữa người quản
lý và bị quản lý, chủ doanh nghiệp và người làm thuê, quan hệ giữa tu sĩ và cư
sĩ), trong đó, ta thấy nổi lên mối quan hệ thiêng liêng, đáng trân trọng, là quan
hệ giữa cha mẹ và con cái.
Khơng thể nào có được một công dân tốt từ bậc cha mẹ không nhân từ và
không gương mẫu, cũng như con cái không ngoan hiền và bất hiếu. Phật giáo đã

sáng tạo ra lễ Vu Lan với 62 nghi thức tâm linh, không chỉ nhằm thiêng liêng
hóa giáo lý của đạo Phật, mà cịn nhằm giáo dục, hoằng dương nguyên lý cơ bản
của “Đức Báo ân”. Đồng thời, hướng dẫn phương thức thực hành “Đức Báo ân”
để có được hạnh phúc ngay tại trần gian cho tất cả chúng sinh.
Gia đình là tế bào tự nhiên và cơ bản của xã hội được nhà nước và xã hội
thừa nhận. Và, do đó, “Đức Báo ân” trong Phật giáo có khả năng tạo lập chất
18


“keo” gắn kết các cá nhân trong cộng đồng xã hội ở cấp vi mơ nhất là từng gia
đình, đó là thái độ ứng xử có văn hóa giữa ba thế hệ ông bà - cha mẹ - con cái.
Sự ổn định của từng gia đình, nhiều gia đình sẽ làm nên sự ổn định cho cả cộng
đồng xã hội. Đây là một biểu hiện cụ thể nhất giá trị văn hóa của Phật giáo nói
chung và lễ Vu Lan nói riêng cho từng cá nhân trong xã hội. Lễ Vu Lan không
chỉ hạn chế ở hai mục tiêu là cầu siêu cho cha mẹ và ơng bà, bố thí cho những
vong hồn khơng ai thờ cúng, mà cịn mở rộng ra nhiều hoạt động mang tính
nhân văn cao đẹp khác, như: Phụng dưỡng chăm sóc cha mẹ lúc tuổi già; Sống
thiện và phấn đấu làm rạng danh ông bà, cha mẹ; Tưởng nhớ công ơn ông bà,
cha mẹ qua ngày giỗ, tết, lễ Vu Lan; Cầu an lạc cho cha mẹ hiện cịn… Trong lễ
Vu Lan, ta thấy khơng chỉ có giáo lý đơn thuần, mà cịn có cách thức thực hiện
các hoạt động cụ thể, nhằm đưa những nguyên tắc từ bi, hỷ xả của Phật giáo
cắm rễ sâu vào trong đời sống xã hội. Qua những điều trình bày ở trên, ta thấy,
lễ Vu Lan là một trong những lễ quan trọng của Phật giáo, là bộ phận cấu thành
văn hóa đạo đức của Phật giáo cần được bảo tồn và phát huy.

19


KẾT LUẬN
Do vị trí địa lý đặc biệt, nên từ xa xưa, Việt Nam trở thành nơi giao thoa

của các nền văn hoá trong khu vực và trên thế giới. Mỗi khi có luồng tư tưởng
mới, có một tơn giáo mới du nhập, truyền bá vào nước ta, ông cha ta thưởng giữ
tâm thế “lấy tĩnh chế động” để quan sát và “gạn đục khơi trong”, tiếp nhận
những tinh hoa của nó, đồng thời Việt hố để nó phù hợp với tâm lý xã hội,
thuần phong, mỹ tục Việt Nam. Có lẽ với đặc tính đó, mà ngày nay, chúng ta rất
dễ dàng nhận thấy, ở hầu hết các lễ hội tơn giáo, ngồi sự hiện diện của tín đồ,
cịn có rất nhiều người dân, thậm chí là tín đồ của các tôn giáo khác cũng đến
xem lễ, thăm quan, du lịch, tìm hiểu văn hố-tín ngưỡng… Bức tranh tơn giáo
đa dạng đã góp phần làm giàu cho đời sống tinh thần của người Việt, những giá
trị đạo đức, nhân văn của các tơn giáo, những cơng trình kiến trúc, những tác
phẩm văn học, nghệ thuật về đời sống tôn giáo… cùng với hệ thống lễ hội tôn
giáo đã tạo nên bức tranh mn màu của văn hố Việt Nam.
Lễ Vu Lan mang ý nghĩa góp phần khắc sâu vào tâm của người dân Việt
Nam đạo lý uống nước nhớ nguồn. Trong những năm gần đây ở Việt Nam, lễ Vu
Lan ngày càng được tổ chức quy mô, trọng thể. Ngày lễ Vu Lan đã trở thành
“ngày hội hiếu” của tín đồ phật tử và của nhân dân. Trong ngày này một số lớn
người dân đến chùa để cúng, một số khác cúng ở nhà thờ họ hoặc tại nhà để hồi
hướng công đức cho ông bà, cha mẹ và cho pháp giới chúng sinh. Ở các chùa
còn tổ chức chương trình văn hóa, nghệ thuật Phật giáo, làm tơn vinh thêm giá
trị của ngày lễ Vu Lan, thu hút đông đảo quần chúng tham gia, nâng cao tinh
thần hiếu đạo, tri ân và báo ân trong lòng người dân Việt Nam. Đây chính là tinh
thần nhân văn cao cả trong triết lý nhân sinh của đạo Phật được người dân Việt
Nam đón nhận một cách trân trọng nhất.

20


21



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại tạng kinh Việt Nam (1996), Kinh Tăng Chi Bộ I, Viện nghiên cứu
Phật học Việt Nam ấn hành.
2. Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phân viện nghiên cứu Phật học (2012),
Từ điển Phật học Hán Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2010), Kinh Vu Lan và báo hiếu, Nxb.
Tôn giáo, Hà Nội.
4. Nguyễn Công Huyên, Phát huy vai trị của các tổ chức tơn giáo trong
hoạt động từ thiện xã hội, Tạp chí Cơng tác Tơn giáo, số 10/2018.
5. Đặng Nghiêm Vạn, Lý luận về tôn giáo và tình hình tơn giáo ở Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội, 2003.

22



×