Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc. Liên hệ đến việc phát huy vai trò của sinh viên trong công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.99 KB, 29 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

BÁO CÁO BÀI TẬP LỚN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Giảng viên: Phan Thị Thanh Hương

Tp Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 04 năm 2021


MỞ ĐẦU
Lịch sử cách mạng của nước ta hơn 80 năm qua gắn liền với tên tuổi sự
nghiệp, tư tưởng và đạo đức Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người anh hùng
dân tộc vĩ đại, nhà tư tưởng lỗi lạc của cách mạng Việt Nam. Trong lịch sử dựng
nước và giữ nước, dân tộc ta đã sản sinh ra biết bao tên tuổi vĩ đại nhưng khơng
ai có sự nghiệp lừng lẫy như Chủ tịch Hồ Chí Minh, khơng ai có được tầm vóc
thời đại, được thế giới ca ngợi và thừa nhận như Hồ Chí Minh. Địa vị có một
khơng hai trong lịch sử dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được xác lập và
củng cố vững chắc nhờ công lao to lớn và sự nghiệp vĩ đại mà Người đã cống
hiến cho cách mạng Việt Nam. Công lao to lớn, sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đưa Người lên địa vị người anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà
tư tưởng, nhà lí luận sáng tạo của chủ nghĩa Mác-LêNin được các dân tộc đang
đấu tranh giải phóng và nhân loại tiến bộ hết lòng ca ngợi và khâm phục.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc cũng là giải phóng
giai cấp, giải phóng con người chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh . Đây cũng là vấn đề cơ bản của đường lối cách mạng Việt
Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người vừa là sự kết hợp tinh hoa văn hóa dân tộc và trí tuệ
thời đại, vừa thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ sáng tạo của người trong việc vận
dụng những nguyên lý phổ biến của Chủ nghĩa Mac Lênin vào hoàn cảnh Việt
Nam. Chính vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, giải


phóng giai cấp, giải phóng con người được coi là bước phát triển mới học thuyết
Mac Lênin về cách mạng thuộc địa ở thời điểm các dân tộc bị áp bức vùng lên
đấu tranh cho độc lập, tự do.
Vì vậy chúng em xem đây là nội dung rất đáng quan tâm, cần thiết làm và
hiểu rõ tư tưởng này của Hồ Chủ tịch.


1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHĨNG DÂN TỘC
1.1. Tính chất, nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc
1.1.1. Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng giải phóng dân tộc
Dưới ách thống trị của các đế quốc thực dân phương Tây, ở các xã hội thuộc
địa nổi lên hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn dân tộc (giữa dân tộc thuộc địa với
đế quốc phương Tây đang áp bức họ) và mâu thuẫn giai cấp (chủ yếu là giữa
nông dân với địa chủ). Trong đó, mâu thuẫn dân tộc là mâu thuẫn chủ yếu, bao
trùm, đòi hỏi phải được tập trung giải quyết trước. Nhận thức sâu sắc hiện thực
lịch sử này, trong nhiều bài nói, bài viết đề cập đến vấn đề cách mạng thuộc địa,
Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh tính chất và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
thuộc địa là giải phóng dân tộc. Trong tư duy chính trị của Hồ Chí Minh, giải
phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp và giải phóng con
người.
Đưa phong trào yêu nước giải phóng dân tộc của nhân dân ta vào quỹ đạo của
phong trào cách mạng vơ sản thế giới, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc rằng:
Con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Người cho rằng: con đường, chiến lược, sách lược cách mạng mỗi
nước là tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội ở
nước đó quyết định. Nhiệm vụ cốt tử hàng đầu của các dân tộc trên bán đảo
Đông Dương là phải giành cho được độc lập, tự do từ tay thực dân Pháp và bè lũ
tay sai. Sự nghiệp giải phóng dân tộc ấy theo Hồ Chí Minh là hồn tồn khơng lệ
thuộc cách mạng ở chính quốc Pháp.
Trong Chánh cương, sách lược vắn tắt do mình khởi thảo và được Hội nghị

thành lập Đảng 3/2/1930 thơng qua, Hồ Chí Minh đã vạch những vấn đề hết sức
cơ bản về con đường, chiến lược, sách lược cho cách mạng Việt Nam. Những nội
dung cụ thể của chính cương sách lược đã thể hiện sự sáng tạo rất lớn và rất tinh
tế của Hồ Chí Minh trong việc xử lý mối quan hệ giữa chỉ đạo của Quốc tế Cộng
sản với điều kiện thực tiễn cụ thể ở Việt Nam. Chánh cương do Hồ Chí Minh
trình bày có đoạn: “a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến.

b)

Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập. c) Dựng ra chính phủ cơng nơng
binh. d) Tổ chức ra qn đội cơng nơng”. Hồ Chí Minh nhận định: ở Việt Nam


bọn tư bản Pháp đã thâu tóm tồn bộ nền kinh tế, nên “... tư bản bản xứ khơng có
thế lực gì, ta khơng nên nới cho họ đi về phe đế quốc được. Chỉ có bọn đại địa
chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa”. Như vậy trong tư
duy của Hồ Chí Minh để tập trung phân hố, cơ lập kẻ thù, huy động lực lượng ở
mức tối đa Người không xếp nhiệm vụ chống giai cấp địa chủ, đưa lại ruộng đất
cho nông dân ngang hàng với nhiệm vụ chống đế quốc và bọn đại địa chủ tay
sai. Người quan niệm: đánh đổ sự thống trị của đế quốc thực dân Pháp và bè lũ
tay sai, giải phóng dân tộc tức là đã thực hiện một phần rất quan trọng cuộc đấu
tranh giải phóng giai cấp. Coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận không tách
rời phong trào cách mạng của thế giới, Người chỉ rõ: “... trong khi tuyên truyền
khẩu hiệu An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị
áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất và vô sản giai cấp Pháp”.
Mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa là mâu thuẫn dân tộc, quy định tính chất và
nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ở thuộc địa là giải phóng dân tộc.
Trong tác phẩm Đảng cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc phân biệt ba loại cách
mạng : cách mạng tư sản, cách mạng vơ sản và cách mạng giải phóng dân tộc ;
đồng thời, Người nhấn mạnh tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là

cách mạng giải phóng dân tộc. Người giải thích:
Giai cấp nơng dân là bộ phận có số lượng lớn nhất trong dân tộc nên giải
phóng dân tộc chủ yếu là giải phóng nơng dân. Nơng dân có u cầu về ruộng
đất nhưng nhiệm vụ ruộng đất cần tiến hành từng bước thích hợp. Khi đánh đổ
ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, u cầu đó đã được đáp ứng một phần vì
ruộng đất của bọn đế quốc và tay sai sẽ thuộc về nông dân. Đế quốc và tay sai là
kẻ thù số một của nông dân, lật đổ chế độ thuộc địa là nguyện vọng hàng đầu của
nông dân.
1.1.2. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc
Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm lật đổ sự thống trị của chủ nghĩa đế
quốc, giành độc lập dân tộc và giành chính quyền về tay nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh: “Mục tiêu cấp thiết của cách mạng ở thuộc địa chưa phải
là giành quyền lợi chung của toàn dân tộc”.


