Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (26.73 KB, 4 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Đề bài: Cảm hứng về chính nghĩa trong Bình Ngơ Đại Cáo.</b>
<b>Nguyễn Trãi viết Bình Ngơ đại cáo dưới hai nguồn cảm hứng: cảm hứng </b>
<b>chính trị và cảm hứng sáng tác. Cảm hứng chính trị đem đến cho lịch sử dân</b>
<b>tộc bản tuyên ngôn độc lập đầy ý nghĩa. Cảm hứng sáng tác đưa tới lịch sử </b>
<b>văn học nước nhà một kiệt tác văn chương. Hoà quyện cả hai nguồn cảm </b>
<b>hứng, dân tộc Việt Nam có Bình Ngơ đại cáo – áng thiên cổ hùng văn (bài </b>
<b>văn hùng tráng của muôn dời). Phân tích Bình Ngơ đại cáo xuất phát từ cảm</b>
<b>hứng sáng tác của tác giả, chúng ta sẽ nêu bật được những giá trị tư tưởng </b>
<b>và giá trị thẩm mĩ của tác phẩm.</b>
<b>Cảm hứng về chính nghĩa thể hiện ở hai dạng: nhận thức sâu sắc về nguyên </b>
<b>lí chính nghĩa và thái độ khẳng định sức mạnh của nguyên lí đó. </b>
<b>Mở đầu Bình Ngơ đại cáo, Nguyễn Trãi nêu nguyên lí làm chỗ dựa, làm căn </b>
<b>cứ xác đáng để triển khai toàn bộ nội dung bài Cáo.</b>
<b>Trong nguyên lí chính nghĩa của Nguyễn Trãi, chúng ta thấy có hai nội dung</b>
<b>chính được nêu lên: Ngun lí nhân nghĩa, một ngun lí có tính chất chung</b>
<b>của các dân tộc, của nhiều thời đại; Chân lí về sự tồn tại độc lập, có chủ </b>
<b>quyền của nước Đại Việt đã được chứng minh bằng lịch sử thực tiễn lịch sử.</b>
<b>Trước hết, Nguyễn Trãi nêu nguyên lí nhân nghĩa. Đây là ngun lí có tính </b>
<b>chất phổ biến, mặc nhiên thừa nhận thời bấy giờ;</b>
<b>Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân </b>
<b>Quân điếu phạt trước lo trừ bạo</b>
<b>Nguyên lí nhân nghĩa Nguyễn Trãi nêu ở đây là một tiền đề có tính chất tiên</b>
<b>nghiệm bởi tiền đề này có nguồn gốc từ phạm trù nhân nghĩa của nho giáo. </b>
<b>Khổng Tử nói tới chữ nhân, Mạnh Tử nói tới chữ nghĩa. Nhân nghĩa được </b>
<b>nhiều người giải thích ; cách nói, cách hiểu đơi khi khác nhau nhưng nhìn </b>
<b>Việc đưa một tiền đề tiên nghiệm như vậy, đối với tâm lí con người thời bấy </b>
<b>giờ là có tính thuyết phục cao. Bởi lẽ thời trung đại, ở Việt Nam, Trung Quốc</b>
<b>và nhiều nước phương Đông, tư tưởng nhân nghĩa là một chân lí mặc nhiên </b>
<b>được thừa nhận. Tuy nhiên lại phải nhấn mạnh, khi đưa tiền đề tiên nghiệm,</b>
<b>Nguyễn Trãi đã biết chắt lọc lấy cái hạt nhân cơ bản, tích cực:</b>
<b>Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.</b>
<b>Trong hai câu mở đầu, Nguyễn Trãi đã xác định mục đích, nội dung của việc </b>
<b>làm nhân nghĩa: chủ ýếu để yên dân, trước nhất là trừ bạo.</b>
<b>Điều đáng nói hơn nữa là trong khi biết chắc lọc lấy cái hạt nhân cơ bản, </b>
<b>tích cực của tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trái đã đem đến một nội dung </b>
<b>mới, lấy ra từ thực tiễn dân tộc để đưa vào tiền đề có tính chát tiên nghiệm:</b>
<b>nhân nghĩa phải gắn liền với chống xâm lược. Nội dung này trong quan </b>
<b>niệm Khổng, Mạnh và Nho gia Trung Quốc hầu như khơng có. Nhân nghĩa là</b>
