Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

23.09.2021

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (66.5 KB, 9 trang )

BÀI TỰ LUẬN
1. Phân tích kinh nghiệm điều hành chính sách tỷ giá của một số quốc
gia trên thế giới và rút ra bài học cho Việt Nam trong việc điều hành chính
sách tỷ giá.
a) Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc
- Công cụ tỷ giá: Theo quan điểm của Ngân hàng nhân dân Trung Quốc, tỷ
giá cũng là một kênh quan trọng trong cơ chế truyền dẫn và có tác động qua lại với
các kênh khác. Từ tháng 8/2015, Ngân hàng nhân dân Trung Quốc đã liên tiếp hạ
giá đồng nhân dân tệ. Đây là đợt phá giá mạnh nhất từ sau khi Trung Quốc thành
lập hệ thống quản lý ngoại hối hiện đại năm 1994 và được coi là cách để Trung
Quốc cùng một lúc có thể đẩy mạnh xuất khẩu. Đồng thời, nâng cao quyền lực cho
đồng NDT, giúp dễ dàng thực hiện các mục tiêu ngoại giao và củng cố vai trò trung
tâm của Trung Quốc trong nền kinh tế toàn cầu
b) Ngân hàng trung ương châu Âu
Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) được quyền ấn định các mức lãi suất
cho khu vực châu Âu với mục tiêu là duy trì giá cả ổn định trong khu vực châu Âu,
nói cách khác là kiềm chế lạm phát. Mục tiêu hiện tại của ECB là giữ tỷ lệ lạm
phát gần 2%. Bên cạnh đó, ECB cịn tiến hành các nghiệp vụ trên thị trường ngoại
hối và thúc đẩy hoạt động trơi chảy của hệ thống thanh tốn ngân hàng. ECB độc
quyền phát hành đồng tiền chung châu Âu. Các nước thành viên được phép phát
hành tiền xu Euro nhưng lượng tiền phát hành phải được ECB cho phép. Trong
chức năng duy trì ổn định của hệ thống tài chính, ECB đã can thiệp vào cuộc
khủng hoảng tài chính 2007-2008, bơm vào hệ thống tài chính hàng tỷ Euro.
Tháng 12/2007, ECB đã kết hợp với Fed thành lập ra Chương trình đấu giá
cho vay kỳ hạn (TAF) nhằm cải thiện tính thanh khoản của đồng USD trong khu
vực châu Âu và ổn định thị trường tiền tệ. - Cơ chế truyền dẫn CSTT của ECB:
CSTT tác động đến mục tiêu cuối cùng là lạm phát thông qua 4 kênh gồm: (1) Tỷ


giá; (2) Lãi suất thị trường và giá các loại tài sản; (3) Kỳ vọng lạm phát; (4) Khối
lượng tín dụng và lãi suất trong hệ thống NHTM.


c) Ngân hàng Trung ương Thái Lan
Trước khủng hoảng tiền tệ 1997 – 1998, Thái Lan duy trì chế độ TGHĐ cố
định, neo đồng Baht vào rổ đồng tiền của các đối tác thương mại nhưng chủ yếu là
USD với 80% giá trị, tỷ giá thực xấp xỉ 100 nhưng cán cân thương mại vẫn thâm
hụt do chất lượng hàng hoá xuất khẩu. Nạn đầu cơ tiền tệ năm 1996 – 1997, buộc
NHTW Thái Lan phải can thiệp gây cạn kiệt dự trữ ngoại hối. Các tổ chức tài
chính trong nước vay ngắn hạn nước ngoài để đầu tư bất động sản dài hạn, buộc
chính phủ phải phá giá ngày 2/7/1997, tỷ giá USD/Baht từ 25,61 lên 47,25. Sau
khủng hoảng chuyển sang chế độ TGHĐ thả nổi có điều tiết khơng được thơng báo
trước, chuyển hướng chính sách tiền tệ theo cơ chế lạm phát mục tiêu từ năm 2000.
Thái Lan thực hiện phá giá mạnh đồng Baht (40%) để hướng về xuất khẩu, hỗ trợ
ngành công nghiệp chế tạo. Năm 1996 giá các mặt hàng xuất khẩu bị suy giảm làm
tài khoản vãng lai bị thâm hụt 7,9%GDP; cán cân thương mại từ thâm hụt -1,5 tỷ
USD (đầu năm 1997) đã chuyển sang thặng dư hơn 1 tỷ USD (năm 1998). Sau phá
giá chính phủ có biện pháp thích hợp để loại bỏ khả năng giảm giá kéo dài của nội
tệ, củng cố các nhân tố thị trường giúp tỷ giá duy trì ở mức ổn định.
Từ năm 2001 – 2007 tỷ giá danh nghĩa của đồng Baht Thái so với USD giảm
nhưng tỷ giá thực REER tăng nên đồng Baht lên giá thực (Hình 1.17), do USD liên
tục giảm giá nên chính phủ thực hiện tăng giá nội tệ so với USD làm ảnh hưởng
thặng dư thương mại giảm và thâm hụt vào năm 2005 -2006. NHTW Thái Lan phải
thực hiện mua giao ngay đồng USD, mua lại trên thị trường thứ cấp, phát hành trái
phiếu của NHTW, hoán đổi tiền tệ. Việc can thiệp linh hoạt đã ngăn đà tăng giá của
đồng Baht và cải thiện được cán cân thương mại trở lại thặng dư 2.000 tỷ USD.
d) Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc


