Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Tài liệu Kiểm toán viên đối với vấn đề Going concern theo ISA pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.79 KB, 46 trang )

Ti`m kiê´m
Kiểm toán viên đối với vấn đề
Going concern theo ISA
Đã đọc: 12546 lượt.
Phạm Văn Cung - ACCA
1. Thế nào là Going concern (GC)
Một doanh nghiệp thông thường được coi là hoạt động liên tục trong một tương lai gần
(foreseeable future) mà không có ý định hay không bắt buộc phải giải thể, ngừng hoạt động
hoặc phá sản.
2. Chuẩn mực kiểm toán quốc tế điều chỉnh- chuẩn mực 570 quy định các vấn đề sau:
a. Trách nhiệm của kiểm toán viên
b. Lập kế hoạch như thế nào để đánh giá GC
c. Đánh giá GC như thế nào
d. Báo cáo như thế nào
3. Trước hết, hãy xem vai trò của Ban giám đốc công ty được kiểm toán
a. BGĐ công ty chịu trách nhiệm đánh giá GC của công ty (theo yêu cầu của IAS 1)
b. Ban Giám đốc cần đánh giá các vấn đề sau:
i. Mức độ chắc chắn của các thông tin
ii. Đánh giá dựa trên các thông tin đó.
c. Các yếu tố cho thấy có thể có nghi ngờ đối với tính GC của DN
i. Công nợ ròng, công nợ ngắn hạn ròng (nghĩa là tài sản nhỏ hơn công nợ)
ii. Các khoản vay tới hạn trả mà không có khả năng trả cũng như không được gia hạn
iii. Dựa quá nhiều vào các khoản vay ngắn hạn
iv. Có dấu hiệu cho thấy sự hỗ trợ về tài chính của các chủ nợ sẽ chấm dứt
v. Lưu chuyển tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh là âm
vi. Các chỉ số tài chính ở tình trạng xấu
vii. Lỗ hoạt động hoặc có tình trạng mất giá của các tài sản
viii. Chậm trả hoặc ngừng trả cổ tức
ix. Không có khả năng thanh toán cho các chủ nợ khi tới hạn
x. Phương thức thanh toán hàng mua chuyển từ phương án được mua chịu sang thanh toán bằng
tiền mặt khi hàng được giao (COD- cash on delivery)


xi. Không có khả năng huy động được nguồn tài chính mới tài trợ cho các sản phẩm mới hoặc các
nghiên cứu phát triển
xii. Mất mát vị trí lãnh đạo chủ chốt mà không có người thay thế
xiii. Mất thị trường trọng điểm, giấy phép, khách hàng trọng điểm, kênh phân phối trọng điểm
xiv. Gặp khó khăn trong việc huy động nguồn lao động
xv. Thiếu nguồn cung
xiv. Không tuân thủ các quy định của pháp luật
xvii. Là bên bị của các vụ kiện có khả năng thua kiện
xviii. Thay đổi chính sách của chính phủ
xix. Các nguyên nhân khác (ví dụ như cúm gà)
d. Các yếu tố loại trừ: Các yếu tố trên có thể được giảm thiểu (loại trừ) bởi các yếu tố khác: ví dụ bán
tài sản để trả nợ khi đến hạn, tìm được một nhà cung cấp khác thay thế cho nhà cung cấp đã bị mất,
tìm đuợc thị trường mới thay cho thị trường trọng điểm
4. Trách nhiệm của Kiểm toán viên
Kiểm toán viên cần xem xét:
- Tính hợp lý về các giả định GC
- Liệu có tồn tại những nghi ngờ mang tính trọng yếu về vấn đề GC cần phải được trình bày trên báo
cáo tài chính hay không.
Kiểm toán viên cũng cần xem xét:
-Quá trình đánh giá GC của BGĐ
- Các giá định mà BGĐ sử dụng
- Các kế hoạc trong tương lai
Các thủ tục kế toán bổ sung:
- Phân tích dự đoán lưu chuyển tiền tệ, kế hoạch lợi nhuận và các dự đoán khác
- Phân tích và thảo luận với BGĐ báo cáo tài chính tháng/ quý gần đây nhát
- Rà soát lại các điều khoản của các khoản vay và trái phiếu công ty
- Đọc các biên bản họp HĐQT
- Tìm hiểu thông tin từ các luật sư của công ty
- Tìm hiểu và xác nhận các thông tin về sự tồn tại, tính hợp pháp, tính khả thi của các kế hoạch nhằm
đảm bảo lợi nhuận cao trong tương lai

- Có thể lấy thư cam kết hõ trợ (support letter) từ công ty mẹ- trong trường hợp này phải đánh giá khả
năng tài chính của công ty mẹ
- Xem xét các sự kiện xảy ra sau ngày Báo cáo tài chính
Báo cáo của kiểm toán viên
i. Nếu không có nghi ngờ mang tính trọng yếu về GC ==> ý kiến chấp nhận toàn phần không sửa đổi
(unqualified, unmodified)
ii. Nếu có nghi ngờ mang tính trọng yếu, kiểm toán viên phải xem xét tới các yếu tố loại trừ: với hai
khả năng sau:
a. Nếu có đủ các yếu tổ loại trừ thích hợp, kiểm toán viên phải xem xét xem các yếu tố loại trừ đó có
được trình bày đầy đủ trên các báo cáo tài chính hay không:
- nếu có, ý kiến chấp nhận toàn phần có sửa đổi theo đó ý kiến kiểm toán sẽ bao gồm một đoạn nhấn
mạnh giải thích về GC (unqualified, modified)
- nếu không được trình bày đầy đủ, kiểm toán viên phải đưa ra ý kiến loại trừ, nêu lý do là GC không
được trình bày dâyd đủ trong báo cáo tài chính
b. Nếu không có các yếu tố loại trừ thích hợp, kiểm toán viên phải xem xét xem các baó cáo tài chính
được soạn lập trên cở sở nào:
- nếu sử dụng cơ sở GC ==> Kiểm toán viên đưa ra ý kiến trái ngược (adverse)
- nếu sử dụng cơ sở khác ==> Kiểm toán viên đánh giá tình phù hợp của cơ sở đó và có thể đưa ra ý
kiền chấp nhận toàn phần nhưng được sửa đổi, ý kiến kiểm toán thêm một đoạn nhấn mạnh trình bày
về cơ sở soạn lập không phải là GC
(Theo Webketoan)
Báo cáo tài chính, phơi bày hay che
dấu (Phần đầu)
Đã đọc: 28438 lượt.
Hoàn toàn lặng im khi nghe bồi thẩm đoàn đọc cáo trạng, Bernard Ebbers, cựu giám đốc điều
hành tập đoàn viễn thông World Com, Mỹ đã bị buộc tội gian lận và cung cấp các số liệu không
chính xác tại các báo cáo tài chính liên quan đến khoản tiền 11 tỷ USD trong vụ phá sản của
một trong những tập đoàn viễn thông lớn nhất nước Mỹ.
Với các tội danh trên, Ebbers có thể phải chịu hình phạt lên đến 85 năm tù giam. Lúc đó, phản ứng
duy nhất của mọi người trong phiên toà là từ phía vợ Ebbers, bà ngồi khóc lặng lẽ với sự an ủi của cô

