Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

đường lối cách mạng ĐCSVN: TIỂU LUẬN PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HÓA TIỂU NÔNG ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA,HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.61 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

MƠN HỌC: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TIỂU LUẬN
PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HĨA TIỂU NƠNG ĐỐI VỚI Q
TRÌNH CƠNG NGHIỆP HĨA,HIỆN ĐẠI HĨA ĐẤT NƯỚC

GVHD: Ths. Lê Quang Chung
NHĨM TH:11
MSSV

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2019

Mở Đầu


1.Lý Do Chọn Đề Tài

Dân chủ là mục tiêu, là yếu tố thể hiện bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Cùng với đó, dân chủ cịn được xác định là động lực của cơng cuộc đổi
mới. Tuy nhiên, dân chủ có trở thành động lực thực sự cho sự phát triển đất
nước hay không, bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, là chế độ của
dân, do dân và vì dân có được thể hiện hay không tùy thuộc vào mức độ dân chủ
hóa, mức độ thực hành dân chủ trong đời sống xã hội. Trong đó, việc thực hiện
dân chủ ở cơ sở là một nội dung quan trọng và đòi hỏi cấp bách nhất trong q
trình dân chủ hóa, xây dựng và hoàn hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta. Với đặc điểm của một nước nông nghiệp lạc hậu bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội như ở nước ta thì việc hiện thực hóa các giá trị dân
chủ trong thực tiễn đời sống là vơ cùng khó khăn. Vì vậy, để thực hiện dân chủ
nói chung, thực hiện dân chủ ở cơ sở nói riêng, điều quan trọng là phải nhận


diện rõ những rào cản đối với việc thực hiện dân chủ, trong đó một trở lực rất
đáng quan tâm chính là tâm lý tiểu nơng.
Bộ Chính trị ban hành chỉ thị 30 năm 1998 về xây dựng và thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở và đặc biệt là sự ra đời của pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn năm 2007. Người dân đã có cơ sở pháp lý để thực hiện quyền
làm chủ của mình. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối với
việc thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở nặng nề hơn so với các cấp cao hơn. Vì vậy,
hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ
thì trước hết phải quan tâm đến cấp cơ sở, cấp xã. Việc thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn đã có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, q trình thực
hiện dân chủ ở các xã vẫn cịn những bất cập. Những hạn chế trong chất lượng
thực hiện dân chủ ở các xã, phường có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó
một phần xuất phát từ chính tâm lý tiểu nông đã ăn sâu vào trong suy nghĩ và
hành động của cán bộ và người dân ở cơ sở.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về tâm lý tiểu nông, về thực hiện
dân chủ ở cơ sở và thực trạng ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến việc
thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất một số giải pháp
để ngăn ngừa, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến việc
thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận án; Làm
rõ những vấn đề lý luận về tâm lý tiểu nông và thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt


Nam hiện nay; phân tích sự cần thiết phải hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của
tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở, phương thức tác động của tâm
lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở. - Phân tích thực trạng ảnh hưởng
tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến việc thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam hiện

nay, nguyên nhân của thực trạng đó. - Đề xuất một số giải pháp hạn chế những
ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến việc thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt
Nam hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng của luận án là ảnh hưởng tiêu cực của
tâm lý tiểu nông đến việc thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu Về phạm vi nội dung nghiên cứu của luận án là việc
thực hiện dân chủ của nhân dân và cán bộ ở các xã. 3 Phạm vi không gian: các
xã trong phạm vi không gian lãnh thổ Việt Nam. Phạm vi thời gian: từ năm 2007
(khi có Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn) đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận án sử dụng các phương pháp phân tích và tổng
hợp, lịch sử và lơgíc,quy nạp và diễn dịch, phương pháp so sánh, phương pháp
chuyên gia…
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tiểu luận
Chỉ rõ những phương thức tác động của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ
ở cơ sở, đó là thơng qua phong tục tập quán và giáo dục gia đình.
Nhận diện những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân
chủ ở cơ sở Việt Nam hiện nay ở cả người dân và cán bộ cơ sở, đánh giá mức độ
tác động của tâm lý này trong thực hiện 4 nhóm quyền cơ bản của người dân là
quyền được biết, quyền được tham gia ý kiến, quyền biểu quyết, quyết định và
quyền kiểm tra, giám sát.
Trong các giả pháp chung, giải pháp xoá bỏ dần phương thức tác động của tâm
lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ và hoàn thiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở
nhằm hạn chế dần ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân
chủ ở cơ sở là những đóng góp mới của luận án.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần Mở đầu,3 chương, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ
lục


Nội Dung
CHƯƠNG 1


KHÁI NIỆM VÀ SỰ HÌNH THÀNH VĂN HĨA TIỂU NƠNG Ở
VIỆT NAM
1.1. Khái niệm văn hóa tiểu nơng

Xưa nay, người ta thường dùng khái niệm “văn hóa tiểu nơng” để chỉ thứ
văn hóa sản sinh bởi một xã hội sản xuất nơng nghiệp, mạnh mún, mang tính
tự cung tự cấp, ít tính liên kết và sản xuất chuyên sâu với trình độ phân cơng
lao động thấp. Sản phầm của nền sản xuất tiểu nơng ít được thị trường hóa.
Văn hóa tiểu nông khiến con người luôn ở thế thủ, chỉ lo cho lợi ích bản thân
và trước mắt, ít dám nghĩ chuyện lâu dài, và cũng ít có khả năng nghĩ
chuyện lâu dài. Nền sản xuất tiểu nông luôn lặp lại và duy trì những quy
trình có sẵn đã hạn chế tư duy tìm tịi khám phá của con người
Văn hóa tiểu nơng” tạo nên một nếp sống bừa bãi, tùy tiện của người Việt
(văn hóa sống, văn hóa ứng xử). Nhiễm “văn hóa tiểu nơng”, con người sẽ
thiếu sự tôn trọng xung quanh (bao gồm tất tần tật từ người cho đến vật)- tất
cả những thứ mà họ cảm thấy khơng liên quan trực tiếp tới mình. Vì vậy, nó
là thủ phạm của sự thờ ơ với lợi ích cộng đồng, cũng là nguyên nhân của
tính cách đố kỵ, tham lam, bè nhóm, thiển cận, cục bộ…
1.2. Cơ sở hình thành văn hóa tiểu nơng
Văn hóa tiểu nơng được nẩy sinh từ nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ,
manh mún, lạc hậu, tồn tại hàng nghìn năm, hiện vẫn chưa được xố bỏ hồn
tồn. Lực lượng lao động chủ yếu trong xã hội là người nông dân. Văn hóa
tiểu nơng vẫn đang hiện diện đậm nét trong các tầng lớp dân cư, nhất là ở
khối nơng dân.
Văn hóa tiểu nơng Việt Nam bao gồm những thói quen, tập quán, phong

tục, hành vi và thái độ ứng xử... của người nơng dân sản xuất nhỏ, được hình
thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của nền kinh tế tiểu nông và những điều kiện
sinh hoạt trong nơng nghiệp, nơng thơn, nó thể hiện mối quan hệ giữa cá
nhân và cộng đồng trong đời sống xã hội

CHƯƠNG 2
ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HÓA TIỂU NƠNG
2.1. Những giá trị tích cực của lối sống tiểu nông Việt Nam