Ðối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong điều kiện một nước thuộc địa nửa phong
kiến, lực lượng giải phóng dân tộc là lực lượng tồn dân, trong đó liên minh
cơng nơng làm nịng cốt. Do đó, Ðảng phải giáo dục và tổ chức toàn dân đứng
lên làm cách mạng. Bác Hồ đề ra chiến lược đại đoàn kết toàn dân dưới ngọn cờ
cứu nước, giải phóng dân tộc để tập hợp tất cả mọi người dân Việt Nam yêu
nước, "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta". Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh,
đồn kết tồn dân tộc là sức mạnh vô địch. Ở giai đoạn đầu của cách mạng,
Ðảng phải tập trung lãnh đạo toàn dân làm cách mạng giành độc lập dân tộc.
Ðầu năm 1941, sau 30 năm bơn ba ở nước ngồi, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về
nước chủ trì Hội nghị T.Ư 8, đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu và thành
lập Mặt trận Việt Minh để tập hợp lực lượng, đoàn kết toàn dân, phát động nhân
dân vùng dậy đấu tranh giành chính quyền. Người chỉ rõ: Giải phóng dân tộc là
nhiệm vụ, mục tiêu hàng đầu của cách mạng. Bởi vì, "nếu khơng giải quyết được
vấn đề dân tộc, khơng địi được độc lập tự do cho tồn thể dân tộc, thì chẳng
những tồn thể dân tộc cịn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi giai cấp đến

vạn năm sau cũng khơng địi lại được (Văn kiện Ðảng, Tồn tập, t3, tr.48). Bác
Hồ nói, dù có phải đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập.
1.2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản.
1.2.1. Rút bài học từ sự thất bại của các con đường cứu nước trước đó:
Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, ông cha ta đã sử
dụng nhiều con đường gắn với những khuynh hướng chính trị khác nhau, sử
dụng những vũ khí tư tưởng khác nhau.
Tất cả các phong trào yêu nước vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, mặc dù
đã diễn ra vô cùng anh dũng, với tinh thần "người trước ngã, người sau đứng
dậy", nhưng rốt cuộc đều bị thực dân Pháp dìm trong hiển máu. Đất nước lâm
vào "tình hình đen tối tưởng như khơng có đường ra". Đó là tình trạng khủng
hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Nó đặt ra yêu cầu
bức thiết phải tìm một con đường cứu nước mới.


Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đã bị biến thành thuộc địa, nhân
dân phải chịu cảnh lầm than. Hồ Chí Minh được chứng kiến các phong trào cứu
nước của ông cha. Người nhận thấy con đường của Phan Bội Châu chẳng khác
gì "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau": con đường của Phan Châu Trinh cững
chẳng khác gì "xin giặc rủ lịng thương" ; con đường cùa Hồn Hoa Thám tuy có
phần thực tế hơn nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong kiến.
Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng
Hồ Chí Minh không tán thành các con đường của họ mà quyết tâm ra đi tìm một
con đường mới.
1.2.2. Cách mạng tư sản là không triệt để:
Trong khoảng 10 nă vượt qua các đại dương, đến với nhân loại cần lao đang
tranh đấu ở nhiều châu lục, quốc gia trên thế giới. người đã kết hợp nghiên cứu
lý luận và thực tiễn 3 cuộc Cách mạng điển hình: Cách mạng Mỹ 1776, Cách
mạng tư sản Pháp 1789 và cuối cùng là Cách mạng tháng 10 Nga. Người đọc

“Tuyên ngôn độc lập” của nước Mỹ, “Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền”
của Cách mạng Pháp. Người nhận thấy: Cách mạng Pháp cũng như Cách mạng
Mỹ đều là Cách mạng tư sản, Cách mạng không đến noi,tiếng là Cộng hịa dân
chủ, kỳ thực trrong đó thì tước lục cơng nong, ngồi thì áp bức thuộc địa, cơng
nhân nổi dậy khắp nơi. Chúng ta đã hy sinh làm cách mạng thì làm dến nơi, làm
sao khi cách mạng rồi thì quyền giao lại cho dân chúng số nhiều, thế thì dân
chúng khỏi phải hy sinh nhiều lần, dân chúng mới hạnh phúc. Bởi lẽ đó, Người
khơng đi theo con đường cách mạng tư sản.
1.2.3. Con đường giải phóng dân tộc
Hồ Chí Mình thấy được Cách mạng tháng 10 Nga khơng chỉ là một cuộc cách
mạng vơ sản, mà cịn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm
gương sang về sự gairi phóng các dân tộc thuộc địa và “ mở ra trước mắt họ thời
đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”.
Cách mạng tháng 10 Nga thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử
nhân loại – Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa từ bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
tồn thế giới. Thành cơn của Cách mạng tháng 10 Nga đã ảnh hưởng to lớn và
sâu sắc đến phong trào Cách mạng trên thế giới nói chung và Cách mạng Việt


Nam nói riêng. Những ảnh hưởng to lớn và sâu sắc đố đã được chủ tịch Hồ Chí
Minh nhận thức rất đầy đủ và hướng phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam đi
theo. Nhận xét của Người được thể hiện tập trung trong tác phẩm “ Đường kách
mệnh” và tác phẩm “Cách mạng tháng 10 vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho
dân tộc”. Trước hết chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra tính triệt để của Cách mạng
tháng 10 Nga “ Trong thế giới bây giờ chỉ có Cách mạng tháng 10 Nga là đã
thành cơng đến nơi”. Tính triệt để của Cách mạng tháng 10 Nga đã được chủ tịch
Hồ Chí Mình nhận thức rất sâu sắc. Đó là, chính quyền thuộc về tay đại đa số
quần chúng nhân dân lao động. Nếu chính quyền cịn nằm trong tay “một bọn ít
người” – bọn tư bản, thì cách mạng khơng triệt để, “ chưa dến nơi”. Bên cạnh
đó, theo chủ tịch Hồ Chí Minh tính triệt để của một cuộc cách mạng còn thể hiện

ở chỗ: giải phóng nhân dân lao động khỏi ách áp bức, bóc lột một cách triệt để
và đem lại hạnh phúc, tự do và bình đẳng thực sự cho họ. Điều này, sau này,
dược Người thể hiện dưới dạng khát vọng lớn lao: “Tơi chỉ có một ham muốn,
ham muốn đến tột bực là làm sao nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành”. Nhận xét này của chủ tịch Hồ Chí Minh đã lóe sang khát vọng về xã hội
tương lai- xã hội XHCN.
Từ nhận thức về tính triệt để của Cách mạng tháng 10 Nga, chủ tịch Hồ Chí
Mình đã khẳng định: “ Cách mạng Việt Nam muốn thành công phải đi theo con
đường cách mạng vô sản”. Đây là một trong những bài học thành công của Cách
mạng tháng 10 Nga. “Tinh thần cách mạng triệt để”, theo Bác, một là tiến công
kẻ thù một cách triệt để, hai là, thái độ tình thần dung cảm, kiên quyết đấu tranh,
không ngại gian khổ hy sinh- Người chỉ rõ: ”luôn giương cao ngọn cờ của chủ
nghĩa anh hung cách mạng, không sợ gian khổ, hy sinh, kiên quyết đấu tranh đến
cùng vì độc lập dân tộc, vì CNXH”. Vận dụng bài học này vào Việt Nam, người
chỉ rõ: “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho được độc
lập”. – Cách mạng tháng 8; “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không
chịu mất nước, khơng chịu làm nơ lệ” – Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến;
“Chúng ta quyết khơng sợ... Khơng có gì quý hơn độc lập tự do” – Kháng chiến
chống Mỹ cứu nước.