con gái. Ebbers và gia đình đã rời khỏi toà mà không có bình luận gì. Với họ những sai phạm tài chính
đã quá rõ ràng.
Từ trước đến nay, báo cáo tài chính là công cụ được sử dụng để công bố những hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Vậy mà, nhiều công ty đã sử dụng chính công cụ này để “che dấu” những
thua lỗ trong kinh doanh, lừa dối các nhà đầu tư. Điều này đã dẫn đến “một nghịch lý đáng buồn đối
với báo cáo tài chính, một công cụ vốn được xem là cái gậy của các cơ quan quản lý nhằm duy trì tính
minh bạch trong các hoạt động kinh doanh”, như lời John Patosa, cựu giám đốc Uỷ ban chứng khoán
và hối đoái Mỹ (SEC) đã từng nhận xét, “đó là càng che dấu tài chính bao nhiêu thì lại càng dễ phơi
bày những lỗi lầm bấy nhiêu”.
Bernie Ebbers, một cựu huấn luyện viên bóng rổ, đã góp công lớn trong việc đưa Worldcom từ một
công ty nhỏ tại vùng Mississippi hẻo lánh trở thành một trong những tập đoàn viễn thông lớn nhất trên
thế giới trong vòng chưa đầy 15 năm. Ông chỉ là một trong 6 cựu thành viên ban lãnh đạo của
Worldcom bị truy tố sau những bê bối tài chính dẫn đến sự sụp đổ Worldcom, một thời là biểu tượng
của ngành viễn thông Mỹ. Đã có thời điểm, giá trị của Worldcom trên thị trường chứng khoán vượt
qua con số 100 tỷ USD. Điều đáng ngạc nhiên là mặc dù được đánh giá như một trong những thành
viên năng động và nhạy bén nhất của Worldcom trong việc mở rộng hoạt động kinh doanh vào thập kỷ
90 nhưng tại toà án Ebber luôn nói là mình không biết gì về các chi tiết tài chính của tập đoàn. Và khi
công việc kinh doanh sa sút, Worldcom đã che dấu khó khăn với các cổ đông bằng những gian lận kế
toán trong báo cáo tài chính lên đến trên hàng chục tỷ USD.
Suốt thời gian xét xử, Ebbers luôn bác bỏ các tội danh do tòa đưa ra và tự bào chữa rằng chỉ ông nắm
được rất ít tin tức về tình hình tài chính của Worldcom, những sai phạm trong báo cáo tài chính chủ
yếu thuộc về cựu giám đốc tài chính Worldcom, Scott Sullivan. Trước khi quyết định rằng Ebber có
phạm tội hay không, bồi thẩm đoàn đã cân nhắc rất kỹ lời khai của Ebber và Scott Sullivan, người luôn
cho rằng những gian lận của mình là làm theo lệnh của Ebbers.
Việc Worlcom sụp đổ đã kéo theo phản ứng dây chuyền khiến giá cổ phiếu của nhiều hãng viễn thông
khác cũng tụt dốc thê thảm và chính phủ Mỹ đã phải cải cách lại toàn bộ các quy định hiện hành về kế
toán. Trong khi những gian lận tại Enron liên quan tới các thủ thuật kế toán tinh vi thì tại Worlcom các
gian lận diễn ra rất đơn giản. Worlcom khi đó đã tăng giả mạo các chỉ số kế toán hiện hành và bỏ đi
các số liệu về vốn theo thời gian mà nhẽ ra phải công bố công khai. Về bản chất, Worlcom đã chuyển
dịch một loạt các con số từ cột này sang cột khác trong báo cáo tài chính.

Những gian lận tài chính của Worldcom được đưa ra ánh sáng chưa đầy một năm sau việc Enron phá
sản do những scandal tài chính hàng chục tỷ USD. Vụ việc của Worldcom và Enron được đánh giá là
hai vụ phá sản lớn nhất trong lịch sự nước Mỹ. Theo ước tính thì Worldcom bị phá sản đã khiến các
cổ đông của hãng chịu thiệt hại khoảng 180 tỷ USD và trên 20000 nhân viên bị mất việc làm. Sau khi
chính thức tuyên bố phá sản, Worldcom đã đổi tên thành MCI.
Điều đáng quan tâm là không chỉ có hai đại gia Enron và Worldcom trực tiếp tham gia vào những gian
lận trong báo cáo tài chính mà lúc đó còn có rất nhiều “thế lực ngầm” khác trợ giúp. Và ngân hàng
CIBC (Canadian Imperial Bank of Commerce) là một trong những thế lực ngầm như vậy. Mới đây, tập
đoàn ngân hàng này đã chấp nhận bỏ ra 80 triệu USD để dàn xếp các khoản chi phí của hãng liên
quan đến việc sụp đổ của Enron. SEC cho biết sẽ kiện ba thành viên đang và nguyên là nhân viên
điều hành cao cấp của CIBC. Hai trong số ba nhân viên trên đã giải quyết vụ kiện và đảm bảo sẽ bồi
thường 600.000 USD. SEC đã khởi tố CIBC và ba nhà điều hành của tập đoàn này về tội “đã giúp
Enron lừa dối các nhà đầu tư thông một dãy các giao dịch trong báo cáo tài chính với cấu trúc phức
tạp trong một vài năm trước khi Enron phá sản”.
Bản án được tuyên đã khiến rất nhiều công tố viên thở phào nhẹ nhọm bởi gần 2 năm nay việc xét xử
các thành viên của Worlcom luôn được xem là khó khăn nhất trong lịch sử ngành toà án Mỹ. Và việc
tuyên bố Ebber phạm tội sẽ làm nền tảng cho việc xét xử ba thành viên khác của của Worlcom trong
thời gian tới với nhiều chứng cứ và đánh giá phức tạp hơn nhiều. Nhiều chuyên gia kinh tế Mỹ nhận
định rằng việc xét xử “thẳng tay” các thành viên ban lãnh đạo Worldcom là một trong những thành
công lớn nhất của ngành tòa án Mỹ trong cuộc chiến chống tham nhũng và gian lận tài chính.
Theo Stephen Culter, giám đốc Ban hoà giải của SEC thì “ngày nay, các hành động che dấu thua lỗ
trong báo cáo tài chính của các công ty Mỹ bị phanh phui đã chứng tỏ rằng chẳng có một sự thiết lập
tài chính nào hay bất kể một nhà điều hành nào có thể che dấu các giao dịch tài chính mang đầy tính
chất phức tạp và gian lận của các ông chủ giàu có”.
Có thể nói rằng, báo cáo tài chính của mỗi công ty sẽ chứng minh rằng công ty đang hoạt động bình
thường và cung cấp những thông tin cần thiết cho các cơ quan quản lý, các nhà đầu tư hiện tại và
tương lai, các chủ nợ,… về tình hình tài chính của công ty. Vì vậy, tính trung thực trong báo cáo tài
chính có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tiếc thay, hiện nay tính trung thực trong các báo cáo tài chính
không còn được trung thực! Câu hỏi đặt ra là, vì sao xảy ra tình trạng ấy và cần làm gì để khắc phục?
Báo cáo tài chính, phơi bày hay che

dấu (Tiếp theo và hết)
Đã đọc: 5405 lượt.
Có thể khẳng định rằng phần lớn các báo cáo tài chính của các công ty trên thế giới hiện này
còn chứa đựng những thông tin thiếu trung thực nhằm những mục đích khác nhau.
Với một số tập đoàn lớn, sự thiếu trung thực phổ biến nhất là biến lỗ thành lãi, hay còn gọi là tạo ra
tình trạng “lãi giả, lỗ thật”. Thực chất của vấn đề này là tránh cổ phiếu tụt giá làm nản lòng các nhà
đầu tư. Vì vậy, trong khi thực chất con số thua lỗ ngày một tăng thì nhiều công ty để che dấu sự thật
đã khuyếch trương thanh thế để vay vốn được ngân hàng, nâng giá cổ phiếu,… Khi đó “những diễn
viên ảo thuật” cần có một báo cáo tài chính đẹp, tức là phải phản ánh tình trạng tài chính của công ty
một cách lành mạnh, có lãi, thậm chí lãi năm sau phải cao hơn năm trước. Thế là bộ máy kế toán phải
ra sức “vận dụng sáng tạo” để đưa ra kết quả theo ý muốn của những ông chủ.
Trong năm 2003, người dân châu Âu đã hồi hộp theo dõi vụ “Enron châu Âu”, Royal Ahold, tập đoàn
bách hoá Hà Lan có lịch sử 116 năm đã tuyên bố khai vượt lợi nhuận của chi nhánh dịch vụ thực
phẩm Mỹ ít nhật là 500 triệu USD và đã phát ra những vụ giao dịch phi pháp tại Argentina Năm đó, giá
cổ phiếu của Ahold đã giảm 2/3 khiến hàng triệu người đầu tư vào cổ phiếu Blue-chip của Ahold lo
lắng. Giám đốc điều hành Cees Van der Hoeven và trợ lý đã từ chức. Albert Heijin, người cháu nội 76
của người sáng lập Ahold đã xuất hiện trên truyền hình Hà Lan để trấn an người dân rằng, hệ thống
siêu thị trong nước của Ahold, nhà phân phối thực phẩm lớn thứ ba trên thế giới, vẫn rất an toàn. Trên
khắp châu Âu, các tờ báo đang gọi Royal Ahold là “Enron của châu Âu”.
Ahold có rất nhiều điểm chung với các công ty Mỹ đã đi lạc lối trong thời kỳ “phát triển bong bóng” vào
cuối những năm 90. Giống như Tyco và Worldcom, Ahold đã đạt được những thành công liên tiếp, thu
mua hàng loạt các chuỗi các cửa hàng và thiết lập nên một chuỗi các siêu thị với doanh thu lên tới 1,9
tỷ USD/năm. Van der Hoeven được ca ngợi là chơi tốt trong cuộc sáp nhập và thanh lý. Nhưng sau
đó, Ahold bắt đầu phải đấu tranh vật lộn trong thị trường có nhiều biến động và phải vay mượn rất
nhiều để tiếp tục trò chơi. Đó là bối cảnh cho sự thua lỗ 500 triệu USD. Giống như tất cả các nhà phân
phối khác, Ahold được hưởng một khoản chiết khấu từ các nhà cung cấp nếu đạt được một mức
doanh số nhất định, như chi nhánh tại Mỹ đã tính cả những khoản chiết khấu đó vào thu nhập của
mình trước khi đạt được ngưỡng doanh thu đó, khiến lợi nhuận thu được vượt trội lên. Các quan chức
Mỹ đang điều tra ra đã có ba bộ hồ sơ được trình lên đại diện các cổ đông. Các nhà giám sát chứng
khoán Hà Lan đã theo dõi mức giá giao dịch nội bộ dựa trên một khối lượng lớn cổ phiếu được giao

