Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Đẩy mạnh hoạt động huy động vốn tại ngân hàng liên doanh SHINHAN VINA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (692.67 KB, 70 trang )

Năm học 2010 - 2012

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
“ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN
HÀNG LIÊN DOANH SHINHAN VINA”

Tác giả: Đinh Văn Thiện

Giáo viên hướng dẫn : PGS. TS. Hoàng Trần Hậu

Hà Nội, tháng 11 năm 2011


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành chương trình cao học và hồn thành luận văn này, tơi đã nhận được sự
hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của các thầy cô giáo, Ban lãnh đạo và các bạn đồng
nghiệp của Ngân hàng Liên doanh Shinhan Vina và các thành viên trong gia đ ình.
Trước hết, tơi xin chân thành cảm ơn các giáo sư, tiến sỹ, các thày, cô giáo của Đại Học
Quốc gia Hà Nội và Đại học Nantes, Pháp đã tr ực tiếp giảng dạy, truyền đạt kiến thức và trao
đổi những kinh nghiệm quý báu trong Khóa Cao học Tài chính, Ngân hàng và Bảo hiểm.
Tơi xin tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến Phó giáo sư – Tiến sĩ Hồng Trần Hậu, Phó Giám
đốc Học Viện Tài chính, Hà Nội đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên
cứu và giúp tôi hồn thành tốt luận văn này.
Đồng thời, tơi cũng xin cảm ơn Ban lãnh đạo Ngân hàng Liên doanh Shinhan Vina đã
tạo điều kiện cho tơi tham gia khóa học và thu thập số liệu cho luận văn.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn các thành viên trong gia đình đã thu x ếp công việc và động
viên tôi trong quá trình học tập và hồn thành luận văn này.

Hà Nội, tháng 11 năm 2011
Tác giả



Đinh Văn Thiện


TÓM TẮT NỘI DUNG
Luận văn này nghiên cứu hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Liên doanh Shinhan
Vina (SVB), sử dụng các số liệu về tốc độ tăng trưởng, quy mơ và cơ cấu vốn huy động, nhằm
mục đích đưa ra các giải pháp khả thi và kiến nghị thiết thực để đẩy mạnh hoạt động huy động
vốn của SVB. Số liệu được thu thập từ các Báo cáo Tài chính, Báo cáo Tổng kết Hoạt động của
SVB và một số NHTM. Số liệu cũng được tập hợp trên cơ sở thăm dò ý kiến của khách hàng
gửi tiền. Các phương pháp nghiên cứu như tổ ng hợp , phân tích, so sánh và phương pháp biểu
đồ được sử dụng. Luận văn đánh giá thực trạng hoạt động huy động vốn của SVB, những kết
quả đạt được những vấn đề tồn tại, điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với hoạt
động huy động vốn. Năm giải pháp được đưa ra để đẩy mạnh hoạt động huy động vốn của
SVB.
Các từ khóa: hoạt động huy động vốn, quy mô vốn huy động, cơ cấu vốn huy động, lãi suất
tiền gửi, các sản phẩm và dịch vụ huy động vốn, mạng lưới ngân hàng.

ABSTRACT
This thesis is about the fund mobilization activity of Shinhan Vina Joint-Venture Bank
(SVB). Data on growth rate, size and structure of fund mobilization is used to find out feasible
solutions and practical proposals to strengthen fund mobilization activity of SVB. Data is
collected from the Financial Statements, Annual Business Reports of SVB and some other
banks. Data is also collected from customer opinion survey on deposit services of SVB. Such
research methods as generalizing, analyzing, comparing, SWOT analysis, diagrammatizing are
used. The actual situation of fund mobilization activity of SVB including achievements,
outstanding problems, strengths, weaknesses, opportunities and threads to fund mobilization
activities are identified and reflected in this thesis. Five solutions are given to strengthen fund
mobilization activity of SVB.
Keywords: Fund mobilization activity, Size of mobilized fund, Structure of mobilized

fund, Deposit interest rates, Products and services for fund mobilization, Bank network.


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

1

1.Bối cảnh nghiên cứu

1

2.Lý do nghiên cứu

2

3.Mục tiêu nghiên cứu

3

4.Câu hỏi nghiên cứu

3

5.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3

6.Giả thuyết nghiên cứu


3

7.Phương pháp nghiên cứu

4

8. Kết cấu của luận văn

4

Chương I: HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NHTM

5

1.1 Tổng quan về NHTM

5

1.1.1 Khái niệm NHTM

5

1.1.2 Hoạt động chủ yếu của NHTM

6

1.1.3 Hệ thống các NHTM tại Việt Nam

8


1.2. Hoạt động huy động vốn của NHTM

10

1.2.1 Vốn tự có

10

1.2.2 Vốn vay

10


1.2.3 Vốn tiền gửi

12

1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM

13

1.3.1 Nhóm yếu tố khách quan

14

1.3.2 Nhóm yếu tố chủ quan

15


Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI SVB

18

2.1 Giới thiệu về SVB

18

2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển c ủa SVB

18

2.1.2 Cơ cấu tổ chức của SVB

18

2.1.3 Mạng lưới hoạt động của SVB

20

2.1.4 Khái quát hoạt động kinh doanh của SVB

20

2.2. Thực trạng hoạt động huy động vốn của SVB

26

2.2.1 Giới thiệu về dịch vụ huy động vốn của SVB


26

2.2.2 Quy mô vốn huy động của SVB

28

2.2.3 Cơ cấu vốn huy động của SVB

30

2.2.4 Cơ cấu khách hàng của SVB

33

2.2.5 Tình hình phát triển dịch vụ hỗ chợ cho hoạt động huy động vốn

34

2.2.6 Đánh giá của khách hàng về chất lượng hoạt động huy động vốn

35


2.3 Đánh giá về hoạt động huy động vốn của SVB

36

2.3.1 Các loại sản phẩm

37


2.3.2 Lãi suất huy động vốn

37

2.3.3 Mạng lưới ngân hàng

39

2.3.4 Các hoạt động truyền thông

40

2.3.5 Phân tích SWOT về hoạt động huy động vốn của SVB

41

Chương III: GIẢI PHÁP ĐỂ ĐẨY MẠNH HOẠ T ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN

