Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Chuyen de Nhung loai dong vat o Tay Nguyen can duoc bao ve

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.79 MB, 21 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Chuyên đề 1: SỰ ĐA DẠNG CỦA ĐỘNG VẬT RỪNG TÂY NGUYÊN NỘI DUNG: 1. Đặc điểm của địa hình và khí hậu Tây Nguyên 2. Đặc điểm của rừng Tây Nguyên. 3. Sự đa dạng của động vật rừng Tây Nguyên. 4. Chính sách bảo vệ động vật và bảo vệ rừng của khu vực Tây Nguyên. 1. Đặc điểm của địa hình và khí hậu Tây Nguyên. 1.1 Đặc điểm của khí hậu Tây Nguyên. Khí hậu ở Tây Nguyên được chia làm hai mùa: - Mùa mưa từ tháng 5 đến hết tháng 10 - Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4, trong đó tháng 3 và tháng 4 là hai tháng nóng và khô nhất. Do ảnh hưởng của độ cao nên trong khi ở các cao nguyên cao 400-500 m khí hậu tương đối mát và mưa nhiều, riêng cao nguyên cao trên 1000 m (như Đà Lạt) thì khí hậu lại mát mẻ quanh năm như vùng ôn đới. 1.2 Đặc điểm của địa hình Tây Nguyên. Thực chất, Tây Nguyên không phải là một cao nguyên duy nhất mà là một loạt cao nguyên liền kề. Đó là các cao nguyên Kon Tum cao khoảng 500 m, cao nguyên Kon Plông, cao nguyên Kon Hà Nùng, Plâyku, cao khoảng 800 m, cao nguyên M’Đrăk cao khoảng 500 m, cao nguyên Buôn Mê Thuột cao khoảng 500 m, Mơ Nông cao khoảng 800-1000 m, cao nguyên Lâm Viên cao khoảng 1500 m và cao nguyên Di Linh cao khoảng 900-1000 m. Tất cả các cao nguyên này đều được bao bọc về phía Đông bởi những dãy núi và khối núi cao (chính là Trường Sơn Nam). Hình 1: Bản đồ địa hình Tây Nguyên Tây Nguyên lại có thể chia thành ba tiểu vùng địa hình đồng thời là ba tiểu vùng khí hậu, bao gồm: + Bắc Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Kon Tum và Gia Lai, trước là một tỉnh). + Trung Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông) + Nam Tây Nguyên (tương ứng với tỉnh Lâm Đồng). Trung Tây Nguyên độ cao thấp hơn và nền nhiệt độ cao hơn hai tiểu vùng phía Bắc và Nam..