2.1.1. Lối sống coi trọng con người, trọng tình cảm, trọng đạo đức, trọng
danh dự, trọng danh tiếng, trọng người lớn tuổi
Trong sản xuất nông nghiệp, để chống chọi với thiên tai, địch trong, giặc
ngoài rất cần đến sức người và cần đông người hơn nữa. Mặt khác, do điều kiện
sống cịn nhiều thiếu thốn, khó khăn, do hạn chế của y tế và do hạn chế về nhận
thức trong việc chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ của con người... nên người tiểu nông
rất quý trọng con người: “Người sống đống vàng”, “Một mặt người bằng mười
mặt của”, con người được đề cao đến mức tuyệt đối: “Người ta là hoa đất”... Từ
đó đã nẩy sinh tâm lý coi trọng con người ở người tiểu nơng nói riêng, người
Việt Nam nói chung.
Xuất phát từ truyền thống đồn kết cộng đồng, đồng thời cũng do thiếu
thốn về vật chất, sự hạn chế về phương tiện trong cuộc sống sinh hoạt, nên
những lúc khó khăn, hoạn nạn, ốm đau, lúc cơng to việc lớn (lấy vợ, làm nhà...),
người tiểu nông thường nhờ vào sự giúp đỡ của hàng xóm, láng giềng. Cho nên,
người nơng dân ln ứng xử bằng tình cảm, coi trọng tình cảm trong các mối
quan hệ xã hội. Dưới các hình thức và mức độ khác nhau, tình cảm thâm nhập
vào toàn bộ cuộc sống và hoạt động của người tiểu nông từ nhận thức tới hành
động, từ đạo đức đến lối sống, từ phong cách đến tính cách. Trong đời sống của
người tiểu nơng, tình cảm ln trực tiếp chi phối cả suy nghĩ đến hành động.
Tình cảm đó cịn được thể hiện ở sự tơn trọng người cao tuổi, kính nể bậc hiền

tài, coi trọng người có đạo đức, có học thức…
Người nơng dân Việt Nam sống trong làng xã rất coi trọng tình nghĩa. Tình
là tình yêu thương, quý mến nhau. Nghĩa là bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ với
nhau. Họ luôn nhấn mạnh sự khoan hồ giữa tình cảm u thương với nghĩa vụ
con người. Sự gắn bó giữa tình và nghĩa đã tạo nên một lối ứng xử thuần hậu. Ở
đó, người ta điều hồ được các quan hệ cá nhân và gia đình, lý trí và tình cảm,
trách nhiệm và nghĩa vụ để tạo dựng một cuộc sống hài hoà và ổn định. Điều đó
đã làm cân bằng cán cân xã hội; dù mọi vật xoay vần, tạo hóa biến chuyển khơn
lường thì cuộc sống người nông dân ngàn đời nay vẫn tạo được cho mình sự
bình n, êm ả riêng có của nó. Sức mạnh của lối ứng xử tình nghĩa thể hiện rất
rõ trong một khoảng trời rất riêng của mỗi con người - đó là gia đình. Cũng vì lẽ
đó, trong nền giáo dục chính thống Việt Nam thời phong kiến rất coi trọng giáo
dục đạo đức, “tiên học lễ, hậu học văn”, cịn trong gia đình, giáo dục đạo đức
được coi là nội dung cơ bản, chủ yếu. Ở gia đình, các thế hệ ơng bà, cha mẹ,
ln giáo dục con cháu rằng: “Giấy rách phải giữ lấy lề” hay: “Đói cho sạch,
rách cho thơm”; “Đói miếng hơn tiếng để đời”. Giữ gìn truyền thống đạo lý


ngàn đời của cha mẹ, ông bà, tổ tiên - đó là nhân phẩm của con người. Đó cũng
là danh dự, là lẽ sống của con người Việt Nam.
Người tiểu nơng sống gắn bó với những người trong làng q, dịng họ, gia
đình của mình; sống vì nhau, cho nhau và theo nhau. Vì vậy, họ sống theo dư
luận và tự mình ứng xử theo dư luận đó. Dư luận tạo ra tiếng tăm, tai tiếng, điều
tiếng: “Trâu chết để da, người ta chết để tiếng”, “Trăm năm bia đá thì mịn/
Ngàn năm bia miệng hãy cịn trơ trơ”. Điều này tạo ra tâm lý trọng danh dự, coi
danh dự là thiêng liêng ở người tiểu nông. Mặt khác, trong thang bậc xã hội xưa,
người có chức tước, địa vị, người cao tuổi là những người được coi trọng. Từ
đó, đã nảy sinh tâm lý coi trọng địa vị, coi trọng danh tiếng (trọng danh), thích
có tên tuổi, thích có tiếng tăm trong làng, trong xã, trong họ và rộng hơn nữa là
đối với đất nước ở người tiểu nông: “Làm trai sống ở trong trời đất/ Phải có

danh gì với núi sông” (Nguyễn Công Trứ). Ở phương diện này, ta cịn thấy
người tiểu nơng dù nghèo nhưng vẫn trọng kẻ sỹ (người có học): “nhất sĩ, nhì
nơng”, trọng chữ nghĩa: “Một kho vàng không bằng một nang chữ”...
2.1.2. Truyền thống yêu nước, đoàn kết cộng đồng, lao động cần cù và lạc
quan trong cuộc sống
Tình yêu đất nước là tình cảm bao trùm chi phối tồn bộ đời sống tâm lý
của người nơng dân Việt Nam. Lịng u nước đó ln mãnh liệt và được phát
huy thường xun, liên tục, xuyên suốt mấy ngàn năm lịch sử của dân tộc Việt
Nam. Tinh thần yêu nước của con người Việt Nam nói chung và người nơng dân
nói riêng được hình thành và phát triển trong hoàn cảnh đặc thù của đất nước một quốc gia thường xuyên phải đấu tranh chống thiên tai và ln phải đối phó
với những hiểm họa xâm lược. Tình cảm u nước ấy ln được thử thách
thường xuyên từ buổi sơ khai của lịch sử, gắn liền với quá trình dựng nước và
giữ nước của dân tộc ta. Vì vậy, nó là cái thiêng liêng cao cả khơng chỉ gắn liền
với ý thức mà cịn gắn chặt với đạo lý làm người, với nhân cách, phẩm giá con
người Việt Nam.
Điều kiện, hoàn cảnh lao động sản xuất, sinh hoạt, đấu tranh chống giặc
ngoại xâm của dân tộc Việt Nam trong lịch sử đã hình thành nên ở người nông
dân Việt Nam ý thức làm chủ vận mệnh dân tộc, đất nước. Dựng nước và giữ
nước luôn đi đôi với nhau. Mỗi khi đất nước bị giặc ngoại xâm đe dọa thì ý thức
làm chủ vận mệnh dân tộc của người nông dân Việt Nam lại được đặt lên trên
hết. Khơng ai có thể phủ nhận tình cảm yêu nước là một tình cảm lớn nhất của
dân tộc Việt Nam, của người nông dân Việt Nam, đặc biệt là tình cảm u nước
đó đã nâng lên thành chủ nghĩa yêu nước. Nhìn vào lịch sử của dân tộc, chúng ta
thấy tình yêu đất nước của con người Việt Nam luôn hiện hữu ở mọi thời điểm.