46

CỦA SVB
3.1 Định hướng hoạt động huy động vốn của SVB

46

3.2 Giải pháp để đẩy mạnh hoạt động huy động vốn của SVB

46


3.2.1 Đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ

46

3.2.2 Áp dụng chính sách lãi suất huy động linh hoạt

48

3.2.3 Phát triển mạng lưới giao dịch

49

3.2.4 Tăng cường các hoạt động truyền thơng

51

3.2.5 Đổi mới chính sách nhân sự

52

3.3 Kiến nghị

54

3.3.1 Kiến nghị với NHNN và các cơ quan quản lý Nhà nước

54


3.3.2 Kiến nghị với SVB


55

PHẦN KẾT LUẬN

57

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
PHẦN PHỤ LỤC
DANG MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Bối cảnh nghiên cứu
Ngân hàng Shinhan Vina (SVB) là ngân hàng liên doanh giữa Ngân hàng Shinhan, Hàn
Quốc và Ngân hàng T MCP Ngoại thương Việt Nam. SVB được thành lập năm 1993, với sứ
mệnh là tăng cường quan hệ ngoại giao, xúc tiến quan hệ thương mại, đẩy mạnh hoạt động đầu
tư giữa Hàn Quốc và Việt Nam. Hoạt độ ng chủ yếu của SVB là huy động vốn từ các tổ chức
kinh tế và cá n hân, cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho các tổ chức và cá nhân, cung
cấp các dịch vụ ngân hàng như thanh toán trong nước, thanh tốn quốc tế, séc, thẻ tín dụng, nhờ
thu, bảo lãnh… Khi mới thành lập và hoạt động tại Việt Nam, hầu hết khách hàng của Ngân
hàng là các tổ chức và cá nhân Hàn Quốc đang hoạt động, công tác tại Việt Nam . SVB huy
động vốn chủ yếu từ nhóm khách hàng này thơng qua tài khoản của họ mở tại Ngân hàng bằng
Đơ la Mỹ. Các tập đồn kinh tế lớn của Hàn Quốc đầu tư vào Việt Nam với số vốn đầu tư lên
đến hàng chục triệu Đô l a Mỹ như Samsung, Daewoo, LG, Hyundai, Posco, Doosan... là những
khách hàng lớn của Ngân hàng. Đồng thời, Ngân hàng cũng huy động được vốn bằng nội tệ và
các loại ngoại tệ khác của các doanh nghiệp này qua doanh thu c ủa họ. Những năm gần đây,
SVB đã thu hút được một số khách hàng là các cá nhân và các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy
nhiên, nhóm khách hàng này chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số khách hàng của Ngân hàng.

Nói chung, nhóm khách hàng có yếu tố Hàn Quốc chủ yếu mở tài khoản và giao dịch với
các ngân hàng có vốn đầu tư Hàn Quốc như SVB và các chi nhánh Ngân hàng của Hàn Quốc tại
Việt Nam như Ngân hàng Woori, Ngân hàng Ngoại hối Hàn Quốc... Tuy vậy, cùng với sự phát
triển của nền kinh tế, hệ thống NHTM của Việt Nam đã không ngừng phát triển về số lượng các
ngân hàng, các chi nhánh ngân hàng, các phòng giao dịch; về quy mô vốn của các ngân hàng;
về chất lượng dịch vụ ngân hàng; về hoạt động marketing ngân hàng... Vì thế, nguồn vốn từ
nhóm khách hàng Hàn Quốc có xu hướng dịch chuyển sang các ngân hàng trong nước và các
ngân hàng nước ngoài khác. Do mảng khách hàng truyền thống và đầy tiềm năng của SVB đã
bị chia s ẻ bởi các NHTM khác, hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói
riêng của SVB ngày càng khó khăn hơn.
Trong khi đó, thị trường tiền tệ của Việt Nam lại khơng ổn định, tính liên kết và tương trợ
trong hệ thống ngân hàng còn hạn chế, sự cạnh tranh là không lành mạnh, thông tin về thị


trường thiếu minh bạch, khách hàng giảm sút niềm tin vào chính sách tiền tệ nói chung và vào
hệ thống ngân hàng nói riêng. Hơn nữa, nguồn lực về vốn của nền kinh tế bị phân tán qua nhiều
kênh đầu tư khác nhau như đầu tư vào thị trường chứng khoán, đầu tư vào bất động sản, đầu tư
vào vàng và kim loại quý… Thực tế này l àm cho hoạt động huy động vốn của các ngân hàng
càng thêm khó khăn.
Theo báo cáo tài chính năm 2007, năm 2008, năm 2009 và năm 2010 của SVB, tốc độ tăng
trưởng vốn huy động bình quân qua các năm là 6%, 17% và 16%. Trong khi đó, theo số liệu
được cơng bố bởi NHNN (Nguồn: website ), tăng trưởng vốn huy động
của ngành ngân hàng qua các năm tương ứng là 23,33%, 28,6% và 27,2%. Thêm vào đó, trong
cơ cấu vốn huy động của SVB cuối năm 2010, vốn huy động b ằng VND chiếm khoảng 35%,
vốn huy động bằng các loại ngoại tệ chiếm khảng 65% trong tổng vốn huy động; vốn huy động
của 100 khách hàng lớn đã chiếm 53,6% tổng số vốn huy động. Như vậy, hoạt động huy động
vốn của SVB bộc lộ những vấn đề nội tại như t ốc độ tăng trưởng vốn huy động thấp , cơ cấu vốn
huy động theo loại tiền huy động còn chưa cân đối , vốn huy động lại rất phụ thuộc vào số dư
tiền gửi của một số khách hàng lớn.
2. Lý do nghiên cứu

Hoạt động huy động vốn đóng vai trị rất quan trọng trong hoạt động của các NHTM.
Trong bối cảnh hiện nay, việc tìm ra các giải pháp để duy trì và phát triển nguồn vốn huy động
cho các NHTM là một yêu cầu rất cấp bách. Cho đến nay, đã có nhiều đề tài nghiên cứu về hoạt
động huy động vốn tại các NHTMNN, NHTMCP… song các đề tài nghiên cứu về hoạt động
huy động vốn tại NHLD còn hạn chế. Đặc biệt, chưa có đề tài nào nghiên c ứu về hoạt động huy
động vốn của SVB.
Tăng cường nguồn vốn huy động cho Ngân hàng là một trong những nhiệm vụ quan trọng
mà Hội Đồng Quản trị của SVB giao cho Ban lãnh đạo của Ngân hàng nghiên cứu và tìm ra
giải pháp. Đó cũng chính là một trong những nhiệm vụ quan trọng của tác giả, với tư cách là
một phó Giám đốc, với nhiều năm công tác và phụ trách mảng kinh doanh của SVB Chi nhánh
Hà Nội.
Hơn nữa, Chương trình Thạc sỹ Tài chính, Ngân hàng và Bảo hiểm do Khoa Quốc tế -Đại
học Quốc gia, Hà Nội và Đại Học Nantes của Pháp cung cấp các khối kiến thức chuyên sâu về


lĩnh vực tài chính, ngân hàng vào bảo hiểm thơng qua 22 mơn học của chương trình, với sự
tham gia giảng dạy của các giáo sư, tiến sỹ quốc tế và Việt Nam . Chọn đề tài về lĩnh vực huy
động vốn, tác giả có thể tận dụng được những kiến thức đã học của chương trình để nâng cao
chất lượng của luận văn.
Xuất phát từ những thực tế trên đây, tác giả lựa chọn đề tài “Đẩy mạnh hoạt động huy
động vốn tại Ngân hàng Liên doanh Shinhan Vina” làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn thạc
sĩ của mình. Đề tài được hướng dẫn bởi PGS. TS. Hồng Trần Hậu, phó Giám đốc Học viện Tài
chính, Hà Nội, Việt Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Trước hết, thông qua việc nghiên cứu về các hoạt động nói chung và hoạt động huy động
vốn nói riêng của các NHTM, tác giả muốn đưa ra các yếu tố chủ quan và khách quan tác động
đến hoạt động huy động vốn của các ngân hàng trong bối cảnh hiện nay. Tiếp theo, tác giả tập
trung phân tích thực trạng hoạt động huy động vốn của SVB nhằm mục đích tìm ra các điểm
mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với hoạt động này. Sau cùng, tác giả đưa ra những
giải pháp khả thi và kiến nghị thiết thực để đẩy mạnh hoạt động h uy động vốn của SVB.