dịch trước khi Ahlod công bố rộng rãi về vụ “xì căng đan” của mình. Một điểm giống Eron nữa là Ahold
đã gặp phải những rắc rối ngay chính tại “trong ruột mình”. Trong bản báo báo cáo tài chính hàng
năm, năm 2001, Ahold đã che giấu sự thật rằng khoản lợi nhuận 1 tỷ USD theo Luật kiểm toán Hà Lan
của mình đáng lẽ chỉ đáng 109 triệu USD theo Luật kiểm toán Mỹ vì Hà Lan có những cơ chế rất
thoáng cho các công ty khi tính giá thu mua.
Ngoài ra, có một nghịch lý khác đó là nhiều công ty nhỏ cũng cố ý “biến tướng” báo cáo tài chính theo
chiều hướng ngược lại, tức là “biến lãi thành lỗ”. Lý do chính là để tránh thuế. Bán hàng không phát
hành hoá đơn làm giảm doanh thu, giảm thuế phải nộp, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp.
Tại Mỹ và châu Âu, các cơ quản lý than phiền về các báo cáo tài chính gian dối nhưng nhiều khi chính
họ cũng tự cần xem lại những biện pháp quản lý và pháp luật đã tạo ra “sức ép” và những thuận lợi
cho tình trạng thiếu trung thực trong báo cáo tài chính của các công ty.
Thuế cao tại Mỹ là một động cơ đẩy các công ty vào hành vi trốn thuế nếu muốn phát triển và nâng
cao sức cạnh tranh trên thương trường. Bên cạnh đó, công tác quản lý tài chính của các cơ quan
chức năng Mỹ đã bị buông lỏng trong thời gian khá dài. Các quy định pháp luật về kế toán khá lạc hậu
từ hàng chục năm nay. Chỉ sau khi xảy ra hai vụ scandal động trời của Enron và Worldcom thì một số
quy định về tài chính mới được ban hành nhưng vẫn còn khiên cưỡng, đôi khi khập khiễng đến mức
không thế chấp nhận được”, H.Barringer, giám đốc Công ty Luật Willikie Farr&Gallagher cho biết.
Câu hỏi đặt ra là làm gì để Mỹ và châu Âu không còn chứng kiến những Enron, Worldcom hay Ahold
tương tự trong tương lai? Đây là câu hỏi không dễ trả lời song cũng có những căn cứ hy vọng nếu:
Thứ nhất, các cơ quan chức năng xem xem xét lại các quy định về kế toán và tài chính, sớm ban
hành những quy định mới và thi hành mộ cách nhất quán.
Thứ hai, cải tổ công tác kiểm toán đối với tập đoàn, công ty trên toàn nước Mỹ và châu Âu. Chất
lượng các cuộc kiểm toán cũng cần được coi trọng.
Thứ ba, giảm thuế để các công ty có cơ hội nâng cao sức cạnh tranh trên thương trường vốn đã vô
cùng khốc liệt.
Người Mỹ và châu Âu hy vọng những năm tới vấn đề trên sẽ được giải quyết để họ không còn phải
nơm nớp lo sợ một lúc đó những cổ phiếu mình đang cầm trong tay sẽ trở thành “tờ giấy vụn” chỉ
trong vòng một đêm chỉ vì những gian lận trong báo cáo tài chính bị phanh phui.
(Theo www.bwportal.com)
Bản chất hơn hình thức

Đã đọc: 13003 lượt.
Trong khoa học kế toán có một nguyên tắc "Bản chất hơn hình thức", dịch theo nguyên bản
tiếng Anh "Substance over form". Như vậy nguyên tắc này được hiểu như thế nào? và nó thể
hiện trong các Chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán Việt Nam như thế nào?
Trong Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) số 01 - Chuẩn mực Chung - mục Các yêu cầu cơ bản
đối với kế toán có yêu cầu về tính Trung thực. Tính Trung thực, theo VAS, có nghĩa là "Các thông
tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo trên cơ sở các bằng chứng đầy đủ, khách
quan và đúng với thực tế về hiện trạng, bản chất nội dung và giá trị của nghiệp vụ kinh tế phát
sinh."
Đoạn 12 - VAS 21 - Trình bày Báo cáo tài chính nêu ra yêu cầu về cung cấp thông tin của Báo cáo
tài chính là thích hợp với nhu cầu ra quyết định kinh tế của người sử dụng Báo cáo tài chính và
Báo cáo tài chính phải cung cấp thông tin đáng tin cậy. Trong đó, Báo cáo tài chính chỉ cung cấp
thông tin đáng tin cậy khi:
- Trình bày trung thực, hợp lý tình hình tài chính, tình hình và kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp;
- Phản ánh đúng bản chất kinh tế của các giao dịch và sự kiện không chỉ đơn thuần phản
ánh hình thức hợp pháp của chúng;
- Trình bày khách quan, không thiên vị;
- Tuân thủ nguyên tắc thận trọng;
- Trình bày đầy đủ trên mọi khía cạnh trọng yếu.
Như vậy, nguyên tắc "Bản chất hơn hình thức" được lồng vào trong nội dung của các Chuẩn mực
kế toán Việt Nam.
Một số trường hợp thể hiện nguyên tắc "Bản chất hơn hình thức" trong kế toán Tài sản cố
định:
1. Tài sản thuê tài chính
Theo VAS 06 - Thuê tài sản: "Thuê tài sản được phân loại là thuê tài chính nếu nội dung hợp đồng
thuê tài sản thể hiện việc chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền quyền sở hữu tài sản."
Về mặt hình thức, các tài sản thuê tài chính này doanh nghiệp được sử dụng theo hợp đồng thuê.
Vậy lý do tại sao các tài sản thuê này lại được hạch toán như là một khoản tài sản của Doanh
nghiệp trên Bảng cân đối kế toán? trong khi nó là tài sản đi thuê.

Nhưng về mặt bản chất, một tài sản được chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền quyền sở
hữu tài sản thì có nghĩa là tài sản đó thuộc quyền kiểm soát của doanh nghiệp. Và tài sản này
phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đem lại lợi ích kinh tế trong tương
lai cho doanh nghiệp. Như vậy, tài sản thuê tài chính thoả mãn định nghĩa Tài sản theo VAS 01 -
Chuẩn mực chung.
2. Hoạt động bán, tái thuê Tài sản
Lấy ví dụ về trường hợp Công ty kiểm toán ABC thực hiện hoạt động bán toà nhà trụ sở của mình
cho một công ty cho thuê tài chính và thực hiện thuê lại theo một hợp đồng thuê tài chính. Giả
định, giá trị toà nhà bán và thuê lại của Công ty cao hơn giá trị còn lại trên sổ kế toán tại thời điểm
giao dịch. Lúc này tạo ra phần thu nhập do hoạt động bán. Tuy nhiên, phần thu nhập này được ghi
nhận hoãn lại trên Bảng cân đối kế toán (tài khoản 3387) thay vì ghi nhận vào Báo cáo Kết quả
kinh doanh trong kỳ. Vì sao?
Về mặt hình thức, đây là hoạt động bán tài sản, có sự chuyển giao quyền sở hữu và phát sinh
khoản thu nhập. Và tài sản thuê lại tài chính là tài sản đi thuê. Lúc này phát sinh 02 giao dịch được
hạch toán là giao dịch bán và giao dịch thuê. Các giao dịch này hoàn toàn tách biệt.
Nhưng xét về bản chất, Công ty kiểm toán ABC vẫn hoạt động bình thường tại trụ sở của mình mà
không bị ảnh hưởng gì của hoạt động bán và thuê. Tất cả các hoạt động bán và thuê chỉ là các
hoạt động được thực hiện thông qua các giao dịch qua lại bằng nhiều hình thức như fax, mail, văn
bản,.. các hoạt động này không tác động đến hoạt động của trụ sở của công ty ABC. Thực tế cho
thấy, chi phí khấu hao mà ABC được khấu trừ vào thu nhập trong tương lai chỉ bằng giá trị còn lại
của Toà nhà trụ sở. Trong khi đó hoạt động bán và thuê lại làm phát sinh chi phí bằng giá trị thuê
lại (lớn hơn giá trị còn lại) và một khoản thu nhập (chênh lệch giữa giá bán và thuê lại với giá trị
còn lại). Do đó, để đảm bảo nguyên tắc "Bản chất hơn hình thức", trong trường hợp này kế toán
phải hoãn lại khoản thu nhập qua hoạt động bán và thuê lại, khoản thu nhập này sẽ được phân bổ
dần giảm chi phí thuê lại Trụ sở tương ứng với thời gian thuê lại. Việc hạch toán như vậy đảm bảo
chi phí được khấu trừ vào thu nhập trong tương lai của ABC đúng bằng giá trị còn lại của Trụ sở.
Chi tiết hạch toán kế toán đối với hoạt động bán và thuê lại tài sản là thuê tài chính được trình bày
tại Thông tư 105/2003/TT-BTC ngày 04/11/2003.
Bản quyền:
www.kiemtoan.com.vn giữ bản quyền bài viết này. Khi sử dụng hoặc trích dẫn từng phần của bài