Chính lịng u q hương đất nước, cùng với cuộc sống đầy khó khăn, vất
vả, phải vật lộn với thiên nhiên khắc nghiệt, đấu tranh chống giặc ngoại xâm tàn
bạo đã hun đúc cho nhân dân ta truyền thống đoàn kết. Thực vậy, lịch sử đã
chứng minh, mỗi khi đất nước gặp nạn thì tinh thần đồn kết, tính cố kết cộng

đồng tạo nên sức mạnh giúp cho nhân dân ta vượt qua tất cả những khó khăn,
thử thách.
Có thể nói, truyền thống đồn kết, tính cố kết cộng đồng là đặc trưng trong
lối sống của người nơng dân nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung. Lối
sống cố kết cộng đồng bền chặt ở người nông dân Việt Nam được hình thành từ
trong sản xuất, chiến đấu và xây dựng quê hương, đất nước.
Xuất phát từ cuộc sống sinh hoạt, trong xử lý công việc chung của làng
như: sản xuất, chống thiên tai, chống giặc và tham gia vào cơng việc chính trị
của đất nước, tất cả các hộ gia đình tiểu nơng đã đồn kết, gắn bó với nhau. Đây
chính là cơ sở để tạo nên sự đồn kết, cố kết cộng đồng của người nơng dân Việt
Nam, bởi vì việc đắp đê, ngăn lũ, làm thủy nông, việc chống lụt, chống bão phá
hoại mùa màng, việc trao đổi kinh nghiệm lao động, sản xuất, việc đánh giặc giữ
làng, giữ nước… là việc mà một người nơng dân, một gia đình khơng thể làm
được. Các thành viên, các hộ gia đình tiểu nơng trong làng gắn kết với nhau tạo
thành một đại gia đình, từ gia đình đến làng và rộng hơn là nước. Có thể xem
làng là mơ hình thu nhỏ của nước. Người Việt Nam nói chung và người nơng
dân Việt Nam nói riêng ý thức rất rõ về mối quan hệ giữa nhà - làng - nước. Cho
nên, với họ sinh hoạt cộng đồng làng xã với sinh hoạt cộng đồng dân tộc, nước
với nhà, làng với nước, có sự gắn bó mật thiết, có sự thống nhất với nhau.
Do đặc thù người nông dân Việt Nam sống thành làng và coi làng như một
tiểu xã hội trồng lúa nước, nên hầu như các hoạt động của họ, từ lao động, sản
xuất đến chiến đấu, từ sinh hoạt văn hóa đến đời sống, nếp sống hàng ngày đều
mang những dấu ấn đậm nét của lối sống cộng đồng làng. Mọi sinh hoạt kinh tế,
chính trị, xã hội… của họ đều gắn với làng. Đối với người Việt, làng là một khái
niệm rất gần gũi và cũng rất thiêng liêng, bởi làng có sự mở rộng của gia đình.
Trong lịch sử làng xã Việt Nam nói chung, làng xã ở nơng thơn miền Bắc nói
riêng, tính biệt lập, khép kín là rất cao. Đứng về mặt lịch sử, tính biệt lập, khép
kín ấy đã hạn chế chính sự phát triển của làng xã và để lại nhiều hậu quả tiêu
cực cho đến cả ngày nay. Song, không thể từ những lý do trên mà đi đến phủ
nhận tinh thần đoàn kết cộng đồng của người nông dân. Bởi lẽ, các cộng đồng

làng xã nhỏ hẹp ấy, như đã nói ở trên, vẫn là khâu “trung giới”, cố kết nhà với
nước, cá nhân với dân tộc.


Truyền thống đồn kết cộng đồng gắn bó keo sơn của người Việt Nam nói
chung và người nơng dân nói riêng thể hiện rõ hơn khi đất nước đứng trước nạn
xâm lăng. Bởi lẽ, nước mất thì nhà tan, muốn giữ nước, họ phải đoàn kết lại để
đánh giặc cứu nước, bỏ qua mọi hiềm khích cá nhân để chung một mục đích cứu
nước. Đó cũng chính là lý do để hiểu vì sao người Việt Nam lại có tinh thần yêu
nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết cộng đồng. Vì sao trong các giá trị truyền
thống thì ở người Việt Nam các giá trị về cộng đồng luôn được củng cố, ưu tiên
so với nhiều giá trị khác.
Nói đến lối sống, tính cách của người nơng dân Việt Nam khơng thể khơng
nói đến tình u lao động, cần cù và ln lạc quan trong cuộc sống. Đây là đặc
tính chung của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam, mà trong đó người nơng
dân là một điển hình.
Người nơng dân Việt Nam từ rất sớm đã là chủ nhân của một nền văn minh
nông nghiệp sớm phát triển. Sống trên mảnh đất hẹp, nhiều thiên tai, lắm địch
họa, nên người nơng dân sẵn có một tinh thần lao động cần cù và tinh thần ấy đã
ăn sâu vào máu thịt họ tạo thành một truyền thống tốt đẹp. Những cơng trình
kinh tế - xã hội, văn hóa được lưu giữ từ ngàn đời đến nay của người nông dân
là minh chứng của tình yêu lao động, sự cần cù, nhẫn nại của người nơng dân
Việt Nam trước hồn cảnh thiên tai khắc nghiệt.
Với nền sản xuất nông nghiệp mà công cụ sản xuất chủ yếu là thủ công, lạc
hậu nên năng suất lao động trong nông nghiệp rất thấp, gặp những khi hạn hán,
bão lũ giông tố hoặc dịch bệnh thì rất dễ mất mùa. Cuộc sống khơng ổn định,
thậm chí là bấp bênh, nạn đói thường xun xảy ra, từ đó đã nảy sinh tâm lý của
người tiểu nơng là rất sợ đói. Do vậy, hơn ai hết họ hiểu rằng, nếu không gắng
sức, lười biếng trong lao động thì họ sẽ đói nghèo. Bởi vậy, người nơng dân Việt
Nam ln cần cù vượt khó trong lao động và tiết kiệm về thời gian, của cải vật

chất: “năng nhặt chặt bị”, “thời gian là vàng”, “ tấc đất tấc vàng”…
Mặc dù, điều kiện thiên nhiên, môi trường sống, sản xuất của người tiểu
nơng khó khăn như vậy, nhưng họ vẫn lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống. Người
tiểu nơng có một lối sống rất linh hoạt ở bầu thì trịn, ở ống thì dài với khả năng
thích nghi cao. Trong bất cứ hồn cảnh khó khăn nào, con người Việt Nam
khơng hề chán nản mà ln có ý chí vươn lên. Ở tận cùng của bi kịch mất mát,
người ta vẫn quan niệm: “Cịn da lơng mọc, cịn chồi nảy cây”, “còn người còn
của”.
2.2.Những hạn chế của văn hóa tiểu nơng
2.2.1. Ngại đổi mới


Việt Nam được xem là một quốc gia có bề dày lịch sử hơn 4000 năm nhưng
lại là 4000 năm dài của chế độ quân chủ tập quyền với hơn 1000 năm hồn tồn
Bắc thuộc. Các nước Châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng là một nền nơng
nghiệp lạc hậu phụ thuộc vào thiên nhiên là chính. Trong 1000 năm Bắc thuộc,
chúng ta đã bị tư tưởng Nho giáo đồng hóa hồn tồn và tiếp tục bám sâu vào
trong tâm thức người Việt vì nó hồn tồn phù hợp với nền kinh tế nông nghiệp
lạc hậu và chế độ chính trị tập quyền. Cuộc xâm lược của thực dân Pháp đã
mang đến nhiều đau thương cho dân tộc nhưng lại khơng thể phủ nhận những
giá trị tích cực mà họ mang lại. Các thành phố như Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phịng.
Chúng ta có thể thấy được cây cầu Long Biên hay tuyến đường sắt Bắc-Nam
vẫn còn tồn tại và vẫn còn sử dụng tốt. Người Mĩ chỉ ảnh hương đến miền Nam
chỉ trong khoảng 20 năm (1954-1975) nhưng họ đã làm thay đổi về vật chất và
tư tưởng của miền nam tiến bộ hơn miền bắc rất nhiều. Tuy nhiên, sự xuất hiện
của người Pháp và Mĩ là quá ngắn ngủi so với 4000 năm phong kiến và nền
nông nghiệp lạc hậu, những cuộc cách mạng bạo lực với danh nghĩa “đánh đuổi
thực dân, giải phóng dân tộc” dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nông mà nông
dân là gốc, chúng ta lại quay lại tư duy tiểu nông lạc hậu trong khi các nước
Châu Á ngày càng phát triển. Hậu quả là Việt Nam ngày càng tụt hậu, tài

