BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
MÔN HỌC:
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Đề tài:
VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ TƠN GIÁO
GVHD: PGS.TS: Đồn Đức Hiếu
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Tấn Phát
19144173
Nguyễn Hữu Phúc
19144176
Lê Tuấn Tài
19144187
Nguyễn Thị Phương Thảo
19144196
Nguyễn Quang Vinh
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2020
19144221
Mục lục
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề
Dân tộc là kết tinh của một quá trình lâu dài của xã hội lồi người, cùng với tơn
giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hoang đường và hư ảo hiện thực khách
quan. Nếu dân tộc là sự hiện diện của con người thì tơn giáo là sản phẩm của con
người, gắn với điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội xác định.
Dường như hai vấn đề này không liên quan với nhau nhưng nếu xét về khía cạnh
xã hội thì nó ln gắn liền và đối lập với nhau. Tôn giáo là một vấn đề được giới
nghiên cứu bàn cãi rất nhiều, còn dân tộc là một trong những vấn đề có tính quy
luật của chủ nghĩa xã hội khoa học, có ý nghĩa chiến lược của cách mạng xã hội
chủ nghĩa đối với dân tộc ta. Các nước phương tây sử dụng tôn giáo như một cơng
cụ trong âm mưu diễn biến hịa bình hịng chống phá sự nghiệp xây dựng Chủ
nghĩa Xã hội ở Việt Nam cũng như các quốc gia khác. Nên chính vì thế nhóm em
chọn đề tài về “ Vấn đề dân tộc và tơn giáo” để có thể hiểu được tính đối lập cũng
như làm sáng tỏ mối quan hệ đối lập giữa tôn giáo và dân tộc.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đền dân tộc nhằm giải quyết mối quan hệ cộng đồng trong một
quốc gia dân tộc và mối quan hệ của các quốc gia dân tộc khác nhau trên thế giới,
từ đó có thể đưa ra được giải pháp đúng đắn.
Phân tích một số vấn đề chung nhất của tôn giáo cũng như một số vấn đề về tôn
giáo của Việt Nam.
3
CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN CHUNG
2.1 Vấn đề dân tộc
Vấn đề dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Là vấn đề có tính quy luật của chủ nghĩa xã hội khoa học
Là điều kiện để giai cấp công nhân được thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, do
đó có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa
Nhằm giải quyết mối quan hệ giữa các cộng đồng người trong một quốc gia và
giữa các quốc gia trên thế giới
Là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng Việt Nam. Giải quyết vấn đè
dân tộc ở nước ta là giải phóng dân tộc và đưa dân tộc lên chủ nghĩa xã hội
2.1.1 Khái niệm dân tộc
Dân tộc là quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người. Trước khi dân tộc
xuất hiện, lồi người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị
tộc, bộ lạc, bộ tộc.
Khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa
được dùng phổ biến nhất.
Theo nghĩa rộng, khái niệm dân tộc dùng để chỉ những cộng đồng người có bốn
đặc trưng: “Cộng đồng về ngơn ngữ, cộng đồng về lãnh thổ, cộng đồng về kinh
tế, cộng đồng về văn hóa, về tâm lý, về tính cách”. Theo nghĩa này, những cộng
đồng người được gọi là “dân tộc” là kết quả của sự phát triển hết sức lâu dài của
các cộng đồng người trong lịch sử nhân loại: từ cộng đồng thị tộc, bộ lạc đến
cộng đồng bộ tộc và phát triển lên hình thức tổ chức cộng đồng được gọi là dân
tộc. Đồng thời, sự hình thành dân tộc theo đúng nghĩa này thường gắn với hình
thành tổ chức nhà nước vì thế cũng cịn thường được gọi là “quốc gia – dân tộc”.
Sự hình thành cộng đồng dân tộc có thể diễn ra sớm hay muộn khác nhau tùy
theo các điều kiện lịch sử.
4
Theo nghĩa hẹp dân tộc chỉ một cộng đồng người có mối quan hệ chặt chẽ, bền
vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngơn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc
thù, xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc. Với nghĩa này, dân tộc là bộ phận của quốc gia –
quốc gia lại có nhiều dân tộc.
2.1.2. Xu hướng phát triển dân tộc
Trong quá trình nghiên cứu về dân tộc và phong trào dân tộc trong chủ nghĩa tư
bản, Lênin đã phân tích và phát hiện ra hai xu hướng phát triển có tính khách
quan của dân tộc:
Xu hướng thứ nhất: Xu hướng này gắn với giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản do
sự thức tỉnh và trưởng thành của ý thức dân tộc. Đến thời điểm chín mùi, sự thức
tỉnh về quyền sống mỗi con người muốn phân tách ra để phát triển. Biểu hiện của
xu hướng này là kích thích đời sống và phong trào dân tộc, thành lập các quốc
gia độc lập có chính phủ, hiến pháp, thị trường,…
Vậy xu hướng thứ nhất dẫn đến sự tự chủ và phồn vinh cho riêng một dân tộc
Xu hướng thứ hai: Khi dân tộc ra đời gắn liền với việc mở rộng và tăng cường
mối quan hệ kinh tế, xóa bỏ sự ngăn cách giữa các dân tộc, từ đó hình thành nên
một thị trường thế giới, Chủ nghĩa tư bản trở thành một hệ thống. Chính sự phát
triển của lực lượng sản xuất, của khoa học – cơng nghệ đã xuất hiện nhu cầu xóa
bỏ sự ngăn cách giữa các dân tộc. Tạo nên sự liên kết lại để phát triển thúc đẩy
các dân tộc xích lại gần nhau. Xu hướng này nổi bật trong giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa.
