Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.62 KB, 44 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Phân tích bức tranh phố huyện nghèo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ – Thạch Lam</b>
Hai đứa trẻ tuy chưa phải là truyện ngắn hay nhất nhưng lại khá tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch
Lam: bình dị, nhẹ nhàng mà tinh tế, thâm thúy.
Truyện dường như chẳng có gì: hầu như khơng có cốt truyện, chẳng có xung đột gay cấn, chắng có gì đặc biệt cả.
Hai đứa trẻ chỉ là một mảng đời thường bình lặng của một phố huyện nghèo từ lúc chiều xuống cho tới đêm khuya,
với hương vị màu sắc, âm thanh quen thuộc: tiếng trống thu khơng cất trên một chiếc chịi nhỏ, một ráng chiều ở
phía chân trời, một mùi vị âm ẩm của đất, tiếng chó sủa, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve… những âm thanh của
mấy người bé nhỏ, thưa thớt, một quán nước chè tươi, một gánh hàng phở, một cảnh vãn chợ chiều với vỏ nhãn, vỏ
thị, rác rưởi và những đứa trẻ con nhà nghèo đang cúi lom khom tìm tịi, nhặt nhạnh, một đồn tàu đêm lướt qua…
và nỗi buồn mơ hồ với những khao khát đến tội nghiệp của Hai đứa trẻ.
Chuyện hầu như chỉ có thế.Nhưng những hình ảnh tầm thường ấy, qua tấm lòng nhân hậu, qua ngòi bút tinh tế,
giàu chất thơ của Thạch Lam lại như có linh hồn, lung linh mn màu sắc, có khả năng làm xao động đến chỗ thầm
kín và nhạy cảm nhất của thế giới xúc cảm, có khả năng đánh thức và khơi gợi biết bao tình cảm xót thương, day
dứt, dịu dàng, nhân ái.
Đó là truyện của Hai đứa trẻ nhưng cũng là truyện của cả một phố huyện nghèo với những con người bé nhỏ thưa
thớt, tội nghiệp đang âm thầm đi vào đêm tối.
Ít có tác phẩm nào hình ảnh đêm tối lại được miêu tả đậm đặc, trở đi trở lại… như một ám ảnh không dứt như trong
truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam: tác phẩm mở đầu bằng những dấu hiệu của một “ngày tàn” và kết thúc bằng
một “đêm tịch mịch đầy bóng tối”, ở trong đó, màu đen, bóng tối bao trùm và ngự trị tất cả: đường phố và các ngõ
con dần dần chứa đầy bóng tối, tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào
làng lại sẫm đen hơn nữa. Một tiếng trống cầm canh ở huyện đánh tung lên một tiếng ngắn, khô khan, không vang
động ra xa, rồi cũng chìm ngay vào bóng tối…
Cả đồn tàu từ Hà Nội mang ánh sáng lướt qua trong phút chốc rồi cũng “đi vào đêm tối”… Trong cái phông của
một khung cảnh bóng tối dày đặc này, là những mảnh đời của những con người sống trong tăm tối. Họ là những
con người bình thường, chỉ xuất hiện thống qua, hầu như chỉ như một cái bóng, từ hình ảnh mẹ con chị Tí với
… Tất cả họ khơng được Thạch Lam miêu tả chi tiết: nguồn gốc, xuất thân, số phận… nhưng có lẽ nhờ thế mà số
phận họ hiện lên càng thêm bé nhỏ, tội nghiệp, ai cũng sống một cách âm thầm, nhẫn nhục, lam lũ. Văn Thạch Lam
là như thế: nhẹ về tả, thiên về gợi và biểu hiện đời sống bên trong: sống trong lặng lẽ, tăm tối nhưng giữa họ khơng
thể thiếu vắng tình người. Qua những lời trao đổi và những cử chỉ thân mật giữa họ ta nhận ra được mối quan tâm,
gắn bó. Và tất cả họ dường như đều hiền lành, nhân hậu qua ngọn bút nhân hậu của Thạch Lam.
