Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Hiệu quả giảm đau sau mổ nội soi cắt túi mật bằng Bupivacain tê tại chỗ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.13 KB, 18 trang )

HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU SAU MỔ NỘI SOI CẮT TÚI MẬT BẰNG
BUPIVACAIN TÊ TẠI CHỖ

TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau và tính an toàn của Bupivacain bơm trong
khoang phúc mạc phối hợp gây tê tại vết mổ đặt trocar sau phẫu thuật cắt túi mật nội
soi.
Phương pháp nghiên cứu: Nhóm nghiên cứu (B, n=55) bơm 15ml Bupivacain
0,25% có pha Adrenaline 1/200.000 vào giường túi mật và 15ml gây tê tại các vết mổ
đặt trocar; nhóm chứng (C, n=55) không dùng gì. Đánh giá thời gian từ khi bệnh nhân
tỉnh tới khi dùng thuốc giảm đau của cả hai nhóm, lượng thuốc Perfalgan, Morphin,
điểm đau theo thang điểm tượng hình khi bệnh nhân nghỉ ngơi, hít sâu,vận động trong
24 giờ đầu sau mổ và tai biến sau bơm, chích thuốc tê.
Kết quả nghiên cứu: Thời gian từ khi tỉnh tới khi cần thêm thuốc giảm đau ở nhóm
can thiệp dài hơn hẳn nhóm chứng và phù hợp với dược lý của Bupivacain, điểm đau
tại vết mổ giảm trong 8 giờ đầu sau mổ khi bệnh nhân nghỉ ngơi, giảm 4 giờ đầu khi
bệnh nhân hít sâu hay vận động. Kết quả giảm đau tạng không rõ ràng nhưng giảm
đau vai có ý nghĩa từ giờ thứ 7. Lượng Perfalgan và Morphin sử dụng của nhóm can
thiệp thấp hơn hẳn nhóm chứng và không ghi nhận tai biến sau bơm hay chích thuốc
tê.
Kết luận: Bơm Bupivacain vào khoang phúc mạc phối hợp gây tê vết mổ có tác dụng
giảm đau sau mổ và an toàn cho người bệnh.
ABSTRACT
EFFECT OF LOCAL ANESTHESIA BUPIVACAIN IN REDUCTION
POSTOPERATIVE PAIN AFTER LAPAROSCOPIC CHOLECYSTECTOMY
Nguyen Van Chung, Nguyen Thi Hong Van
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 - Supplement of No 1 - 2009: 430 - 434
Aim of the study: the aim of this study was evaluated the effect and safety of
intraperitoneal and port site instillation of Bupivacain on pain relief following
laparoscopic cholecystectomy.
Methods: 110 patients were divided into 2 groups. Group Bupivacain (B, n=55), after


the gall bladder was severed, 15ml Bupivacain 0.25% with Adrenaline 1/200.000 was
instilled over the gall bladder bed in the high, left head position, another 15ml was
infiltrated into the port sites. Placebo group (C, n=55) did not anything. All the
patients were evaluated the time from recovery to needing drugs (postoperative non –
painful time); Dose of Perfalgan; Dose of Morphine; Wong – baker FACES pain
rating scale when they relax, breathe deeply or move during postsurgical the first 24
hour and complications of using Bupivacain.
Results: postoperative non – painful time was longer in B vs C. Parietal pain was
decreased significantly during the first 8 hour when the patient relax and during the
first 4 hour when the patient breathe deeply or move. Visceral pain was not decreased
clearly but shoulder – tip pain decreased at T7, T8, T24. Morphin and Perfalgan used
were lower in B vs C and there are not any complication of Bupivacain.
Conclusions: local anesthesia Bupivacain have effects in reduction postoperative pain
after laparoscopic cholecystectomy and safety for the patients.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật nội soi cắt túi mật là một trong các phẫu thuật ít xâm hại. So với mổ mở
phương pháp này có nhiều ưu thế hơn như: giảm thời gian và chi phí nằm viện, tỷ lệ
tử vong thấp, thời gian hồi phục sức khỏe nhanh, giảm biến chứng, tính thẩm mỹ cao
và ít đau hơn mổ mở. Tuy nhiên để trở thành phẫu thuật về trong ngày thì đau chính
là một trong các nguyên nhân cản trở điều này. Người ta đã dùng nhiều loại thuốc tê
như Lidocain, Bupivacain, Ropivacain…bơm lên giường túi mật, trên bề mặt gan,
khoảng dưới cơ hoành, vào vết mổ…để giảm đau. Có những nghiên cứu thu được kết
quả tốt. Tại Việt Nam, phẫu thuật cắt túi mật nội soi thực hiện khá sớm, từ năm 1992,
hiện đã xuất hiện hầu hết các bệnh viện trong cả nước. Nhưng vấn đề giảm đau sau
phẫu thuật này chưa được nhiều người quan tâm thực hiện. Chính vì vậy chúng tôi
thực hiện đề tài này với mục tiêu:
- Đánh giá tác dụng giảm đau của Bupivacain bơm trong khoang phúc mạc phối hợp
gây tê tại vết mổ.
- Tai biến sau bơm, chích thuốc tê.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Tuổi từ 18 trở lên, thuộc cả hai giới, tâm thần kinh bình thường, có khả năng giao tiếp
và đồng ý tham gia nghiên cứu.
Có chỉ định mổ nội soi cắt túi mật.
Không chống chỉ định với Bupivacain.
Không mổ nhiều nơi cùng một lúc.
Phân loại ASA I, II.
Tiêu chuẩn loại trừ
Tiền sử dị ứng với thuốc tê.
Bệnh nhân từ chối tham gia.
Bệnh nhân được đặt dẫn lưu trong ổ bụng sau mổ.
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng, ngẫu nhiên, mù đơn có đối chứng. Nghiên cứu tiến hành tại
khoa phẫu thuật – cơ sở I bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM từ 8/2007 đến 2/2008.
Các bệnh nhân được rút thăm ngẫu nhiên chia thành 2 nhóm:
Nhóm can thiệp (B): gồm 55 bệnh nhân được bơm 15ml Bupivacain 0,25% có pha
1/200.000 Adrenalin vào giường túi mật trong tư thế đầu cao nghiêng trái và 15 ml
gây tê tại vết mổ đặt trocar.
Nhóm chứng (C): gồm 55 bệnh nhân không sử dụng gì chỉ dùng thuốc giảm đau
thông thường (Morphin, Perfalgan).
Tiến hành nghiên cứu
Chuẩn bị bệnh nhân
Tất cả bệnh nhân có chỉ định mổ nội soi cắt túi mật đều được khám tiền mê thường
qui vào ngày trước mổ để kiểm tra các xét nghiệm cơ bản, phát hiện bệnh lý kèm
theo, tiền sử dị ứng thuốc đặc biệt thuốc gây tê, thuốc kháng sinh, phân loại ASA,
đánh giá độ Mallampati và các yếu tố tiên lượng đặt khí quản khó. Giải thích cho
bệnh nhân và người nhà về phương pháp vô cảm sẽ tiến hành.
Phương thức tiến hành
Tất cả bệnh nhân được gây mê nội khí quản. Đêm trước mổ bệnh nhân được uống