“Kết hợp chặt chẽ long yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản” . Bài học này
được chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng một cách khá nhuần nhuyễn vào cách
mạng Việt Nam. Trong quá trình tiến hành Cách mạng giải phóng dân tộc cũng
như trong Cách mạng XHCN, một mặt chúng ta tranh thủ sự giúp đỡ của quốc
tế, mặt khác chúng ta cũng thực hiện tốt nghĩa vụ quốc tế đối với các nước anh
em ( Lào, Campuchia, ...) và thế giới. Về bài học này, Người chỉ rõ: “…trong
thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của
cách mạng vơ sản, trong phạm vi tồn thế giới, Cách mạng giải phóng dân tộc

phát triển thành Cách mạng XHCN thì mới giành được thắng lợi hồn tồn”.
Lích sử Việt Nam chứng minh nhận dịnh trên của Người là hoàn toàn đúng đắn.
Tiếp xúc với luận cương của Lê Nin, Người “ hoàn toàn tin theo Lê-nin và
Quốc tế thứ ba” chính vì họ đã “ bênh vực cho các dân tộc bị áp bức”, Người tìm
thấy ở đó con đường giải phóng dân tộc và chỉ rõ: Các đế quốc vừa xâu xé thuộc
địa, vừa liên kết nhau đàn áp Cách mạng thuộc địa, thuộc địa cung cấp của cải và
binh lính đánh thuê cho dế quốc để đàn áp cách mạng chính quốc và thuộc địa.
Vì thế giai cấp vơ sản chính quốc và thuộc địa có chung một kẻ thù và phải biết
hỗ trợ nhau chống đế quốc. Người ví chủ nghĩa đế quốc như con đỉa hai vịi, một
vịi cắm vào chính quốc, một vịi vươn sang thuộc địa, muốn giết nó thì phải cắt
hai vịi, phải phối hợp cách mạng chính quốc với thuộc địa. Cách mạng giải
phóng thuộc địa và Cách mạng chính quốc là hai cánh của cách mạng vô sản,
muốn cứu nước giải phóng dân tộc khơng có con đường nào ngồi cịn đường
Cách mạng vơ sản.
Trong bài Cuộc kháng Pháp, Hồ Chí Minh viết:” Chỉ có gaiir phóng giai cấp
vơ sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả phai cuộc giải phóng này chỉ có thể là
sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của Cách Mạng thế giới”.
Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà Cách mạng có
xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Mình đã đến với học thuyết cách mạng của
Chủ nghĩa Mác-Lê nin và lựa chọng khuynh hướng chính trị vơ sản. Người
khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào
khác ngồi con đường cách mạng vơ sản”,”…chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa


cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động
trên thế giới khỏi ách nơ lệ.
Chủ tịch Hồ Chí Mình đã khẳng định” Giống như mặt trời chói lọi, CM tháng
10 chiếu sang năm châu, thức tỉnh hang triệu người bị áp bức, bóc lột trên Trái
đất. Trong lịch sử lồi người, chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn
và sâu xa như thế”.

1.3. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản
lãnh đạo:
Nguyễn Ái Quốc phân tích: “Phàm làm việc gì cũng vậy, bất kì lớn bé, bất kỳ
khó dễ, nếu khơng ra sức thì chắc khơng thành cơng… việc giải phóng gông cùm
nô lệ cho đồng bào, nhân loại là việc to tát nên phải gắng sức. “Việc gì khó cho
mấy, quyết tâm làm thì làm chắc được, ít người làm khơng nổi, nhiều người đồng
tâm hiệp lực làm thì phải nổi. Đời này làm chưa xong thì đời sau nối theo làm thì
phải xong”. Muốn làm các mạng thì phải bền gan, đồng chí, đồng lịng và quyết
tâm, “lại phải biết cách làm thì làm mới chóng”. Ý Người là muốn thành cơng ở
việc gì trước hết phải có ý chí kiên định, vững vàng, quyết tâm cao độ, sau đó
muốn làm cho hiệu quả phải tìm tịi, học hỏi thêm. Người cịn nói thêm muốn
làm cách mệnh, trước phải làm cho dân giác ngộ… phải giảng giải lý luận và chủ
nghĩa cho dân hiểu. Và sứ mệnh đó quan trọng đó là của Đảng Cộng sản Việt
Nam và ngồi Đảng Cộng sản Việt Nam ra cũng khơng cịn tổ chức nào có đủ uy
tín, tài trí để thực hiện cả.
Đầu năm 1930, Người sáng lâp Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính đảng của
giai cấp cơng nhân và dân tộc Việt Nam. Kết hợp lý luận Mac - Lenin về Đảng
Cộng sản với thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chủ Tịch đã vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mac - Lenin trên một loạt vấn đề về cách mạng giải
phóng dân tộc, xây dựng nên một khý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Lý
luận đó không chỉ được truyền bá trong phong trào công nhân, mà cả trong
phong trào yêu nước, giải quyết vấn đề đường lối cứu nước gắn liền với sự
chuẩn bị những điều kiện về tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự ra đời một
chính đảng cách mạng ở Việt Nam.


Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp vô sản, đồng thời cũng là đảng
của dân tộc Việt Nam. Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nên
Đảng hướng tới lợi ích đầu tiên tới chính người dân ta. Người dân cũng vì đó mà
hăng hái tham gia công việc, tận tâm tận lực phụng sự tổ quốc. Đảng cũng là cầu