nguyên, khoáng sản bị khai thác kiệt quệ, các thành phố ngày càng xuống cấp,
ngày càng tràn ngập lối sống xô bồ vô tổ chức. Không phải ai sống ở thành thị
đều có nếp sống của người thành thị nếu họ vẫn mang nặng tư duy tiểu nơng lạc
hậu, dù họ có sống bao lâu ở thành phố đi chăng nữa.
2.2.2. Lối sống hẹp hòi, vị lợi, tính tùy tiện, kém kỷ luật, chưa có thói quen
tơn trọng và chấp hành pháp luật
Đặc trưng của nông thôn Việt Nam, tiêu biểu nhất là khu đồng bằng và
trung du Bắc Bộ, là chế độ sở hữu nhỏ về ruộng đất chiếm ưu thế, gia đình là
đơn vị kinh tế chủ yếu, sản xuất mang tính manh mún. Trên mảnh đất nhỏ bé của
người nông dân là cả một bầu trời riêng đã cột chặt họ trong những khuôn khổ
chặt hẹp, bằng việc chăm lo thu vén cho cuộc sống gia đình, lợi ích cá nhân. Đó
là nguồn gốc để nảy sinh lối sống hẹp hòi, vị lợi ở người tiểu nông Việt Nam.
Phương pháp canh tác cổ truyền được kế thừa từ đời này sang đời khác,
nên năng suất lao động thấp, sản phẩm chỉ đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
bản thân, gia đình và cộng đồng nhỏ hẹp của người nơng dân. Điều đó đã chi
phối các mối quan hệ của họ, làm cho các mối quan hệ này chỉ dừng lại trong
phạm vi gia đình, họ hàng, làng xóm. Thêm vào đó, sự kém phát triển của cơ sở
hạ tầng và phương tiện giao thơng cùng với cuộc sống bấp bênh, nghèo khó đã


kìm hãm việc mở rộng mối quan hệ của họ. Đây là điều kiện thuận lợi để nẩy
sinh và nuôi dưỡng lối sống cục bộ địa phương của người tiểu nông.
Mặt khác, người dân sống ở từng vùng, từng miền trên đất nước Việt Nam
lại có những phong tục, tập quán, lối sống, tính cách, tâm lý riêng, cho nên sự
hồ đồng khơng phải bao giờ cũng thuận lợi, trong nhiều trường hợp cịn có sự
khác biệt giữa xã này với xã khác, tỉnh này biệt lập với tỉnh khác. Thậm chí,
ngay cả trong phạm vi một làng thì xóm này cũng biệt lập với xóm khác, dịng
họ này cũng biệt lập với dòng họ khác. Đây là mảnh đất tốt để lối sống cục bộ
địa phương nảy sinh và phát triển. Và cũng vì vậy, xuất hiện tâm lý đố kỵ, hẹp
hịi, níu kéo... trong từng nhóm những cộng đồng nơng dân nhỏ hẹp như: gia

đình, họ hàng, làng xóm... Lâu dần, tâm lý hẹp hịi, cục bộ địa phương trở thành
một đặc trưng trong lối sống của người tiểu nơng Việt Nam hết sức rõ nét. Nó
chi phối hành vi, thái độ, cách ứng xử hàng ngày của họ. Trong một số trường
hợp, họ chăm lo lợi ích nhỏ hẹp của gia đình, họ hàng, làng xã... mà quên đi lợi
ích của quốc gia, dân tộc.
Cách thức sản xuất đó của người tiểu nơng Việt Nam đã dẫn đến hệ quả là
họ không quen với pháp luật. Nếu như ở các nước tư bản chủ nghĩa với nền kinh
tế hàng hóa sớm phát triển, người nơng dân làm ăn trong một khuôn khổ pháp
luật nhất định. Người nông dân không thể tuỳ tiện, coi thường pháp luật và
những quy luật của thị trường, bởi như vậy họ sẽ bị trả giá bằng sự phá sản, thua
lỗ. Còn những người tiểu nơng Việt Nam sản xuất mang tính tự phát, với mục
đích tự cung, tự cấp, tự túc. Họ sản xuất cho mình, vì mình. Điều này tạo nên
tính tuỳ tiện, thiếu kỷ luật, kỷ cương, chưa có thói quen sống và làm việc theo
pháp luật của người tiểu nơng Việt Nam.
Hơn nữa, xuất phát từ hồn cảnh lịch sử của đất nước, trước thời Bắc thuộc,
người tiểu nông Việt Nam vốn đề cao và sống theo “lệ làng”. Người dân trong
làng chấp hành những quy định của “lệ làng” một cách tự nguyện và nghiêm
túc. Họ sống theo lệ làng, theo tục lệ, lề thói, ít quen với pháp luật. Họ chỉ sợ lệ,
sợ dư luận của làng, mà khơng sợ luật, thậm chí coi thường pháp luật “phép vua
thua lệ làng”. Khi phong kiến phương Bắc bắt đầu đô hộ nước ta, chúng đưa hệ
thống pháp luật hà khắc vào để dễ dàng cai trị. Với tính chất của hệ thống pháp
luật đó nên ngay từ đầu, người dân Việt Nam đã ác cảm và chống lại pháp luật,
khơng phục tùng pháp luật; coi đó là biểu hiện của sự xâm lược, một thứ văn
hóa ngoại lai.
2.2.3 Sống và làm việc tùy tiện không theo quy tắc


Nghề nông vốn không cần phải tuân theo những quy tắc khắt khe như cơng
nghiệp hay khoa học. Ví dụ: người nông dân cứ theo tiếng gà gáy mà thức dậy
để chuẩn bị ra đồng hoặc nhìn trời áng chừng khi nào mặt trời đứng bóng thì

nghỉ tay cày cuốc. Nếu hôm nào khỏe họ sẽ làm nhiều hơn một tí, hơm nào mệt
trong người thì về sớm thậm chí nghỉ một buổi cũng chẳng sao.Trên những con
đường làng ở nơng thơn, người ta sẽ đi vào chỗ nào có bóng râm hoặc đường
bằng phẳng chứ khơng quan tâm nó là bên phải hay bên trái. Đi ngồi đường
nếu có nhu cầu vệ sinh thì cứ tấp vào bụi rậm nào đó giải quyết rồi đi tiếp. Nếp
sống ở nơng thơn và cơng việc nơng nghiệp tạo nên thói quen tùy tiện: hễ cái gì
tiện lợi cho mình thì mình làm, không quan tâm đến nguyên tắc luật lệ hay việc
làm của mình ảnh hưởng tới người chung quanh thế nào. Hệ lụy của lối sống
không nguyên tắc này là lối sống bát nháo của người Việt ở các thành phố lớn:
phóng nhanh vượt ẩu, vượt đèn đỏ leo lề, vừa chạy xe vừa nhắn tin hay nói
chuyện điện thoại, đến chỗ cơng cộng thì chen lấn khơng chịu xếp hàng...
2.2.4 Giải quyết vấn đề theo cảm tính và thiếu logic
Chính sự tùy tiện và khơng tn thủ ngun tắc của cuộc sống nông thôn
dẫn đến việc giải quyết vấn đề theo cảm tính chứ khơng mang tính logic. Chúng
ta thích quan tâm đến “yêu” và “ghét”, “thắng” hoặc “thua” nhiều hơn là “đúng”
hay “sai”. Người Việt ta ngay cả những bạn trẻ có bằng đại học thường gặp khó
khăn trong việc giải thích một vấn đề theo trình tự logic hoặc đưa ra giải pháp có
tình có lý khiến việc giao tiếp trong công việc kém hiệu quả. Điều gì khơng giải
thích được thì đổ cho quỷ thần trời đất hoặc số phận rồi né tránh. Người phương
Tây tiếp xúc với khoa học kỹ thuật từ thời kỉ nguyên khai sáng và cách mạng
công nghiệp nên họ quen với giải quyết mọi vấn đề dựa trên sự biện chứng khoa
học chính xác. Họ biết cách nhìn nhận vấn đề một cách bao quát và chi tiết và
tìm cách diễn giải cho người nghe dễ hiểu để đạt được mục đích truyền đạt.
Trong tranh luận của người phương Tây, những luận điệu kiểu: “Tơi thích/khơng
thích như thế đấy, rồi sao?” hoặc “Cái số mình nó vậy đành phải chịu” khơng
bao giờ được chấp nhận.
2.2.5 Khơng có tinh thần chịu trách nhiệm trong công việc
Nền kinh tế dựa trên trồng trọt và chăn ni mang tính chất khép kín và tự
cung tự cấp, hiếm khi ảnh hưởng đến người nào khác ngồi gia đình mình. Nếu
làm siêng một tí thì có nhiều của cải một tí, gia đình sung túc hơn một chút. Nếu