Vậy xu hướng thứ hai giúp các dân tộc trong cộng đồng quốc gia hịa nhập đồn
kết với nhau hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Kết luận: Hai xu hướng này vận động trong cùng một thể thống, khách quan của
phong trào dân tộc. Trong thời đại ngày nay các dân tộc có xu hướng xích lại gần
nhau thành những liên minh trên sơ sở lợi ích chung nhất định của các dân tộc.
Hơn nữa sự liên minh đó cịn tạo nên sức hút trên toàn cầu nhầm tập trung cùng
5
nhau đoàn kết lại giải quyết những vấn đề chung của nhân loại như: Chiến tranh,
dịch bệnh, ô nhiễm môi trường,…
2.1.3. Vấn đề dân tộc trong xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
khác đã đạt những thành tựu to lớn về nhiều mặt, từng là chỗ dựa cho phong trào
hồ bình và cách mạng thế giới, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hồ
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô và Đông Âu sụp đổ là tổn thất lớn đối với phong trào cách mạng thế giới,
nhưng một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, vẫn
kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành được những
thành tựu to lớn, tiếp tục phát triển; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có
những bước hồi phục. Tuy nhiên, các nước theo con đường xã hội chủ nghĩa,
phong trào cộng sản và cánh tả cịn gặp nhiều khó khăn, các thế lực thù địch tiếp
tục chống phá, tìm cách xố bỏ chủ nghĩa xã hội.
Nhân dân thế giới đang đứng trước những vấn đề tồn cầu cấp bách có liên quan
đến vận mệnh lồi người. Đó là giữ gìn hồ bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh,
chống khủng bố, bảo vệ mơi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu,
hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những dịch bệnh hiểm
nghèo... Việc giải quyết những vấn đề đó địi hỏi sự hợp tác và tinh thần trách
nhiệm cao của tất cả các quốc gia, dân tộc.Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện
nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau
cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia,
dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân
chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có
những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ
tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Dân tộc Xã hội chủ nghĩa chỉ xuất hiện do kết quả của sự cải tạo, xây dựng từng
bước cộng đồng dân tộc và các mối quan hệ dân tộc theo nguyên lý chủ nghĩa xã
hội khoa học theo các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đồng thời, dân
6
tộc xã hội chủ nghĩa chỉ có thể xuất hiện do kết quả của cơng cuộc cải tạo xây
dựng tồn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội để từng bước củng cố chế độ
XHCN.
Nhân tố dân tộc của nước ta được biểu hiện nổi bật thông qua văn hóa, ngơn ngữ,
nghệ thuật, phong tục tập qn,… những yếu tố này sẽ kết hợp với nhau và tạo
nên một thể thống nhất trong đa dạng về bản sắc dân tộc. Và mỗi dân tộc sẽ có
một nét đặc thù riêng, một bản sắc đặc trưng riêng và điều đó đòi hỏi nhà nước
phải đáp ứng được những đòi hỏi chính đáng mang tính đặc thủ của riêng từng
dân tộc.
Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh, do nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp, có nền
văn hố tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và con người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện. Các dân tộc trong cộng đồng
Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển, có Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do
Đảng Cộng sản lãnh đạo và có mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước
trên thế giới.
2.1.4. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong giải
quyết vấn đề dân tộc
Trong điều kiện của Chủ nghĩa đế quốc, hai xu hướng vận động gặp nhiều trở
ngại. Vì nguyện vọng được sống độc lập, tự do bị chính sách xâm lược của Chủ
nghĩa đế quốc xóa bỏ. Chính sách xâm lược của Chủ nghĩa đế quốc đã biến hầu
hết các dân tộc nhỏ bé hoặc cịn ở trình độ lạc hậu thành thuộc địa và phụ thuộc
vào nó. Xu hướng các dân tộc xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện và bình
đẳng bị Chủ nghĩa đế quốc phủ nhận. Thay vào đó họ áp đặt lập ra những khối
liên hiệp nhằm duy trì áp bức, bóc lột đối với các dân tộc khác, trên cơ sở cưỡng
bức và bất bình đẳng.
7
Từ đó, chủ nghĩa Mác Lênin cho rằng, chỉ trong điều kiện của CNXH, khi chế độ
người bóc lột người bị xóa bỏ thì tình trạng dân tộc này áp bức, độ hộ các dân tộc
khác mới bịxóa bỏ và chỉ khi đó hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân
tộc mới có điều kiện để thể hiện đầy đủ. Quá độ từ CNTB lên CNXH là sự quá
độ lên một xã hội thực sự tự do, bình đẳng, đoàn kết hữu nghĩ giữa người và
người trên toàn thế giới.
Hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc do V.I. Lênin phát hiện đang
phát huy tác dụng trong thời đại ngày nay với những biểu hiện rất phong phú và
đa dạng.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong tiến trình cách mạng xã hội
chủ nghĩa, các vấn đề dân tộc cần phải được giải quyết trên cơ sở các nguyên tắc
cơ bản sau đây:
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc:
- Trên thế giới cũng như là ở trong mỗi quốc gia sẽ có rất nhiều cộng đồng dân
tộc chung sống với nhau. Sẽ có cộng đồng ít người và đơng người, sẽ có cộng
động có trình độ phát triển cao hoặc thấp,… Thì tất cả cộng đồng dân tộc này đều
có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Khơng có một dân tộc nào có quyền được
hưởng một đặc quyền hay quyền lợi riêng nào về các mặt như là: kinh tế, văn
hóa, ngơn ngữ, chính trị,… Quyền bình đẳng giữa các dân tộc cần phải được coi
là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm.