Nhưng giữa bấy nhiêu con người, nhà văn chỉ đi sâu vào thế giới tâm hồn của hai đứa trẻ: Liên và An. Chúng chưa
phải là loại cùng đinh nhất của xã hội nhưng là tiêu biểu cho những con nhà lành, đang rơi vào cảnh nghèo đói, bế
tắc vì sa sút, thất nghiệp.
Khơng phải ngẫu nhiên tác giả lấy Hai đứa trẻ để đặt tên cho truyện ngắn của mình. Hình ảnh tăm tối của phố
huyện và những con người tăm tối không kém, sống ở đây hiện lên qua cái nhìn và tâm trạng của chị em Liên, đặc
biệt là của Liên. Mở đầu tác phẩm ta bắt gặp hình ảnh Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen “đôi mắt chị
bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm vào tâm hồn ngây thơ của chị” và “chị thấy buồn man
mác trước cái giờ khắc của “ngày tàn””. Thạch Lam không miêu tả tỉ mỉ đời sống vật chất của họ, nhà văn chủ yếu
đi sâu thể hiện thế giới tinh thần của Liên với nỗi buồn man mác, mơ hồ của một cô bé khơng cịn hồn tồn trẻ
con, nhưng cũng chưa phải là người lớn. Tác giả gọi “chị” là vì quả Liên là một người chỉ biết quan tâm săn sóc em
bằng tình cảm trìu mến, dịu dàng, biết đảm đang tảo tần thay mẹ nhưng tâm hồn Liên thì vẫn còn là tâm hồn trẻ dại
với những khao khát hồn nhiên, thơ ngây, bình dị.
Ở đây, nhà văn đã nhập vào vai của “hai đứa trẻ”, thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ và diễn tả cái thế giới tâm hồn
trong sáng của chị em Liên: hình ảnh bóng tối và bức tranh phố huyện mà ta đã nói trên kia được cảm nhận chủ yếu
từ nỗi niềm khao khát của hai đứa trẻ. Tâm hồn trẻ vốn ưa quan sát, sợ bóng tối và khát khao ánh sáng. Bức tranh
phố huyện hiện ra chính là qua tâm trạng này: “Hai chị em gượng nhẹ (trên chiếc chõng sắp gãy) ngồi n nhìn ra
phố…” Liên trơng thấy “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tịi” nhưng
“chính chị cũng khơng có tiền để mà cho chúng nó…”. Trời nhá nhem tối, bây giờ chị em Liên mới thấy thằng cu
bé xách điếu đóm và khiêng cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra… Hai chị em Liên đứng sững nhìn theo bà cụ Thi
khơng hồn tồn cam chịu, nhà văn đã đi sâu vào cái nỗi thèm khát ánh sánh trong chỗ sâu nhất của những tâm hồn
trẻ dại. Ông dõi theo Liên và An ngước mắt lên nhìn vịm trời vạn ngơi sao lấp lánh để tìm sơng Ngân hà và con vịt
theo sau ơng thần nông như trẻ thơ vẫn khao khát những điều kì diệu trong truyện cổ tích, nhưng vũ trụ thăm thẳm
bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật, lại quá xa lạ làm mỏi trí nghĩ, nên chỉ một lát, hai em lại cúi nhìn
về mặt đất, và quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn lay động của chị Tí… Nhà văn chăm chú theo dõi từ cử
chỉ, ánh mắt của chúng và ghi nhận lại thế thôi. Nhưng chỉ cần thế, cũng đủ làm nao lịng người đọc.
Sống mãi trong bóng tối, “quen lắm” với bóng tối, nhưng càng như hế, chúng càng khát khao hướng về ánh sáng,
chúng theo dõi, tìm kiếm, chỉ mong ánh sáng đến từ mọi phía: từ “ngàn sao lấp lánh trên trời”, đếm từng hột sáng
lọt qua phên nứa, chúng mơ tưởng tới ánh sáng của quá khứ, của những kỉ niệm về “Hà Nội xa xăm”, “Hà Nội sáng
rực, vui vẻ và huyên náo” đã lùi xa tít tắp; chúng mải mê đón chờ đồn tàu từ Hà Nội về với “các toa đèn sáng
trưng”; chúng cịn nhìn theo cả cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng xa xa mãi…
Đó là thế giới của ao ước, dù chỉ là một ao ước nhỏ nhoi, dù chỉ như là một ảo ảnh.