Chính phủ Hàn Quốc đặt trọng tâm của chính sách kinh tế là hướng về xuất
khẩu thông qua điều chỉnh chế độ tỷ giá linh hoạt, giảm thuế nhập khẩu, hỗ trợ tài
chính cho doanh nghiệp xuất khẩu. Hàn Quốc mở rộng xuất khẩu phối hợp các
chính sách giảm chi phí nhập khẩu và gánh nặng nợ, khuyến khích và tăng cường

tiết kiệm thông qua tăng lãi suất, phá giá nội tệ để giảm thâm hụt thương mại.
Chuyển chế độ tỷ giá từ cố định sang linh hoạt dựa vào yếu tố thị trường: khi USD
lên giá thì để thị trường tự điều tiết, khi USD giảm giá thì tăng cung đồng KRW để
đẩy mạnh xuất khẩu.
Duy trì biên độ dao động ổn định tỷ giá trong thời gian dài nhằm thu hút vốn
đầu tư trong nước và nước ngoài. Khắc phục tình trạng đơ la hóa thơng qua việc
gắn đồng bản tệ với một giỏ ngoại tệ.
e) Kinh nghiệm của Malaisia
Malaysia mạnh dạn nới lỏng chính sách tiền tệ, ban hành quy định mới kiểm
soát ngoại hối sau khủng hoảng tiền tệ năm 1997, hạn chế tối đa lượng ngoại tệ
mang ra nước ngồi, khơi phục tính độc lập của đồng Ringgit (MYR), thực hiện
chế độ TGHĐ cố định, ấn định tỷ giá ở mức 3,8 MYR/USD, tránh việc gia tăng lãi
suất nhằm giảm chi phí vay vốn, gia tăng mạnh xuất khẩu, giảm thiểu ảnh hưởng
tiêu cực của khủng hoảng khu vực.
Chế độ TGHĐ cố định và kiểm soát ngoại hối đã giúp Malaysia giảm lạm
phát, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6,5% hàng năm và dự trữ ngoại tệ, cán cân
vãng lai luôn thặng dư, củng cố lòng tin vào sự phục hồi kinh tế và thu hút đầu tư
nước ngoài.
Bài học cho Việt Nam trong việc điều hành chính sách tỷ giá.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm điều hành chính sách tỷ giá của một số nước
trong việc thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mơ, có thể rút ra một số bài học
cho Việt Nam trong điều hành chính sách tỷ giá như sau:


Một là, để thực thi có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia cần phải “ổn định
giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát”; thực hiện nghiêm túc và coi đó
mục tiêu quan trọng trong việc thực hiện chính sách tỷ giá.
Ba là, chủ động điều hành linh hoạt, phối hợp đồng bộ các công cụ chính
sách tỷ giá, tập trung vào điều hành lãi suất chủ động, linh hoạt để điều tiết lãi suất
thị trường ở mức hợp lý, góp phần ổn định thị trường tiền tệ và hoạt động ngân