- Trong phạm vi một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân
tộc cần phải được nhà nước bảo vệ bằng pháp luật; đồng thời nhà nước cần phải
có chính sách phù hợp trong việc khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc, tạo nên sự phát triển hài hoà giữa các
dân tộc.
- Trong phạm vi quan hệ giữa các quốc gia - dân tộc trên thế giới, quyền bình
đẳng dân tộc cần phải được gắn kết với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc, chủ nghĩa bá quyền nước lớn; chống sự áp bức, bóc lột của các nước
8
tư bản phát triển đối với các nước lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế nhằm đạt
được sự bình đẳng giữa các quốc gia - dân tộc trên phạm vi quốc tế.
Quyền tự quyết của mỗi dân tộc:
- Quyền tự quyết của các dân tộc là nói đến quyền làm chủ của mỗi dân tộc mà
trước hết và cơ bản là quyền các dân tộc có thể tự mình quyết định con đường
phát triển kinh tế, chính trị - xã hội của dân tộc mình, khơng chịu sự ràng buộc,
cưỡng bức của dân tộc khác.
- Quyền tự quyết của các dân tộc bao gồm: quyền tự do phân tách, hình thành
nên cộng đồng quốc gia - dân tộc độc lập vì lợi ích chính đáng của các dân tộc và
quyền liên hiệp các dân tộc trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng của các dân tộc.
Sư Liên hợp công nhân của tất cả các dân tộc
- Liên hợp công nhân tất cả các dân tộc là một nội dung cơ bản trong cương lĩnh
dân tộc của V.I. Lênin. Nó thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp công nhân và
phản ánh mối quan hệ chặt chẽ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng
giai cấp và phản ánh tính thống nhất biện chứng giữa chủ nghĩa u nước chân
chính và chủ nghĩa quốc tế vơ sản trong sáng.
- Liên hợp công nhân tất cả các dân tộc là một quan điểm có tính ngun tác
trong việc giải quyết các vấn đề dân tộc trong tiến trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa; quan điểm này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc giải quyết các
vấn đề thuộc quyền bình đẳng giữa các dân tộc và quyền tự quyết của các dân
tộc.
2.2. Vấn đề về tôn giáo
2.2.1. Nguồn gốc của tôn giáo
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và
lịch sử xã hội xác định. Do đó, xét về mặt bản chất, tơn giáo là một hiện tượng xã
hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội.
9
Tôn giáo xuất hiện rất sớm trong lịch sử xã hội loài người, hoàn thiện và biến đổi
cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội. Sự xuất hiện và
biến đổi đó gắn liền với các nguồn gốc sau:
Nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo:
- Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém,
con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì
vậy, họ đã gán cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực to lớn, thần thánh hố
những sức mạnh đó. Đó là hình thức tồn tại đầu tiên của tôn giáo. Khi xã hội xuất
hiện những giai cấp đối kháng, bên cạnh cảm giác yếu đuối trước sức mạnh của
tự nhiên, con người lại cảm thấy bất lực trước những sức mạnh tự phát hoặc của
thế lực nào đó của xã hội. Khơng giải thích được nguồn gốc của sự phân hố giai
cấp và áp bức bóc lột, tội ác, v.v., và của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi, con
người thường hướng niềm tin ảo tưởng vào "thế giới bên kia" dưới hình thức các
tơn giáo. Như vậy, sự yếu kém của trình độ phát triển lực lượng sản xuất, sự bần
cùng về kinh tế, áp bức về chính trị, thất vọng, bất lực trước những bất công xã
hội là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.
Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo
- Các nhà duy vật trước C. Mác thường nhấn mạnh về nguồn gốc nhận thức của
tơn giáo. Cịn các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, lại quan tâm trước hết
đến nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác-Lênin
không phủ nhận nguồn gốc nhận thức của tơn giáo mà cịn làm sáng tỏ một cách
có cơ sở khoa học nguồn gốc đó. Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức
của con người về tự nhiên, xã hội và bản thân mình là có giới hạn. Khoa học có
nhiệm vụ từng bước khám phá những điều chưa biết. Song, khoảng cách giữa
biết và chưa biết ln ln tồn tại; điều gì mà khoa học chưa giải thích được thì
điều đó dễ bị tôn giáo thay thế. Sự xuất hiện và tồn tại của tơn giáo cịn gắn liền
với đặc điểm nhận thức của con người. Con người ngày càng nhận thức đầy đủ
hơn, sâu sắc hơn thế giới khách quan, khái quát hoá thành các khái niệm, phạm
trù, quy luật. Nhưng càng khái quát hoá, trừu tượng hoá đến mức hư ảo thì sự
10
vật, hiện tượng được con người nhận thức càng có khả năng xa rời hiện thực và
dễ phản ánh sai lệch hiện thực. Sự nhận thức bị tuyệt đối hoá, cường điệu hoá
của chủ thể nhận thức sẽ dẫn đến thiếu khách quan, mất dần cơ sở hiện thực, dễ
rơi vào ảo tưởng, thần thánh hoá đối tượng.
Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo
- Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm "sự sợ hãi sinh ra thần linh".
V.I. Lênin tán thành và phân tích thêm: sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư
bản..., sự phá sản "đột ngột", "bất ngờ", "ngẫu nhiên", làm họ bị diệt vong..., dồn
họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tơn giáo hiện đại. Ngồi
sự sợ hãi trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội, tín ngưỡng, tơn giáo làm nảy
sinh những tình cảm như lịng biết ơn, sự kính trọng, tình u trong quan hệ giữa
con người với tự nhiên và con người với con người. Đó là những giá trị tích cực
của tín ngưỡng, tơn giáo. Tín ngưỡng, tơn giáo đã đáp ứng nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân, góp phần bù đắp những hụt hẫng trong cuộc sống, nỗi
trống vắng trong tâm hồn, an ủi, vỗ về, xoa dịu cho các số phận lúc sa cơ lỡ vận.