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Tây Nguyên là vùng cao nguyên, giáp với Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia. Trong khi Kon Tum có biên giới phía tây giáp với cả Lào và Campuchia, thì Gia Lai, Đắk Lắk và Đắk Nông chỉ có chung đường biên giới với Campuchia. Còn Lâm Đồng không có đường biên giới quốc tế. 2. Đặc điểm của rừng Tây Nguyên. Rừng ở Tây Nguyên không chỉ lớn về diện tích mà còn có giá trị đặc biệt về chất lượng. Rừng là không gian sinh tồn của các dân tộc Tây Nguyên. Không một buôn, làng nào tách biệt khỏi rừng, đất rừng. Rừng không chỉ cung cấp cho cuộc sống hằng ngày mà còn là nền tảng của sản xuất, là văn hóa trong cuộc sống của đồng bào. Tây Nguyên có 2 loại rừng: Rừng rậm nhiệt đới, rừng khộp. Vì Tây Nguyên có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô, nơi có lượng mưa nhiều thì rừng rậm nhiệt đới phát triển, nơi có mùa mưa kéo dài thì xuất hiện loại rừng rụng lá vào mùa khô (rừng khộp).. .Hình 2: Rậm rạp nhiều loại cây với nhiều tầng, xanh tốt quanh năm. Hình 3: Thưa thường chỉ có một loại cây, rụng lá vào mùa khô.. Rừng ở Tây Nguyên chủ yếu là rừng khộp, cây rừng phát triển mạnh vào mùa mưa và rụng lá vào mùa khô. Vì cây lá rụng nhiều, ở mặt đất lại thường là các loại cỏ, le và cây con mọc dày đặc nên loại rừng này cực kỳ dễ cháy vào mùa khô..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Rừng khộp là nơi ở của các loài thú lớn như Voi, Nai, Mang, Bò rừng, Hổ và nhiều loài thú khác. Trong đó Hò rừng và Voi là các loài đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng và rất cần được bảo vệ. 3. Sự đa dạng của động vật rừng Tây Nguyên. Bộ sưu tập động vật ở Tây Nguyên và của cả nước được trưng bày tại 7 phòng ở Phân viên sinh học Đà Lạt gồm 378 mẫu thú của 58 loài, 242 mẫu chim của 94 loài, 42 mẫu lưỡng thê bò sát của 32 loài, 36 mẫu thú nuôi nhà của 22 loài và hơn 200 hộp mẫu của các loài côn trùng được sắp xếp theo từng loài, lớp, bộ, họ đi từ động vật phát triển cấp thấp đến cấp cao, từ động vật biển như: san hô, cua, ốc; loài lưỡng thê như trăn, rắn; động vật nuôi như gà, vịt, bò, cừu; lớp côn trùng; lớp chim; lớp thú rồi đến loài vật có não bộ phát triển ở bậc cao gần với con nguời như họ khỉ, hầu hay linh trưởng... Ở đây nhiều bộ sưu tập côn trùng độc đáo hoặc những loài động vật quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng được đưa vào sách đỏ như tê giác, cọp vằn Đông Dương... Bảo tàng còn trưng bày và giới thiệu hoạt động nghiên cứu trái đất và sao Kim thông qua 2 mô hình do Chính phủ Liên Xô tặng năm 1989. Ngoài ra, nơi đây còn giới thiệu 42 loại nấm có tác dụng tốt trong việc chữa bệnh đã được tìm thấy trên vùng đất Tây Nguyên này. LỚP THÚ (Mammalia) Bộ dơi (Chiroptera) Đặc điểm: - Thích nghi với vận chuyển bay, chi trước biến thành cánh. Ngón tay, trừ ngón một rất dài và căng màng da mỏng không lông. Màng da nối không chỉ chi trước với chi sau mà cả chi sau với đuôi. - Dơi phát siêu âm vơi tấn suất rất lớn với tần số 30.000 – 70.000 ha Nhờ tiếp nhận âm thanh vào tai, dơi có thẻ ước lượng khoảng cách xa của chướng ngại vật. - Thức ăn của dơi là sâu bỏ hoặc trái cây.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Họ dơi bao (Emballonuridae). Hình :Dơi bao đuôi (Taphozous) 2. Bộ gặm nhấm Đặc điểm: Mỗi nửa hàm răng có một đôi răng rất lớn, dài cong chìa ra ngoài, giúp cho con vật gặm thức ăn, không có chân răng, thiếu răng nanh, giữa răng cửa và răng hàm có khoảng trống không răng. - Bán cầu não nhỏ và thiếu rãnh, thuỳ khướu giác lớn. - Sinh sản rất nhanh Họ nhím (Hystricidas). Hình :Nhím (Acanthion).

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Họ sóc cây (Sciuridae). Hình :Sóc chân vàng (Callosciurus) Họ sóc bay (Pteromyidae). Hình: Sóc bay sao (Petaurista elegans ).

<span class='text_page_counter'>(6)</span> 3. Bộ thỏ (Lagomorpha) Đặc điểm: Có bộ răng giống gặm nhấm, chỉ khác là hàm trên có đôi răng cửa, manh tràng lớn, có những nếp xoắn Rừng Tây Nguyên chỉ có một họ thỏ (Leporidae). Hình: Thỏ xám (Lepus nigricollis).