Khơng thấm đượm một tấm lịng nhân ái sâu xa, khơng hiểu lịng con trẻ, khơng có một tâm hồn nhạy cảm giàu
chất thơ thì không thể diễn tả tinh tế đến thế nỗi thèm khát ánh sáng của những con người sống trong bóng tối.
Đọc Hai đứa trẻ, ta có cảm giác như nhà văn chẳng hư cấu sáng tạo gì. Mọi chi tiết giản dị như đời sống thực. Cuộc
sống cứ hiện lên trang viết như nó vốn như vậy. Nhưng sức mạnh của ngòi bút Thạch Lam là ở đấy. Từ những
chuyện đời thường vốn phẳng lặng, tẻ nhạt và đơn điệu, nhà văn đã phát hiện ra một đời sống đang vận động, có bề
sâu, trong đó ánh sáng tồn tại bên cạnh bóng tối, cái đẹp đẽ nằm ngay trong cái bình thường, cái khao khát ước mơ
trong cái nhẫn nhục cam chịu, cái xôn xao biến động trong cái bình lặng hàng ngày, cái tăm tối trước mắt và những
kỷ niệm sáng tươi…
Nét độc đáo trong bút pháp Thạch Lam là ở chỗ: nhà văn đã sử dụng nghệ thuật tương phản một cách hầu như tự
nhiên, không chút tô vẽ, cường điệu, và nhờ thế, bức tranh phố huyện trở nên phong phú, chân thật, gợi cảm.
<b>Phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối được Thạch Lam miêu tả trong truyện ngắn</b>
<b>Hai đứa trẻ và phát biểu cảm nhận của mình</b>
<b>Thạch Lam đã miêu tả cả phố huyện nghèo bằng những cảnh, những người, những chi tiết rất chân thật và </b>
<b>cảm động.Nhà văn Nguyễn Tuân đã viết: “Thạch Lam là một nhà văn yêu mến cuộc sống, trang trọng trước sự </b>
sống của mọi người chung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những
tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học”. Nguyễn Tuân là nhà văn cùng thế hệ với Thạch Lam, cùng có chân
trong Tự lực văn đồn, Nguyễn Tn đã khẳng định mình thẩm mĩ độc đáo và tình cảm nhân đạo đằm thắm trong
những trang văn Thạch Lam.
Truyện của Thạch Lam không có chuyện, mỗi tác phẩm như một bài thơ văn xi, thấm đẫm chất trữ tình, man
mác xót thương. Đó là loại truyện tâm tình nồng nàn ý vị. “Dưới bóng hồng lan'’, “Nhà mẹ Lê”, “Cơ hàng xén",
“Hai đứa trẻ” ... là những truyện ngắn rất hay của Thạch Lam.
Truyện “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn”, nhà xuất bản "Đời tay”, Hà Nội, 1938. Truyện ngắn này tiêu
biểu cho phong cách nghệ thuật Thạch Lam, khai thác những mẫu đời thường mà nơi sâu kín tâm hồn của mảnh
đời nào cũng chứa đầy bao nỗi xót xa, thương cảm.
Bối cảnh câu chuyện là một phố huyện nghèo nàn, xơ xác, có đường tàu đi qua, một ga xép, một cái chợ nhỏ bé
nằm giữa thơn xóm và cánh đồng. Thời gian là một buổi chiều muộn và cảnh đầu hôm cho đến lúc chuyến tàu chạy
qua. Có hai đứa trẻ ngồi trong một ngơi hàng xén nhỏ nhoi ngắm nhìn cảnh vật và cố thức đợi chuyến tàu đêm chạy
qua.