Vì thế, dù chỉ là hạnh phúc hư ảo, nhưng nhiều người vẫn tin, vẫn bám víu vào.
C. Mác đã nói, tơn giáo là trái tim của thế giới khơng có trái tim, cũng giống như
nó là tinh thần của trạng thái xã hội khơng có tinh thần.
Hình :Một số nền tôn giáo lớn
Hàng 1: Kito giáo; Do Thái giáo; Ấn Độ giáo
11
Hàng 2: Hồi giáo; Phật giáo; Thần Đạo
Hàng 3: Sikh giáo; Bahai’ giáo; Jaina giáo
2.2.2. Vấn đề tôn giáo trong q trình xây dựng xã hội chủ nghĩa
Các tơn giáo vẫn còn tồn tại lâu dài trong các nước xã hội chủ nghĩa là do các
nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Nguyên nhân nhận thức:
- Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong chế độ xã hội chủ nghĩa
trình độ dân trí của nhân dân chưa thật cao; nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội
đến nay khoa học chưa giải thích được.
Hiện nay, nhân loại đã đạt được những thành tựu to lớn về khoa học và công
nghệ, với những tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu
mới... đã giúp con người có thêm những khả năng để nhận thức xã hội và làm
chủ tự nhiên. Song, thế giới khách quan là vô cùng, vô tận, tồn tại đa dạng và
phong phú, nhận thức của con người là một quá trình và có giới hạn, thế giới cịn
nhiều vấn đề mà hiện tại khoa học chưa thể làm rõ. Những sức mạnh tự phát của
tự nhiên, xã hội đôi khi rất nghiêm trọng còn tác động và chi phối đời sống con
người. Do vậy, tâm lý sợ hãi, trông chờ, nhờ cậy và tin tưởng vào Thần, Thánh,
Phật... chưa thể gạt bỏ khỏi ý thức của con người trong xã hội, trong đó có nhân
dân các nước xã hội chủ nghĩa.
Nguyên nhân tâm lý:
- Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử loài người, ăn sâu vào trong tiềm thức
của nhiều người dân. Trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, thì
ý thức xã hội bảo thủ hơn so với tồn tại xã hội, trong đó tơn giáo lại là một trong
những hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất. Tín ngưỡng, tơn giáo đã in sâu vào
đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá sâu đậm đến nếp nghĩ, lối sống của một bộ
phận nhân dân qua nhiều thế hệ đến mức trở thành một kiểu sinh hoạt văn hố
tinh thần khơng thể thiếu của cuộc sống. Cho nên, dù có thể có những biến đổi
12
lớn lao về kinh tế, chính trị, xã hội... thì tín ngưỡng, tơn giáo cũng khơng thay đổi
ngay theo tiến độ của những biến đổi kinh tế, xã hội mà nó phản ánh.
Ngun nhân chính trị - xã hội:
- Trong các ngun tắc tơn giáo có những điểm cịn phù hợp với chủ nghĩa xã
hội, với đường lối chính sách của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là mặt giá trị
đạo đức, văn hóa của tơn giáo, đáp ứng được nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân. Dưới chủ nghĩa xã hội, tơn giáo cũng có khả năng tự biến đổi để thích
nghi theo xu hướng "đồng hành với dân tộc" sống "tốt đời, đẹp đạo", "sống phúc
âm giữa lịng dân tộc"... Nhà nước khơng ngừng nâng cao địa vị, tính tích cực xã
hội của những người có đạo bằng cách tạo điều kiện để họ tham gia ngày càng
nhiều vào các hoạt động thực tiễn. Trên cơ sở đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa làm
cho người có đạo hiểu rằng, niềm tin tơn giáo chân chính khơng đối lập với chủ
nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa, và chủ nghĩa xã hội đang hiện thực hoá lý
tưởng của chủ nghĩa nhân đạo trong cuộc sống của mỗi người dân. Cuộc đấu
tranh giai cấp vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức vơ cùng phức tạp; trong đó,
các thế lực chính trị vẫn lợi dụng tơn giáo để phục vụ cho mưu đồ chính trị của
mình. Mặt khác, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn
giáo, khủng bố, bạo loạn, lật đổ... còn xảy ra ở nhiều nơi. Nỗi lo sợ về chiến
tranh, bệnh tật, đói nghèo... cùng với những mối đe dọa khác là điều kiện thuận
lợi cho tôn giáo tồn tại.
Nguyên nhân kinh tế:
- Trong chủ nghĩa xã hội, nhất là giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ còn nhiều
thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường với những lợi ích khác nhau
của các giai tầng xã hội, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội...
vẫn là một thực tế; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân chưa cao, thì con
người càng chịu tác động mạnh mẽ của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi. Điều
đó đã làm cho con người có tâm lý thụ động, nhờ cậy, cầu mong vào những lực
lượng siêu nhiên.
Nguyên nhân về văn hoá:
13
- Sinh hoạt tín ngưỡng tơn giáo có khả năng đáp ứng ở một mức độ nào đó nhu
cầu văn hố tinh thần và có ý nghĩa nhất định về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo
đức, phong cách, lối sống. Vì vậy, việc kế thừa, bảo tồn và phát huy văn hố (có
chọn lọc) của nhân loại, trong đó có đạo đức tơn giáo là cần thiết. Mặt khác, tín
ngưỡng, tơn giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân cư, và
do đó sự tồn tại của tín ngưỡng, tơn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội như một hiện tượng xã hội khách quan.