<b>chống xâm lược, chống xâm lược là nhân nghĩa, có như vậy mới bóc trần </b>
<b>luận điệu nhân nghĩa mới phân định rạch rịi ta là chính nghĩa, giặc xâm </b>
<b>lược là phi nghĩa: Nước mày nhân việc nhà Hồ trái đạo, mượn cái tiếng </b>
<b>thương dán đánh kè có tội, thật ra là làm việc bạo tàn, lấn cướp đất nước ta,</b>
<b>bóc lột nhân dân ta ….Nhân nghĩa mà làm như thế ư? (Thư số 8. Gửi </b>
<b>Phương Chính).</b>
<b>Dân tộc ta chiến đấu chống xâm lược là nhân nghĩa, là phù hợp với nguyên </b>
<b>lí chính nghĩa thì sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của dân tộc Việt Nam là </b>
<b>một chân lí khách quan phù hợp với ngun lí đó.</b>
<b>Sau khi nêu ngun lí nhân nghĩa, tác giả nêu chân lí khách quan về sự tồn </b>
<b>tại độc lập, có chủ quyền của nước Đại Việt.</b>
<b>Nếu nhân nghĩa là tiền đề có tính chất tiên nghiệm thì chân lí về sự tồn tại </b>
<b>độc lập có chủ quyền của nước Đại Việt lại có cơ sở chắc chắn từ thực tiễn </b>
<b>lịch sử:</b>
<b>Như nước Đại Việt ta từ trước</b>
<b>Vốn xưng nền văn hiến đã lâu </b>
<b>Núi sông bờ cõi đã chia </b>
<b>Phong tục Bắc Nam cũng khác.</b>
<b>Bản dịch dã cố lột tả bản chất hiển nhiên, vốn có lâu đời của nước Đại Việt </b>
<b>tồn tại độc lập bằng các từ: từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác </b>
<b>(Nguyên văn: duy ngã, thực vi, kí thù, diệc dị).</b>
<b>Những thực tế khách quan mà Nguyễn Trãi đưa ra là chân lí khơng thể phủ </b>
<b>nhận. Khi nêu chân lí khách quan, đồng thời Nguyễn Trãi đã phát biểu một </b>
<b>cách hồn chỉnh quan niệm của mình về quấc gia, dân tộc. Người đời sau </b>
<b>vẫn thường xem đoạn trên là tiêu biểu và kết tinh học thuyết về quốc gia, </b>
<b>dân tộc của Nguyễn Trãi. So với thời Lí thường Kiệt, học thuyết đó phát </b>
<b>triển cao hơn bởi tính tồn diện và sâu sắc của nó. Tồn diện về ý thức vì </b>
<b>dấn tộc trong Nam quốc sơn hà được xác định trên hai yếu tố: lãnh thổ và </b>
<b>chủ quyền, cịn đến Bình Ngơ đại cáo, ba yếu tố nữa được bổ sung văn hiến,</b>
<b>phong’tục tập quán, lịch sử. Sâu sắc vì trong quan niệm về dân tộc, Nguyễn </b>
<b>Nêu chân lí khách quan về sự tồn tại độc lập, cổ chủ quyền của dân tộc Đại </b>
<b>Việt, để tăng thêm sức thuyết phục, Nguyễn Trãi đã dùng biện pháp so </b>
<b>sánh: so sánh ta với Trung Quốc, đặt ta ngang hàng với Trung Quốc, ngang </b>
<b>hàng về trình độ chính trị, tổ chức chế độ, quản lí quốc gia (Triệu, Đỉnh, Lí, </b>
<b>Trần ngang hàng với Hán, Đường, tông, Nguyên).</b>
<b>Trong bài thơ Nam quôc sơn hà, tác giả đã thể hiện một ý thức dân tộc </b>
<b>mạnh mẽ và sâu sắc qua từ Đế. Ở Bình Ngơ đại cáo, Nguyễn Trãi tiếp tục </b>
<b>phát huy niềm tự hào dân tộc mạnh mẽ và sâu sắc đố: Các đế nhất phương. </b>
<b>Nhiều bản dịch trước đây dịch là làm chủ – hùng cứ thì nay đều bỏ mà giữ </b>
<b>nguyên chữ Đế để giữ nguyên giá trị tác phẩm. Rất tiếc bản dịch Bình Ngơ </b>
<b>đại cáo in trong sách giáo khoa 10 lại vẫn theo cách dịch cũ mỗi bên hùng </b>
<b>cứ một phương (hùng cứ và làm đế là rất khác nhau cả về tính hợp pháp và </b>
<b>thính quyền lực).</b>