viết này cần phải ghi đầy đủ các thông tin như sau:
Phan Long, CPA. (2006).Bản chất hơn hình thức. Bản quyền www.kiemtoan.com.vn
Mối quan hệ giữa kế toán quản trị với
kế toán tài chính, kế toán tổng hợp
và kế toán chi tiết
Đã đọc: 34839 lượt.
Quan điểm của nhiều chuyên gia kế toán cho rằng, kế toán trong nền kinh tế thị trường được
phân chia thành bốn bộ phận: lý thuyết hạch toán kế toán, kế toán tài chính, kế toán quản trị và
kiểm toán.
Trong đó, kế toán quản trị và kế toán tài chính được coi là bộ phận hữu cơ của kế toán doanh nghiệp.
Kế toán quản trị và kế toán tài chính là gì?. Hai loại kế toán này có mối quan hệ với nhau như thế
nào?. Kế toán tài chính có phải là kế toán tổng hợp và kế toán quản trị có phải là kế toán chi tiết hay
không?. Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về kế toán tài chính và kế toán quản trị, để cùng
các bạn và những người quan tâm về khoa học kế toán hiểu rõ bản chất và mối quan hệ giữa các bộ
phận kế toán tôi xin trao đổi vài nét về vấn đề này.
1. Định nghĩa kế toán quản trị và kế toán tài chính
Kế toán được định nghĩa là một hệ thống thông tin đo lường, xử lý và cung cấp thông tin hữu ích cho
việc ra các quyết định điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong đó kế toán quản trị đưa ra tất cả các thông tin kinh tế đã được đo lường xử lý và cung cấp cho
ban lãnh đạo doanh nghiệp để điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, hay nói cách khác kế toán
quản trị giúp ban lãnh đạo doanh nghiệp cân nhắc và quyết định lựa chọn một trong những phương
án có hiệu quả kinh tế cao nhất: phải sản xuất những sản phẩm nào, sản xuất bằng cách nào, bán các
sản phẩm đó bằng cách nào, theo giá nào, làm thế nào để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và phát
triển khả năng sản xuất. Các quyết định này gồm hai loại:
Quyết định mang tính chất ngắn hạn: Các quyết định này giúp doanh nghiệp giải quyết các bài toán
kinh tế trong thời kỳ ngắn hạn.
Ví dụ:
- Trong trường hợp nào doanh nghiệp có thể bán sản phẩm với giá thấp hơn giá ở điểm hoà vốn?
- Trong trường hợp nào doanh nghiệp nên tự chế hay đi mua một vài bộ phận của sản phẩm?
- Trong trường hợp nào doanh nghiệp nên bán ra bán thành phẩm thay vì tiếp tục hoàn thiện thành

sản phẩm cuối cùng?
Quyết định mang tính dài hạn: Các quyết định này giúp doanh nghiệp giải quyết các bàii toán kinh tế
hoạch định chiến lược đầu tư dài hạn như: Trong trường hợp nào doanh nghiệp quyết định thay thế
mua sắm thêm các máy móc thiết bị hay thực hiện phát triển thêm lĩnh vực kinh doanh.
Còn kế toán tài chính là kế toán phản ánh hiện trạng và sự biến động về vốn, tài sản của doanh
nghiệp dưới dạng tổng quát hay nói cách khác là phản ánh các dòng vật chất và dòng tiền tệ trong
mối quan hệ giữa doanh nghiệp với môi trường kinh tế bên ngoài. Sản phẩm của kế toán tài chính là
các báo cáo tài chính. Thông tin của kế toán tài chính ngoài việc được sử dụng cho ban lãnh đạo
doanh nghiệp còn được sử dụng để cung cấp cho các đối tượng bên ngoài như: Các nhà đầu tư,
ngân hàng, cơ quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan thống kê.
2. Để hiễu rõ được mối quan hệ giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính ta cần phân tích sự
giống nhau và khác nhau giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị
2.1. Sự giống nhau
* Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ chặt chẽ với thông tin kế toán, đều nhằm vào việc phản ánh
kết quả hoạt động của doanh nghiệp, đều quan tâm đến doanh thu, chi phí và sự vận động của tài
sản, tiền vốn.
* Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ chặt chẽ về số liệu thông tin. Các số liệu của kế toán tài
chính và kế toán quản trị đều được xuất phát từ chứng từ gốc. Một bên phản ánh thông tin tổng quát,
một bên phản ánh thông tin chi tiết.
* Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ trách nhiệm của Nhà quản lý.
2.2. Sự khác nhau
* Mục đích:
- Kế toán quản trị có mục đích: Cung cấp thông tin phục vụ điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Kế toán tài chính: Cung cấp thông tin phục vụ cho việc lập các báo cáo tài chính.
* Đối tượng phục vụ:
- Đối tượng sử dụng thông tin về kế toán quản trị là: Các nhà quản lý doanh nghiệp (Hội đồng quản trị,
ban giám đốc)
- Đối tượng sử dụng thông tin về kế toán tài chính là: Các nhà quản lý doanh nghiệp và các đối tượng
bên ngoài doanh nghiệp (Nhà đầu tư, ngân hàng, cơ quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan thống kê)
* Đặc điểm của thông tin:

- Kế toán quản trị nhấn mạnh đến sự thích hợp và tính linh hoạt của số liệu, thông tin được tổng hợp
phân tích theo nhiều góc độ khác nhau. Thông tin ít chú trọng đến sự chính xác mà mang tính chất
phản ánh xu hướng biến động, có tính dự báo vì vậy thông tin kế toán quản trị phục vụ cho việc đánh
giá và xây dựng các kế hoạch kinh doanh, thông tin được theo dõi dưới hình thái giá trị và hình thái
hiện vật.
Ví dụ: Kế toán vật tư ngoài việc theo dõi giá trị của vật tư còn phải theo dõi số lượng vật tư.
- Kế toán tài chính phản ánh thông tin xảy ra trong quá khứ đòi hỏi có tính khách quan và có thể kiểm
tra được. Thông tin chỉ được theo dõi dưới hình thái giá trị.
* Nguyên tắc cung cấp thông tin:
- Kế toán quản trị không có tính bắt buộc, các nhà quản lý được toàn quyền quyết định và điều chỉnh
phù hợp với nhu cầu và khả năng quản lý của doanh nghiệp.
- Kế toán tài chính phải tôn trọng các nguyên tắc kế toán được thừa nhận và được sử dụng phổ biến,
nói cách khác kế toán tài chính phải đảm bảo tính thống nhất theo các nguyên tắc và chuẩn mực kế
toán nhất định để mọi người có cách hiểu giống nhau về thông tin kế toán đặc biệt là báo cáo tài chính
và kế toán tài chính phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt là những yêu cầu
quản lý tài chính và các yêu cầu của xã hội thông qua việc công bố những số liệu mang tính bắt buộc.
* Phạm vi của thông tin:
- Phạm vi thông tin của kế toán quản trị liên quan đến việc quản lý trên từng bộ phận (phân xưởng,
phòng ban) cho đến từng cá nhân có liên quan.
- Phạm vi thông tin của kế toán tài chính liên quan đến việc quản lý tài chính trên quy mô toàn doanh
nghiệp.
* Kỳ báo cáo:
- Kế toán quản trị có kỳ lập báo cáo nhiều hơn: Quý, năm, tháng, tuần, ngày.
- Kế toán tài chính có kỳ lập báo cáo là: Quý, năm
* Quan hệ với các môn khoa học khác:
Kế toán tài chính ít có mối quan hệ với các môn khoa học khác.
Do thông tin kế toán quản trị được cung cấp để phục vụ cho chức năng quản lý, nên ngoài việc dựa
vào hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán tài chính thì kế toán quản trị còn phải kết hợp và sử dụng
nội dung của nhiều môn khoa học khác như: Kinh tế học, thống kê kinh tế, tổ chức quản lý doanh
nghiệp, quản trị đầu tư để tổng hợp phân tích và xử lý thông tin.