2.2.3. Các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa mác lenin trong vấn đề giải quyết tôn
giáo
Giải quyết vấn đề tơn giáo trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần dựa
trên những quan điểm sau:
- Một là, chủ nghĩa Mác- Lênin, hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội xã hội chủ nghĩa
và hệ tư tưởng tơn giáo có sự khác nhau cơ bản về thế giới quan, nhân sinh quan
và con đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Với hệ thống tín điều và giáo lý
của mình, tơn giáo phần nào hạn chế khả năng vươn lên làm chủ của con người.
Vì vậy, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã
hội phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới; là yêu cầu
khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Hai là, một khi tín ngưỡng tơn giáo cịn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
quần chúng nhân dân, thì chính sách nhất qn của nhà nước xã hội chủ nghĩa là
tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do khơng tín ngưỡng
của cơng dân. Mọi cơng dân theo tơn giáo hoặc khơng theo tơn giáo đều bình
đẳng trước pháp luật, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Cần phát huy
những nhân tố tích cực của tơn giáo, đặc biệt là những giá trị đạo đức; chủ nghĩa
nhân đạo và tinh thần yêu nước. Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm tự do tín
ngưỡng của cơng dân. Đó là sự thể hiện bản chất của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, thể hiện sự quan tâm của đảng cộng sản và nhà nước của giai cấp vô sản
đến nhu cầu tinh thần của quần chúng nhân dân đối với tín ngưỡng tơn giáo.
14
- Ba là, thực hiện đoàn kết giữa những người theo với những người khơng theo
một tơn giáo nào, đồn kết các tơn giáo hợp pháp, chân chính, đồn kết toàn dân
tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ vì lý do tín
ngưỡng tơn giáo. Thơng qua q trình cùng nhau đồn kết xây dựng đất nước và
bảo vệ Tổ quốc, nâng cao mức sống, lối sống và trình độ kiến thức của quần
chúng, những người lao động có tín ngưỡng, tơn giáo sẽ dần dần đến với chủ
nghĩa xã hội. Những người lao động quan tâm việc xây dựng cuộc sống hạnh
phúc thực sự ở thế gian - một thiên đường dưới trần gian - có ý nghĩa thiết thực
hơn những cuộc tranh luận sng về có hay khơng có "cõi cực lạc", "thiên
đường", v.v..
V.I. Lênin nhấn mạnh rằng: Những lời tuyên chiến ầm ĩ với chủ nghĩa duy tâm,
những mệnh lệnh ngăn cấm tín ngưỡng, tơn giáo là những hành vi dại dột, vơ
chính phủ, làm cho kẻ thù lợi dụng để kích động tình cảm tơn giáo của tín đồ,
làm cho họ ngày càng gắn bó với tơn giáo, xa lánh, thậm chí đi đến chống lại
cơng cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đương nhiên,
như vậy khơng có nghĩa là coi nhẹ việc giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học, thế
giới quan duy vật cho tồn dân, trong đó có những tín đồ tơn giáo, việc làm đó
góp phần nâng cao trình độ kiến thức cho tồn dân.
- Bốn là, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề
tôn giáo. Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tơn giáo. Khắc phục mặt này
là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, gắn liền với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào có tín ngưỡng. Mặt
chính trị thể hiện sự lợi dụng tơn giáo để chống lại sự nghiệp đấu tranh cách
mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội của những phần tử phản động đội lốt tơn giáo.
Đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động trong lĩnh vực tôn giáo là nhiệm vụ
thường xuyên, đòi hỏi phải nâng cao cảnh giác kịp thời chống lại những âm mưu
và hành động của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá sự nghiệp
cách mạng của nhân dân, nhằm bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng xã hội
mới - giải quyết vấn đề này vừa phải khẩn trương, kiên quyết, vừa phải thận
trọng và có sách lược đúng.
15
- Năm là, phải có quan điểm lịch sử khi giải quyết vấn đề tôn giáo:
Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trị, tác động của từng tơn giáo đối với đời
sống xã hội không giống nhau. Quan điểm thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo
dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác biệt. Vì vậy, cần phải có
quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề
có liên quan đến tôn giáo.
16
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN VẬN DỤNG
3.1. Tìm hiểu về vấn đề vấn đề dân tộc ở nước ta
3.1.1. Quan điểm của Đảng ta về vấn đề dân tộc
Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn
xác định vấn đề dân tộc, cơng tác dân tộc và đồn kết các dân tộc có vị trí chiến
lược quan trọng trong cách mạng nước ta. Dựa trên những quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng ta đã đề ra các
chủ trương, chính sách dân tộc, với những nội dung cơ bản là: "Bình đẳng, đồn
kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển".
Đặc biệt là thời kỳ đổi mới, vấn đề dân tộc ở nước ta cùng với các vấn đề về đoàn
kết các dân tộc và công tác dân tộc ngày càng được Ðảng ta xác định, bổ sung và
khẳng định toàn diện, đầy đủ hơn và thể hiện trong từng văn kiện của Đảng,
nhằm định hướng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo cơng tác dân tộc và thực hiện
chính sách dân tộc.
Đảng ta kế thừa các quan điểm, đường lối của các Đại hội trước đó, tiếp tục thể
hiện tư tưởng kiên trì, nhất qn; “Đồn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong
sự nghiệp cách mạng của nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình
đẳng, đồn kết, thương u, tơn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh. Nghiên cứu xây dựng các cơ
chế, chính sách, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội
vùng dân tộc thiểu số. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện
các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ
thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn
kết dân tộc".