hàng.
Bốn là, cần theo dõi sát diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ trong và
ngồi nước, tăng cường cơng tác phân tích, thống kê, để kịp thời có các đối sách
phù hợp.
Năm là, thiết lập hệ thống cung cấp thông tin, thực hiện minh bạch đối với
các kỳ vọng chính sách cũng như trách nhiệm giải trình của các cơ quan hoạch
định và thực thi chính sách. Phối hợp của các cơ quan truyền thông để định hướng
tâm lý thị trường, hạn chế tâm lý bất lợi khơng đáng có, ảnh hưởng đến niềm tin
của thị trường vào điều hành chính sách vĩ mơ nói chung và điều hành chính sách
tỷ giá nói riêng.
2. Tình hình nợ nước ngồi của Việt Nam. Đề xuất biện pháp quản lý nợ
nước ngoài của Việt Nam thời gian tới.
Nợ nước ngoài của Việt Nam trong 5 năm qua không quá 50% GDP, nghĩa
vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia dưới 25% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa,
dịch vụ. Cơ cấu dư nợ nước ngồi của Chính phủ giảm dần, từ 59,7% năm 2010
xuống cịn 35,3% trong năm 2020. Nợ vay nước ngồi được Chính phủ bảo lãnh
cũng đang có xu hướng giảm dần, từ 10,5% năm 2010 xuống 6% năm 2020.
Tỷ trọng nợ nước ngồi của khu vực cơng có xu hướng giảm nhanh trong cơ
cấu nợ nước ngoài quốc gia, từ 73,6% năm 2010 xuống còn 63,4% năm 2015 và
43,7% năm 2020.


Tốc độ tăng dư nợ nước ngoài của khu vực cơng cũng được kiểm sốt chặt
chẽ, từ mức trung bình 13%/năm giai đoạn 2011 -2015 giảm xuống còn khoảng
3%/năm giai đoạn 2016 – 2020, góp phần bồi đắp dư địa chính sách, kiềm chế
nghĩa vụ nợ trực tiếp và dự phịng của ngân sách nhà nước. Ngồi ra, Phó Cục
trưởng Võ Hữu Hiển cho biết, vay nước ngồi của Chính phủ vẫn chủ yếu là các
khoản ODA, vay ưu đãi (chiếm 98% nợ nước ngồi Chính phủ).
Đến nay, Việt Nam đã ký kết trên 85 tỷ USD vốn ODA, ưu đãi; điều kiện
vay tương đối thuận lợi, thời gian đáo hạn bình quân là 13,8 năm, lãi suất bình

quân gia quyền 1,35%.
Chỉ tiêu trần nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP được duy trì trong giới
hạn an tồn được Quốc hội phê chuẩn. Nợ nước ngoài của khu vực cơng (nợ Chính
phủ và Chính phủ bảo lãnh) được kiểm sốt chặt chẽ. Tỷ trọng nợ nước ngồi của
khu vực cơng có xu hướng giảm nhanh trong cơ cấu nợ nước ngoài của quốc gia,
từ 73,6% năm 2010 xuống mức 63,4% năm 2015 và 43,7% năm 2020. Tốc độ tăng
dư nợ nước ngồi của khu cơng cũng được kiểm sốt chặt chẽ, từ mức trung bình
13%/năm giai đoạn 2011-2015 giảm xuống cịn khoảng 3%/năm giai đoạn 20162020, góp phần bồi đắp dư địa chính sách, kiềm chế nghĩa vụ nợ trực tiếp và dự
phòng của ngân sách nhà nước.
Mức vay nợ nước ngoài tự vay, tự trả của Việt Nam trong giai đoạn 20162020 vẫn đang trong khuôn khổ an tồn nợ nước ngồi của quốc gia và có đóng
góp quan trọng đối với việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của Việt Nam.
So với nhóm các nước trong khu vực, tình hình nợ nước ngoại tự vay, tự trả của
Việt Nam vẫn ở mức trung bình, một phần phản ánh cơ cấu nguồn vốn trong nền
kinh tế trong đó vốn vay nước ngồi vẫn đóng vai trị quan trọng.
Biện pháp quản lý nợ nước ngồi của Việt Nam thời gian tới.
Thứ nhất, cần nâng cao chất lượng xây dựng chiến lược kế hoạch và có chế
tài, cách thức phối hợp, giám sát thực thi chiến lược, kế hoạch. Tập trung xây


dựng, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt chiến lược nợ dài hạn, chương trình quản
lý nợ trung hạn và hằng năm để báo cáo Quốc hội các vấn đề về nợ công. Cụ thể,
giai đoạn tới cần quản lý chặt chẽ nợ công, đặc biệt là các khoản vay mới đều phải
đánh giá tác động ngay từ khâu phê duyệt chủ trương; chỉ sử dụng nợ công cho các
chương trình dự án thực sự thiết yếu, khơng điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư, hợp
đồng sử dụng nguồn vay cơng. Bên cạnh đó, thực hiện siết chặt các điều kiện cấp
bảo lãnh theo hướng không mở rộng đối tượng được bảo lãnh và kiểm soát việc
bảo đảm trả nợ đối với các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh.
Cần có Hội đồng chính sách nợ cơng cấp quốc gia để hoạch định chính sách,
chiến lược vay nợ của quốc gia trong từng thời kỳ. Chiến lược nợ công cần được
gắn liền với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, thuchi ngân sách nhà nước do Quốc hội quyết định. Nếu chiến lược nợ cơng do Chính