nối gắn kết chặt chẽ khối đại đồn kết dân tộc, khơng phân chia nghề nghiệp,
vùng miền,… mọi người Việt Nam yêu nước dù có là đảng viên hay khơng đều
thật sự cảm nhận được Đảng Cộng sản Việt Nam như là Đảng đại diện cho
chính mình.
Chỉ có Đảng Cộng sản mới thực sự hiểu người dân cần gì, muốn gì và sẽ làm
gì để mang lại những điều tốt đẹp đến cho nhân dân. Bời lẽ ngay từ khi mới ra
đời, Đảng đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh toàn bộ giai cấp trong cả nước.
Điều này là một đặc điểm rất riêng và nổi bật của Đảng ta.
Cho đến nay hơn 90 năm thành lập, Đảng vẫn là ngọn cờ lãnh đạo duy nhất
đối với dân tộc ta và tiếp tục đưa dân tộc đạt được những thành tựu to lớn về mọi
mặt. Dẫu có lúc Đảng có những chính sách không phù hợp, đường lối sai lầm
nhưng ngay lập tức đã nhận ra lỗi và kịp thời sửa đổi để phát triển và hồn thiện
hơn. Nhìn chung nếu khơng phải là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo mà là một
Đảng khác thì chắc chắn đất nước ta sẽ khơng thể có được như ngày hơm nay và
trong tương lai vẫn vững tin một lòng Đảng Cộng sản sẽ đem đến những vinh
quang tiếp theo cho nước nhà.
1.4. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm tồn dân tộc.
Về cách mạng giải phóng dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cuối thế kỷ
XIX thực dân Pháp xâm lược và đặt ách thống trị ở nước ta, biến nước ta thành
một nước nữa thuộc điạ nữa phong kiến, lúc này xã hội Việt Nam có hai mâu
thuẫn lớn: mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc thực dân và bọn tay sai;
mâu thuẫn giữa nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến. Như vậy, mâu thuẫn
chủ yếu của các nước thuộc địa lúc bây giờ là mâu thuẫn dân tộc nên nhiệm vụ
hàng đầu là giải phóng dân tộc. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là chống
đế quốc giành độc lập dân tộc. Như vậy cách mạng giải phóng dân tộc là cách


mạng nhằm đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành độc lập
cho dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân. Để thực hiện thành công, mục

tiêu nhiện vụ của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới theo Hồ
Chí Minh cần phải:
Thứ nhất, cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi triệt để phải đi
theo con đường cách mang vô sản. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tình hình thế
giới thay đổi, chủ nghĩa đế quốc ra đời và chúng cấu kết với nhau tiến hành xâm
lược, cai trị, áp bức bóc lột và nơ dịch dân tộc thuộc địa. Năm 1917, với thắng
lợi Cách mạng Tháng Mười Nga, thời đại mới được mở ra đó là thời đại quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, từ thực tiễn thành cơng cách
mạng Nga chứng minh chính sự đồn kết của giai cấp Vô sản dưới sự lãnh đạo
thống nhất của phong trào cách mạng thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc
mới giành thắng lợi. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam là một bộ phận
của cách mạng thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam phát triển góp
phần quan trọng vào phát triển chung của cách mạng thế giới. Trên thế giới chỉ
có cách mạng Nga là cuộc cách mạng đến nơi đến chốn, nhắc nhở chúng ta
muốn cách mạng thành công phải lấy dân làm gốc. Người khẳng định, muốn cứu
nước, giải phóng dân tộc thì cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường Cách
mạng vô sản, theo cách mạng Nga, theo chủ nghĩa Mác – Lênin “Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng
vơ sản” (Hồ Chí Minh, tồn tập, Nxb. CTQG H, 2011, tập 9, tr.30).
Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi phải do đảng
Cộng sản lãnh đạo. Người nói “Cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh...
Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng... Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa làm nịng cốt... Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” (Hồ
Chí Minh, tồn tập, Nxb CTQG H. 2011, tập 2, tr.289). Như vậy, theo Người
cách mạng phải do đảng cộng sản lãnh đạo, từ đó xác định mục tiêu, xây dựng
đường lối, xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất, tập hợp lực lượng chống đế
quốc chống phong kiến, giành độc lập dân tộc, mang lại hạnh phúc và tự do cho
nhân dân.



Thứ ba, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đồn kết tồn dân, trên cơ
sở liên minh cơng nơng làm nịng cốt. Nguyễn Ái Quốc viết “là việc chung của
cả dân chúng chứ không phải việc một hai người” (Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG
H, 2011, tập 2, tr.283). Vì vậy, phải tập hợp, đồn kết tồn dân, sĩ, nông, công,
thương, nhưng vẫn không quên nhắc nhở cái cốt vẫn là công – nông Nguyễn Ái
Quốc khẳng định: “Công nông là người chủ cách mệnh... Công nông là gốc cách
mệnh” (Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG H, 2011, tập 2, tr.288). Nơng dân ln có ý
thức và sẵn sàng tham gia cách mạng, vì trong xã hội họ là những người chịu
nhiều tầng áp bức, bị bần cùng hóa, và cách mạng giải phóng dân tộc là sự
nghiệp tồn dân nên phải có sự tham gia của họ. Mặc dù vai trị, sứ mệnh của
giai cấp nơng dân được đánh giá cao, nhưng Người khẳng định giai cấp lãnh đạo
cách mạng là giai cấp công nhân. Nên Đảng phải xây dựng liên minh cơng nơng
làm nịng cốt, ngồi ra Người còn tập hợp rộng rãi các tầng lớp khác, huy động
tồn dân tộc vào cách mạng giải phóng dân tộc. Trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lê
nin, Người đã vận dụng sáng tạo quan điểm tổ chức, tập hợp xây dựng lực lượng
và tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta giành thắng lợi.
Thứ tư, cách mạng giải phóng dân tộc cần tiến hành chủ động sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc. Trong Những
luận cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nữa thuộc địa,
được thông qua tại Đại hội ngày 1/9/1928, có viết: “Chỉ có thể thực hiện hồn
tồn cơng cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vơ sản giành thắng lợi ở các
nước tiên tiến” (Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG H, 2003, tập 2,
tr.78). Người dựa vào sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới, căn cứ
vào vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam và đi đến khẳng định cách mạng
thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà
có thể giành thắng lợi trước. Và thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945
ở nước ta chứng minh luận điểm của Người là đúng đắn.
Thứ năm, cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường
bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang; khởi

nghĩa toàn phần, tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hồn tồn. Căn cứ vào
tình hình cách mạng thế giới và thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh


cho rằng cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách mạng bằng bạo lực kết hợp vũ
trang với đấu tranh chính trị của quần chúng. Cuối thế kỷ XIX đầu XX đa số các
phong trào yêu nước ở Việt Nam chủ yếu bằng con đường cải lương, đấu tranh
hợp pháp, đấu tranh bằng phương pháp hịa bình. Các phương pháp vũ trang bạo
động, vũ trang ám sát theo khuynh hướng dân chủ tư sản cũng đều bị thất bại.
Ngược lại, Hồ Chí Minh thực hiện rất linh hoạt và hiệu quả quan điểm trên,
trong đó vấn đề xây dựng lực lượng, vấn đề chọn thời cơ khởi nghĩa. Học thuyết
của Lênin về cách mạng thuộc địa được Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển một
cách sáng tạo. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, thành công của hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã chứng minh tính đúng đắn, khoa học
và sáng tạo của Người vào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Năm 1924, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một cuộc khởi nghĩa vũ trang tồn dân.
Người cho rằng: "Để có cơ thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông
Dương: - Phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một
cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng... ".
Hồ Chí Minh nghiêm khắc phê phán việc lấy ám sát cá nhân và bạo động non
làm phương thức hành động. "hoặc xúi dân bạo động mà không bày cách tôr
chức; hoặc làm cho dân quen ỷ lại, mà quên tính tự cường” Người khẳng định
"cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người".
Trong Cách mạng Tháng Tám 1945 cũng như hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm "lấy dân làm
gốc" xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người. "Có dân là có tất cả",
"Dễ trăm lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong". Khi còn
hoạt động ở nước ngồi. Hồ Chí Minh nói: "Đối với tơi, câu trả lời đã rõ ràng:
trở về nước đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện

họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập"'.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trị của quần chúng nhân dân trong khởi
nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần
chúng là nhân tố then chốt bảo đảm thắng lợi. Người khẳng định: "Dân khí mạnh
thì qn lính nào, súng ống nào cũng khơng chống lại nổi". "Phải dựa vào dân,


dựa chắc vào dân thì kẻ địch khơng thể nào tiêu diệt được". "Chúng ta tin chắc
vào tinh thần và lực lượng của quần chúng, của dân tộc".
Dưới chế độ cai trị của chủ nghĩa tư bản Pháp, từ một xã hội phong kiến thuần
túy, Việt Nam biến thành một xã hội thuộc địa với những tàn tích phong kiến
nặng nề. Mặc dù thực đảng Pháp cịn duy trì một phần quan hệ kinh tế và giai
cấp địa chủ phong kiến, song khi đã thành một chế độ thuộc địa thì tất cả các mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và giai cấp ở Việt Nam đều bị đặt trong quỹ
đạo chuyển động của xã hội đó. Ngồi giai cấp công nhân và nông dân, giai cấp
tư sản dân tộc và một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ mặc dù vẫn có mặt hạn chế
trong quan hệ với quần chúng lao động, nhưng trong quan hệ với thực dân Pháp
thì họ cũng là những người Việt Nam chịu nỗi nhục mất nước. Đó khơng phải là
những giai cấp thống trị, mà trái lại, họ là những giai cấp bị trị và có khả năng
tham gia phong trào giải phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh phân tích: ".. dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là
sĩ, nơng, cơng, thương đều nhất trí chống lại cường quyền"'.
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Người xác định lực lượng,
cách mạng hao gồm cả dân tộc: Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công
nhân, tập hợp đại bộ phận nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh
đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, tri thức, trung nông...
đi vào phe vô sản giai cấp: đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An
Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ
đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phân cách mạng (như Đảng Lập hiện) thì
phải đánh đổ.

Trong lực lượng tồn dân tộc. Hồ Chí Minh hết sức nhấn mạnh vai trị động
lực cách mạng của cơng nhân và nơng dân. Người phân tích: các giai cấp cơng
nhân và nơng dân có số lượng đơng nhất, nên có sức mạnh lớn nhất. Họ lại bị áp
bức bóc lột nặng nề nhất, nên "lịng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng
quyết... cơng nơng là tay khơng chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ.
Nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc". Từ đó Người khẳng định:
cơng nơng "là gốc cách mệnh". Khẳng định vai trò động lực cách mạng của công


nhân và nông dân là một vấn đề hết sức mới mẻ so với nhận thức của những nhà
yêu nước trước đó.
Trong khi hết sức nhấn mạnh vai trị của cơng nhân và nơng dân, Hồ Chí
Minh khơng coi nhẹ khả năng tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc của các giai
cấp và tầng lớp khác. Người coi tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một bộ phận giai
cấp địa chủ là bạn đồng minh của cách mạng. Người chỉ rõ: "... học trị, nhà bn
nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông;
ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của cơng nơng thơi".

1.5. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và
có khả năng dành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, cách
mạng thuộc địa có tầm quan trọng đặc biệt. Nhân dân các dân tộc thuộc địa có
khả năng cách mạng to lớn.
Các nhà lãnh đạo Quốc tế cộng sản bấy giờ lại đặt cách mạng thuộc địa phụ
thuộc vào cách mạng vơ sản chính quốc, là “hậu bị qn” của cách mạng vơ sản
chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc chỉ có thể thắng lợi khi cách mạng
vơ sản chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc chỉ có thể thắng lợi khi cách
mạng vơ sản chính quốc thắng lợi. Tun ngôn thành lập Quốc tế cộng sản (31919) viết: “Việc giải phóng các thuộc địa chỉ có thể tiến hành với việc giải
phóng giai cấp cơng nhân ở chính quốc...”, rằng “công nhân và nông dân không
chỉ ở An Nam, Angiêri, Bănggan, mà cả ở Ba Tư hay Ácmêni chỉ có thể được

độc lập khi nào


cơng nhân ở Anh và Pháp lật đổ chính phủ “Lơigic” và “Clêmăngxơ”

giành chính quyền về tay mình”. Quan điểm này, vơ hình trung đã làm giảm tính
chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa.
Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vơ sản ở chính quốc
có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu
tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ
khơng phải là quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính-phụ. Nguyễn Ái Quốc khẳng


định “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp
vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị
áp bức ở các thuộc địa… nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa
đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc”, nếu xem thường cách mạng
ở thuộc địa tức là “muốn đánh chết rắn bằng đi”. Người chỉ trích, đã có nhiều
người: “…lại xem thường các thuộc địa trong lúc chủ nghĩa tư bản lại dựa vào
nó để tự bảo vệ và chống lại các đồng chí”
Trong văn kiện nói về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa để báo cáo trước
Đại hội II Quốc tế Cộng sản. V.I. Lê-nin đã đánh giá rất cao vai trò cách mạng
của các dân tộc thuộc địa, Người nói: "Điều quan trọng nhất trong chính sách
của Quốc tế cộng sản về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa là phải làm cho vô
sản và quần chúng lao động của tất cả các dân tộc và tất cả các nước gần gũi
nhau để tiến hành một cuộc đấu tranh cách mạng chung nhằm lật đổ bọn địa chủ
và giai cấp tư sản. Bởi vì chỉ có sự gần gũi ấy mới bảo đảm việc chiến thắng chủ
nghĩa tư bản, nếu khơng có chiến thắng đó thì khơng thể thủ tiêu được ách áp
bức dân tộc và tình trạng bất bình đẳng". Theo thống kê của V.I. Lê-nin thì khi
ấy tồn bộ dân số thế giới có chừng 1 tỷ 750 triệu người thì 1 tỷ 250 triệu người,