* Tính bắt buộc theo luật định:
- Kế toán quản trị không có tính bắt buộc.
- Kế toán tài chính có tính bắt buộc theo luật định.
Kế toán tài chính có tính bắt buộc theo luật định có nghĩa là sổ sách báo cáo của kế toán tài chính ở
mọi doanh nghiệp đều phải bắt buộc thống nhất, nếu không đúng hoặc không hạch toán đúng chế độ
thì báo cáo đó sẽ không được chấp nhận (tham khảo thêm về luật kế toán vừa ban hành).
3. Có phải kế toán tài chính là kế toán tổng hợp và kế toán quản trị là kế toán chi tiết không?
Để hiểu rõ và tránh nhầm lẫn về các "thuật ngữ" trên ta cần phân tích mối quan hệ giữa kế toán tài
chính với kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết.
Kế toán tài chính và kế toán tổng hợp: Kế toán tổng hợp là một bộ phận của kế toán tài chính, nhằn
trình bày các số liệu báo cáo mang tính tổng hợp về tình hình tài sản, doanh thu chi phí và kết quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một kỳ kế toán vào một thời điểm nhất định. Nói cách khác kế
toán tổng hợp chỉ liên quan đến tài khoản của sổ cái tổng hợp và báo cáo tài chính.
Kế toán tài chính và kế toán chi tiết: Kế toán chi tiết là một bộ phận của kế toán tài chính, nhằm chứng
minh các số liệu ghi trong tài khoản tổng hợp là đúng trong quá trình ghi chép và lập báo cáo kế toán,
đây cũng là công việc phải làm trước khi khoá sổ kế toán để quyết toán. Thuật ngữ thông thường gọi
là đối chiếu giữa tổng hợp và chi tiết.
Ví dụ: Như việc thực hiện đối chiếu giữa tài khoản phải thu với sổ công nợ chi tiết của từng khách
hàng, đối chiếu tài khoản phải trả với sổ chi tiết công nợ của từng nhà cung cấp hay việc đối chiếu tài
khoản nguyên vật liệu với sổ chi tiết vật tư, đối chiếu tài khoản chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
với thẻ chi tiết tính giá thành sản phẩm.
Tóm lại trong kế toán tài chính bao giờ cũng có kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết, vì vậy kế toán tài
chính không phải là kế toán tổng hợp và kế toán quản trị không phải là kế toán chi tiết.
Kiểm toán tài chính và kiểm toán hoạt
động-đâu là lựa chọn ưu tiên ?
Đã đọc: 9981 lượt.
Có 3 phương pháp tiếp cận tài chính đối với Kiểm toán nhà nước, đó là: Kiểm toán tuân thủ,
Kiểm toán xác nhận ( Báo cáo tài chính) và Kiểm toán hoạt động ( hay Kiểm toán hiệu quả đồng
tiền).
1. Các phương pháp tiếp cận khác nhau đối với Kiểm toán nhà nước

Kiểm toán tuân thủ là hình thức kiểm toán chủ yếu tập trung vào các giao dịch tài chính của một tổ
chức nhằm đảm bảo các giao dịch này được ghi chép đúng, công quĩ được sử dụng và hạch toán một
cách đúng đắn và các nghĩa vụ về mặt nghĩa vụ pháp lý được đáp ứng. Các biện pháp kiểm tra được
thực hiện để đảm bảo được rằng luật pháp và các qui định có lien quan được tuân thủ. Báo cáo kiểm
toán tuân thủ thường là các báo cáo dài trong đó nêu lên chi tiết các điểm yếu và bất thường được
phát hiện trong quá trình kiểm toán
Phương pháp tiếp cận cơ bản là kiểm toán tuân thủ pháp luật-nhằm đưa ra những xác nhận rằng mỗi
giao dịch và từng khoản thanh toán là hợp lệ và tuân thủ với ngân sách. Kiểm toán tuân thủ pháp luật
dựa trên việc kiểm tra tất cả các giao dịch tài chính. Việc kiểm tra này có thể được tiến hành trước khi
thực hiện thanh toán ( tiền kiểm) hoặc có thể diễn ra sau khi thanh toán( hậu kiểm). Kiểm toán tuân
thủ pháp luật đôi khi được mở rộng để bao gồm cả việc xem xét tính đúng đắn.
Kiểm toán xác nhận ( Báo cáo tài chính ) là một loại kiểm toán tuân thủ đang trở thành quan trọng hơn
trong những năm gần đây. Là loại kiểm toán bao gồm công việc kiểm toán và việc trình bày ý kiến
kiểm toán về các báo cáo tài chính của một tổ chức. Ý kiến kiểm tra thường ngắn gọn và theo một
mẫu chuẩn. Kiểm toán xác nhận thường được thực hiện trên cơ sở hệ thống chọn mẫu. Điều này có
nghĩa là chỉ có một mẫu nhỏ các giao dịch được kiểm tra hoặc soát xét . Hơn nữa, hệ thống kiểm soát
nội bộ của bản than tổ chức và kết quả công việc của kiểm toán nội bộ( nếu có) cũng có thể cung cấp
một mức độ tin cậy và đảm bảo nhất định.
Kiểm toán hoạt động hay kiểm toán giá tri tiền tệ được một số cơ quan Kiểm toán nhà nước phát triển
nhắm bổ sung cho các phương pháp kiểm toán khác. Hình thức kiểm toán này thường được gắn liền
với sự nhấn mạnh tính hiệu quả trong các lĩnh vực công trong thời gian gần đây. Nó có thể được giới
thiệu như là một phần của quá trình cải cách có tên gọi là Quản trị khu vực Công mới ( bao gồm tư
nhân hoá, các thị trường và các cơ quan nội bộ).
Kiểm toán hoạt động bao gồm nguyên lý 3 E: Economy – tính kinh tế, Efficiency- tính hiệu lực và
Effectiveness –tính hiệu quả. Tính kinh tế có thể được định nghĩa là đạt được mục tiêu một cách rẻ
hơn hay tiêu tốn ít hơn. Tính hiệu lực là thực hiện đúng công việc hoặc chi tiêu một cách tốt nhất. Mục
đích là nhằm tăng sản lượng đầu ra trong khi vẫn duy trì hoặc giảm các yếu tố đầu vào. Tính hiệu quả
là thực hiện đúng công việc hoặc chi tiêu một cách khôn ngoan nhất. Thường được đo lường bằng
cách so sánh kết quả đạt được với kế hoạch.
Kiểm toán hoạt động có thê bao gồm các phương pháp tiếp cận khác, đang được áp dụng tại một số

quốc gia bao gồm: Kiểm toán kết quả, kiểm toán các chỉ số phi tài chính ( đang được xem xét tại Anh
Quốc, hiện tại các hệ thong tin đang được đánh giá); đánh giá các giả định lập ngân sách( đang được
áp dụng một số nội dung tại Anh Quốc và Đức), thường được thoả thuận thực hiện hang năm.
Về vấn đề này, tuyên bố Lima của INTOSAI đã đề cập như sau: Việc cần có loại kiểm toán tuân thủ
pháp luật thong thường đối với các vấn đề tài chính là điều không phải tranh cãi; tuy nhiên loại kiểm
toán này có thể được bổ sung bằng loại kiểm toán hoạt động.
2. Kiểm toán tài chính, nội dung cốt lõi của Kiểm toán Nhà nước
Tại hầu hết các quốc gia, các loại hình kiểm toán chủ yếu thường là kiểm toán tuân thủ và kiểm toán
tài chính. Cơ quan Kiểm toán Quốc gia ( Anh quốc) và Cơ quan Kiểm toán chính phủ ( Hoa kỳ)
thường sử dụng ba phần tư thời gian và nguồn lực mà họ có cho những loại hình kiểm toán này. Quy
trình kiểm toán công cần phải đưa ra đảm bảo đối với cử tri rằng Chính phủ không tiêu quá tổng số
tiền như đã cam kết trong ngân sách, số tiền đó được tiêu cho hang hoá và dịch vụ do Quốc hội quyết
định. Qui trình kiểm toán cũng đưa ra đảm bảo rằng các cơ quan công quyền hoạt động một cách
đúng đắn và tuân thủ pháp luật. Nếu chi tiêu của Chính phủ không hợp lệ thì các phương tiện thong
tin đại chúng sẽ là phương tiện chủ yếu thong tin các báo cáo kiểm toán có quan điểm trái ngược cho
cử tri và các nhóm có quan tâm khác.
Do vậy mục tiêu chính của kiểm toán nhà nước là phải trả lời cho những câu hỏi sau: Báo cáo tài
chính ( Báo cáo quyết toán) của chính phủ có được soạn lập, kiểm toán và phát hành trong vòng 9
tháng sau ngày kết thúc năm tài chính hay không? Có các hành động đáp ứng các chất vấn và kiến
nghị của Kiểm toán nhà nước hay không? Hệ thống kiểm soát nội bộ có giảm thiểu được các sai sót
và gian lận hay không?
3. Các vấn đề đối với kiểm toán hoạt động
Trong khu vực công kiềm soát chi phí phải đi đôi với chất lượng của dịch vụ. Vì thế tồn tại một áp lực
nhất định đối với tất cả các ý tưởng về hiệu quả đồng vốn. Điều đáng kể nhất là áp lực giữa khủng
hoảng tài chính dẫn tới các câu hỏi về tính kinh tế, tính hiệu suất, kiểm soát chi phí, do đó dẫn tới các
áp lực về tăng cường chất lượng dịch vụ hay tính hiệu quả. Kiểm toán viên được mong đợi hoặc chịu
sức ép để thực hiện loại hình kiểm toán này. Tuy nhiên, cần có các kỹ năng khác nhau và kết quả là
rất nhiều kiểm toán viên thực hiện kiểm toán hiệu quả đồng vốn bị kẹt giữa một bên là sự hạn chế về
năng lực và một bên là yêu cầu cần phải thực hiện công việc có hiệu quả tốt hơn.
Hơn nữa, tồn tại một rủi ro là bản than kiểm toán hoạt động sẽ không mang lại hiệu quả đồng vốn.