Đảng đã bổ sung, phát triển chủ trương đường lối về dân tộc và chính sách dân
tộc: “Đồn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của
nước ta. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình
đẳng, tơn trọng, đồn kết, giải quyết hài hịa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau
17
cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
vùng có đơng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên,
Tây nam Bộ và Tây duyên hải miền Trung. Nâng cao chất lượng giáo dục – đào
tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số, người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các dân tộc. Tăng cường
kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm
mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc".
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với đặc điểm,
điều kiện từng vùng, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc khai thác thế mạnh của
địa phương làm giàu cho mình và đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới, đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Có chính sách ưu tiên đặc biệt phát triển giáo dục và đào tạo, coi trọng đào tạo
cán bộ và đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số. Kế thừa và phát triển những giá
trị văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và của từng dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa của nhân loại, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiên, đậm đà bản
sắc dân tộc. Có chính sách quan tâm đặc biệt đến các vùng cao, vùng sâu, vùng
căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, từng bước ngăn chặn tình trạng suy giảm
dân số, suy giảm mức sống của một số dân tộc thiểu số.
3.1.2.Tên các dân tộc ở nước ta
Dân tộc Xtiêng, Xơ Đăng, Xinh Mun, Thổ, Thái, Tà Ôi, Tày, Si La, Sán Dìu,
Sán Chay, Rơ Măm, Pà Thẻn, Ra Glai, Pu Péo, Phù Lá, Nùng, Ngái, Mường,
M'Nông, Mông (H'Mông), Mảng, Mạ, Lự, Lô Lô, Lào, La Hủ, La Ha, La Chí,
Kinh (Việt), Khơ Mú, Khmer, Kháng, Hrê, Hoa, Hà Nhì, Giẻ Triêng, Gia Rai,
Giáy, Ê Đê, Cơ Tu, Dao, Cờ Lao, Cơ Ho, Cống, Chứt, Chu Ru, Chơ Ro, Chăm,
Bru – Vân Kiều, Brâu, Bố Y, Ba Na, Ơ Đu.
18
3.2 Tìm hiểu về vấn đề tơn giáo ở nước ta.
Để đi sâu vào vấn đề trước hết ta cần nắm những kiến thức cơ bản về tôn giáo:
3.2.1 Khái qt về tơn giáo
3.2.1.1 Khái niệm
Tơn giáo là hình thái ý thức xã hội, ra đời và phá triển từ hàng ngàn năm nay.
Quá trình tồn tại và phát triển của tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống
chính trị văn hóa, xã hội, tâm lý, phong tục, tập quán của nhiều dân tộc, quốc gia.
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tơn giáo. Với vị trí địa lý
nằm ở khu vực Đơng Nam Á có ba mặt giáp biểm, Việt Nam rất thuận lợi trong
mối giao lưu các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ du cho việc thâm nhập
các luồng văn hóa, các tơn giáo trên thế giới.
3.2.1.2 Bản chất của tôn giáo.
Tôn giáo xuất hiện từ rấ lây và con người mặc nhiên chấp nhận nó. Việc đặt ra
câu hỏi: “tơn giáo là gì?” mới chỉ được khoa học đặt ra trong thời gian gần đây,
khi mà vấn đề tôn giáo trỏ thành vấn đề bức xúc và phức tạp. Khi câu hỏi này
được đặt ra cũng là lúc mà tôn giáo trở thành đối tượng nghiêng cứu của nhiều
19
ngành khoa học riêng biệt. Đối tượng nghiêng cứu của tôn giáo chỉ ra đời vào
cuối thế kỷ XIX
Tôn giáo là một sản phẩm của lịch sữ. Trong các tác phẩm của mình C.Mác đã
khẳng định: “Con người sáng tạo ra tôn giáo chứ tôn giáo không sáng tạo ra con
người”. Tôn giáo là một thực thể khách quan của lồi người nhưng lại là một
thực thể có nhiều quan niệm phức tạp về cả nội dung cũng như hình thức biểu
hiện. Về mặt nội dung, nội dung cơ bản của tơn giáo là niềm tin (hay tín ngưỡng)
tác động lên các cá nhân, các cộng đồng. Tôn giáo thường đưa ra các giá trị có
tính tuyệt đối làm mục điích cho con người vươn tới cuộc sống tốt đẹp và nội
dung ấy được thể hiện bằng những nghi thức, những sư kiêng kỵ…
3.2.1.3 Văn hóa tơn giáo tại Việt Nam
Là một quốc gia đa tôn giáo, Việt Nam gây ấn tượng nhờ có một lịch sử nổi tiếng
về lịng khoan dung tơn giáo, mặc dù nó tùy theo thời đại hoặc có thể bị ảnh
hưởng bởi hành vi trấn áp nhân quyền bởi các chính phủ. Người dân Việt Nam
thường rất nổi tiếng về khoan dung giữa các nhóm tôn giáo. Rất dễ nhận thấy các
cuộc đối thoại và giao tiếp trực tiếp về tôn giáo là điều thường nhật ở Việt Nam,
chẳng hạn như giữa những Phật tử với các giáo sĩ Công giáo mỗi ngày. Tại
những vùng đa dạng văn hóa như An Giang, Vũng Tàu, Thái Bình, etc... thường
có các cuộc đối thoại giữa những người theo đạo ở mọi giáo phái như đối thoại
Phật giáo - Hồi giáo ở An Giang và Đồng Nai. Những người theo Cơng giáo và
Tin Lành sống hài hịa với người Thượng theo tín ngưỡng tổ tiên ở Tây Nguyên;
hoặc sự đa dạng văn hóa ở Vùng Tây Bắc khi người thiểu số Tày, Mường, v.v.