<span class='text_page_counter'>(7)</span> 4. Bộ ăn thịt (Carnivora) Đặc điểm: Răng nanh lớp, nhọn, răng hàm có gờ dẹp, sắc và răng cửa nhỏ. Vuốt lớn. Thiếu xương đòn. Bán cầu não rất phát triển, vỏ não có nhiều rãnh.. Họ chó (Cani Hình: Chó sói đỏ (Cuon alpinis) Họ gấu (Ursidae). Hình Gấu chó (Ursus thibetanus). Hình: Gấu ngựa (Ursus malayanus).

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Họ chồn (mustelidae). Hình: Chồn bạc má (Malogale personata). Hình: Lửng lợn (Arctonyx collaris). Hình: Chồn vàng (Martes haviguta). Hình: Rái cá (Lutra lutra). Hình: Triết bụng vàng (Mustela) Họ Cầy lỏn (Herpestidae).

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Hình: Lỏn tranh (Herpestes javanicus) Họ cầy (Viverridae). Hình: Cầy mực (Arctictis binturong) Hình: Cầy hương (Viverricula indica). Hình: Cầy gấm (Prionodon pardicolor). Hình: Cầy giông (Viverra zibetha).

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Hình: Cầy vòi đốm (Paradosurus hermaphroditus). Hình: Cầy hương (Viverricula indica). Hình: Cầy tai trắng (Arctogalidia trivirgata). Hình: Cầy vằn bắc (Chorotogale owstoni).

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Họ mèo (felidae). Hình: Báo gấm (Neofelis nebulosa). Hình: Báo hoa mai (Panthera pardus). Hình: Linh miêu (Lynx lynx). Hình: Mèo rừng (Felis bengalensis). Hình: Hổ (Panthera tigris). Hình: Báo hoa mai (Panthera pardus).

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Hình: Mèo rừng (Felis bengalensis) 5. Bộ guốc ngón lẻ (Perissodactyla) Đặc điểm: Gồm những thú guốc lớn, ăn thực vật, chân có ngón thứ ba phát triển hơn cả, các ngón khác nhỏ hoặc tiêu giảm tuỳ theo nhóm thú, phụ thuộc vào mức độ thích nghi với sự chảy nhanh. Đốt ngón chân cuối cùng có guốc rất phát triển. Không có xương đòn. Họ ngựa (Equydae). Hình: Ngựa nhà (Equus caballus ).

<span class='text_page_counter'>(13)</span> 6. Bộ guốc ngón chẵn (Artiodactyla) Đặc điểm: Gồm những loài thú có guốc lớn, ăn thực vật, ngón III và IV phát triển bằng nhau, ngón I thiếu, ngón II và V nhỏ hoặc thiếu. Không có xương đòn. Họ Cheo cheo (Tragulidae). Hình: Cheo cheo (Tragulus javanicus) Họ hươu nai (Cervidae). Hình: Hươu cà tông (Cervus eldi). Hình: Hươu sao (Cervus nippon).

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Hình: Hươu vàng (Cervus porcinus). Hình: Hoẵng (Muntiacus muntjak). Họ lợn (Suidae). Hình: Lợn rừng (Sus scrofa). Hình: Sơn dương (Capricornis sumatraensis). Hình: Họ sừng rỗng (Bovidae). Hình: Bò rừng (Bos banteng).

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Hình: Trâu rừng (Babalus bubalis) 7. Bộ voi (Proboscidae) Đặc điểm: có mũi và môi trên tạo thành vòi, hai răng cửa trên tạo thành ngà. Thân nặng nề, chân có 5 ngónvà phụ guốc nhỏ. Voi chỉ có một răng hàm ở mỗi bên, răng này có mặt nhai phẳng và khi mòn có răng khác thay thế.. Hình: Voi châu Á (Elephas maximus).

