Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Tài liệu Phân tích kĩ thuật và những dự báo cho VN-Index ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.13 KB, 8 trang )

Phân tích kĩ thuật và những dự báo cho VN-Index
( Bình chọn: 12 -- Thảo luận: 3 -- Số lần đọc: 11873)
Phân tích kĩ thuật và những dự báo cho VN-Index
-----------
Trần Quốc Phúc, Khoa TCDN- ĐHKT

Trong thị trường luôn tồn tại 2 trường phái của hai nhà phân tích: Phân tích cơ bản và
phân tích kĩ thuật. Hai trường phái này về cơ bản có thể hổ trợ cho nhau trong việc
phân tích thị trường mặc dù cũng có những lúc hoàn toàn không thể giải thích được sự
khác nhau giữa hai trường phái này.
Khi nói về sự biến động giá trong thời gian qua: Các nhà phân tích cơ bản đều có thể lý
giải điều này và nhiều câu hỏi đặt ra cho vấn để này là “tại sao” và đó là công việc của
những người làm công tác quản lý cũng như những nhà nghiên cứu để có thể tìm ra
câu trả lời thích đáng cho vấn đề đó.
Trong khi đó có phân tích kĩ thuật thể lý giải toàn bộ được điều này nhưng có thể đưa ra
lời dự báo cho tương lai ở một mức độ tin cậy nhất định nào đó và góp phần trong việc
định hướng cho những nhà phân tích nhằm hổ trợ cho những nhà phân tích cơ bản.
Mặc khác, Phân tích kỹ thuật không giống như công việc của những nhà phân tích cơ
bản, PTKT không quan tâm tới câu hỏi “cái gì” hơn là “tại sao”. Và đây là đặc điểm nổi
bật của 2 trường phái này và nó luôn tồn tại trong một nền kinh tế đan xen vừa bổ sung
hổ trợ nhau trong việc nghiên cứu và dự báo diển biến thị trường trong tương lai.
Đối với những nhà kinh tế những nhà phân tích thị trường chứng khoán thì sự sụt giảm
này có thể nói là một biến động không chắc chắn mà mỗi nhà phân tích đều có một cách
nhìn nhận của riêng mình. Đặc biệt đối với những nhà phân tích kỹ thuật. Phân tích kĩ
thuật là một nghệ thuật trong việc nhìn nhận và dự báo một vấn đề dựa trên những gì
đã diễn ra trong quá khứ mà đối tượng chính cho mẫu phân tích và dự báo là thị trường
chứng khoán, thị trường giao sau, tỉ giá hối đoái…..
Phân tích kĩ thuật ra đời rất lâu tại các thị trường phát triển như: Mỹ, Nhật, Đức…Đây là
công cụ rất quen thuộc đối với những nhà phân tích nước ngoài, nhằm dự báo giá
chứng khoán trong tương lai và thời điểm lựa chọn giao dịch sao cho tối ưu nhất dựa
vào những chỉ số và những công cụ trong phân tích kĩ thuật mà nền tảng chính xuất


phát từ lý thuyết Dow của Charles H. Dow , Lý thuyết Sóng Elliot của R.N. Elliot và Dãy
số Fibonacci và các công cụ phân tích khác.
Lý Thuyết Dow
Những biến động thị trường với mọi xu hướng đều có thể được dự đoán trước trên cơ
sở biến động giá trên các biểu đồ.
Giả định của Dow:
Phần lớn các chứng khoán tuân theo xu hướng cơ bản của thị trường.
Xu thế xu hướng cơ bản của thị trường được hiểu là “chỉ số giá bình quân” - phản ánh
xu thế chung của một số cổ phiếu đại diện cho thị trường.
Các tiền đề:
Chỉ sử dụng giá đóng cửa: Giá phản ánh là giá đóng cửa, có thể dự đoán được, và
tác động đến mối quan hệ cung cầu của thị trường
Sử dụng chỉ số trung bình: Chỉ số trung bình là trung bình hoá tất cả:
• Các biến động từng ngày
• Các điều kiện tác động lên cung - cầu các cổ phiếu,
• Những quyết định đầu tư bất ngờ không dự đoán được
Giải thích lý thuyết Dow
Lý thuyết Dow được xây dựng dựa trên 6 nguyên lý cơ bản:
Nguyên lý 1:
• Gồm mọi thông tin: các yếu tố về kinh tế, chính trị, các yếu tố tâm lý, khả năng
tăng trưởng lợi nhuận của công ty
• Tất cả các kiến thức của tất cả những người tham gia vào thị trường (nhà giao
dịch, nhà đầu tư, nhà quản trị danh mục…)
Nguyên lý 2:
Thị trường có 3 sự chuyển dịch
1. Sự dịch chuyển chính: (primary movement)
o Trong thị trường đầu cơ giá lên: (bull market):Là sự dịch chuyển lên
trên một cách rộng lớn, ít nhất là 18 tháng.
o Thị trường đầu cơ giá xuống: (bear market)
Là một sự giảm giá kéo dài và sẽ ngừng lại khi có những sự phục hồi