4. Câu hỏi nghiên cứu
Tại sao tốc độ tăng trưởng vốn huy động của SVB thấp ? Tại sao vốn huy động chủ yếu từ
các tổ chức và bằng Đô la Mỹ? Tại sao vốn huy động chỉ tập trung vào một số khách hàng lớn?
Phải áp dụng những giải pháp gì để đẩy mạnh hoạt động huy động vốn của SVB (nâng cao tỉ lệ
tăng trưởng, t ăng tỷ lệ huy động vốn bằng Đồng Việt Nam , đa dạng hóa khách hàng tiền
gửi…)?
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động huy động vốn, chủ yếu là huy động tiền gửi
từ khách hàng của SVB. Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn trong hệ thống SVB, giới
hạn trong những năm 2008, 2009, 2010 và chiến lược đến năm 2015 .
6. Giả thuyết nghiên cứu
Luận văn có giả thuyết là với việc áp dụng các giải pháp kh ả thi như giải pháp về phát triển


mạng lưới giao dịch, áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ,
tăng cường hoạt động truyền thơng, đổi mới chính sách nhân sự, SVB sẽ đẩy mạnh được hoạt
động huy động vốn, mở rộng được đối tượ ng khách hàng.
7. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập số liệu: Số liệu được thu thập từ các Báo cáo Tài chính, Báo cáo
Tổng kết Hoạt động của SVB và một số NHTM khác như Indovina, Vidpublic Bank, Vinasiam
Bank, Vietnam Rusia Bank, Vietcombank, ACB…trong những năm gần đây. Số liệu cũng được
tập hợp trên cơ sở thăm dò ý kiến của khách hàng tiền gửi tại SVB.
Phương pháp tổng hợp: tổng hợp số liệu về tình hình hoạt động kinh doanh và hoạt động
huy động vốn của SVB qua các năm 2008, 2009 và 2010; tổng hợ p các số liệu về hệ thống
mạng lưới giao dịch của một số NHTM đến tháng 09 năm 2011; tổng hợp đánh giá của khách
hàng về sản phẩm và dịch vụ huy động vốn của SVB;
Phương pháp biểu đồ: xây dựng các bảng, biểu dựa trên biến chuỗi thời gian. Sử dụng các
bảng , biểu để phản ánh thực trạng hoạt động huy động vốn của SVB.
Phương pháp phân tích, so sánh: Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động huy
động vốn của các NHTM, phân tích tình hình hoạt động kinh doanh của SVB qua các năm

2008, 2009 và 2010; so sánh hoạt động huy động vốn của SVB với một số NHTM khác; Phân
tích theo mơ hình SWOT về hoạt động huy động vốn của SVB.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm có ba chương
Chương I: Hoạt động huy động vốn của các NHTM
Chương II: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại SVB
Chương III: Giải pháp để đẩy mạnh hoạt động huy động vốn của SVB


Chương I
HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NHTM
1.1 Tổng quan về NHTM
1.1.1 Khái niệm NHTM
Theo Điều 4.2, Luật các Tổ chức Tín dụng của Việt Nam số 47/2010/QH12 ngày
16/06/2010, ngân hàng được định nghĩa như sau: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có
thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất
và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng
chính sách, ngân hàng hợp tác xã”.
Liên quan đến khái niệm NHTM, do tính đặc thù trong các nền văn hóa, phong tục, tập
quán hay luật lệ của các quốc gia, do tính đa dạng của các loại hình ngân hàng, do tính phức tạp
của các nghiệp vụ ngân hàng, do cả sự thay đổi thường xuyên của các nghiệp vụ ngân hàng, các
khái niệm về NHTM không hoàn toàn giống nhau g iữa các quốc gia trên thế giới: Theo Luật
Ngân hàng của Đài Loan , thuật ngữ NHTM được hiểu là một ngân hàng mà các chức n ăng
chính là nhận tiền gửi tài khoản phát séc và cấp tín dụng ngắn hạn. Theo Pháp Luật của Mỹ,
NHTM được hiểu là một tổ chức cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép khách hàng rút tiền theo
yêu cầu và cho vay đối với tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại. Theo Điều 4.3, Luật
các Tổ chức Tín dụng của Việt Nam số 47/2010/QH12 ngày 16/06/2010, “Ngân hàng thương
mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác theo quy định Luật này nhằm mục tiêu lợi nhu ận”.
Qua các khái niệm về NHTM ở trên ta thấy để phân biệt với các doanh nghiệp hoạt động

trong các lĩnh vực khác, tên giao dịch của một NHTM nhất thiết phải có cụm từ “ngân hàng”
hoặc “NHTM” để chỉ ra NHTM là một tổ chức kinh tế kinh doanh trong lĩnh vực tài chính, tiền
tệ. Hoạt động chủ yếu và thường xuyên là huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân,
rồi sử dụng nguồn vốn đã huy động được để cấp tín dụng cho các khách hàng có nhu cầu vay
vốn và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản và các d ịch vụ tài chính ngân hàng khác cho
khách hàng của mình. NHTM ln lấy lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu cần đạt được khi giao
dịch với khách hàng. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa NHTM với ngân hàng phát triển, ngân


hàng chính sách.
1.1.2 Hoạt động chủ yếu của NHTM
Có nhiều cách để phân chia hoạt động của các NHTM, tuy nhiên t heo Điều 4 .12, Luật các
Tổ chức Tín dụng Việt Nam số 47/2010/QH12 ngày 16/06/2010: “Hoạt động ngân hàng là việc
kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây: a) Nhận tiền gửi;
b) Cấp tín dụng; c) Cung ứng dịch vụ thanh tốn qua tài khoản ”. Vì NHTM là tổ chức được
thực hiện tất cả các hoạt động này và các hoạt động kinh doanh khác nên ta sẽ lần lượt xem xét
các nghiệp vụ cơ bản này .
Nhận tiền gửi là nghiệp vụ đầ u tiên của NHTM, nghiệp vụ này ra đời gắn liền với sự phát
triển của các NHTM. Tiền gửi là bộ phận quan trọng nhất và thường chiếm tỷ lệ lớn trong tổng
nguồn vốn của một NHTM. NHTM mở tài khoản và giữ tiền cho các tổ chức và các cá nhân.
Qua đó, NHTM có được nguồn vốn dồi dào để phục vụ cho các hoạt động cho vay và đầu tư .
Về mặt pháp lý, n hận tiền gửi là thỏa thuận giữa ngân hàng -tổ chức nhận tiền và khách hàng người gửi tiền thông qua hợp đồng tiền gửi về việc người gửi tiền sẽ đưa tiền cho ngân hàng
vay trong một thời gian nhất định, ngân hàng sẽ phải trả lãi tiền gửi và gốc cho người gửi tiền
theo lãi suất đã thỏa thuận. Theo Điều 4.13, Luật các Tổ chức Tín dụng Việt Nam số
47/2010/QH12 ngày 16/06/2010: “Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân
dưới hình thức tiền gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng
chỉ tiền gửi, kỳ phiếu tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo ngun tắc có hồn trả
đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận ”.
Sau khi nhận tiền gửi từ khách hàng, NHTM sẽ làm gì với số vốn huy động được, NHTM
lấy đâu ra tiền để trả lại cho khách hàng cả vốn và lãi tiền gửi? Câu trả lời chính là hoạt động