Chuyện mở ra một thời điểm là phố huyện lúc chiều xuống. Tiếng là phố huyện nhưng chỉ là một thị trấn nhỏ bé,
một tiếng ồn ào, vỏ thị, vỏ bưởi, lá nhãn, bã mía và rác rưởi còn lại trên đất. Vài người bán hàng về muộn đang thu
xếp hàng hóa. Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ lom khom đi lại tìm tịi “nhặt thanh nứa, thanh tre hay bất cứ
cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Chúng đi lại chập chờn như những linh hồn bơ vơ. Thấy
chúng nó, Liên động lịng thương nhưng chị cũng khơng có tiền mà cho chúng nó. Cái nghèo là cảnh đời chung cua
mọi người, mọi nhà, và cái mùi ẩm ẩm bốc lên, mùi cát bụi lẫn hơi nóng mà Liên tưởng là “mùi riêng của đất, của
q hương”. Đó chính là mùi vị của cái “Ao đời”, của lầm than và nghèo khó.
Bóng tơi như phủ đầy thiên truyện, phủ mờ cảnh vật và đè nặng lên cuộc đời của những con người “bé nhỏ" nơi
phố huyện nghèo xác xơ. Cửa hàng bé xíu phên nứa dán giấy nhật trình, chiếc chõng tre nơi chị em Liên ngập đầy
bóng tối. Càng về đêm “đường phố và các ngõ con dán dần chứa đầy bóng tối". Con đường thăm thẳm ra sơng, con
đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa. Tiếng trống cầm canh, tiếng ếch nhái kêu ran từ đồng
xa vọng đến tiếng động khẽ của hoa bằng rụng xuống vai Liên, tiếng đòn gánh kĩu kịt của người bán quà rong,
tiếng cười “giòn giã” của bà cụ Thi... tất cả mọi âm thanh ấy “chìm ngay vào bóng tối". Phố huyện càng về đêm
càng tịch mịch và đầy bóng tối.
Trong cảnh xác xơ, tiêu điều và ngập đầy bóng tối hiện lên những mảnh đời lầm lũi, đáng thương. Cuộc đời mẹ con
chị Tí như gắn liền với màn đêm bóng tối. “Thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng cái ghế trên lưng và trong ngõ đi
ra”. Mẹ của nó, chị Tí đi theo sau "đội cái chõng trẽn đầu và tay mang khơng biết bao nhiêu là đồ đạc...”. Ngày thì
mị cua bắt tép, chiều nào cũng dọn hàng “từ chập tối cho đến đêm” mà “chả kiếm được bao nhiêu!”. Hình ảnh hai
mẹ con chị Tí đã làm ta nhớ đến cuộc đời hai mẹ con cái Hiên trong truyện “Gió lạnh đầu mùa” : mẹ thì mị cua bắt
ốc, con thì áo rách phong phanh, đứng co ro trước làn gió lạnh... Thạch Lam đã dành cho những bà mẹ nghèo,
Hình ảnh bà cụ Thi hơi điên “tiếng cười khanh khách”, tay cầm cút rượu soi lên rồi cười giòn giã, “vừa đi vừa ngửa
cổ ra đằng sau”, dốc cút rượu uống một hơi cạn sạch, chép miệng “lảo đảo” trong bóng tối... cũng gợi cho ta nhiều
thương xót về một cuộc đời xế bóng nơi phố huyện nghèo.
Cảnh gia đình bác xẩm mới thê lương. Tiếng đàn bầu bần bật, ngồi trên manh chiếu, trước mắt là cái chậu thau sắt
trắng, thàng con ngồi trên đất “nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường”. Và bác bán phở rong trong
đêm, một thứ quà xa xỉ mà chị em Liên không bao giờ mua được. Địn gánh bác kêu “kĩu kịt”, bóng bác “mênh
mang ngã xuống được một vùng...". Tất cả góp phần vào cảnh đời đầy bóng tối nơi phố huyện nghèo nàn xơ xác,
những kiếp sống lầm than, tàn tạ và cơ cực.