Loại kiểm toán này phức tạp hơn, khó hơn, tốn kém hơn so với kiểm toán tài chính thong thường. Tại
Anh Quốc, một cuộc kiểm toán hiệu quả đồng vốn quy mô trung bình sẽ làm cơ quan Kiểm toán Quốc
gia tốn một phần tư triệu bảng Anh.
4. Áp dụng loại hình kiểm toán hoạt động-cần một phương pháp hợp lý
Kết quả có thể là một ý tưởng tốt nếu chuyển đổi sang việc áp dụng kiểm toán một cách từ từ. Điều
này để đảm bảo năng lực của nhân viên được dần dần nâng cao và để thực hiện công việc một cách
thành công. Một cách tiếp cận là đào tạo một nhóm nhỏ các nhân viên có trình độ những người sẽ thu
được kinh nghiệm và chuyên môn khi thực hiện cách tiếp cận này. Ý tưởng là để đảm bảo rằng mỗi
một dự án kiểm toán hoạt động này sẽ thành công.
Để bắt đầu, có lẽ chỉ cần thực hiện một vài dự án kiểm toán hoạt động mỗi năm và những cuộc kiểm
toán này được dự đoán là dễ thực hiện và dễ thành công. Một cách tiếp cận như vậy có thể bao gồm:
- Khuyến khích kiểm toán viên xác định các nội dung lien quan đến kiểm toán hoạt động hoặc hiệu
quả của đồng vốn như là một nội dung của cuộc kiểm toán tài chính.
- Thực hiện các khảo sát thị trường để giảm thiểu khả năng các hoá đơn bị tăng khống và việc mua
sắm được thực hiện một cách hiệu quả.
- So sánh giữa các tổ chức tương tự ví dụ như các trường học hoặc bệnh viện
Các nội dung trên sẽ đảm bảo rằng cơ quan kiểm toán sẽ bồi dưỡng được các kỹ năng cần thiết và
các kiểm toán viên có năng lực thực hiện loại công việc này có thể được phát hiện và được đào tạo
chuyên sâu.
5. Kết luận
- Kiểm toán tài chính luôn đóng vai trò quan trọng
- Kiểm toán hoạt động có thể cải thiên ảnh hưởng của kiểm toán
- Kiểm toán hoạt động phải chứng minh được hiệu quả của đồng vốn
- Việc bắt đầu áp dụng kiểm toán hoạt động một cách thận trọng sẽ mang lại thành công.
- Kiểm toán tài chính sẽ có thể vẫn là cách thức tốt nhất để cải thiện vai trò của kiểm toán hoạt động
trong khu vực công.
- Không nhất thiết phải sao chép cách thức mà các cơ quan kiểm toán quốc gia khác đang thực hiện,
nhưng có thể sử dụng kinh nghiệm của các cơ quan này để tìm ra cách mà mỗi nước có thể tăng
cường trong công tác quản lý, và đặc biệt là công tác quản lý tài chính của các tổ chức được kiểm
toán.

IAS 37 - Phân biệt giữa Phải trả nhà
cung cấp và Chi phí trích trước.
Đã đọc: 8847 lượt.
Tại đoạn 11 - Chuẩn mực kế toán Quốc tế (IAS) số 37 có định nghĩa thế nào là khoản Phải trả
nhà cung cấp. Tương ứng khái niệm này được trình bày trong Chuẩn mực kế toán Việt Nam
(VAS) số 18 - Các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng.
Phải trả nhà cung cấp và Chi phí trích trước
Phải trả nhà cung cấp được định nghĩa là khoản công nợ phải trả cho việc cung cấp hàng hoá và dịch
vụ đã thực hiện và đã được bên bán cung cấp hoá đơn hoặc bên mua đồng ý chính thức bằng nhiều
hình thức khác nhau. Trong trường hợp bên bán chưa cung cấp hoá đơn hoặc bên mua chưa có sự
đồng ý chính thức thì khoản này được phân loại như là một khoản Công nợ trích trước hay Chi phí
trích trước.
Điều đó có nghĩa rằng tất cả các khoản phải trả cho việc mua hàng hoá và dịch vụ nếu đã được phát
hành hoá đơn hoặc chấp nhận thanh toán chính thức qua nhiều hình thức (ví dụ như thông qua Đơn
đặt hàng) thì cần được phân loại như là Phải trả nhà cung cấp mà không tính đến đặc điểm hoạt động
sản xuất kinh doanh của chính Doanh nghiệp, bất kể doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất
hay cung cấp dịch vụ.
Tuy nhiên, một khả năng khác được đặt ra là liệu việc phân loại giữa Phải trả nhà cung cấp và Chi phí
(công nợ) trích trước có ảnh hưởng bởi đặc điểm hoạt động kinh doanh của bản thân doanh nghiệp.
Ví dụ, khoản chi phí quảng cáo và xúc tiến thương mại sẽ được phân loại là Phải trả nhà cung cấp đối
với các doanh nghiệp sản xuất nếu thoả mãn một trong hai điều kiện là có hoá đơn phát hành hoặc
chấp nhận thanh toán chính thức. Nhưng đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, khoản chi phí
trên nên được ước tính dựa trên kết quả kinh doanh thực tế ví dụ như doanh thu, khối lượng hàng
bán, số lần truy cập vào website (đối với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ quảng cáo trên mạng),… cho
dù nhà cung cấp đã phát hành hoá đơn hay chưa.
Kiểm toán đối với Phải trả nhà cung cấp và Chi phí trích trước
Hai khoản mục này, thông thường, khác nhau ở sự chấp thuận giữa 2 bên về số nợ thực tế. Một
khoản công nợ được phân loại là Phải trả nhà cung cấp có nghĩa là sẽ được xác nhận bởi cả bên bán
và bên mua. Ngược lại, Chi phí trích trước thông thường phát sinh trong nội tại doanh nghiệp - bên
mua, chưa có sự đồng ý chính thức từ phía bên bán. Do đó, các kiểm toán viên, thông thường, chỉ gửi

thư xác nhận đối với các khoản hoặc đối với các đối tượng được theo dõi trên khoản mục Phải trả nhà
cung cấp. Khi đó, thư xác nhận công nợ mới đạt hiệu quả cao.
Phát hiện gian lận không chỉ qua
những con số! (Phần đầu)
Đã đọc: 10737 lượt.
Kiểm toán viên cần phải hiểu và tuân thủ Chuẩn mực Kiểm toán số 99 (SAS99) - Xem xét gian
lận trong kiểm toán báo cáo tài chính. Chuẩn mực này chủ yếu tập trung vào các thủ tục phát
hiện gian lận. Nhưng trong quá trình phát hiện gian lận, Chuẩn mực này cũng quy định việc
phát hiện gian lận của kiểm toán viên luôn tồn tại những hạn chế. Bài viết này tập trung vào
một số vấn đề chuyên môn có tính thông lệ khi kiểm toán viên phát hiện các sai sót trọng yếu
liên quan đến gian lận.
CHUẨN MỰC NGHỀ NGHIỆP
SAS 99 phân loại các sai sót liên quan đến gian lận thành hai loại: một là các gian lận liên quan đến
báo cáo tài chính, hai là các gian lận liên quan đến việc biển thủ tài sản. Nhân tố chính để phân biệt
giữa gian lận và sai sót là sự cố tình hay vô ý. SAS 99 chỉ ra rằng “rất khó khăn để xác định những
hành động cố ý” và “một cuộc kiểm toán được thiết lập không phải để phát hiện những hành động cố
ý" và “gian lận một phạm trù rộng lớn, kiểm toán viên không thể quyết định chính xác khi nào gian lận
xảy ra”. Vì vậy khả năng xét đoán là yếu tố then chốt trong việc phát hiện các gian lận tiềm ẩn và các
Chuẩn Mực Kiểm toán chung được thừa nhận GAAS (Generally Accepted Auditing Standards) đưa ra
những hướng dẫn cụ thể trong việc phát hiện gian lận.
Trong các sự kiện có thể dẫn tới gian lận tiềm ẩn, kiểm toán viên phải quyết định ảnh hưởng của
chúng có trọng yếu hay không. Điều này liên quan đến việc mở rộng thủ tục kiểm toán cũng như cân
nhắc những nhân tố khác trong qui trình kiểm toán có thể bị ảnh hưởng. "Nếu kiểm toán viên tin rằng
sai sót có thể hoặc chắc chắn là do gian lận, nhưng ảnh hưởng của chúng không trọng yếu, kiểm toán
viên cần đánh giá lại những nhân tố ảnh hưởng, đặc biệt là những nhân tố về vị trí, chức vụ của các
cá nhân có liên quan trong doanh nghiệp”. SAS 99 khẳng định rằng kiểm toán viên có thể xét đoán và
phân tích ảnh hưởng lên toàn bộ cuộc kiểm toán. Cụ thể:
• Kiểm toán viên có thể quyết định gian lận có tách biệt với các khu vực và ảnh hưởng trọng yếu lên
bảng báo cáo kết quả kinh doanh hay không?
• Nếu ảnh hưởng trọng yếu, kiểm toán viên có thể quyết định gian lận là riêng lẻ và có thể bị kiểm soát