“cấp tín dụng” - một nghiệp vụ quan trọng của các NHTM. Theo Điều 4.14, Luật các Tổ chức
Tín dụng Việt Nam số 47/2010/QH12 ngày 16/06/2010: “Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ
chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo
ngun tắc có hồn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thu ê tài chính, bao thanh tốn,
bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.”
Trong các hình thức cấp tín dụng này, cho vay là hình thức cấp tín dụng phổ biến nhất và
ln chiếm tỷ trọng cao nhất trong dư nợ tín dụng của một NHTM. Thực hiện nghiệp vụ cho


vay nghĩa là NHTM sử dụng số vốn đã huy động được cho các tổ chức và cá nhân cần vốn vay
để mở rộng sản xuất, kinh doanh, đầu tư hay đáp ứng nhu cầu mua sắm, tiêu dùng cá nhân. Có
thể phân ra thành nhiều loại hình cho vay tùy theo tiêu chí phân loại như cho vay ngắn hạn,
trung hạn, dài hạn; cho vay vốn lưu động, cho vay đầu tư dự án; cho vay mua nhà, cho vay mua
ơ tơ, cho vay tiêu dùng…Ngồi các sản phẩm cho vay truyền thống trong ngắn hạn, các NHTM
ngày càng tài trợ nhiều cho các dự án đầu tư, xây d ựng, mua sắm tài sản cố định với thời hạ n
vay khá dài. Vì các khoản cho vay dài hạn có mức độ rủi ro cao hơn các khoản cho vay ngắn
hạn nên lợi nhuận mà các NHTM thu được cũng lớn hơn.
Chiết khấu là việc ngân hàng và khách hàng thỏa thuận với nhau để ngân hàng ứng trước
một số tiền nhất định theo tỷ lệ để đổi lấy quyền sở hữu các thương phiếu, giấy tờ có giá (gọi là
trái quyền) do khách hàng chuyển giao cho ngân hàng với giá cả luôn thấp hơn giá trị thực tế
của trái quyền được giao dịch. Chiết khấu có thể hiểu là việc mua bán giấy tờ có giá giữa ngân
hàng và khách hàng, theo đó khách hàng cam kết chuyển nhượng trái quyền chưa đến hạn thanh
toán cho ngân hàng để ngân hàng trả cho một số tiền bằng số tiền của thương phiếu trừ đi lợi
tức chiết khấu. Chiết khấu là một hoạt động mang lại lợi nhuận ổn định cho ngân hàng thông
qua lãi suất chiết khấu và phí dịch vụ.
Cho thuê tài chính là một hình thức cấp tín dụng cho khách hàng của NHTM. Tuy nhiên,
không phải NHTM nào cũng được phép thực hiện nghiệp vụ này. Nghiệp vụ này chủ yếu được
thực hiện bởi các cơng ty cho th tài chính.
Khơng giống như cho vay và chiết khấu, bảo lãnh là hình thức cấp tín dụng đặc biệt, ngân
hàng khơng cho khách hàng vay tiền ngay thời điểm ký kết thỏa thuận. Thay vào đó, n gân hàng

dùng uy tín và tiềm lực tài chính của mình để cam kết với người thụ hưởng bảo lãnh về việc
ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (người yêu cầu phát hành thư
bảo lãnh) khi khách hàng thực hiện không đầy đủ hay không thực hiện nghĩa vụ đã cam kết. Tất
nhiên, sau khi ngân hàng thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng thì khách hàng phải
nhận nợ, trả gốc, lãi và các chi phí phát sinh cho ngân hàng theo thỏa thuận .
Ngoài hai nghiệp vụ quan trọng của NHTM là nhận tiền gửi và cấp tín dụn g, các NHTM
cịn thực hiện nghiệp vụ cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản. Theo Điều 4.15, Luật các
Tổ chức Tín dụng Việt Nam số 47/2010/QH12 ngày 16/06/2010: “ Cung ứng dịch vụ thanh toán


qua tài khoản là việc cung ứng phương tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh
chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh tốn
khác cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng” .
Trước đây, phần lớn thu nhập của các NHTM, khoảng 65 -75% là thu nhập từ l ãi; thu nhập
từ phí của các NHTM thường chiếm tỷ lệ thấp, khoảng 20-25% tổng thu nhập của ngân hàng.
Điều này cho thấy, thu nhập của NHTM phụ thuộc nhiều vào số lượng và chất lượng các khoản
tín dụng mà ngân hàng cấp cho khách hàng. N ó cũng đồng nghĩa với việc chất lượng hoạt động
của NHTM tiềm ẩn nguy cơ rủi ro rất cao. Chính vì vậy, các NHTM hiện nay có xu hướng
giảm dần tỷ lệ thu nhập từ lãi, tăng tỷ lệ thu nhập từ phí dịch vụ để giảm thiểu rủi ro, đảm bảo
an toàn cho hoạt động ngân hàng.
Như vậy, các hoạt động của NHTM có mối liên hệ chặt chẽ và tác động qua lại với nhau.
Quy mô nguồn vốn sẽ tạo điều kiện cho các hoạt động sử dụng vốn, ngược lại nhu cầu cấp tín
dụng lại đặt ra yêu cầu đối với quy mô và cơ cấu của vốn huy động. Nguồn vốn huy động có
chi phí thấp tạo điều kiện cho việc cung cấp các khoản tín dụng với lãi suất cạnh tranh và ngược
lại. Hoạt động cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản không mang lại nhiều thu nhập
cho ngân hàng như hoạt động tín dụng nhưng thơng qua hoạt động cung ứng c ác dịch vụ , ngân
hàng duy trì được các khách hàng hiện tại và thu hút thêm các khách hàng mới, từ đó tạo điều
kiện cho các hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn.
1.1.3 Hệ thống các NHTM tại Việt Nam
Theo số liệu của NHNN, được cơng bố trên website: http:/ /www.sbv.gov.vn, tính đến

tháng 6 năm 2011, hệ thống ngân hàng Việt Nam gồm có 5 NHTMNN, 5 NHLD, 5 ngân hàng
100% vốn nước ngoài, 37 NHTMCP và 48 chi nhánh của ngân hàng nước ngoài đang hoạt
động tại Việt Nam. Đây là cách phân chia các NHTM dựa trên loại hình sở hữu ngân hàng. Chi
tiết xem Phụ lục A: Danh sách các NHTM.
NHTM NN là ngân hàng được Nhà nước cấp vốn để thành lập và hoạt động theo sự quản
lý của Nhà nước. NHTMNN bao gồm NHTM do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ và
NHTMCP do Nhà nước sở hữu trên 5 0% vốn điều lệ . Vì thế, ngồi việc tiến hành các hoạt động
kinh doanh bình thường như các NHTM khác, các ngân hàng này còn phải thực hiện các nhiệm
vụ chính trị, xã hội được Nhà nước giao cho. Các NHTM NN bao gồm Ngân hàng Đầu tư và


Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, Ngân hàng Phát triển
Nhà Đồng bằng Sông Cửu long, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương
Việt Nam … (Ngân hàng Ngoại thương và Ngân hàng Cơng thương đã cổ phần hóa nhưng Nhà
nước vẫn là chủ sở hữu chính).
NHTMCP là NHTM được tổ chức dưới hình thức cơng ty cổ phần, do các cổ đông thành
lập. Hoạt động của NHTMCP cũng giống như hoạt động của các NHTM khác và mục tiêu chủ
yếu của ngân hàng là lợi nhuận. Các cổ đơng có thể là pháp nhân hay thể nhân. Khi mới thành
lập, các NHTMCP chủ yếu được góp vốn bởi các tổ chức và cá nhân Việt Nam. Sau này, cổ
phần của các ngân hàng này được mua bán và chuyển nhượng trên thị trường chứng khoán cho
các cá nhân và pháp nhân nước ngoài. Tuy nhiên, tổng số cổ phần của các cổ đơng nước ngồi
trong mỗi NHTMCP bị khống chế ở một tỷ lệ nhất định.
NHLD là NHTM được thành lập dựa trên hợp đồng liên doanh bằng vốn góp của Bên nước
ngoài (gồm một hoặc nhiều ngân hàng nước ngoài) và Bên Việt Nam (gồm một hoặc nhiều
ngân hàng Việt N am). Thông thường, vốn điều lệ được các bên thỏa thuận góp nhưng mỗi bên
chỉ được góp tối đa 50% tổng số vốn. NHLD là một pháp nhân được thành lập và hoạt động tại
Việt Nam nên các hoạt động của ngân hàng này cũng chịu sự chi phối của pháp luật Việt Nam.
Các NHLD đang hoạt động tại Việt Nam gồm có S hinhanVina Bank, Vidpublic Bank, Indovina
Bank, Vietnam-Russia Bank, Vinasiam Bank.
Ngân hàng 100% vốn nước ngoài là NHTM được thành lập và hoạt động tại Việt Nam theo

pháp luật Việt Nam với 100% vốn điều lệ thuộ c sở hữu nước ngồi ; trong đó phải có một ngân
hàng nước ngoài sở hữu trên 50% vốn điều lệ (Ngân hàng mẹ). Ngân hàng 100% vốn nước
ngoài được thành lập dưới hình thức cơng ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc từ hai
thành viên trở lên. Đến nay, đã có năm ngân hàng 100 vốn nước ngoài tại Việt Nam: HSBC,
Standard Chartered Bank, Hongleong Bank, Shinhan Bank và ANZ Bank. Trước đây, đa số các
ngân hàng từng là chi nhánh của ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
Trước khi Việt Nam thực hiện chính sách kinh t ế mở, trong lĩnh vực ngân hàng chỉ có ngân
hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng được sở hữu bởi nhà nước. Các loại hình ngân hàng
khác như NHLD, NHTMCP, ngân hàng 100% vốn nước ngoài là những loại hình ngân hàng
mới đã và đang phát triển cùng với sự phát triển của mơ hình kinh tế thị trường tại Việ t Nam và


sự mở cửa trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
1.2. Hoạt động huy động vốn của NHTM
Huy động vốn là một trong những nghiệp vụ quan trọng của NHTM. Để tồn tại và phát
triển trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt, các ngân hàng phải đảm bảo được nguồn vồn huy
động dồi dào, với mức chi phí hợp lý. Tổng nguồn vốn của NHTM bao gồm những yếu tố chính
như vốn tự có, vốn tiền gửi, vốn đi vay và các nguồn vốn khác.
1.2.1 Vốn tự có
Vốn tự có là vốn riêng của ngân hà ng do các chủ sở hữu đóng góp và được tạo ra trong q
trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận giữ lại.
Theo Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010 của NHNN, vốn tự có của NHTM
bao gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Vốn cấp 1 bao gồm vốn điều lệ (vốn đã được cấ p, vốn đã
góp), quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận khơng chia,
thặng dư cổ phần được tính vào vốn theo quy định của pháp luật trừ đi phần để mua cổ phiếu
quỹ (nếu có). Vốn cấp 2 bao gồm tổng các khoản: 50% số dư có t ài khoản đánh giá lại tài sản
cố định theo quy định của pháp luật, 40% số dư có tài khoản đánh giá lại tài sản tài chính theo
quy định của pháp luật, quỹ dự phịng tài chính, trái phiếu chuyển đổi do tổ chức tín dụng phát
hành, các cơng cụ nợ khác thỏa mãn một số điều kiện nhất định. Thông tư này cũng đưa ra
những giới hạn khi xác định vốn cấp 2.

Vốn tự có cung cấp nguồn lực cho ngân hàng hoạt động, nhất là trong thời gian đầu ngân
hàng mới đi vào hoạt động. Nó được sử dụng cho việc mua quyền sử dụng đất, xâ y dựng trụ sở
ngân hàng, mua máy móc thiết bị, cơng nghệ. Vốn tự có góp phần khơng nhỏ vào việc tạo nên
uy tín cho ngân hàng, củng cố niềm tin của khách hàng vào ngân hàng. Vốn tự có là nguồn vốn
có tính ổn định cao, có thể sử dụng cho những khoản cho vay, đầu tư dài hạn. Vốn tự có cịn
quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng, là cơ sở để ngân hàng tiến hàn h các hoạt động
kinh doanh, huy động các nguồn vốn khác và cho vay. Nếu hoạt động kinh doanh của ngân
hàng ln có lãi thì vốn tự có sẽ tăng trưởng theo q trình hoạt động của ngân hàng.
1.2.2 Vốn vay


Trong q trình hoạt động kinh doanh, đơi khi NHTM bị thiếu hụt tạm thời vốn hoạt động.
Khi đó, NHTM có thể vay ngắn hạn của các NHTM khác qua thị trườ ng liên ngân hàng. Đây
chính là các khoản vay và cho vay lẫn nhau giữa các ngân hàng để đáp ứng những nhu cầu ngân
quỹ khẩn cấp, bị thiếu hụt. Nguồn tiền vay này không phải dự trữ bắt buộc, không cần phải bảo
hiểm tiền gửi và ngân hàng cũng biết trước kỳ hạn trả nợ nhưng thời hạn vay ngắn và lãi suất
thường rất cao so với các nguồn huy động vốn khác.
Ngoài việc vay lẫn nhau giữa các NHTM, t ất cả các tổ chức tín dụng bao gồm các NHTM,
các cơng ty tài chính đều có thể vay của NHTƯ khi thiếu hụt dự trữ hoặc có khó khăn về thanh
khoản. Các khoản vay này được thự c hiện thơng qua hình thức chiết khấu, tái chiết khấu các
chứng từ có giá, cho vay thế chấp hay ứng trước. Lãi suất cho vay của NHTƯ bị tác động bởi
tình hình của thị trường tiền tệ, bởi chính sách tiền tệ đang được áp dụng. Khi NHTƯ thực hiện
chính sách tiền tệ thắt chặt, lãi suất chiết khấu sẽ tăng lên và ngược lại khi NHTƯ áp dụng
chính sách tiền tệ nới lỏng thì lãi suất chiết khấu sẽ giảm suống. Dù NHTƯ áp dụng lãi suất và
phí cho vay cao như thế nào đi nữa thì NHTƯ vẫn phải cho NHTM vay khi các NHTM gặ p khó
khăn về thanh tốn, để phịng ngừa những phản ứng dây truyền lên cả hệ thống ngân hàng.
Trong suốt quá trình hoạt động, NHTM nào cũng từng vay của NHTƯ, dù ít hay nhiều, dù ngắn
hay dài, dù thỉnh thoảng hay thường xuyên. Vì thế, các khoản vay của NHTƯ ln đóng vai trị
là kênh huy động vốn dự phịng của các NHTM.
Hơn nữa, các NHTM cũng có thể vay từ thị trường tài chính trong nước thơng qua việc