Có thể nói, hai chị em Liên là hình ảnh trung tâm của bức tranh đời sống của phố huyện nghèo. Cảnh nhà sa sút, bố
Liên mất việc, cả nhà bỏ Hà Nội về quẽ, mẹ làm hàng xáo. Hai chị em được mẹ cho trông coi một cửa hàng tạp hóa
nhỏ xíu, vách dán giấy nhật trình, bán lèo tèo vài bao diêm, dăm miếng xà phịng, một ít rượu. Liên là một cơ gái
mới lớn, biết làm dáng, cô hãnh diện với cái dây xà tích bạc ở thắt lưng. Từ ngày xa Hà Nội “một vùng sáng rực và
lấp lánh, Hà Nội nhiều đèn quá”. Liên quen dần với bóng tối nơi phố huyện nghèo. Ngọn đèn của Liên... “từng hột
sáng lọt qua phên nứa”, đèn hoa kì leo lét trong căn nhà ông Cửu, quầng sáng ngọn đèn “lay động trên chõng hàng
chị Tí” chấm lụa nhỏ và vàng “lơ lửng” nơi gánh phở bác Siêu... từ đêm này qua đêm khác. Liên vẫn ngồi trên
chõng ngắm nhìn. Càng về khuya, “tâm hồn Liên yên tĩnh ăn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”.
Đêm nào cũng vậy, An và Liên đã buồn ngủ ríu cả mắt, nhưng vẫn cố thức đợi chuyến tàu đêm chạy qua. Liên đón
nhìn con tàu từ xa “ngọn lửa xanh biếc, nát mặt đất như ma trơi”, tiếng còi tàu vang lại kéo dài ra theo gió xa xơi
đồn tàu đến gần, vụt qua “các toa đèn sáng trưng", rồi nó “đi vào đêm tối. để lại những đốm than đỏ bay tung trên
đường sắt”. Tàu đã chạy xa mà hai chị em Liên cịn nhìn theo “cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau
cùng..."
Với nhiều man mác bâng khuâng. Chuyến tàu đêm như một niềm an ui, mội nỗi khao khát mơ hồ, một ước mơ
không bao giờ tắt, một chút tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày. Chuyến tàu đêm “như đã đem một chút
thế giới khác đi qua”. Chờ tàu đến, nuối tiếc con tàu chạy qua. Rầm rộ lên chốc lát. lừng sáng lên khoảnh khắc, đế
Bức tranh đời sống phố huyện nghèo sau khi con tàu chạy vụt qua, đêm khuya dần càng trở nên yên tĩnh mênh
mơng. Chỉ có đêm khuya, “tiếng trống ấm canh và tiếng chó cắn”. Chị Tí sửa soạn đồ đạc, bác xẩm đã ngủ gục trên
mành chiếu. Liên chìm dần vào giấc ngủ yên tĩnh “tịch mịch và đầy bóng tối” như đêm yên tĩnh trong phố hụyện
nghèo.
đồn tàu và cái tiếng cịi tàu đã thành một thói quen của cảm xúc và của ước vọng. Đọc “Hai đứa trẻ”, thấy bận bịu
vô hạn về một tấm lòng quê hương êm ái và sâu kín.
Phân tích tâm trạng chị em Liên đêm cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua phố huyện
Hai đứa trẻ là một trong những truyện ngắn thường được nhắc tới nhiều nhất của Thạch Lam. Hình ảnh chuyến tàu
đêm chạy qua một phố huyện nghèo thời trước đã được Thạch Lam miêu tả
Trước hết, bối cảnh cho chuyến tàu đêm xuất hiện là cuộc sống buồn tẻ, đơn điệu, đáng thương nơi phố huyện.
Thạch Lam đã chọn được thời điểm để làm nổi bật những tính chất ấy. Truyện bắt đầu từ tiếng trống thu không dội
xuống phố huyện, từng tiếng, từng tiếng mỏi mòn, giữa lúc trên bầu trời, ánh ngày đang dần nhường chỗ cho bóng
hồng hơn, phương tây đỏ rực lên như lửa báo hiệu một ngày đang tắt. Đêm tối sẽ đem tới cho phố huyện những
gì? Chỉ có bóng tối, sự im lặng, mà tiếng ếch nhái ngồi đồng, tiếng muỗi kêu trong nhà, lại khiến cho nó càng trở
nên vắng lặng, hoang vu, buồn bã hơn. Thế ra, giữa thế kỷ hai mươi, thế kỷ của những đơ thị đầy ấp ánh sáng, vẫn
có những miền đất, nhiều miền đất, sống trong sự tăm tối của cuộc sống hàng trăm, hàng ngàn năm về trước như
vậy đấy.