lười biếng thì thiệt hại cũng chỉ có bản thân mình và gia đình chịu. Chính vì vậy,
người có lối sống nơng thơn phần lớn ít có tinh thần trách nhiệm trong cơng
việc. Cịn nếu sống ở thành thị với lối sống công nghiệp hiện đại, bắt buộc phải
có tinh thần trách nhiệm cao vì tất cả mọi thứ đều liên đới với nhau như những


mắc xích trong một dây chuyền, chỉ cần một mắc xích ngưng hoạt động thì cả
dây chuyền bị ảnh hưởng ngay lập tức. Chạy xe vô trách nhiệm, tai nạn chết
người có thể xảy ra tức thì. Tính tốn sai một con số, có thể cả cơng ty đều bị
thiệt hại nặng nề. Lúc đó khơng muốn chịu trách nhiệm cũng khơng được.
2.2.6 Mê tín dị đoan
Nghề nơng là nghề phụ thuộc hồn tồn vào thiên nhiên. Người làm nơng
“trơng trời trông đất trông mây/ trông mưa trông nắng trông ngày trơng đêm”.
Cuộc sống của họ có ấm no đầy đủ hay khơng đều do ơng trời sắp đặt. Chính vì
vậy họ rất mê tín và gần như phó mặc số phận của mình cho đất trời, thần thánh
và ma quỷ. Tín ngưỡng dân gian Việt Nam là một tính ngưỡng đa thần thờ tất cả
mọi thứ từ hòn đá ngọn cây cho tới những linh hồn chết oan ức với tâm niệm
“có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Khơng ít người tiếng là theo đạo Phật
nhưng miếu phủ đền thờ của đạo nào cũng xì xụp khấn vái miễn sao là đạt được
nguyện vọng của mình. Các nước phương Tây theo Công giáo/Tin Lành đã từ
lâu đã dẹp được các tín ngưỡng đa thần để bài trừ mê tín dị đoan trong dân, một
điều vơ cùng có hại cho sự phát triển về nhận thức và phát triển dân tộc. Đối với
họ, tôn giáo là niềm tin về mặt tâm linh giúp con người sống tốt hơn, lương
thiện hơn chứ không phải là những thứ để phụ thuộc vào mà cầu lợi lộc.
2.2.7 Trọng nam khinh nữ
Nghề nông cần nhiều sức lao động tay chân hơn đầu óc. Chính vì thế mà
người nơng dân ln muốn có nhiều con trai hơn con gái. Hơn nữa, con trai lớn
lên sau này có vợ đẻ con có nghĩa là gia đình thêm sức lao động cịn con gái lớn
lên gả đi lấy chồng trở thành lao động nhà người ta, bao nhiêu cơng sức ni
dưỡng của mình mười mấy hai mươi năm trời trở thành công cốc. Không chỉ ở

Việt Nam mà tất cả các nước kinh tế dựa trên nơng nghiệp lạc hậu đều có quan
niệm trọng nam khinh nữ này. Cái tư tưởng này ngấm sâu vào máu đến mức
nhiều gia đình ở thành phố vẫn giữ tư tưởng phải đẻ con trai cho bằng được hoặc
con gái thì cần gì phải học hành nhiều, sau này miễn là kiếm được tấm chồng tốt
để nhờ vả là được.
2.2.8. Khơng thích học hỏi và khơng có sự cầu tiến
Sự hạn hẹp về tầm nhìn khơng gian lẫn thời gian khiến cho người làm nông
dễ thỏa mãn với những lợi lộc trước mắt. Không đi nhiều, không thấy nhiều
khiến họ không cần phải suy nghĩ nhiều hay học hỏi nhiều vì khơng cần phải
cạnh tranh như trong thương nghiệp. Thời gian rảnh rỗi sau vụ mùa là dành cho
rượu chè cờ bạc hội hè chứ không phải là để cho việc học hỏi hay tìm hiểu. Cấy
lúa gieo mạ hay trồng rau quả cũng không cần đến sự chuẩn xác từng milimet
như làm khoa học kỹ thuật, cứ áng chừng là được. Kết quả là mọi sản phẩm đều


sơ sài và thơ mộc. Cái tính xuề xịa dễ dãi có thể được người ta mến trong giao
tiếp thơng thường nhưng nó lại là kẻ thù của khoa học, mỹ thuật và cả trong kinh
doanh.
2.2.9. Tầm nhìn hạn hẹp
Người làm nơng ít khi nào rời xa chốn làng q của mình. Tầm nhìn về
khơng gian của họ ít khi vượt quá lũy tre làng và mảnh ruộng họ cày. Một năm
ra được chợ tỉnh vài lần thì coi như là xa lắm rồi. Mỗi năm trên những tờ báo
xuân lại ngập tràn những bài viết kiểu đi xa nhớ q nhà, nhớ mùi khói bếp, nhớ
dịng sơng, nhớ cây đa mái đình...cứ lặp đi lặp lại. Trong khi người Việt Nam cứ
thích quanh quẩn ở chốn quê nghèo của mình, các thương nhân và người hành
hương cách đây hàng nghìn năm đã viết về những chuyến hải hành vượt qua
nhiều vùng đất lạ, Marco Polo của Ý đã đi hết con đường tơ lụa đến tận Trung
Quốc để lại cho đời một quyển hồi ký quý giá về các phong tục tập quán những
nơi ông từng đi qua. Tầm nhìn về thời gian của người nơng dân cũng bó hẹp
trong từng vụ mùa hoặc theo từng năm chứ không nhìn được những gì xa hơn

thế.

CHƯƠNG 3


GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HĨA TIỂU
NƠNG
3.1 Nguyên nhân tồn tại mặt tiêu cực của văn hóa tiểu nông ở Việt Nam hiện nay
Đời sống tinh thần, ý thức con người không phải là sản phẩm của ý muốn chủ
quan của cá nhân hay một nhóm người nào đó mà là sản phẩm của xã hội - lịch
sử, bị quy định bởi các điều kiện khách quan, nó chịu sự tác động, ảnh hưởng
của các điều kiện sống, lao động, sinh hoạt ''vật chất” của xã hội. Khẳng định
nguồn gốc hình thành ý thức của con người, Các Mác – Ph.Ăngghen nhấn mạnh:
không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội
của họ quyết định ý thức của họ. Nhưng, mặc dù đất nước ta đã có nhiều thay
đổi, đặc biệt là sự thay đổi to lớn về kinh tế, song những mặt hạn chế, tiêu cực
của lối sống tiểu nơng khơng những khơng mất đi mà cịn trở nên nghiêm trọng
hơn, bởi lẽ:
Một là, lối sống tiểu nơng được hình thành và tồn tại dưới tác động của một
loạt các nhân tố (kinh tế, xã hội, lịch sử và văn hóa…) gắn kết với nhau qua
hàng ngàn năm lịch sử, do đó nó có tính kế thừa, trở thành tập qn, thói quen;
vì vậy, nó có sức mạnh cũng như có tính bảo thủ và sức ỳ rất lớn. Nước ta bị đô
hộ thống trị trong một thời gian rất dài nên cuộc đời của người nông dân từ thế
hệ này sang thế hệ khác luôn bị các thế lực thống trị đè nén, bóc lột. Cuộc sống
của họ vô cùng cực khổ, cơm không đủ ăn, áo khơng đủ mặc, thiếu thốn đủ thứ
và nạn đói thường xuyên xảy ra, đe dọa họ. Đã có rất nhiều cuộc khởi nghĩa
chống lại chế độ phong kiến và thực dân nhưng tất cả đều thất bại. Vì vậy tâm lý
bất lực, cam chịu, nhẫn nhục càng ăn sâu vào suy nghĩ của người nơng dân. Bên
cạnh đó, cần phải kể đến những tư tưởng cổ hủ phong kiến,ảnh hưởng của tơn
giáo nhằm duy trì ý thức hệ phong kiến đã thâm nhập vào nông dân, kết hợp với