phát hành trái phiếu ngân hàng và chứng chỉ tiền gửi có khả năng chuyển nhượng . Trái phiếu
ngân hàng là một loại công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường chứng khốn, có thời hạn từ hai
năm trở lên. Trong khi đó, chứng chỉ tiền gửi là loại giấy tờ có giá, có thời hạn ngắn thường
khơng quá sáu tháng, có thể mua bán trên thị trường. Phát hành trái phiếu ngân hàng là hình
thức huy động vốn được các NHTM nhất là những NHTM lớn, có uy tín trên thị trường thực
hiện để huy động nguồn vốn với quy mô lớn, với thời hạn dài chủ yếu phục vụ cho các hoạt
động đầu tư, cho các khoản cho vay tài trợ dự án. Trong khi đó, phát hành chứng chỉ tiền gửi là
hình thức mà ngân hàng sử dụng để huy động vốn ngắn hạn trên thị trường tài chính.
Ngồi ra, vốn của các NHTM cịn có nguồn gốc từ vốn vay từ nước ngồi, vốn tài trợ, vốn
đầu tư phát triển, vốn ủy thác đầu tư, vốn hình thành trong quá trình hoạt động của NHTM như
tiền ký quỹ mở L/C, phát hành bảo lãnh, phát hành thẻ tín dụng…


1.2.3 Vốn tiền gửi
Vốn tiền gửi là vốn mà NHTM huy động được từ số dư các tài khoản tiền gửi mà ngân
hàng mở cho khách hàng. Vốn tiền gửi chủ yếu bao gồm tiền gửi không kỳ hạn , tiền gửi có kỳ
hạn và tiền gửi tiết kiệm.
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà khách hàng có thể gửi thêm vào và rút ra bất cứ
lúc nào. Do tính bất định về thời gian nên loại hình tiền gửi này thường khơng được trả lãi hoặc
được trả lãi với lãi suất rất thấp so với lãi suất tiền gửi có kỳ hạn. Một số NHTM cịn yêu cầu
khách hàng phải duy trì số dư tối thiểu trên tài khoản hoặc thu phí quản lý tài khoản của khách
hàng. Loại hình tiền gửi này rất thích hợp với các doanh nghiệp nhất là các d oanh nghiệp sản
suất hay thương mại. Bởi vì họ thường quan tâm đến sự an toàn của khoản tiền gửi, sự thuận
tiện và sẵn s àng trong việc sử dụng để phát hành séc, ủy nhiệm chi, lệnh chuyển tiền; họ ít quan
tâm đến khả năng sinh lời của khoản tiền gửi, tức mức lãi suất tiền gửi mà họ nhận được từ
ngân hàng. Tiền gửi không kỳ hạn được thể hiện dưới các tên gọi như tiền gửi theo yêu cầu,
tiền gửi có thể phát hành séc, tiền gửi thanh tốn.
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà ngân hàng và người gửi tiền thỏa thuận với nhau về
kỳ hạn tối thiểu của khoản tiền gửi. Các kỳ hạn phổ biến là một tháng, ba tháng, sáu tháng, chín
tháng, 12 tháng, 18 tháng, 24 tháng. Thông thường, người gửi tiền không được rút tiền ra trước

kỳ hạn đã thỏa thuận. Bởi vì việc gửi tiền là mộ t thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng rằng
ngân hàng đồng ý vay và khách hàng đồng ý cho vay một số tiền cụ thể, trong một khoảng thời
gian xác định , với lãi suất đã thỏa thuận. Nếu khách hàng rút tiền trước ngày đến hạn, khách
hàng đã phá vỡ hợp đồng, gây thiệt hại cho ngân hàng. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, một số
ngân hàng vẫn đồng ý cho khách hàng được rút tiền trước thời hạn kèm theo điều kiện. Các
điều kiện này phụ thuộc vào chính sách của từng ngân hàng như: khách hàng phải thông báo
trước khi rút tiền một số ngày nhất định, khách hàng chỉ nhận được lãi suất có kỳ hạn cho
những kỳ hạn ngắn hơn kỳ hạn đã gửi, khách hàng chỉ được trả lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
Tiền gửi có kỳ hạn ln ln có lãi suất cao hơn nhiều tiền gửi không kỳ hạn; trên lý
thuyết, kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao và ngược lại. Sở dĩ lãi suất tiền gửi có kỳ hạn cao
hơn nhiều lãi suất tiền gửi không kỳ hạn là vì tiền gửi có kỳ hạn có tính ổn định cao. Theo
thống kê, 80% các thỏa thuận gửi tiền có kỳ hạn được thực hi ện nghiêm túc. Nhờ vậy, ngân


hàng có được nguồn vốn huy động ổn định, với kỳ hạn xác định để sử dụng cho các hoạt động
cho vay và đầu tư.
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của cá nhân được gửi vào trong ngân hàng nhằm mục đích
tiết kiệm và hưởng lãi tiền g ửi. Lãi suất tiền gửi tiết kiệm thường cao hơn lãi suất tiền gửi có kỳ
hạn. Tiền gửi tiết kiệm khơng được sử dụng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Khách hàng
gửi tiết kiệm muốn cất giữ tiền an tồn trong ngân hàng, muốn dự phịng cho các nhu cầu chi
tiêu trong tương lai và cũng muốn hưởng lãi tiền gửi. Hình thức phổ biến của tiền gửi tiết kiệm
là tiền gửi tiết kiệm có sổ. Khi khách hàng đến ngân hàng gửi tiền, ngân hàng sẽ cấp cho khách
hàng một cuốn sổ. Nó được gọi là sổ tiết kiệm, được dùng để gh i nhận các giao dịch gửi vào,
rút ra và là xác nhận của ngân hàng về việc đã nhận tiền gửi của khách hàng.
Tiền gửi tiết kiệm bao gồm các loại như tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm
khơng kỳ hạn, tiết kiệm tích lũy định kỳ, tiết kiệm có mục đích. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
bao gồm những kỳ hạn phổ biến như một tháng, ba tháng, sáu tháng, chín tháng, 12 tháng, 18
tháng, 24 tháng. Tuy nhiên, hiện nay do sự cạnh tranh gay gắt trong hoạt động huy động vốn
của các NHTM, các kỳ hạn gửi tiền ngắn hơn m ột tháng như một tuần, hai tuần, ba tuần cũng
được sử dụng. Đối với loại tiền gửi này khách hàng chỉ có thể gửi vào một lần và rút ra một lần

cả vốn lẫn lãi khi đến hạn. Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là giống như tiền gửi không kỳ hạn;
điểm khác biệt là nó ln được hưởng lãi nhưng khơng được hưởng các dịch vụ thanh toán của
ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm định kỳ là loại tiền gửi tiết kiệm có thời hạn mà trong thời hạn đó,
khách hàng được gửi thêm tiền nhiều lần vào tài khoản với số tiền gửi như nhau.
Như vậy, tổng nguồn vốn của NHTM được hình thành từ vốn tự có, vốn tiền gửi của khách
hàng và vốn vay từ các nguồn khác. Trong đó, vốn huy động từ tiền gửi của khách hàng luôn
chiếm một tỷ lệ lớn và có vai trị rất quan trọng trong tổng nguồn vốn. Vì thế, trong luận văn
này, tác giả muốn giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài trong hoạt động huy động vốn từ tiền
gửi của khách hàng.
1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM
Như đã đề cập ở trên, nguồn vốn có vai trị rất quan trọng trong hoạt đ ộng kinh doanh của
các NHTM. Mặc dù các NHTM ln tìm cách để duy trì và phát triển quy mô nguồn vốn,
nguồn vốn của các ngân hàng này vẫn thường xuyên b iến động. Lý do là hoạt động huy động