tức là khoảng 70% dân số thế giới là nhân dân các dân tộc bị áp bức, là thuộc địa
hoặc nửa thuộc địa. Bởi vậy phải kết hợp chặt chẽ phong trào cách mạng ở chính
quốc với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa. Tuy nhiên, Người
cũng chỉ rõ, giai cấp vơ sản chính quốc phải tận tình giúp đỡ giai cấp vơ sản ở
các nước thuộc địa thì cách mạng vơ sản ở các nước thuộc địa mới có thể thành
cơng.
Ngày 25-5-1922, trên báo Nhân Đạo (L'Humanite), Nguyễn Ái Quốc đã nhấn
mạnh: "Trong những luận cương về vấn đề thuộc địa, Lê-nin đã tuyên bố rõ rệt
rằng nhiệm vụ của công nhân ở các nước đi chiếm thuộc địa là phải giúp đỡ một
cách tích cực nhất phong trào giải phóng của các nước phụ thuộc". Nguyễn Ái
Quốc hoàn toàn tin tưởng vào sức mạnh to lớn và tinh thần dũng cảm cách mạng
của các dân tộc bị áp bức như V.I. Lê-nin đã khẳng định, nhưng Nguyễn Ái Quốc
xuất thân từ một dân tộc đang bị áp bức, bóc lột, một đất nước thuộc địa của thực
dân Pháp; Người lại có thực tế của nhiều nước thuộc địa trên khắp các châu lục


mà Người đã từng đến, nên trong tư tưởng của Người đã xuất hiện rất sớm tính
chủ động cách mạng của các dân tộc bị áp bức, bóc lột.
Cơng cuộc giải phóng thuộc địa có thể và phải chủ động thực hiện bằng sự nỗ
lực tự giải phóng. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa khơng
hồn tồn phụ thuộc vào cách mạng vơ sản ở chính quốc. Vận dụng cơng thức
của C.Mác: sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân
giai cấp công nhân, Người đưa ra luận điểm: "Công cuộc giải phóng anh em,
(tức nhân dân thuộc địa - TG) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản
thân anh em". Nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc có thể “chủ động
đứng lên, đem sức ta mà giải phóng cho ta”, giành thắng lợi trước cách mạng vơ
sản ở chính quốc. Người viết “ Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân Châu Á bị tàn
phá và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột của một bọn dân lịng tham khơng
đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong
những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể

giúp đỡ những anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phịng hồn
tồn”.
Tư tưởng tiên phong của Người đã trở thành đường lối cách mạng của Đảng
ta. Đảng ta không chờ đợi cách mạng vô sản Pháp và cách mạng vô sản các nước
tư bản khác thành công để tạo thời cơ thuận lợi cho chúng ta rồi chúng ta mới
làm cách mạng, mà với luận điểm của Nguyễn Ái Quốc: “Cách mạng giải phóng
dân tộc phải chủ động và rất có thể giành được thắng lợi trước cách mạng vơ sản
chính quốc”, Đảng ta đã bám sát tình hình thế giới và trong nước từ năm 1941,
nắm chắc thời cơ có một khơng hai vào đầu năm 1945 để phát động các cuộc
khởi nghĩa từng phần, tiến đến cuộc Tổng khởi nghĩa và đã giành được thắng lợi
vĩ đại vào Tháng Tám năm 1945 với dũng khí đem sức ta mà giải phóng cho
ta, trong khi cách mạng vơ sản ở chính quốc chưa nổ ra.
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; Một cống
hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác
Lê-nin, đã được thắng lợi phong trào giải phóng dân tộc trên tồn thế giới trong
gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn dúng đắn.


1.6. CMGPDT phải đc tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực.
1.6.1. Tính tất yếu của con đường cách mạng bạo lực.
Theo Mác: bạo lực là bà đỡ của mọi chính quyền cách mạng, vì giai cấp thống
trị bóc lột khơng bao giờ tự giao chính quyền cho lực lượng cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, đánh giá đúng bản chất cực kì phản động của bọn đế quốc
và tay sai, Người đã vạch rõ tính tất yếu của bạo lực cách mạng:
-

Sự thống trị của thực dân đế quốc ở thuộc địa vơ cùng hà khắc, khơng hề
có một chút quyền tự do dân chủ nào, khơng có cơ sở nào cho thực hành
đấu tranh không bạo lực.


-

“Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ
mạnh đối với kẻ yếu rồi”.Vì thế, con đường để giành và giữ độc lập dân
tộc chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực.

-

Cách mạng giải phóng dân tộc là lật đổ chế độ thực dân phong kiến, giành
chính quyền về tay cách mạng, nó phải được thực hiện bằng một cuộc
khởi nghĩa vũ trang. Như ở Việt Nam là khởi nghĩa từng phần tiến lên
tổng khởi nghĩa.

Người viết: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp của cả
dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành
chính quyền và bảo vệ chính quyền”.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, coi sự nghiệp cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng bạo lực cách mạng là bạo lực
của quần chúng.
Trong thời kì vận động giải phóng dân tộc, Người cùng với Trung ương Đảng
đã chỉ đạo xây dựng cơ sở của cách mạng bạo lực gồm 2 lực lượng: lực lượng
chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân.Theo sáng kiến của Người,
mặt trận Việt Minh được thành lập, là nơi tập hợp, giác ngộ và rèn luyện lực
lượng chính trị quần chúng, là lực lượng cơ bản và giữ vai trò quyết định trong
tổng khởi nghĩa vũ trang.
Hình thức của bạo lực cách mạng gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ
trang, nhưng phải “tuỳ tình hình cụ thể mà quy định những hình thức cách mạng


thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu

tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng.
Trong Cách mạng tháng 8, bạo lực thể hiện bằng khởi nghĩa vũ trang với lực
lượng chính trị là chủ yếu, đây là cơng cụ để đập tan chính quyền của bọn phát
xít Nhật và tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân.
Trong chiến tranh cách mạng, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang giữ vị
trí quyết định trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự địch, đập tan mọi âm mưu
chính trị và quân sự của chúng.Tuy nhiên, đấu tranh vũ trang ko tách biệt với đấu
tranh chính trị.Theo Người, các đoàn thể cách mạng càng phát triển, quần chúng
đấu tranh càng mạnh thì càng có cơ sở vững chắc để tổ chức lực lượng vũ trang
và tiến hành đấu tranh vũ trang.
1.6.2. Tư tưởng bạo lực cách mạng gắn bó hữu cơ với tư tưởng nhân đạo
và hịa bình.
Xuất phát từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh mạng con người, Hồ
Chí Minh ln tranh thủ mọi khả năng giành và giữ chính quyền ít đổ máu.
Người tìm mọi cách ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải
quyết xung đột bằng biện pháp hoà bình, chủ động đàm phán, thương lượng,
chấp nhận nhượng bộ có nguyên tắc.
Việc tiến hành các hội nghị Việt – Pháp và ký các Hiệp định trong năm 1946,
việc kiên trì yêu cầu đối phương thi hành Hiệp định Giơnevơ thể hiện rõ tư
tưởng nhân đạo và hồ bình của Hồ Chí Minh.
Người viết: “Tơi khơng muốn trở về Hà Nội tay không. Tôi muốn khi trở về
nước sẽ đem cho Việt Nam những kết quả cụ thể với sự cộng tác chắc chắn mà
chúng tôi mong đợi ở nước Pháp”.
Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Chỉ khi khơng
cịn khả năng hồ hỗn, khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập trường thực dân, chỉ
muốn giành thắng lợi bằng quân sự, thì Hồ Chí Minh mới kiên quyết phát động
chiến tranh.
Trong Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến 1946 của Người có đoạn: “Chúng ta
muốn hồ bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng,



thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa.
Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”.
Trong khi tiến hành chiến tranh, Người vẫn tìm mọi cách vãn hồi hồ bình.
Trong kháng chiến chống Pháp cũng như chống Mỹ, Người đã nhiều lần gửi
thư cho Chính phủ và nhân dân hai nước này đề nghị đàm phán hồ bình để kết
thúc chiến tranh. Điều này thể hiện trong chiến lược ngoại giao “vừa đánh vừa
đàm” của Người.
1.6.3. Hình thái bạo lực cách mạng.
Xuất phát từ tương quan lực lượng giữa ta và địch, Hồ Chí Minh chủ trương
khởi nghĩa tồn dân và phát động cuộc chiến tranh nhân dân. Người nói: “Khơng
dùng tồn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó thì khơng thể nào thắng
lợi được”.
Tồn dân khởi nghĩa, toàn dân nổi dậy là nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về hình thái của bạo lực cách mạng.
Phương châm chiến lược là toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến
Trong chiến tranh, “quân sự là việc chủ chốt”, nhưng đồng thời kết hợp chặt
chẽ với đấu tranh chính trị. “Thắng lợi quân sự đem lại thắng lợi chính trị, thắng
lợi chính trị sẽ làm clo thắng lợi quân sự to lớn hơn”.
Đấu tranh ngoại giao cũng là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược nhằm thêm
bạn bớt thù, phân hố, cơ lập kẻ thù, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của quốc tế.
“vừa đánh vừa đàm”, “đánh là chủ yếu, đàm là hỗ trợ”.
Đấu tranh kinh tế là ra sức tăng sản xuất, thực hành tiết kiệm, phát triển kinh
tế của ta, phá hoại kinh tế của địch.
“Chiến tranh về mặt văn hoá hay tư tưởng so với những mặt khác cũng không
kém phần quan trọng”.
Về kháng chiến trường kỳ, trong thời kỳ chống Pháp Người nói: “Địch muốn
tốc chiến tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất định thua,
ta nhất định thắng”.



Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước Người ra Lời kêu gọi (17/7/1967): “Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải
Phịng và một số thành phố khác có thể bị tàn phá, nhưng chúng ta nhất định
phải đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Tự lực cánh sinh cũng là một phương châm chiến lược rất quan trọng nhằm
phát huy cao độ nguồn sức mạnh của nhân dân.
Trong Đường Kách mệnh Người chỉ rõ: muốn người ta giúp cho thì mình phải
tự giúp lấy mình đã.
Tháng 8 năm 1945 khi thời cơ xuất hiện, Người kêu gọi toàn quốc, đồng bào
hãy đứng dậy, đem sức ta mà giải phóng cho ta.
Độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế
cũng là một quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Người đã động viên
sức mạnh toàn dân tộc, đồng thời ra sức vận động, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế
to lớn và có hiệu quả cả về vật chất và tinh thần, kết hợp sức mạnh dân tộc và
sức mạnh thời đại để kháng chiến thắng lợi.
2. VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ
BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY
2.1. Thực trạng của xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
2.1.1. Sự phát triển của Việt Nam hiện nay
Thời kỳ 2001 đến nay, đất nước ta thực hiện hai chiến lược phát triển kinh tế – xã
hội là Chiến lược 2001-2010 và Chiến lược 2011-2020 nhằm xây dựng nước Việt
Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” theo phương
châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng
đồng quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ,
bình đẳng cùng có lợi, khơng can thiệp cơng việc nội bộ, cùng phấn đấu vì hồ
bình, độc lập và phát triển”. Do tranh thủ được thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó
khăn, thách thức, nên kinh tế – xã hội nước ta đã có những biến đổi quan trọng, đạt

được nhiều thành tựu to lớn. Kinh tế liên tục tăng trưởng đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có mức thu nhập trung


bình thấp. Quy mơ nền kinh tế ngày càng mở rộng, GDP năm 2019 gấp 12,5 lần
năm 2001. Tốc độ tăng GDP tương đối cao, bình quân năm trong giai đoạn 20012010 tăng 7,26%, đạt xấp xỉ tốc độ tăng 7,56%/năm của Chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế – xã hội 1991-2000, đây là một thành tựu phát triển kinh tế rất
quan trọng của đất nước ta trong giai đoạn này. Trong giai đoạn 2011-2019, GDP
tăng 6,3%/năm, trong đó năm 2018 tăng 7,08% và là mức tăng cao nhất kể từ năm
2008.
2.1.2. Vấn đề bảo vệ tổ quốc hiện nay
Ngày nay, sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới của Ðảng, đất nước ta đã có
được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín lớn đối với các nước trong khu vực và trên
trường quốc tế. Tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực vẫn tiềm ẩn nhiều nguy
cơ, thách thức khó dự báo. Thực tế đó địi hỏi tồn Ðảng, tồn dân và tồn quân ta
phải thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Ðảng, trọng tâm
là Nghị quyết T.Ư 8 khóa XI về Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới;
Nghị quyết số 24-NQ/TW và Kết luận số 31-KL/TW ngày 16-4-2018 của Bộ
Chính trị khóa XII về Chiến lược Quốc phòng và Chiến lược Quân sự Việt Nam...
Với vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, quân đội phải luôn giữ vững
và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Ðảng, sự quản lý tập
trung, thống nhất của Nhà nước; tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, phấn đấu đến năm 2030 một
số quân, binh chủng được xây dựng hiện đại và từ năm 2030, xây dựng quân đội
hiện đại. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ Ðảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn hiện nay, sự biến động của tình hình thế giới, khu vực đặt ra
những yêu cầu mới đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Do vậy, cần
coi trọng xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ cân đối,

đồng bộ, có chất lượng tổng hợp, trình độ, sức mạnh và khả năng phối hợp tác
chiến cao. Toàn quân cần tranh thủ đẩy nhanh lộ trình hiện đại hóa qn đội, đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và đóng góp tích cực cho hịa bình, ổn định