đáng kể trong hệ thống các nghiệp vụ, khoản mục hay không?
• Nếu không ảnh hưởng trọng yếu lên các khu vực riêng biệt, hãy xem vấn đề này có lien quan đến hệ
thống quản lý hay không? Kiểm toán viên phải cân nhắc xem gian lận có bộc lộ là ảnh hưởng lên toàn
bộ và có cần mức độ chính trực của người quản trị hay không?
Nếu kiểm toán viên quyết định những sai sót xảy ra do gian lận và là trọng yếu hoặc kiểm toán viên
không thể xác định được mức độ ảnh hưởng của gian lận đến báo cáo tài chính thì kiểm toán viên có
thể xem xét các hướng dẫn sau:
• Phải thu thập thêm bằng chứng
• Xem xét những ảnh hưởng của chúng lên những khu vực kiểm toán khác.
• Thảo luận vấn đề này, bao gồm cả những gì thu được trong việc điều tra bổ sung với cấp quản lý.
• Xem xét việc tham khảo ý kiến khách hàng trong việc phát hiện gian lận.
• Xem xét rút khỏi cuộc kiểm toán nếu kết quả cuộc kiểm toán chỉ ra rằng có tồn tại những sai sót
trọng yếu liên quan đến gian lận, và cần trao đổi rõ lý do rút khỏi cuộc kiểm toán với khách hàng.
• Xem xét việc tham khảo ý kiến tư vấn của các chuyên gia luật.
Cuối cùng, chuẩn mực kiểm toán yêu cầu kiểm toán viên phải thu thập những bảo đảm hợp lý rằng
Báo cáo tài chính không chứa đựng những sai sót trọng yếu, cho dù những sai sót đó là do gian lận
hay vô ý tạo nên.
Tuy nhiên,SAS 99 thừa nhận rằng, "do bản chất vốn có của một cuộc kiểm toán và tính chất của các
gian lận, không thể đảm bảo chắc chắn rằng gian lận luôn luôn được phát hiện". Trong thực tế, một
chuyên gia phát hiện gian lận nhiều kinh nghiệm cũng không thể đảm bảo chắc chắn phát hiện được
toàn bộ các gian lận khi chúng đã bị che dấu một cách cố ý.
Những sự kiện gần đây, bộ luật mới, hướng dẫn nghề nghiệp mới đã tăng kỳ vọng của khách hàng
đối với kiểm toán viên trong việc phát hiện gian lận. Kết quả là, sự xét đoán nghề nghiệp của kiểm
toán viên, khi đương đầu với những gian lận tiềm ẩn, mang tính chất quyết định trong việc phát hiện
gian lận. Chuẩn mực nhấn mạnh ngay cả những cuộc kiểm toán đã được lập kế hoạch nhằm tuân thủ
GAAS cũng có thể không phát hiện hết các sai sót trọng yếu. Vì vậy kiểm toán viên phải xác định
được những mong muốn của khách hàng qua quá trình giao tiếp. Người quản lý cao cấp của khách
hàng cũng phải hiểu được bản chất và giới hạn của cuộc kiểm toán và trách nhiệm nào của kiểm toán
đối với báo cáo tài chính và gian lận tiềm ẩn.
Phát hiện gian lận không chỉ qua những con số (tiếp theo và hết)

Tài liệu tham khảo:
- Francis C. Brulenski, CPA, and Ricardo J. Zayas, CPA, CFE, CVA.(2004). Fraud Detection is not
Just by the Numbers. [Internet]. Accountingweb. Link: [ />bin/item.cgi?id=99821&d=815&h=817&f=816&dateformat=%B%20%e,%20%Y]
Bản quyền:
www.kiemtoan.com.vn giữ bản quyền bài viết này. Khi sử dụng hoặc trích dẫn từng phần của bài viết
này cần phải ghi đầy đủ các thông tin như sau:
Thutrangcat. Bản dịch. (2006).Phát hiện gian lận không chỉ qua những con số! (Phần đầu). Bản quyền
www.kiemtoan.com.vn
Link: [ />Phát hiện gian lận không chỉ qua
những con số (tiếp theo và hết)
Đã đọc: 7234 lượt.
Ví dụ về gian lận
Từ lý thuyết đến thực tiễn, dưới đây là hai ví dụ điển hình về gian lận
Báo cáo tài chính: Khi đang kiểm tra việc cắt giảm doanh số bán hàng ở một khách hàng, trong số các
nghiệp vụ đã được chọn lựa, kiểm toán viên đã bắt gặp một nghiệp vụ liên quan đến doanh số từ một
khách hàng mà dựa vào việc đánh giá tình hình kinh doanh ở các phần hành kiểm toán khác, kiểm
toán viên nhận ra khách hàng này là một người mua chính. Nghiệp vụ này xảy ra không thường
xuyên, và được đánh giá là trọng yếu.
Những tài liệu có liên quan đến nghiệp vụ này được thu thập. Những tài liệu này bao gồm những bằng
chứng liên quan đến việc chi trả của các khoản phải thu sau ngày kết thúc Báo cáo tài chính năm. Tuy
nhiên tài liệu liên quan đến việc giao hàng bẳng đường thuỷ đã không được cung cấp. Quá trình phân
tích đã chỉ ra rằng không hề có việc ghi chép quá trình vận chuyển. Mặc dù có bằng chứng của việc
chi trả, nhưng không hề có bằng chứng chứng minh rằng hàng hóa đã được giao.
Quảng cáo
Diễn đàn kiểm toán là nơi gặp gỡ của tất cả những ai đã và đang hoạt động trong lĩnh vực kế toán và
kiểm toán. Các bạn có thể truy cập vào diễn đàn kiểm toán qua đường linh sau:
www.kiemtoan.com.vn/diendan
- @ -
Việc phân tích thêm nữa được mở rộng, hoá đơn của công ty được kiểm toán viên yêu cầu. Kiểm
toán viên chứng minh được vài hoá đơn “dịch vụ đặc biệt” đã được giao cho khách hàng khi công ty

được chi trả. Những hoá đơn này ít chi tiết hơn hẳn những hoá đơn khác trong tập hồ sơ và không
được được làm sáng tỏ hơn qua các đơn đặt hàng hay là các giấy tờ phải thu. Tổng số hoá đơn đặc
biệt này đã chứng minh được rằng nghiệp vụ bán hàng đó hoàn toàn đáng nghi vấn.
Việc phát hiện này được trao đổi với Giám đốc tài chính, người sẽ đưa ra lời giải thích thiếu chính
xác. Sau khi tiếp xúc với ban quản trị, kiểm toán viên gặp lại Giám đốc tài chính và báo rằng việc điều
tra đang được xem xét.
Giám đốc tài chính đã thông đồng với Giám đốc điều hành xây dựng kế hoạch để tăng doanh số nhằm
đạt được mục tiêu doanh thu. Khi muốn hợp thức hoá, Giám đốc tài chính đã chọn một khách hàng
chính, để thực hiện kế hoạch này. Vị giám đốc tài chính sẽ từng kỳ trực tiếp hướng dẫn khách hàng
ghi hoá đơn và trả trong vòng 30 ngày. Sau đó, Giám đốc tài chính này sẽ phối hợp và “tạo ra” doanh
số ảo đến công ty của người mua với số tiền tương đương. Trong vòng 30 ngày chi trả doanh số ảo
này, khách hàng sẽ trì hoãn việc chi trả. Vào cuối kỳ kế toán, kế hoạch này đã khiến khoản bán hàng
không trung thực này được ghi nhận vào doanh thu. Điều này cho phép họ đạt được mục tiêu doanh
số.
Biển thủ tài sản:Trong khi đang tiến hành các thủ tục kiểm tra vật chất hàng tồn kho, các kiểm toán
viên đã phát hiện ra một sự mâu thuẫn trọng yếu hay là cụ thể hơn là sự thiếu hụt giữa việc ghi chép
liên tục với việc kiểm đếm để xác định tính hiện hữu của hàng tồn kho. Chủ nhiệm kiểm toán đã đưa
vấn đề này cho Giám đốc kiểm toán và được yêu cầu tiến hành điều tra thêm.
Việc phát hiện này chỉ ra rằng vấn đề này cần phải phân tích thêm. Các kiểm toán viên xem xét kỹ
lưỡng giấy tờ lien quan đến hang tồn kho thời gian trước đó ,đặc biệt chú ý các khoản thiếu hụt tương
tự với cùng một hàng tồn kho. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, khoản thiếu hụt này được cho là vụn vặt,
và chẳng có cuộc điều tra nào được tiến hành. Và khoản này đã được ghi vào tài khoản hao hụt
Kiểm toán viên sau đó yêu cầu kiểm tra khoản phải trả, việc mua hàng, và việc ghi các khoản phải thu.
Kế toán công nợ phải trả đã cung cấp một bảng báo cáo về các khoản phải trả của từng người bán
riêng lẻ và các tài liệu liên quan. Kiểm toán viên không được cung cấp các tài liệu liên quan đến khoản
phải trả được giữ bởi thủ kho. Kiểm toán viên đã trực tiếp yêu cầu người thủ kho cung cấp các tài liệu
đó. Chúng được hứa sẽ đưa vào tuần tới. Sau 2 tuần nhắc nhở liên tục, không một tài liệu liên quan
đến các khoản phải trả và hàng hoá đã nhận nào được cung cấp và vị thủ kho được báo là phải nằm
viện.
Tiến hành làm việc với những tài liệu sẵn có, kiểm toán viên xem xét lại các tài liệu liên quan đến việc