vốn của các NHTM bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố mà các yếu tố n ày được chia thành hai
nhóm chính như sau:
1.3.1 Nhóm yếu tố khách quan
Yếu tố thứ nhất là tình hình chính trị -xã hội. Tình hình chính trị ổn định thúc đẩy sự phát
triển của các hoạt động kinh tế, đẩy mạnh các hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng
thu nhập quốc dân, tăng tiết kiệm và khuyến khích đầu tư. Nhờ đó, hoạt động tài chính ngân
hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng sẽ phát triển theo. Ngược lại, tình hình
chính trị bất ổn sẽ kìm hãm sự phát triển của các hoạt động kinh tế, các hoạt động đầu tư, giảm
thu nhập quốc dân, giảm tỷ lệ tiết kiệm. Vì thế, hoạt động huy động vốn của các NHTM sẽ gặp
nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, các yếu tố về văn hóa , xã hội như tầng lớp dân cư, tâm lý, thói
quen cũng tác động đến nguồn vốn huy động của các NHTM. Ở các nước phát triển như Mỹ,
các nước Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc… người dân có thói quen sử dụng tài khoản ngân
hàng, gửi tiền tại ngân hàng hơn là giữ tiền ở nhà, thanh toán qua tài khoản ngân hàng hơn là
thanh toán tiền mặt. Như vậy, hoạt động huy động vốn của các NHTM sẽ có nhiều thuận lợi .
Ngược lại, ở Việt Nam, tâm lý ngại giao dịch với ngân hàng cùng với thói quen sử dụng tiền

mặt gây trở ngại cho hoạt động huy động vốn của các ngân hàng.
Yếu tố thứ hai là sự phát triển ổn định của nền ki nh tế quốc dân. Nền kinh tế đang trong
chu kỳ phát triển hay suy thối có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các NHTM. Trong
thời kỳ kinh tế phát triển, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuận lợi, thu
nhập quốc dân tăng lên; khả năng c ung cấp vốn và nhu cầu vốn của nền kinh tế là rất lớn. C ác
ngân hàng có thể dễ dàng huy động vốn từ nền kinh tế và cũng dễ dàng để cho vay. Ngược lại,
khi nền kinh tế rơi vào thời kỳ suy thoái, khả năng cấp vốn cũng như nhu cầu vốn của nền kinh
tế giảm xuố ng, khách hàng có xu hướng rút tiền gửi từ ngân hàng, tích trữ vàng, ngoại tệ hay
các loại tài sản khác; hoạt động sản xuất kinh doanh bị đình đốn nên nhu cầu vay vốn cũng
giảm xuống. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói
riêng sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Yếu tố thứ ba là các chính sách quản lý của Nhà nước . Hoạt động của các NHTM chịu sự
giám sát chặt chẽ của các cơ quan quản lý Nhà nước, mà trực tiếp là của NHNN. Chính sách
của các cơ quan này được thực hiện thông qua việc ban hành và áp dụng các văn bản pháp luật


về hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng. Các văn bản này gồm
có luật, nghị định, thông tư, quyết định như Luật các tổ chức tín dụng, nghị định của chính phủ
về mức vốn pháp định tối thiểu của các NHTM, các thông tư, quyết định của NHNN về hoạt
động của các NHTM, hoạt động huy động vốn của các NHTM. Chẳng hạn, khi NHNN thực
hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, hoạt động huy động vốn của các NHTM sẽ gặp nhiều khó khăn
hơn khi NHNN thực h iện chính sách tiền tệ nới lỏng.
Trên đây là những yếu tố khách quan chính tác động đến hoạt động huy động vốn của các
NHTM. Sau đây, tác giả sẽ đề cập đến những yếu tố chủ quan có ảnh hưởng đến hoạt động huy
động vốn của các NHTM.
1.3.2 Nhóm yếu tố chủ quan
Yếu tố thứ nhất là lãi suất huy động. Lãi suất huy động là yếu tố đầu tiên mà khách hàng
gửi tiền quan tâm, cân nhắc trước khi gửi. Khách hàng ln mong muốn số tiền lãi ngồi việc
phải bù đắp được trượt giá còn phải sinh lời ở một tỷ lệ nhất định. Một mặt, khách hàng so sánh
lãi suất tiền gửi của ngân hàng này với các ngân hàng khác, thậm chí với cả các tổ chức tín

dụng phi ngân hàng . Mặt khác, khách hàng còn so sánh lãi suất tiền gửi với tỷ lệ sinh lời ở các
kênh đầu tư khác như đầu tư vào vàng, đầu t ư vào cổ phiếu, trái phiếu, đầu tư vào nhà, đất…
Nếu phải lựa chọn giữa hai ngân hàng có uy tín như nhau, có dịch vụ tiện ích như nhau trong
khi lãi suất khác nhau để gửi tiền thì khách hàng sẽ chọn ngân hàng trả lãi suất cao hơn. Như
vậy, duy trì lãi suất huy động cạnh tranh là yếu tố then chốt để thu hút các khoản tiền gửi mới
và duy trì các khoản tiền gửi hiện có; lãi suất huy động là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt
động huy động vốn của ngân hàng.
Yếu tố thứ hai là các sản phẩm huy động vốn. Nếu so sánh các sản phẩm ngân hàng với
các sản phẩm hàng hóa thì các sản phẩm ngân hàng rất đơn điệu, mang tính chất vơ hình, chủ
yếu dựa trên các sản phẩm truyền thống, sẵn có, dễ bị bắt chước… Tuy nhiên, khách hàng đến
ngân hàng gửi tiền cũng rất đa dạng như khách hàng là các tổ chức, khách hàng là các doanh
nghiệp, khách hàng là các cá nhân; trong nhóm khách hàng cá nhân lại bao gồm khách hàng có
thu nhập thấp, khách hàng có thu nhập trung bình, khách hàng có thu nhập cao, khách hàng
thanh niên, khách hàng trung niên, khách hàng là người cao tuổi… Mỗi loại khách hàng này lại
có những đặc điểm riêng, những u cầu và sở thích riêng. Chính vì vậy, ngân hàng phải đa


dạng hóa các sản phẩm tiền gửi nhằm thỏa mãn nhu cầu của từng nhóm khách hàng đến gửi
tiền. Có như thế, ngân hàng mới có thể tăng được quy mơ huy động vốn của mình.
Yếu tố thứ ba là hoạt động truyền thông. Hoạt động truyền thông bao gồm quảng cáo hình
ảnh của ngân hàng, giới thiệu về các hoạt động dịch vụ , về các sản phẩm huy động vốn , về chất
lượng dịch vụ của ngân hàng, giới thiệu về các chương trình khuyến mại, tặng quà… Thông
qua hoạt động truyền thông, ngân hàng, các sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng sẽ được biết
đến. Chính sách huy động, chương trình huy động vốn, tặng quà, khuyến mại… sẽ được bi ết
đến và sẽ được đem ra so sánh với sản phẩm và dịch vụ của các ngân hàng khác. Hoạt động
truyền thông giúp khách hàng biết đến ngân hàng, hiểu rõ về các sản phẩm dịch vụ của ngân
hàng, lựa chọn sử dụng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Hoạt động truyền thô ng còn giúp cho
ngân hàng hiểu rõ hơn về khách hàng, nhu cầu của khách hàng, về điểm mạnh, điểm yếu của
khách hàng. Như thế, ngân hàng có thể đa dạng hóa sản phẩm, cải thiện chất lượng dịch vụ,
điều chỉnh chính sách giá, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách h àng hiện tại và thu hút thêm các