khu vực và thế giới; tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả Ðề án tổ chức Quân đội
nhân dân Việt Nam trong tình hình mới (giai đoạn 2020 - 2025), điều chỉnh tổ
chức, biên chế bảo đảm "tinh, gọn, mạnh". Cùng với đó, tiếp tục phát huy vai trị
nịng cốt của quân đội trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thực hiện tốt Nghị
quyết số 28-NQ/TW, ngày 22-9-2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong
tình hình mới và Kết luận số 64-KL/TW, ngày 30-10-2019 của Bộ Chính trị về đẩy
mạnh thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW. Ðồng thời, duy trì nghiêm chế độ sẵn
sàng chiến đấu, phát huy tốt vai trò nịng cốt trong xây dựng nền quốc phịng tồn
dân vững mạnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ là lực lượng nòng cốt trong phòng,
chống thiên tai, dịch bệnh, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân... làm đẹp thêm
hình ảnh "Bộ đội Cụ Hồ". Ðây là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng, nhằm tăng
cường tiềm lực, sức mạnh quốc phịng, góp phần thực hiện thành cơng sự nghiệp
đổi mới, xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2.2. Thực trạng về việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc của sinh viên
Ưu điểm:
70 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, học sinh, sinh viên và Hội SVVN luôn kế
tục và phát huy tốt những truyền thống vẻ vang của các thế hệ cha anh, các thế hệ
cán bộ, hội viên, sinh viên đi trước. Có thể nói, phong trào học sinh, sinh viên và
Hội Sinh viên ngày càng lớn mạnh, phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Sinh
viên Việt Nam có nhiều ưu điểm, có thể kể đến một số ưu điểm như sau:
- Khả năng nắm bắt xu hướng và cơng nghệ: Bạn có thể thấy rõ ưu điểm của giới
trẻ là khả năng nắm bắt xu hướng và công nghệ liên tục. Trong thời đại của
công nghệ và máy tính, doanh nghiệp dù ở bất kỳ ngành nghề hay lĩnh vực nào
-


cũng cần phải luôn cập nhật những tiến bộ mới nhất.
Ln có tinh thần học hỏi và đổi mới: Khơng phải ai cũng sẵn sàng đón nhận
những thay đổi, nhất là đối với những người lớn tuổi. Điều này hoàn toàn trái
ngược so với những sinh viên. Sự mới mẻ mang lại hứng thú và những đổi mới

-

cho họ cơ hội học hỏi được nhiều kinh nghiệm hơn.
Có cách nhìn nhận và ý tưởng mới: Sự sáng tạo khơng thể phát triển nếu bạn
nhìn nhận vấn đề chỉ với một cách nhìn duy nhất, sinh viên có tâm trí thoải mái


và nhìn nhận vấn đề theo hướng hồn tồn mới. Đây là những ý tưởng cần thiết
để phát triển.
Khuyết điểm:
Tuy có nhiều ưu điểm, nhưng sinh viên cũng có những khuyết điểm của chính họ:
-

Các bạn học sinh chưa xác định được sở thích, nguyện vọng ngành nghề của
mình dẫn đến chưa xác định được tính chất, nhiệm vụ cũng như mục tiêu đề ra
để đạt được.

-

Việc học tập cũng như làm cách mạng vậy, tất cả phải chủ động, sáng tạo, thực
hiện và trao dồi bản thân, không để thụ động. Thực trạng thường thấy sinh viên
trúng tuyển vào học các trường đại học, cao đẳng phần lớn có tâm lý muốn
nghỉ xả hơi, do vậy đã làm giảm hứng thú, say mê học tập trong họ hay sinh
viên chưa định hướng được cách học phù hợp.


-

Giáo dục chạy theo thành tích, điểm số dẫn đến chỉ học đối phó, cốt lấy điểm,
học cho qua, trở thành bệnh thành tích, bệnh hình thức, thiếu thực chất, thiếu
thực lực, thiếu thực học, thiếu thực tài, ngay cả sinh viên khá giỏi cũng sẵn
sàng quay cóp nhất là đối với những mơn học khó nhớ.

-

Sinh viên chỉ theo lối đánh giá kết quả bằng điểm số mà chỉ về kiến thức,
không đánh giá theo q trình học tập, ít quan tâm đế những mục tiêu về kỹ
năng, thái độ, nhân cách chuẩn bị vào đời, đáp ứng yêu cầu của xã hội.

-

Sinh viên trong thời kỳ đổi mới, mở cửa khác hẳn với sinh viên thời bao cấp,
thời kỳ đấu tranh hay chiến tranh có yêu cầu giáo dục khác mới đáp ứng nhu
cầu của xã hội, điều khác cơ bản là nhà nước không đương nhiên thâu dụng, mà
hầu hết là do các tổ chức ngoài nhà nước kể cả ở nước ngoài thâu dụng họ.

-

So với yêu cầu hiện nay cũng như trong tương lai của các tổ chức ngồi nhà
nước, trình độ kiến thức chun mơn, kỹ năng kỹ xảo cũng như năng lực, phẩm
chất lao động, tinh thần trách nhiệm, sự trung thực của sinh viên còn quá thấp.
Muốn sử dụng thật sự cần phải đào tạo lại hoặc phải chấp nhận vậy.
2.3.

-


Các biện pháp khắc phục:

Cần vận động thay đổi đến gốc rễ để xây dựng quan điểm, định hướng, mục
tiêu giáo dục mang tính thực tiễn và hiệu quả cao, một nỗ lực dạy học và làm


theo định hướng, mục tiêu giáo dục toàn diện, đặc biệt quan tâm đến việc rèn
luyện các kỹ năng quan trọng của thời đại kiến thức, thông tin bùng nổ như nêu
và giải quyết vấn đề, cách làm việc với tập thể, cách ứng xử, cách giao tiếp và
phẩm chất lao động, tinh thần trách nhiệm, nhân cách… chuẩn bị vào đời.
-

Thay đổi hoàn toàn cách đánh giá theo quá trình cơng tác và học tập chứ khơng
phải chỉ kết quả và khơng chỉ bằng điểm số, có những nhận xét của từng giảng
viên đối với từng sinh viên cụ thể! Môn nào sẽ phụ trách từ a đến z kể cả coi thi
và chấm điểm.

-

Cải tổ chế độ thi cử, kiểm tra, bãi bỏ bớt, giảm nhẹ các kỳ thi tập trung nhất là
không tổ chức tuyển sinh đại học theo ba chung. Cục khảo thí chỉ nên lo thi cử
ở phổ thông. Chất lượng đào tạo kể cả đầu ra đều giao cho từng trường đại học
đảm nhiệm.

-

Chống luyện thi, không xuê xoa, trị tận gốc quốc nạn quay cóp, thiếu trung
thực trong dạy và học, phổ biến rộng rãi, kỹ lưỡng nhắc nhở răn đe. Loại bỏ
ngay tức khắc, thông báo khắp nơi về những người vi phạm, gian dối.


-

Đổi mới triệt để phương pháp dạy học ở đại học cũng như ở phổ thông.

-

Lấy thực chất, thực học, thực tài làm tiêu chí hàng đầu và tránh điều tối kỵ đối
trá, thiếu trung thực, thủ đoạn trong môi trường giáo dục. Xây dựng môi trường
giáo dục thật lành mạnh, thật khoa học, thật chuyên môn… Loại trừ triệt để
những nhân sự thiếu phẩm chất giáo dục, thiếu trung thực. Dùng mọi biện pháp
để chống lại bệnh hình thức, cung cách đối phó!

-

Phân hóa và tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các trường đại học. Dùng chính
sách quản lý nhà nước cho phép các trường đại học tự quản cao, chủ động năng
cao chất lượng đào tạo.

-

Xây dựng bộ phận tư vấn học tập, tư vấn tâm lý (guidance, counselling) tại
trường học đủ mọi cấp và cơ chế kiểm định chất lượng giáo dục đại học.


×