tư tưởng hẹp hịi, bè phái cục bộ, chủ nghĩa bình quân, chủ nghĩa kinh nghiệm,
tự do, tùy tiện, chủ nghĩa cá nhân... đã làm cho nhận thức của nông dân có sự
phân hóa.
Hai là, nền kinh tế tiểu nơng lạc hậu, tự cấp, tự túc,… là cơ sở để tạo nên lối
sống tiểu nông. Hiện nay, mặc dù nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, nhưng về cơ bản phương thức sản xuất của người nông dân
Việt Nam vẫn chủ yếu là nền sản xuất nhỏ với công cụ thô sơ, lạc hậu. Mặt
khác, nền kinh tế thị trường là vấn đề còn rất mới mẻ so với lịch sử hàng ngàn
năm của nền kinh tế nông nghiệp tự túc, tự cấp ở nước ta, Hơn nữa, mặt trái của
nền kinh tế thị trường đã tạo cơ hội cho những tiêu cực trong kinh tế - xã hội
phát sinh và có nguy cơ trầm trọng hơn. Đó là mảnh đất màu mỡ cho những thói
quen phong tục, tập quán, những trạng thái, nhu cầu tâm lý có tính tiêu cực của


người nơng dân có cơ hội hồi sinh.Điều kiện tự nhiên, khí hậu góp phần hình
thành nền kinh tế tiểu nơng và văn hóa tiểu nơng ở nước ta. Về địa hình, miền
núi và trung du phía Bắc có địa hình cao nhất, bị chia cắt nhất và hiểm trở nhất
Việt Nam làm cho ruộng đất sản xuất bị phân tán manh mún tạo cơ sở cho sự tồn
tại lâu dài của chế độ sở hữu ruộng đất nhỏ - đặc trưng của nền sản xuất tiểu
nông. Đồng bằng sông Hồng chia cắt bởi hệ 11 thống sông và giữ nước nên
ruộng đất cũng bị chia nhỏ. Về khí hậu, Khí hậu thiên nhiên khắc nghiệt ở miền
Bắc trong điều kiện trình độ sản xuất thấp kém khiến con người thụ động, cầu
an. Khí hậu thuận lợi ở miền Nam cũng làm một phận nhân dân ngại tìm tịi, cố
gắng. Đặc điểm của nền kinh tế tiểu nông là người nơng dân sở hữu một chút ít
ruộng đất nhỏ bé, cỏn con của mình và tự mình sản xuất trên mảnh đất ấy. Thêm
vào đó, đặc điểm của sản xuất tiểu nơng là trình độ thủ cơng, cầm tay, tự cung,
tự cấp, khép kín. Những đặc điểm này của sản xuất nông nghiệp nhỏ đã ảnh
hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành những nét biểu hiện đặc trưng của văn
hóa tiểu nơng. Ví dụ, với kết quả sản xuất ít ỏi, người sản xuất phải tính toán, lo
toan, vun vén trong phạm vi gia đình, mảnh ruộng của mình từ đó là cơ sở xuất

hiện tâm lý vun vén cá nhân, tư lợi. Sản xuất nhỏ trên những mảnh ruộng manh
mún hạn chế tầm nhìn, khả năng hạch tốn kém, củng cố nếp nghĩ theo kinh
nghiệm cũ của người nông dân. Sản xuất nông nghiệp nhỏ không cần sự phân
cơng, hợp tác cũng tạo nên nét văn hóa tuỳ tiện, vô nguyên tắc. Sản xuất nông
nghiệp nhỏ phụ thuộc vào thiên nhiên cũng góp phần hình thành tâm lý cầu an,
thụ động…
Ba là, những biến đổi hết sức quan trọng trong nông nghiệp, nông thôn, đặc
biệt chủ trương đưa kinh tế nông nghiệp vận hành theo cơ chế thị trường định
hướng XHCN, đưa nông nghiệp, nông dân, nông thôn hội nhập nhanh chóng vào
sự nghiệp CNH, HĐH kinh tế - xã hội của cả nước, làm thay đổi nhanh chóng
bộ mặt kinh tế - xã hội nơng thơn, tác động mạnh mẽ tới người nông dân và làm
nảy sinh, xuất hiện những biểu hiện mới trong lối sống của họ. Nhưng, những
biểu hiện này lại chưa có sức lan tỏa mạnh trong mỗi người dân Việt Nam nói
chung và người nơng dân nói riêng. Vì vậy, những hạn chế trong lối sống tiểu
nơng vẫn cịn đất để tồn tại, phát triển.
Bốn là, mặc dù tốc độ đơ thị hóa của Việt Nam tương đối nhanh nhưng hiện
nay vẫn còn hơn 70% dân số sống ở khu vực nông thôn. Mặt khác, đặc điểm nổi
bật của nền văn hóa nước ta là văn hóa làng xã, cho nên giữa những người thành
thị và nông thôn vẫn tồn tại nhiều mối quan hệ khăng khít và đan xen nhau, có
nhiều quan hệ mang đậm nét tâm lý tiểu nông như quan hệ họ hàng, dòng tộc,


gia đình… Hơn nữa, việc khơi phục lại các di tích văn hóa như đền, chùa,
miếu… gắn liền với những sinh hoạt tín ngưỡng diễn ra trong những năm qua,
bên cạnh mặt tích cực cịn có những hạn chế từ các phong tục, tập tục cũ. Tất cả
điều đó đã tạo điều kiện, môi trường dung dưỡng cho những mặt tiêu cực trong
lối sống tiểu nông hồi sinh, phát triển… Điều này đã cắt nghĩa vì sao mặt tiêu
cực trong lối sống tiểu nông không những không bị mất đi mà còn phát triển
mạnh mẽ hơn khi điều kiện cuộc sống về vật chất và tinh thần ngày càng được
nâng cao.