khách hàng mới. Do đó, hoạt động truyền thơng đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng nói chung và của hoạt động huy động vốn nói riêng.
Yếu tố thứ tư là cơ sở vật chất và uy tín của ngân hàng. Cơ sở vật chất của ngân hàng bao
gồm hệ thống mạng lưới của ngân hàng, trụ sở của ngân hàng, địa điểm giao dịch của các chi
nhánh, phịng giao dịch, trình độ cơng nghệ của ngân hàng, hệ thống các điểm rút tiền tự động
(ATM)… Nếu cơ sở vật chất của ngân hàng tốt, hệ thống mạng lưới rộng khắp, tiện lợi cho giao
dịch, ngân hàng sẽ có khả năng huy động vốn tốt hơn. Bên cạnh đó, một ngân hàng có uy tín sẽ
được nhiều khách hàng lựa chọn để giao dịch hơn một ngân hàng thiếu uy tín. U y tín của ngân
hàng là một yếu tố vơ hình, nó được tích lũy dần dần cùng với quá trình hoạt động và phát triển
của ngân hàng. Uy tín của ngân hàng được khách hàng đánh giá dựa trên nhiều yếu tố như quy
mô của ngân hàng về vốn, về tài sản, về chất lượng quản lý, về chất lượng dịch vụ, về khả năng
thanh toán, về mức độ thâm niên, về quản trị rủi ro, về nguy cơ bị đổ vỡ… Như vậy, cơ sở vật
chất và uy tín của ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động huy động vốn.
Yếu tố thứ năm là chất lượng dịch vụ của đội ngũ nhân viên. Trong môi trường c ạnh tranh
gay gắt như hiện nay, các ngân hàng có thể đưa ra các loại sản phẩm tương tự nhau, các biểu
phí dịch vụ, lãi suất gần như nhau thì chất lượng dịch vụ là yếu tố rất quan trọng tạo nên sự
khác biệt giữa các ngân hàng, nâng cao tính cạnh tranh của m ỗi ngân hàng. Chất lượng dịch vụ


thể hiện ở quy trình nghiệp vụ đơn giản , tính đa dạng của các sản phẩm dịch vụ, các biểu phí
cạnh tranh, lãi suất huy động hấp dẫn, tốc độ xử lý giao dịch nhanh, thái độ phục vụ nhiệt tình,
sự chuyên nghiệp, khéo léo, linh hoạt của nhân viên giao dịch trong việc đáp ứng nhu cầu của
khách hàng. Chất lượng dịch vụ mà đội ngũ nhân viên, nhất là nhân viên giao dịch cung cấp, có
ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút khách hàng, giữ chân khách hàng, khách hàng giới thiệu
khách hàng cho ngân hàng. Như vậy, chất lượng dịch vụ , mà đội ngũ nhân viên cung ứng đóng
vai trị then chốt, sẽ tác động trực tiếp đến nguồn vốn huy động của ngân hàng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Như vậy, trong Chương I, tác giả, trước hết, đề cập đến khái niệm NHTM, các hoạt động
chủ yếu của NHTM và hệ thống NHTM tại Việt Nam. S au đó, tác giả tập trung vào việc phân
tích hoạt động huy động vốn của các NHTM. Cuối cùng, tác giả đã đưa ra và phân tích các yếu

tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của các NHTM mà chủ yếu bao gồm hai nhóm yếu
tố chính là yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan. Các yếu tố khách quan bao gồm tình hình
chính trị -xã hội, sự phát triển ổn định của nền kinh tế quốc dân và các chính sách quản lý của
Nhà nước. Các yếu tố chủ quan bao gồm lãi suất huy động, sản phẩm huy động, các hoạt động
truyền thơng, cơ sở vật chất và uy tín của ngân hàng và chất lượng dịch vụ của đội ngũ nhân
viên. Nội dung đã trình bày trong Chuơng I này sẽ được sử dụng làm cơ sở lý luận để phân tích
và đánh giá thực trạng hoạt động huy động vốn của SVB trong Chương II.


Chương II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI SVB
2.1 Giới thiệu về SVB
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của SVB
SVB là NHLD được thành lập ngày 04/01/1993 theo Giấy phép hoạt động số 10/NH-GP
của NHNN. Vào thời điểm thành lập, SVB có tên gọi là NHLD First Vina. Các bên tham gia
góp vốn của ngân hàng gồm có Ngân hàng Ngoại thuơng Việt Nam , Ngân hàng Korea First
Bank, Hàn Quốc và Công ty Daewoo Securities Company Ltd, Hàn Quốc. Vốn điều lệ của ngân
hàng là 10 triệu Đơ la Mỹ. Tỷ lệ góp vốn của các bên như sau: Vietcombank góp 50%, Ngân
hàng Korea First Bank, Hàn Quốc góp 40% và Cơng ty Daewoo Securities Company Ltd, Hàn
Quốc góp 10%. Thời gian hoạt động của ngân hàng là 20 năm và có thể được gia hạn sau khi
NHLD đề nghị và được NHNN xem xét chấp thuận.
Tháng 8 năm 2000, Ngân hàng Chohung Bank, Hàn Quốc đã mua lại số vốn góp của Ngân
hàng Korea First Bank, Hàn Quốc tại NHLD First Vina. Do đó, vào tháng 1 năm 2001, NHLD
First Vina chính thức đổi tên thành NHLD Chohung Vina. Tiếp đó, vào tháng 11 năm 2001,
Ngân hàng Chohung Bank, Hàn Quốc đã mua lại số vốn góp của Cơng ty Daewoo Securities
Company Ltd, Hàn Quốc để nâng tỷ lệ sở hữu từ 40% lên 50% trong NHLD Chohung Vina.
Năm 2006, Ngân hàng Chohung Bank, Hàn Quốc sáp nhập vào Ngân hàng Shinhan Bank, Hàn
Quốc. Theo đó, vào tháng 5 năm 2006, NHLD Chohung Vina chính thức đổi tên thành NHLD
Shinhan Vina (SVB). Theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sửa đổi lần thứ 9 ngày
28/05/2010 được cấp bởi Sở Kế hoạch và Đầu tư thà nh phố Hồ Chí Minh, vốn điều lệ của SVB

là 75 triệu Đô la Mỹ. Mức vốn điều lệ này vẫn được duy trì đến nay (tháng 9 năm 2011).
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của SVB
Cơ quan quản trị cao nhất của SVB là Hội đồng quản trị. Các thành viên trong Hội đồng
quản trị được hai phía đối tác chỉ định. Nhiệm kỳ của thành viên Hội đồng quản trị là bốn năm.
Các thành viên Hội đồng quản trị có thể được tái bổ nhiệm. Theo Điều 8.4, Điều lệ NHLD
SVB: “Hội đồng quản trị SVB có một chủ tịch, hai phó chủ tịch và ba thành viên. Chủ tịch và
các phó chủ tịch Hội đồng quản trị do các bên nhất trí bầu ra trên nguyên tắc: Vietcombank sẽ


×