<span class='text_page_counter'>(16)</span> 8. Bộ linh trưởng (Primates) Đặc điểm: Gồm những loài thú đi bằng bàn chân, thích nghi với đới sống trên cây. Ngón chân cái đối diễn với các ngón khác thích nghi với sự cầm nắm và leo trèo. Hộp sọ tương đối lớn, ổ mắt hướng vwf phía trước. Não bộ có vòm não mới phát triển. Thường đẻ một con, con non yếu. Họ Vượn (Hylobatidae). Hình: Vượn đen má trắng Hình: Chà vá chân đỏ (Nomascus leucogenys leucogenys) (Pygathrix nemaeus nemaeus ) Họ khỉ -voọc (Cercopithecidae). Hình: Voọc chà vá chân xám (Pygathrix cinerea). Hình: Vượn đen má vàng (Nomascus gabriellae).

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Họ vượn (Hylobatidae). Hình: Vượn mông trắng Hình: Vượn mào đen phương Đông (Trachypithecus delacouri ) (Nomascus nasutus Viện sinh học Tây Nguyên hiện nay đang trưng bày một số mẫu thú quý hiếm của Việt Nam duy nhất chỉ có ở đây như cầy giông sọc, sóc bay sao, hoãng bạch tạng, sóc đỏ quế, báo lửa xám.. Hình: Sóc bay sao (Petaurista elegans). Hình: Báo lửa xám (Catopuma temmincki). Hình: Cầy giông sọc (Viverra megaspila.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Những mẫu vật có ở Bảo tàng đã làm thay đổi nhận định về sự phân bố của một số loài thú như: Số lượng mẫu mang lớn (loài thú mới được phát hiện ở Vũ Quang (Hà Tĩnh) năm 1993) ở Bảo tàng chứng tỏ loài này rất phổ biến ở Lâm Đồng, cho thấy khu vực Nam Tây Nguyên là vùng phân bố chủ yếu của mang lớn.. Hình: Mang lớn ( Megamuntiacus vuquangensis) Một số loài thú quý hiếm có số lượng rất ít trong thiên nhiên ở các vùng khác trong nước, nhưng qua số lượng mẫu ở Bảo tàng chứng tỏ chúng có số lượng khá ở Lâm Đồng như: Gấu chó, sói đỏ, chồn dơi, cầy mực.. Cầy mực (Artictis binturong).

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Một danh sách đỏ được Phân viện giới thiệu gồm các loài động vật quí hiếm đang bị đe doạ tuyệt chủng như: Gấu ngựa, Vượn má hung, Sóc bay sao, Sói đỏ, Hổ, Báo hoa mai, Cầy giông sọc,… đến các loài mà trong tương lai có nhiều nguy cơ biến mất khỏi thế giới tự nhiên như: Sơn dương, Mèo gấm, Báo gấm, Beo lửa, Tê giác,…. Hình: Tê giác một sừng Hình: Tê giác hai sừng (Rhinoceros sondaicus) (Rhinoceros sumatrensis ) Một danh sách đỏ cũng được Bảo tàng giới thiệu, từ các loài đang nguy cấp (đang bị đe doạ tuyệt chủng) như Gấu ngựa, Mang lớn, Cầy vằn bắc, Vượn má hung, Sóc bay sao, Sói đỏ, Cầy Giông sọc, Gấu chó, Hổ, Báo hoa mai,... đến các loài sẽ nguy cấp (có thể bị đe doạ tuyệt chủng) như Sơn dương, Cầy mực, Mèo gấm, Báo gấm, Beo lửa, Rái cá vuốt bé, Kỳ đà nước, Vọc vá chân đen, Lửng lợn,.... Mèo gấm (Pardofelis marmorata ).