sống hài hòa với người Phật giáo và Công giáo. Phật giáo Nam tông và Bắc tơng
cũng có quan hệ tốt ở miền nam Việt Nam. Người Chăm Bà La Môn và Chăm
Bani v.v... cũng có quan hệ ổn định về tơn giáo với người không cùng đạo. Người
Hồi giáo ở Việt Nam, phần đông theo Hồi giáo Sunni, cũng được nhìn nhận hài
hịa dù khép kín hơn. Việt Nam chưa từng ghi nhận tình trạng xung đột giáo phái
vì lý do tơn giáo ngoại trừ với chính phủ. Các nhóm bảo trợ xã hội thuộc các
cộng đồng tôn giáo, đặc biệt của người Công giáo và Phật giáo hoạt động mạnh ở
cả. Người Phật giáo hoạt động mạnh mẽ ở miền Bắc trong khi người Công giáo
20
hoạt động mạnh ở miền Nam. Ít khi xảy ra bạo lực tôn giáo là do người dân gây
ra. Đặc điểm này khiến người Việt Nam khác biệt so với chính phủ Cộng sản
cầm quyền, vốn dĩ bị cáo buộc sách nhiễu cộng đồng tôn giáo ở Việt Nam.
3.2.2 Quan điểm của Đảng về vấn đề tôn giáo
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, để phát huy sức mạnh toàn dân, phấn đấu vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, cơng bằng, văn minh”, Bộ Chính trị
đã u cầu các cấp chính quyền, đồn thể động viên đồng bào các tơn giáo nhiệt
tình tham gia sự nghiệp đổi mới, làm tốt việc đạo cũng như nghĩa vụ cơng dân,
thực hiện đầy đủ các chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo.
Tại Đại hội XII của Đảng, ngoài những điểm kế thừa, bổ sung, phát triển các
quan điểm của các đại hội trước, Đảng ta cũng đưa ra một số quan điểm, đánh
giá, nhận xét mới đối với tín ngưỡng, tơn giáo và cơng tác quản lý nhà nước
trong lĩnh vực tín ngưỡng, tơn giáo.
Quan điểm tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Văn
kiện Đại hội XII của Đảng. Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn
giáo là một chính sách nhất quán của Đảng ta kể từ khi thành lập đến nay, là một
nội dung cốt lõi trong quan điểm, chính sách của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo.
Trong các giai đoạn cách mạng, quan điểm, nhận thức của Đảng về tín ngưỡng,
tơn giáo ln có sự bổ sung, phát triển cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh,
thực tiễn cách mạng Việt Nam, cũng như thực tiễn xây dựng và phát triển đất
nước. Điều 24 Hiến pháp 2013 ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng,
tơn giáo”. Quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo được nhìn nhận là quyền tự nhiên
của con người - tức đã là con người, ai cũng được thụ hưởng, đó là quyền bẩm
sinh của con người, con người sinh ra đã có quyền đó. Một điểm nữa để khẳng
định rõ hơn chính sách tơn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo là
việc có nhiều hơn những người theo tôn giáo được kết nạp Đảng. Văn kiện Đại
hội XII chỉ rõ: “Số đảng viên mới kết nạp là đồn viên thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh, nữ, trí thức, học sinh, sinh viên, dân tộc thiểu số, người theo tôn giáo,
người lao động trong các thành phần kinh tế và chủ doanh nghiệp tư nhân tăng
21
hơn so với khóa trước”. Đây là một điểm mới so với các văn kiện đại hội Đảng
trước đây khi chúng ta khẳng định chính sách kết nạp Đảng đối với những người
theo tôn giáo.
Quan điểm phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tơn giáo. Quan điểm
này đã được đề cập đến trong các văn kiện Đảng các kỳ đại hội trước đây, xuất
phát từ luận điểm quan trọng trong Nghị quyết 24- NQ/TW của Bộ Chính trị ban
hành ngày 16/10/1990 về tăng cường cơng tác tơn giáo trong tình hình mới: “Đạo
đức tơn giáo có nhiều điều phù hợp với xã hội mới”. Văn kiện Đại hội XII nhấn
mạnh: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tơn giáo. Quan
tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ
của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật,
đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước”. Không chỉ yêu
cầu phát huy giá trị tôn giáo, Văn kiện Đại hội XII cịn nêu ra u cầu phát huy
văn hóa tơn giáo: Phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số, văn hóa tơn giáo, xây
dựng thiết chế văn hóa...”. Quan điểm phát huy giá trị tôn giáo trong Văn kiện
Đại hội XII của Đảng xuất phát từ thực tế các tơn giáo đã và đang tham gia đóng
góp tích cực trong các hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện xã hội, cứu trợ xã hội,
v.v… Quan điểm về phát huy giá trị tôn giáo cũng cho thấy, Đảng chấp nhận
những giá trị tốt đẹp của tôn giáo tham gia vào hệ giá trị xã hội, góp phần làm
phong phú hệ giá trị xã hội, qua đó cần tiếp tục nghiên cứu các cách thức phát
huy, cơ chế phát huy giá trị của các tôn giáo, biến giá trị của các tôn giáo thành
nguồn lực xã hội, phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
Quan điểm về hoàn thiện chính sách, pháp luật về tơn giáo. Đảng ta nhấn mạnh
tại Đại hội XII “Tiếp tục hồn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tơn
giáo,... Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến
chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định
của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước”.
Quan điểm “tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo” đề
ra trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng là yêu cầu tiếp tục thể chế hóa đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng về tín ngưỡng, tơn giáo ngày càng đầy đủ hơn.
22
Mặt khác, u cầu tiếp tục hồn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tơn
giáo nhằm hướng đến việc tiếp tục hồn thiện, đồng bộ hóa với hệ thống chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước nói chung, đồng thời phù hợp với luật
pháp quốc tế.