đáng kể trong giá cổ phiếu.
2. Những phản ứng thứ cấp:
o Là sự sụt giảm quan trọng trong thị trường đầu cơ giá lên hoặc một sự
tăng giá quan trọng trong thị trường đầu cơ giá xuống
o Khoảng thời gian dịch chuyển nhìn chung thoái lùi từ 33% - 66% (1/3 đến
2/3)
o Kéo dài từ 3 tuần đến nhiều tháng, thông thường 3 tháng.
o Nó chỉ quan trọng trong việc hình thành nên một phần của sự dịch
chuyển chính cũng như dịch chuyển thứ cấp.
3. Những sự dịch chuyển nhỏ: (minor movements)msự dịch chuyển này thể hiện
như là một biến động nhẹ trong giá qua các ngày giao dịch, thời gian diễn ra rất
ngắn.
Nguyên lý 3:
• Mỗi xu hướng thường xảy ra trong ba giai đoạn riêng biệt
• Trong thị trường giá lên có 3 giai đoạn.
• Giai đoạn tích luỹ: thể hiện việc mua có hiểu biết các nhà đầu tư tinh thông
• Giai đoạn tham gia công chúng: xảy ra khi các mức giá bắt đầu gia tăng một
cách nhanh chóng và những tin tức kinh doanh sẽ được cải thiện
• Giai đoạn phân phối: khi những tin tức kinh tế trở nên tốt hơn và khi khối lượng
có tính chất đầu cơ và sự tham gia công chúng gia tăng
• Trong thị trường giá xuống có 3 giai đoạn:
• Giai đoạn phân phối
• Giai đoạn hoảng loạn
• Giai đoạn bán bắt buộc
Nguyên lý 4:
• Các mối quan hệ giá và khối lượng tạo ra nền tảng cơ bản
• Mối quan hệ cơ bản là khối lượng tăng khi giá phục hồi và thu hẹp khi giá giảm.
• Nếu khối lượng trở nên ứ đọng khi giá tăng và gia tăng khi giá giảm, cảnh báo
rằng xu hướng chính sớm bị đảo ngược.
Nguyên lý 5:

Dấu hiệu tăng giá được đưa ra khi sự tăng giá liên tiếp tạo ra các đỉnh cao hơn và sự
giảm giá xen vào tạo thành các đáy cao hơn. Và ngược lại đối với dấu hiệu giảm giá.
Nguyên lý 6:
Phải biết kết hợp chỉ số của các ngành tương hổ cho nhau. Vd:
• Chỉ số bình quân ngành công nghiệp: là trung bình giá của 20 cổ phiếu công
nghiệp của Mỹ;
• Chỉ số bình quân ngành giao thông vận tải (Transportation): là trung bình giá của
12 cổ phiếu ngành giao thông vận tải Mỹ;
• Trong một nền kinh tế phát triển khi ngành công nghiệp phát triển thì ngành giao
thông vận tải cũng phát triển theo nên 2 chỉ số bình quân ngành công nghiệp và
bình quân ngành giao thông vận tải sẽ củng cố lẫn nhau.
Các công cụ ứng dụng trong phân tích kỹ thuật.
Phân kỳ và hội tụ của đường trung bình di động MACD (Moving Average
Convergence Divergence)
MACD là một công cụ trong phân tích kĩ thuật do Gerald Appel tìm ra vào thập niên 60.
MACD chỉ ra sự khác nhau giữa 2 đường EMA (exponential moving average)
Trong đó EMA nhanh hay gọi là đường MACD
• MACD = EMA (12 ngày) - EMA (26 ngày)
• Đường EMA chậm là đường dấu hiệu
• Đường dấu hiệu = EMA (9 ngày) của MACD
Hai đường này sẽ cho biết những dấu hiệu mua và bán khi chúng gặp nhau và càng có
dấu hiệu rõ nét khi chúng cắt qua đường Zero.
Về cơ bản thì đường dấu hiệu là đường sẽ khẳng định được những tín hiệu mua – bán
khi đường MACD đang tiến tới xu hướng của sự biến động.
Đường MACD.
Đường dấu hiệu.
Khi MACD cắt đường dấu hiệu nằm bên trên đường dấu hiệu và đang đi lên thì sẽ cho
một tín hiêu mua lý tưởng vì đó là một dấu hiệu tăng giá và ngược lại MACD cắt xuống
đường dấu hiệu thì cho tín hiệu giảm giá và đây cũng là thời điểm tốt nhất để Nhà Đầu
Tư bước ra khỏi thị trường vì dự báo một sự sụt giảm về giá trong tương lai.