thuốc an thần Lexomil 3mg hoặc Seduxen 5mg, có thể kèm theo thuốc ức chế proton
H+ nếu bệnh nhân có tiền căn đau dạ dày.
Vào phòng mổ: bệnh nhân được tiền mê Midazolam 0,02 – 0,05 mg/kg, Fentanyl 1–
2 mcg/kg, thở oxy qua mặt nạ mặt 3l/phút trước khi tiến hành khởi mê.
Khởi mê với thuốc mê tĩnh mạch Propofol 2 mg/kg, Rocuronium (Esmeron) 0,6
mg/kg; Duy trì mê bằng Isoflurane; Trước khi rạch da thêm Fentanyl 1 – 2 mcg/kg,
có thể thêm giảm đau, giãn cơ trong mổ nếu cần.
Sau khi cắt rời túi mật ra khỏi giường túi mật, cầm máu, lau sạch ổ bụng, dùng ống
hút đặt vào giường túi mật và bơm phủ toàn bộ giường túi mật trong tư thế đầu cao
nghiêng trái. Lấy túi mật ra khỏi ổ bụng qua trocar đặt rốn. Nếu sỏi to phải rạch rộng
vết mổ lôi túi mật ra. Lau sạch vết mổ, gây tê tiêm thấm. đóng da từng lớp và kết thúc
phẫu thuật.
Phẫu thuật cắt túi mật: đặt 3 trocar 10mm – 5mm – 5mm, đường rạch da từ 1 – 1,5
cm, vị trí ở rốn, mũi ức và dưới bờ sườn phải trên đường nách trước. Bơm hơi vào ổ
bụng qua trocar đặt ở rốn tốc độ bơm 4 – 6l/phút, thể tích bơm 4 – 6l, áp lực 10 –
12mmHg.
Giảm đau trong 24 giờ đầu sau mổ: định kỳ kiểm tra đánh giá điểm đau tại các thời
điểm đã định hoặc khi bệnh nhân đau gọi điều dưỡng, đánh giá mạch, huyết áp SPO2,
nhịp thở, điểm đau theo thang điểm tượng hình nếu từ 6 điểm trở lên ở các vị trí tại
vết mổ, tạng, vai trong các trạng thái nghỉ ngơi, hít sâu, vận động thì cho thuốc theo y
lệnh bác sỹ: Perfalgan 1 gram truyền tĩnh mạch, sau 30 phút đánh giá lại điểm đau
vẫn ≥ 6 tiếp tục cho Morphin 0,05 – 0,1mg/kg sau 15 phút đánh giá lại, lặp lại liều
Morphin tới khi điểm đau dưới 6 điểm.
Thu thập số liệu: đặc điểm chung: tuổi, giới, BMI, ASA, thời gian gây mê, thời gian
phẫu thuật, lượng thuốc dùng trong gây mê.
Đánh giá đau: thời gian từ khi tỉnh tới khi cần thêm thuốc giảm đau, điểm đau theo
thang điểm tượng hình ở các thời điểm: 30 phút sau mổ (T0,5), 1 giờ (T1), 2 (T2), 3
(T3), 4 (T4), 5 (T5), 6 (T6), 7 (T7), 8 (T8), 24 (T24) và ở các trạng thái khác nhau:
nghỉ ngơi, hít sâu, vận động. Lượng Morphin và Perfalgan tiêu thụ sau mổ. Ghi nhận
những thay đổi mạch, ECG, huyết áp, EtCO2, SP02, áp lực máy thở và các phản ứng

trên da, tại vết mổ và trên toàn thân nhằm phát hiện tai biến sau khi bơm, chích thuốc
tê.
Xử lý số liệu: theo phần mềm SPSS 13.0, test χ
2
, student để so sánh, p<0,05 được coi
là khác biệt có ý nghĩa thống kê.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:

×