phủ trình được Quốc hội thơng qua dưới hình thức một nghị quyết của Quốc hội,
gắn liền với từng nhiệm kỳ của Quốc hội (5 năm) thì hiệu lực pháp lý của chiến
lược nợ cơng sẽ được nâng cao (Đào Văn Hùng, 2016). Xây dựng quy trình lập
chiến lược nợ dựa trên hướng dẫn của các tổ chức quốc tế cũng như kinh nghiệm
của các quốc gia thành công trong việc xây dựng chiến lược nợ. Việc xây dựng
phải đề cập đến quy mô và tốc độ tăng nợ, cơ cấu lãi suất, cơ cấu kỳ hạn, cơ cấu
đồng tiền vay nợ cũng như khả năng trả nợ.
Thứ hai, cần xây dựng và hoàn thiện quy trình và phối hợp trong quản lý nợ
cơng và nợ nước ngồi, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Là nước có thu
nhập trung bình khơng cịn nằm trong số các nước thu nhập thấp, kể từ tháng
7/2017, Việt Nam đã khơng được tiếp tục nhận tín dụng bao cấp qua chương trình
International Development Association (IDA) của WB. Theo đó, việc vay nợ đã
chuyển dần từ vay ODA chi phí thấp sang vay vốn kém ưu đãi và vay thương mại
với chi phí thị trường, lãi suất vay các khoản nợ tăng từ mức ưu đãi tiến gần đến
mức của thị trường. Đối với các nước thu nhập thấp, chính phủ thường vay ODA


với lãi suất ưu đãi vừa bù đắp thâm hụt ngân sách, vừa cho tư nhân vay lại. Quản
lý nợ cơng và nợ nước ngồi có thể đồng nhất các tiêu chí và thể chế. Tuy nhiên,
đối với các nước có thể tiếp cận thị trường vốn, khu vực tư nhân có thể vay vốn
trên thị trường thế giới. Quản lý nợ cơng và quản lý nợ nước ngồi cần thay đổi để
tránh chồng chéo, đáp ứng mục tiêu của từng khoản vay riêng biệt.
Đối với khoản vay nước ngoài khơng được chính phủ bảo lãnh, trách nhiệm
quản lý, giám sát các khoản vay nước ngoài theo phương thức tự vay, tự trả thường
thuộc về chức năng của ngân hàng trung ương. Các quốc gia không đề ra mức trần
chung đối với các khoản vay nước ngoài của khu vực tư nhân. Thay vào đó, các
nước thường áp dụng cơng cụ quản lý đối với từng loại doanh nghiệp, tổ chức cụ
thể. Chẳng hạn, Indonesia yêu cầu các doanh nghiệp phi tài chính sử dụng cơng cụ
phái sinh đối với các khoản vay nước ngoài ngắn hạn, áp dụng các yêu cầu về tỷ lệ
thanh khoản và xếp hạng tín dụng tối thiểu (Bank Indonesia, 2014). Ấn Độ đề ra

hạn mức trần bằng USD cho các khoản vay nước ngoài trong năm đối với từng
doanh nghiệp, và mỗi lĩnh vực có mức trần khác nhau. Việc vay vốn quá mức trần
này cần được Ngân hàng Trung ương Ấn Độ cho phép (Reddy, 2000).
Thứ ba, cần phân biệt rõ hơn nợ chính quyền địa phương và nợ trung ương,
phân quyền cho quản lý, tăng trách nhiệm của địa phương trong quản lý và chịu
trách nhiệm nợ. Trước hết, cần xây dựng tiêu chí phân loại nợ của chính quyền địa
phương, để xác định cụ thể khoản nào được tổng hợp vào nợ công, khoản nào được
loại trừ (tránh trùng lắp) và những loại nào không mang bản chất là khoản vay (tạm
ứng từ quỹ đất, ứng từ ngân sách trung ương), bằng cách bóc tách các khoản nợ lẫn
nhau giữa các cơ quan, tổ chức khu vực công, giữa các cấp ngân sách trong hệ
thống ngân sách nhà nước theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước (năm
2015). Điều này nhằm hạn chế khó khăn trong việc thu thập, tổng hợp, báo cáo và
công bố thông tin về nợ công chung của cả nước, đồng thời khơng gây tình trạng