Năm là, do cơ chế chính sách, pháp luật của chúng ta chưa đồng bộ, vẫn còn
khe hở, việc thực thi luật pháp chưa nghiêm nên chưa tạo ra được sự răn đe đối
với các hiện tượng tiêu cực như làm ăn phi pháp, coi thường kỷ cương, phép
nước… Điều này càng tạo điều kiện để dung dưỡng cho những nét tâm lý tiêu
cực trong lối sống tiểu nông tồn tại và phát triển.
Sáu là, một bộ phận không nhỏ người nơng dân cịn thiếu và yếu kiến thức về
các lĩnh vực như: kinh tế, pháp luật, xã hội…; chưa thích ứng, năng động, nhạy
bén với những hoạt động trong nền kinh tế thị trường hiện nay, với xu thế tồn
cầu hóa và hội nhập trên thế giới.
3.2 Giải pháp khắc phục ảnh hưởng của văn hóa tiểu nơng đến q trình
cơng nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước.
Khắc phục lối sống “tiểu nơng”trong q trình cơng nghiệp hóa,hiện đại hóa
đất nước đã và đang đặt ra những đòi hỏi mới trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội.Một yêu cầu không thể thiếu là phải chuẩn bị nguồn nhân lực đủ số lượng và
chất lượng, phát huy nhân tố con người. Và, phát huy nhân tố con người đồng
nghĩa với phát huy những điểm mạnh, khắc phục những hạn chế, nhất là những
hạn chế đã ăn sâu vào nếp sống, lối sống.Trong đó nếp sống tiểu nơng đến nay
vẫn hiện hữu trong cung cách làm việc,sinh hoạt ở nhiều nơi.
Lời cảnh báo của V.I.Lênin rằng những thói quen, nhất là thói quen lạc hậu có
một sức ỳ ghê gớm cần phải được chúng ta ghi nhớ và giải quyết thỏa đáng .
Để khắc phục tác động, ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa tiểu nơng trong q
trình cơng nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước cần thấy rằng lối sống đó cũng là
phản ánh hiện thực khách, là sản phẩm của điều kiện kinh tế xã hội nhất định.
Đồng thời, nó cũng thay đổi theo hướng tích cực thơng qua giáo dục, hoạt động
của chủ thể và tác động của môi trường. Do đó, những giải pháp khắc phục cần
tồn diện, trước hết tập trung vào một số nội dung sau:
Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, , hướng giáo dục đào tạo vào bồi
dưỡng, xây dựng những phẩm chất và năng lực của con người mới, con người
của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế.



Trong những năm tới, cần tiến hành cải cách giáo dục và đào tạo, đổi mới
chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo; hiện đại hóa các điều kiện và
phương tiện dạy học. Đây là khâu quyết định nhất thúc đẩy nước ta đi vào kinh
tế tri thức, đủ sức tham gia tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Trong công
tác đào tạo, cần đặc biệt quan tâm đến đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ,
các nhà doanh nghiệp có tài và lực lượng cơng nhân có tay nghề cao, cũng như
đội ngũ cán bộ cơng chức tận tụy và thạo việc. Đồng thời, cần tăng cường các
tiềm năng khoa học và công nghệ của đất nước, phát huy sức sáng tạo trong
khoa học, tạo điều kiện cho cán bộ nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ
vào thực tiễn. Cần mở rộng quan hệ hợp tác giáo dục và đào tạo, khoa học –
công nghệ với nước ngoài, mạnh dạn đưa người đi đào tạo ở các nước tiên tiến
với những ngành khoa học – kỹ thuật mũi nhọn, có như vậy mới thu hút, khuyến
khích nhân tài,khắc phục tình trạng “chảy máu chất xám”.
Cần có chính sách đảm bảo và khuyến khích người lao động, nhất là lao động
trẻ, như chính sách lương phù hợp, chính sách nhà ở, bảo hiểm xã hội, chính
sách khen thưởng những người có sáng kiến, cải tiến đóng góp lớn cho sự phát
triển kinh tế xã hội, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Các chính sách kinh tế –
xã hội phải hướng vào phát huy tiềm năng sáng tạo của con người; điều chỉnh
lợi ích theo hướng “ kết hợp hài hịa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã
hội”, tạo sự công bằng trong xã hội. Tạo mọi điều kiện để mọi người dân, mọi
thành phần kinh tế phát huy hết khả năng đóng góp xây dựng đất nước, tạo mơi
trường cạnh tranh lành mạnh, làm giàu chính đáng,từ đó thúc đẩy tiến trình hội
nhập quốc tế.
Thực hiện phát triển lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn, kết hợp tốt phát triển kết cấu hạ tầng và đơ thị hóa nơng thơn.
Bởi vì, nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua nhiều năm chiến
tranh, nơng dân và nơng thơn cịn nghèo; cịn nhiều khó khăn về vốn, trang thiết
bị máy móc và áp dụng khoa học công nghệ vào nông thôn. Mặt khác, cơ cấu
kinh tế nơng thơn cịn nặng về nơng nghiệp; trong nơng nghiệp cịn nặng về

trồng trọt. Sản xuất nơng nghiệp ở nhiều nơi cịn manh mún, phân tán quy mô
nhỏ, mang nhiều yếu tố tự phát và dấu vết của kinh tế tự cung, tự cấp. Thực tiễn
này đòi hỏi chúng ta phải đổi mới, sáng tạo trong cách nghĩ, cách làm để nắm
bắt cơ hội, vượt qua thử thách, khó khăn, khắc phục sự lạc hậu về kinh tế, văn
hóa, xã hội ở khu vực nơng thôn. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở
nơng thơn, đồng thời phải có chính sách khuyến khích mạnh mẽ cán bộ khoa
học – kỹ thuật, cán bộ ở thành phố, nhất là thanh niên về phục vụ lâu dài ở nông
thôn nhằm thực hiện chủ trương cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp và


nơng thơn. Cần phải xã hội hóa khu vực nơng thôn và nông dân, mở rộng quan
hệ giao lưu của họ với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác, nhất là với cơng nhân
và trí thức,để vừa đảm bảo nền tảng liên minh công nông vững chắc, vừa cải
biến tư tưởng, tâm lý, tập quán, thói quen của người nơng dân đã tồn tại từ bao
đời do tính chất của sản xuất nhỏ, nhằm hình thành tư duy mới, phong cách công
nghiệp trong lối nghĩ và cách làm.
Xây dựng mơi trường văn hóa tiến bộ, lành mạnh nhằm khắc phục và loại
bỏ những mặt tiêu cực của tâm lý sản xuất nhỏ, những tập quán lạc hậu, các tệ
nạn xã hội và hủ tục mê tín dị đoan trong nhân dân. Mơi trường văn hóa là nơi
thể hiện sự thống nhất trong đa dạng, vừa có yếu tố của truyền thống vừa có yếu
tố của hiện đại, do đó vừa là điều kiện để giữ gìn, phát triển, ni dưỡng, vun
trồng tính người, những giá trị chân, thiện, mỹ, vừa là điều kiện để khắc phục,
loại bỏ những gì trái với bản chất tốt đẹp của con người, những tính xấu, sự thấp
hèn... Con đường để xây dựng mơi trường văn hóa tiến bộ, lành mạnh là sự tổng
hợp của các hình thức, phương pháp tác động của Nhà nước và từng địa phương
thông qua các biện pháp giáo dục, tổ chức, quản lý, hoạt động thực tiễn nhằm
phát huy các giá trị chân, thiện, mỹ phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Trước hết, phải đảm bảo tốt định hướng chính trị tư tưởng của các
quan hệ văn hóa, thiết chế văn hóa và hoạt động văn hóa trong tồn xã hội.
Trong xây dựng mơi trường văn hóa tiên tiến, lành mạnh cần đảm bảo nội dung

phong phú, đa dạng mà vẫn thống nhất của văn hóa: xây dựng văn hóa chính trị
tư tưởng, văn hóa đạo đức, văn hóa pháp luật, văn hóa khoa học kỹ thuật, văn
hóa nghệ thuật – thể thao, văn hóa ứng xử giao tiếp, văn hóa kinh doanh. Bao
trùm nhất là xây dựng mơi trường văn hóa với nội dung là kỷ cương – tình
thương – trách nhiệm của mỗi cá nhân, tập thể và toàn xã hội. Xây dựng mơi
trường văn hóa phải đi từ cái gốc, từ cơ sở - đó là văn hóa làng xã, văn hóa gia
đình Việt Nam.
Đổi mới, tăng cường nội dung của công tác tuyên truyền, giáo dục trong
nhân dân theo hướng hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa tiểu nơng.
Đổi mới hình thức, phương pháp tun truyền, giáo dục để những nội dung cần
tuyên truyền thấm sâu vào trong nhân dân, từ đó dần hạn chế, loại bỏ những ảnh
hưởng tiêu cực của văn hóa tiểu nơng.
Phát huy,kế thừa những điểm tiến bộ, từng bước loại bỏ những phong tục, tập
quán lạc hậu chứa đựng tâm lý tiểu nơng của hương ước cũ trong q trình xây
dựng quy ước mới từ đó cũng góp phần hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của
văn hóa tiểu nơng trong nhân dân.
Đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp nơng thơn:


Theo văn kiện Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, thì cơng nghiệp
hố xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kì quá độ. Đảng ta đã xác
định thực chất của công nghiệp xã hội chủ nghĩa là “tái sản xuất mở rộng quá
trình thực tiễn cách mạng khoa học kỹ thuật, thực sự phân công mới về lao động
xã hội và quá trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa để khơng ngừng hồn thiện”. Mục
tiêu tổng qt và lâu dài của cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng
thơn là xây dựng một nền nơng nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền
vững, xây dựng một nền nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, cơng bằng, văn
minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý. Nông thôn Việt Nam chiếm gần 80% dân số,
72% nguồn lao động xã hội, nhưng mới tạo ra khoảng 1/3 tổng sản phẩm quốc
dân (1996). Do vậy cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn

khơng những là quan trọng, mà cịn có ý nghĩa quyết định đối với quy mô và tốc
độ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Cho nên, Đảng và nhà nước ta rất
coi trọng vấn đề của nơng thơn, nơng nghiệp trong sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hoá. Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng chỉ rõ : Đặc biệt coi
trọng cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn. Phát triển tồn
diện nông lâm, ngư nghiệp gắn liền với công nghiệp chế biến nông – lâm – thủy
sản ; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Tuy nhiên đến nay cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng thơn cịn gặp nhiều khó
khăn. Trước hết là tình trạng kinh tế thuần nông, cây lúa chiếm tỷ lệ cao, sức
mua cịn rất nhỏ, trình độ kỹ thuật của cơng nghiệp nơng thơn cịn thấp cả về sản
phẩm, thiết bị lẫn công nghệ. Trừ một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ, sản
phẩm cơng nghiệp nơng thơn có chất lượng thấp, mẫu mã kiểu dáng chậm thay
đổi, tốn nhiều nguyên vật liệu, năng lượng, phần lớn thiết bị và công nghệ
sản xuất của công nghiệp nông thôn là công cụ thủ công cải tiến hoặc thiết bị
thải, loại của các cơ sở công nghiệp đô thị. Công nghiệp nông thôn nước ta phát
triển không đồng đều, mới chỉ tập trung ở những địa phương có ngành nghề
truyền thống ở ven đô thị, đầu mối giao thong quan trọng.
Tăng cường vai trị của nhà nước và của nơng dân:
Đối với nhà nước: Trong thời kì cơng nghiệp hố, hiện đại hố nông
nghiệp, nông thôn. Nhà nước ta cần phải đổi mới nội dung và phương pháp.
Cần điều chỉnh cơ cấu đầu tư của toàn bộ nền kinh tế theo hướng ưu tiên tập
trung vốn đầu tư cho nông nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến nông – lâm –
thủy sản.
Tăng tỉ lệ vốn đầu tư cho công nghiệp và dịch vụ nông thôn, đầu tư cho hạ
tầng. Cần quan tâm đến các nghành công nghiệp mới ở nông thôn, những
nghành vùng, vùng cơng nghiệp hiện có ở thành phố; đầu tư ứng dụng và


chuyển giao khoa học, công nghệ cho sản xuất, coi đây là khâu đột phá quan
trọng nhất để thúc đẩy phát triển nông thôn và kinh tế nông thôn. Trước hết cần

tập trung vào cơng nghệ sinh học, chương trình giống cây trồng, vật nuôi công
nghệ bảo quản và chế biến nông – lâm - thuỷ sản.
Phát triển mạnh các nghành nghề, làng nghề thủ công truyền thống ở nông
thôn, bao gồm các nghành nghề mới được hình thành, chuyển sản xuất hàng thủ
công mỹ nghệ hoặc chế biến nông – lâm - thuỷ sản sang phục vụ tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu. Cần khuyến khích các làng nghề ở nông thôn phát triển theo
hướng sử dụng công nghệ hiện đại kết hợp với phát huy kinh nghiệm truyền
thống.
Nhà nước hỗ trợ vốn, cán bộ, kĩ thuật, công nghệ, tạo thị trường, có chính
sách miễn giảm thuế, đào tạo tay nghề và cho vay vốn với lãi xuất ưu đãi nhất.
Bên cạnh nhà nước hỗ trợ vốn. Nhà nước ta cần thu hút mạnh mẽ mọi nguồn
vốn trong nước và vốn đầu tư nước ngồi vào nơng nghiệp và nơng thơn. Đây là
giải pháp rất có ý nghĩa đối với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nơng thơn trong giai đoạn cơng nghiệp hóa,hiện đại hóa.
Đối với nông dân: Tuyên truyền, giáo dục làm cho nông dân nhận thức đúng về
cơng nghiệp hố, hiện đại hố là việc của chính mình, cần thực hiện cơng việc
này với ý nghĩa là người chủ; nhận thức được mối quan hệ giữa nghĩa vụ và
quyền lợi, lợi ích của mình gắn với lợi ích của giai cấp cơng nhân và tầng lớp trí
thức và lợi ích chung của dân tộc . Vận động nơng dân thực hiện cơng nghiệp
hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn bằng nhiều hình thức và mức độ khác
nhau tuỳ theo từng vùng, chú ý vận động nông dân thành thị tiết kiệm trong tiêu
dùng để hồn thiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố ngay tại bản làng, thôn,xã.

Kết Luận


Lối sống tiểu nông Việt Nam là một hiện tượng rất phức tạp, đa dạng; cái
xấu, cái tốt, cái tích cực, cái tiêu cực hoà quyện, đan xen vào nhau. Bên cạnh
những mặt tích cực như: lịng u nước, đồn kết cộng đồng, yêu lao động, cần
cù, lạc quan trong cuộc sống; trọng con người, trọng tình cảm, trọng đạo đức,

trọng danh dự..., lối sống tiểu nơng cịn có những mặt tiêu cực, hạn chế: thói
quen sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, tính bảo thủ, nếp nghĩ dựa theo kinh nghiệm;
tính hẹp hịi, vị lợi, cục bộ địa phương, tuỳ tiện, kém kỷ luật, kỷ cương, trọng
tình hơn trọng lý, trọng lệ hơn luật...
Trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, những đặc điểm trong lối
sống tiểu nông, đã có sự thay đổi. Những mặt tích cực, là những giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc trong lối sống tiểu nông vẫn tiếp tục được kế thừa, phát
huy. Những hạn chế, tiêu cực, những cái xấu trong lối sống tiểu nơng Việt Nam
vẫn cịn điều kiện để tồn tại, nuôi dưỡng; một số biểu hiện mới trong lối sống
ngoại lai được du nhập... Điều đó biểu hiện xu hướng biến đổi diễn ra phức tạp
trong lối sống tiểu nơng Việt Nam. Để phát huy những mặt tích cực, đồng thời
khắc phục những mặt hạn chế trong lối sống tiểu nơng, cần tiếp thu một cách có
chọn lọc, hợp lý lối sống của các dân tộc trên thế giới, trên cơ sở giữ gìn bản sắc
văn hóa của dân tộc Việt Nam. Hệ thống các giải pháp này chúng tôi sẽ luận bàn
ở một bài viết khác.



×