Nhận định:
Nếu quay lại thời điểm tháng 8 năm 2006 cho thấy một dấu hiệu tương tự như hiện nay:
Đường MACD nằm dưới đường zero và sau đó cắt lên trên, nếu xét một cách tương dối
thì có thế thấy hai điểm này giống nhau - Đường MACD nằm dưới đường EXP ( đường
tín hiệu )
Theo lý thuyết trong phân tích kỹ thuật thì diều này chỉ báo một tín hiệu mua lý tưởng,
năm 2006 chỉ số VN-Index đã bắt đầu tăng vọt từ mức này ( VN-Index đạt 400 điểm )
và cho đến nay chỉ số VN-Index vào ngày 11/5/2007 là 1.039,6 điểm.
Nhìn nhận dưới quan điểm của lý thuyết Dow “ tương lai sẽ lặp lại quá khứ” và nếu điều
này đúng ở thị trường chứng khoán Việt Nam, MACD có khả năng diễn tả lại năm
2006 - thị trường tăng nhẹ trong một khoảng thời gian và sau đó tăng mạnh như thời
điểm tháng 11 năm 2006, cũng lúc này MACD cho thấy một tín hiệu tăng mạnh khi thị
trường không không thể sụt giảm được nữa ( đường MACD chạm đường zero và đảo
chiều ).
Dải Bollinger
• Đặt trên hai độ lệch chuẩn phía trên và phía dưới đường MA (Moving average),
đường MA thường là 20 ngày
• Độ lệch chuẩn cho thấy mức giá được phân tán xung quanh giá trị trung bình
như thế nào, và giá sẽ dao động giữa hai dãy băng này.
• Mua quá nhiều (overbought): khi mức giá vượt quá lên trên khi chúng đụng đến
dải băng trên.
• Bán quá mức (oversold): giá vượt quá xuống phía dưới khi chúng đụng dãy
băng dưới.
• Có thể mở rộng hoặc thu hẹp dải băng tùy thuộc sự biến động của đường trung
bình 20 ngày.
• Thời kỳ biến động giá tăng, khoảng cách giữa hai dãy băng mở rộng.
• Thời kỳ biến động giá giảm, khoảng cách hai dải băng thu hẹp lai.
• Độ rộng của dãy băng đo lường sự biến động giá
• Độ rộng và độ hẹp của dải băng xen kẻ nhau
• Khi 2 dải băng xa nhau một cách bất thường, tín hiệu xu hướng hiện tại sắp kết

thúc.
• Khoảng cách giữa hai dải băng thu hẹp lại, tín hiệu thị trường bắt đầu hình thành
xu hướng mới.
Có thể áp dụng đối với đồ thị hàng tuần hoặc hàng tháng.
Hoạt động tốt khi đuợc kết hợp với những chỉ số dao động mua quá mức/bán quá mức.
Nhận định:
Theo dỏi biểu đồ biến dộng giá cho thấy dãy Bollinger phản ánh khá chính xác thị
trường chứng khoán việt nam theo những lý thuyết về phân tích kỹ thuật.
Khi đường giá chạm hai biên của đường Bollinger là một chỉ báo thị trường đảo ngược
lại mức biến dộng trước đó. Cũng tương tự chúng ta quay lại thời điểm tháng 8/2006.
Đường biến dộng giá chạm mức biên dưới của dãy Bollinger và sau đó phục hồi và
tăng ngược trở lại.
Mặc dù trong thời diểm khảo sát có thể thấy dãy Bollinger vẫn chưa chính xác nhưng ở
đây cho thấy có thể chấp nhận độ trể của đường này là từ 1-2 ngày tuỳ theo mức biến
động trong giai đoạn của thị trường ổn định hay tăng trưởng.
Ở giai đoạn năm 2007 vào thời điểm khoảng cuối tháng 2/2007 khi chỉ số VN-Index đạt
con số cao nhất so với trước ( VN-Index khoảng 1.170 điểm ) tại đây đường biến động
giá chạm biên trên của dãy Bollinger- chỉ báo thị trường sụt giảm. Tuy nhiên mức độ sụt
giảm để nắm bắt tốt hơn cần kết hợp với các chỉ số khác.
Đường Chỉ số lưu lượng tiền trong giao dịch MFI ( Money Flow Index )
Tính toán các chỉ số trong MFI như sau:
Giá đặc trưng = (Giá cao nhất +Giá thấp nhất + Giá đóng cửa) / 3.
Lượng tiền ( Money Flow ) = (Giá đặc trưng ) x ( khối lượng ).
Tỉ lệ (MR) = ( lượng tiền tăng / lượng tiền giảm )

×