tính trùng các khoản nợ, thổi phồng quy mơ nợ công. Từ năm 2010, Luật Quản lý
nợ công (2009 và 2017) và các văn bản hướng dẫn Luật đã tạo ra cơ chế khá linh
hoạt và khuyến khích các bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp tăng cường
huy động các nguồn vốn vay trong và ngoài nước cho đầu tư công, nhất là đầu tư
xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ. So với Luật Quản lý nợ công năm 2009, Luật
năm 2017 quy định chặt chẽ quản lý nợ chính quyền địa phương, xác định rõ trách
nhiệm, điều kiện vay và trả nợ của chính quyền địa phương; bảo đảm tính thống
nhất, đồng bộ với các luật có liên quan, đặc biệt là Luật Đầu tư công năm 2014 và
Luật Ngân sách nhà nước năm 2015.
Thứ tư, cần đánh giá khả năng chịu đựng rủi ro trong quá trình xây dựng
chiến lược. Đánh giá mức độ rủi ro mà chính phủ sẵn sàng chấp nhận có thể thay
đổi theo thời gian, tùy thuộc vào quy mô danh mục nợ của chính phủ và khả năng
dễ tổn thương của chính phủ trước các cú sốc về kinh tế- tài chính. Chiến lược như
vậy bao gồm nhiều lựa chọn, trong đó có sự lựa chọn về thời gian đáo hạn, đồng
tiền vay nợ, các điều kiện về lãi suất vay,... Ngồi ra, cần có chiến lược đối với nợ

cơng bất thường, tuy chưa được hình thành cụ thể nhưng các khoản nợ cơng bất
thường có thể dẫn đến trách nhiệm tài chính hoặc khoản nợ hiện hữu trong điều
kiện nhất định. Nếu nợ công bất thường không được cơ cấu hợp lý và thiếu sự theo
dõi, kiểm sốt của chính phủ thì có thể gây ra những cú sốc làm gia tăng nợ cơng
nhanh chóng. Bên cạnh đó, cần có sự đánh giá cụ thể về ảnh hưởng của các nhân tố
vĩ mô tới nợ công. Việc đánh giá sự ảnh hưởng này không chỉ dựa vào các đánh giá
định tính mà cần được lượng hóa.
Thứ năm, cần nâng cao chất lượng thống kê và cung cấp thông tin trong
quản lý nợ công, xác định rõ phạm vi nợ công theo mục đích quản lý. Bổ sung
nghĩa vụ nợ dự phịng ngân sách nhà nước vào phạm vi nợ cơng, vì đó là các khoản
nợ phát sinh trong điều hành ngân sách nhà nước nhưng khơng bố trí được nguồn
trả và chính phủ phải vay để trả các khoản nợ này (nợ đọng xây dựng cơ bản của


ngân sách Trung ương và địa phương, các khoản nợ hoàn thuế giá trị gia tăng
(VAT), cấp bù chênh lệch lãi suất), hoặc phát sinh từ các khoản vay được chính phủ
bảo lãnh/cho vay lại trong trường hợp có rủi ro không trả được nợ và ngân sách
nhà nước phải bố trí nguồn trả nợ thay (đã là nợ hiện hữu). Theo IMF và WB
(2020), khoản vay được chính phủ bảo lãnh khơng thuộc phạm vi nợ cơng, nó được
coi như các khoản nợ dự phòng và chỉ nên ghi chép riêng dưới dạng khoản mục ghi
nhớ, bởi vì các khoản được chính phủ bảo lãnh chỉ trở thành nợ công trong trường
hợp các đối tượng được bảo lãnh không trả nợ vay đúng hạn và trong thực tế, điều
đó không phải lúc nào cũng xảy ra. Phạm vi nợ công nên quy định rõ đối với các
khoản nợ của Ngân hàng Nhà nước, nợ tự vay tự trả; các khoản tự vay tự trả, các
khoản phải trả của các doanh nghiệp nhà nước. Ngồi ra, cịn các khoản nợ tiềm
tàng (nợ bất thường) như nợ của doanh nghiệp nhà nước, nợ phát sinh từ việc giải
quyết các vấn đề cứu trợ, phá sản các tổ chức tín dụng, chi phí khắc phục hậu quả
thiên tai, phục hồi thiên tai và các khoản nợ tiềm tàng khác - tất cả đều là những rủi
ro tiềm ẩn cao đối với sự bền vững nợ công.




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×