Như vậy, từ Nghị quyết 24 (1990) đến Văn kiện Đại hội XII là một q trình
khơng ngừng nỗ lực tự đổi mới nhận thức của Đảng ta về vấn đề tôn giáo. Hiện
nay, nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hố, hiện
đại hố để thực hiện mục tiêu sớm đưa Việt Nam trở thành một nước cơng nghiệp
theo hướng hiện đại. Điều đó địi hỏi chúng ta phải huy động được sức mạnh
tổng hợp của mọi tầng lớp nhân dân, trong đó đồng bào có đạo là một bộ phận
khơng thể thiếu. Q trình đổi mới nhận thức của Đảng về vấn đề tôn giáo đã và
đang đi đúng hướng, phản ánh một cách khoa học, khách quan quy luật vận động
và phát triển của tôn giáo; đồng thời, thể hiện sự vận dụng, phát triển sáng tạo
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tơn giáo
trong điều kiện lịch sử - cụ thể của đất nước hiện nay.
3.2.3 Các tôn giáo được pháp luật công nhận ở nước ta.
3.2.3.1 Các tổ chức tôn giáo.
Tôn giáo nước ta được chia ra làm 3 gồm
- Các nhánh Phật giáo: Phật giáo, Phật giáo hòa hảo,Bửu Sơn Kỳ Hương, Tử Ân
Hiếu Nghĩa, Tịnh độ cư sĩ Phật hội, Minh Sư Đạo,
- Các nhánh Kitô giáo: Công giáo, Tin Lành.
- Các tôn giáo khác: Đạo Cao Đài, Minh Lý Đạo, Bà-la-môn giáo, Hồi giáo,
Bahá'í
3.2.3.2 Các tổ chức tơn giáo hợp pháp tại Việt Nam.
TT
1
2
3
Tôn giáo
Phật giáo
Công giáo
Tin Lành
Tổ chức tôn giáo
Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Giáo hội Công giáo Việt Nam
1. Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc)
2. Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam)
3. Hội truyền giáo Cơ đốc Việt Nam
23
4
Cao Đài
5
6
Phật giáo Hịa Hảo
Hồi giáo
7
8
Bahá'í
Tịnh độ cư sĩ Phật
hội Việt Nam
Đạo Tứ Ân Hiếu
Nghĩa
Đạo Bửu Sơn Kỳ
Hương
Giáo hội Phật đường
Nam Tông Minh Sư
đạo
Hội thánh Minh lý
đạo - Tam Tông
Miếu
Chăm Bà la môn
9
10
11
12
13
4. Hội thánh Mennonite Việt Nam
5. Hội thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam
6. Hội thánh Tin lành Trưởng lão Việt Nam
7. Tổng Hội Báp tít Việt Nam
8. Giáo hội Báp tít Việt Nam
9. Hội thánh Phúc Âm Ngũ tuần Việt Nam (Cấp
đăng ký hoạt động)
10. Hội thánh Phúc âm Toàn vẹn Việt Nam (Cấp
đăng ký hoạt động
1. Hội thánh Cao Đài Tây Ninh
2. Hội thánh Cao Đài Tiên Thiên
3. Hội thánh Cao Đài Chơn lý
4. Hội thánh Cao Đài Minh Chơn đạo
5. Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo
6. Hội thánh Cao Đài Cầu kho Tam quan
7. Hội thánh truyền giáo Cao Đài
8. Hội thánh Cao Đài Việt Nam Bình Đức
9. Hội thánh Cao Đài Bạch y liên hoàn Chơn lý
10. Hội thánh Cao Đài Chiếu Minh Long Châu
11. Pháp môn Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh vơ
vi
Giáo hội Phật giáo Hịa Hảo
1. Ban Đại diện Cơng đồng Hồi giáo TP. Hồ Chí
Minh
2. Ban Quản trị thánh đường Al noor Hà Nội
3. Ban Đại diện Cộng đồng Hồi giáo tỉnh An Giang
4. Ban Đại diện Cộng đồng Hồi giáo tỉnh Tây Ninh
5. Hội đồng Sư cả Hồi giáo Bani tỉnh Ninh Thuận
6. Hội đồng Sư cả Hồi giáo Bani tỉnh Bình Thuận
7. Ban Đại diện Cộng đồng Hồi giáo tỉnh Ninh
Thuận
Cộng đồng Tôn giáo Baha'i Việt Nam
Tịnh độ Cư sỹ Phật hội Việt Nam
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương
Giáo hội Phật Đường Nam Tông Minh Sư đạo
Hội thánh Minh lý đạo - Tam Tông Miếu
Hội đồng chức sắc Chăm Bà-la-môn tỉnh Ninh
24
14
15
16
Giáo hội Các thành
hữu Ngày sau của
Chúa Giê su Ky tô
(Mormon)
Phật giáo Hiếu
Nghĩa Tà Lơn (Cấp
đăng ký hoạt động)
Giáo hội Cơ đốc
Phục lâm Việt Nam
Thuận
Hội đồng chức sắc Chăm Bàlamôn tỉnh Bình Thuận
Giáo hội Các thành hữu Ngày sau của Chúa Giê su
Ky tô (Mormon)
Phật giáo Hiếu Nghĩa Tà Lơn
Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Việt Nam
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN
Vấn đề dân tộc và tôn giáo là những vấn đề nhạy cảm trong việc bảo vệ hịa bình và
phát triển đất nước của hầu hết các nước trên thế giới.
Dân tộc và quan hệ của dân tộc trong tiến trình xây dựng XHCN là một nội dung quan
trọng trong toàn bộ nội dung của cả cộng đồng dân tộc. Sự tăng cường của các dân tộc
gắn liền với sự phát triển của cả cộng đồng dân tộc. Đã trở thành một quá trình hợp
25