<span class='text_page_counter'>(20)</span> 4. Chính sách bảo vệ rừng và bảo vệ động vật rừng Tây Nguyên. 4.1 Chính sách bảo vệ rừng Rừng là một thế mạnh của khu vực Tây Nguyên, nhưng hiện nay rừng Tây Nguyên ngày càng bị suy kiệt do hoạt động khai thác rừng bừa bãi và tình trạng cháy rừng xảy ra tại các tỉnh Tây Nguyên. Năm 1980, tổng diện tích rừng của Tây Nguyên có 3.868.400 ha, chiếm 70,66% tổng diện tích tự nhiên. Nhưng từ năm 1980 đến 1995, trung bình mỗi năm Tây Nguyên "xóa sổ" 120 nghìn ha rừng. Rừng giàu và trung bình giảm 75%, rừng nghèo tăng 109%. Từ năm 1995 đến nay, mỗi năm không dưới 45 nghìn ha rừng bị phá. Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của rừng đối với sự phát triển bền vững của vùng Tây Nguyên, trong Quyết định 168/2001/QÐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội Tây Nguyên 2001-2005 đã đặt ra yêu cầu "phát triển mạnh lâm nghiệp Tây Nguyên là nhiệm vụ trước mắt và lâu dài... nâng độ che phủ lên 65% vào năm 2010". Gần đây, Ðảng, Nhà nước đề ra chủ trương xã hội hóa nghề rừng, Chính phủ đã có quyết sách mạnh mẽ trong việc huy động đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ tham gia vào quá trình xã hội hóa nghề rừng theo hướng bền vững, Quyết định 304/2005/QÐ-TT ra ngày 23/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm giao rừng, khoán bảo vệ rừng cho hộ gia đình và cộng đồng trong buôn làng đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên. Đến nay, các tỉnh ở Tây Nguyên đã giao 2.158.582 ha rừng. Trong đó giao cho tổ chức kinh tế 1.018.777 ha rừng; Ban quản lý rừng 950.417 ha; lực lượng vũ trang 126.561 ha, cá nhân 38.996 ha và các thành phần khác nhận 23.832 ha. Thực hiện dự án trồng mới năm triệu ha rừng trong 4 năm đã trồng được 1.383.866 ha rừng; khoanh nuôi tái sinh 80.390 ha rừng; trồng rừng phòng hộ, rừng đặc dụng 10.985 ha; trồng rừng sản xuất 38.581 ha; chăm sóc 16.582 ha rừng Chính sách bảo vệ động vật : Hiện nay trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên tập trung đến 13 khu bảo tồn thiên nhiên và rừng quốc gia, nhiều nhất trong cả nước, chiếm 2/3 trong hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam. Đây cũng là nơi có đa dạng sinh học lớn nhất, tập trung phần lớn số loài động vật hoang dã ở Việt Nam (718 loài, trong đó: thú 105, bò sát: 94, lưỡng cư: 48, chim: 375…). Nhưng lâu nay, ở Tây Nguyên, hễ có trường hợp thú quý hiếm nào bắt giữ được, ngành chức năng đều chuyển giao ngược cho Trung tâm Cứu hộ, Vườn quốc gia Cúc Phương. Việc chuyển giao này vừa thiếu khoa học, gây.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> tốn kém tiền của lại bất lợi cho động vật. Điều này đưa đến đòi hỏi phải có một trung tâm cứu hộ động vật ở Tây Nguyên. Do nhiều tác động của con người và sự biến đổi của môi trường, các loài động vật ở Tây Nguyên ngày bị giảm sút về số lượng cũng như thành phần loài. Tại Khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô (Daklak) do nạn săn trộm và sự tàn phá rừng, các loại động vật quý hiếm của khu đa dạng sinh học này như bò tót, bò rừng chỉ còn tồn tại rất ít, loài hổ và hươu đầm lầy là động vật rất quý ở đây nay cũng không còn. Đặc biệt ở Tây Nguyên cuộc sống của loài hổ đang bị đe dọa và số lượng bị giảm đáng kể..

<span class='text_page_counter'>(22)</span>

×