bán hàng thông qua hoá đơn. Họ điều tra được rằng, tên và địa chỉ người trả mâu thuẫn với hoá đơn
mà việc chi trả được uỷ quyền cho người thủ kho. Sau đó kiểm toán viên đã yêu cầu được cung cấp
những hoá đơn liên quan đến việc huỷ bỏ các Séc thanh toán cho người bán hàng. Kiểm toán viên đã
phát hiện ra rằng, một số các hoá đơn được đánh dấu ở mặt sau và được ký hiệu đặc biệt. Trong khi
các hóa đơn khác có những chú thích khác chỉ ra rằng chúng đã được thông qua ở bộ phận kiểm đếm
tiền mặt. Kiểm toán viên quyết định rằng, vị thủ kho của công ty đã thực hiện việc mua bán ảo bằng
cách làm hoá đơn bán hàng giả mạo. Khoản phải trả sau đó đã được trả đến địa chỉ mà chỉ có người
thủ kho có thể nắm được. Và vị thủ kho này cũng tự ý không qua bộ phận kiểm đếm tiền.
Phân tích vấn đề
Thông qua các ví dụ đã đưa ra, các thủ tục và xét đoán của các kiểm toán viên trong mỗi tình hình và
hoàn cảnh cụ thể có thể được tham khảo. Tuy nhiên bởi vì bản chất vốn có của gian lận, không thể có
Checklist chuẩn để kiểm toán viên dựa vào đó thực hiện. Sau khi đọc xong hai tình huống gian lận,
chúng ta có thể thấy rằng việc kiểm toán viên không điểu tra ra được gian lận là một việc hoàn toàn có
thể xảy ra. Ở ví dụ đầu tiên, mối liên hệ gì giữa khách hàng và tên của người bán không bao giờ được
phát hiện ra. Ở ví dụ 2, điều gì sẽ xảy ra nếu Chủ nhiệm kiểm toán không đưa vấn đề này cho Giám
đốc kiểm toán mà tự ý chấp thuận lời giải thích sau khi trực tiếp phỏng vấn thủ kho. Kiểm toán viên
phải dựa vào kỹ năng và kinh nghiệm cũng như quá trình rèn luyện khả năng xét đoán để quyết định
các bước nào nên tiến hành khi đối mặt với những gian lận tiềm ẩn.
Như đã được chú ý trước đó, quá trình kiểm toán cho dù được thực hiện đúng đắn và thích hợp, hoàn
toàn có thể không điều tra được những gian lận trọng yếu. Bản chất của các kế hoạch “sau
lưng”không dễ dàng được phát hiện qua các thủ tục kiểm toán thong thường. Kết quả là những kế
hoạch như thế được phát hiện thong qua những tình huống ngoài dự kiến của cuộc kiểm toán.
Xem xét các ví dụ, và nghĩ xem như thế nào để có thể lập kế hoạch kiểm toán, thiết kế các thủ tục và
thực hiện kiểm toán. Đánh giá các phương pháp kiểm toán có thể điều tra việc tham ô và gian lận đến
mức nào và những phân tích để mở rộng thủ tục kiểm toán. Tiến hành mở rộng thủ tục kiểm toán và
điều tra các gian lận tiềm ẩn vừa được phát hiện trong bao lâu? Kiểm toán viên phải chịu trách nhiệm
cho việc phát hiện lúc ban đầu của gian lận trong yếu và chịu trách nhiệm mở rộng thủ tục kiểm toán
mà các thủ tục mở rộng này có những quyết định đàng kể ảnh hưởng lên Báo cáo tài chính. Khi kiểm
toán viên bắt đầu mở rộng điều tra hoặc các thủ tục pháp lý, có nhiều vấn đề nghề nghiệp cần phải
được xem xét. Kiểm toán viên sẽ xác định ranh giới giữa thủ tục kiểm tra báo cáo tài chính và thủ tục

phục vụ mục đích tư vấn cho khách hàng ở đâu? Kiểm toán viên có kinh nghiệm cần thiết để đưa ra ý
kiến Báo cáo tài chính hay không? Kiểm toán viên có độc lập trong khi đưa ra ý kiến thuộc về cảm tính
hay không? Hướng dẩn của GAAS cũng mơ hồ và bị giới hạn trong vấn đề này.
Phần kết:
Rõ ràng, kiểm toán viên được yêu cầu kiểm tra các trường hợp của gian lận tiềm tàng để đánh giá
ảnh hưởng lên Báo cáo tài chính cũng như ảnh hưởng lên toàn bộ cuộc kịểm toán. Sự xét đoán được
rèn luyện trong khi làm quyết định dựa vào thủ tục kiểm toán ban đầu và mở rộng, được yêu cầu cân
nhắc một cách cẩn thận. Nhiều vấn đề có thể phát sinh mà không được đề cập trong GAAS. Ví dụ:
• Ở thời điểm nào thủ tục kiểm toán mở rộng trở thành việc điều tra pháp lý riêng biệt bao gồm những
thủ tục không thường xuyên xảy ra trong một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính. GAAS - bao gồm cả
những yêu cầu liên quan đến việc đào tạo về mặt kỹ thuật và tính chuyên nghiệp của kiểm toán viên -
vì vậy phải xem xét GAAS có đề cập đến những kỹ năng tương tự yêu cầu đối với kiểm toán báo cáo
tài chính để thực hiện việc điều tra pháp lý hay không?
• Nếu không cần thiết phải mởi rộng các thủ tục kiểm toán nhằm đưa ra ý kiến kiểm toán viên, kiểm
toán viên kết luận họ thực hiện các thủ tục một cách thành thạo, tiếp theo kiểm toán viên có thể hoàn
thành công việc và vẫn giữ được tính độc lập. Tuy nhiên, kiểm toán viên phải hiểu rằng, có họ có thể
mất tính độc lập nếu họ đồng ý đóng vai trò là nhân chứng có chuyên môn hay là luật sư cho khách
hàng.
• Nếu kiểm toán viên điều tra thủ tục pháp lý tách biệt, họ cần phải xem xét có cần thiết phải bổ sung
các rủi ro kiểm toán hay không? Trước khi thực hiện việc điều tra pháp lý vượt qua yêu cầu của SAS
99, kiểm toán viên nên xem xét tất cả các vấn đề có thể xảy ra, các chuẩn mực nghề nghiệp liên quan
và những rủi ro kiểm toán tiềm ẩn có thể phát sinh cũng như khả năng nghề nghiệp của mình.
Các kiểm toán viên biết rõ rằng họ hoạt động trong một môi trường rủi ro cao, dễ xảy ra các tranh
chấp pháp lý, đặc biệt là với SAS 99 and Sarbanes-Oxley. Khi những rủi ro tiềm ẩn được phát hiện và
các kiểm toán viên mở rộng thủ tục kiểm toán đúng đắn phù hợp với tiêu chuẩn GAAS để đánh giá
được ảnh hưởng lên Báo cáo tài chính, Kiểm toán viên nên thảo luận những phát hiện của mình với
cấp quản lý phù hợp. Kiểm toán viên nên cân nhắc việc đề nghị khách hàng giữ lại những bằng chứng
có tính pháp lý cao để thực hiện các cuộc điều tra độc lập khác liên quan đến gian lận (nếu có) nếu

×