Phiên chợ chiều đã vãn, những ồn ào tấp nập của buổi chợ đã tan đi, để lại phố huyện với thực chất của nó: cái
nghèo nàn, cái tiêu điều xơ xác. Những đứa trẻ con lom khom tìm kiếm trên cái nền chợ xơ xác ấy, giữa những rác
rưởi mà phiên chợ bỏ lại, mong tìm được chút gì đỡ cho cuộc sống. Thật là một chi tiết đầy ý nghĩa và rất gợi cảm
về cái nghèo.
Rồi đêm xuống. Cuộc sống có xơn xao động đậy được chút nào chăng? Quả cũng có xơn xao một chút đấy, nhưng
khơng vì thế mà vẻ nghèo, vẻ buồn của cuộc sống lại bớt đi. Bắt đầu là ngơi hàng nước của con chị Tí, với chiếc
võng con, vài ba cái bát, một điếu hút thuốc lào… bày ra rồi lại thu vào vì vắng khách. Tiếp đến là gánh phở có
ngọn lửa bập bùng của bác Siêu, cũng vắng khách vì đó là thứ quá xa xỉ (phở mà trở thành xa xí phẩm, thật là một
nhận xét hóm hỉnh và đầy xót xa của Thạch Lam!).
Chính giữa cảnh tiêu điều như vậy của phố huyện, Thạch Lam đã miêu tả tâm trạng khắc khoải chờ đợi chuyến tàu
của hai chị em cơ bé Liên. Đó là hai đứa trẻ đã từng có những ngày sống ở một nơi khơng đến nỗi nghèo khổ và tối
tăm như thế. Với chúng, nhất là với bé Liên, nơi ấy Hà Nội luôn đọng lại như một kỷ niệm xa xôi và mơ hồ nhưng
bao giờ cũng êm đềm, đẹp đẽ và rực rỡ ánh sáng. Còn giờ đây, nơi phố huyện, cuộc sống của chúng thiếu hẳn ánh
sáng và niềm vui. Ngày nào cũng giống hệt ngày nào, chúng chờ bán cho người ta nhưng món hàng nhỏ nhoi
khơng hề thay đổi: một bao diêm, một cuộn chỉ, mấy bánh xà phịng… Chiều chiều, trong bóng chập choạng của
hồng hơn và trong tiếng muỗi vo ve, hai chị em cặm cụi kiểm đếm số tiền bé nhỏ bán được trong ngày. Chi tiết về
chiếc chõng tre cũ, sắp gãy được Thạch Lam đưa vào đây thật là đầy ý nghĩa: cuộc sống của hai đứa trẻ mới lớn lên
sao mà đã sớm già nua tàn tạ! Cả chi tiết bà lão hơi điên đến mua rượu uống, cũng gợi lên bao nỗi buồn. Cái thế
giới mà các em Liên và An tiếp cận ngày này qua ngày khác chỉ có thế. Đây là niềm vui, biết lấy gì mà hy vọng?
May mắn thay, hai đứa trẻ đã tìm được chút niềm vui để mong đợi. Mỗi đêm chuyến tàu từ Hà Nội sẽ đi qua phố
huyện trong mấy phút. Mỗi đêm, hai đứa trẻ lại chờ đợi chuyến tàu. Hẳn các em đã chờ đợi nó qua suốt một ngày
buồn tẻ của mình. Nhưng nỗi đợi chờ bắt đầu khắc khoải từ khi bóng chiều đổ xuống. Rồi trong đêm tối, những
ngọn đèn thắp lên ở đằng kia, bóng hai mẹ con chị Tí trên đường, ngọn lửa bập bùng của gánh phở bác Siêu, tiếng
hát của vợ chồng bác xẩm mù… Với các em, đó là những cái mốc điểm bước đi của thời gian đang cho các em xích
gần lại với chuyến tàu. Mỗi đêm, chỉ có một chuyến tàu đi qua phố huyện. Các em không thể bỏ lỡ nó. Bởi thế, đã
buồn ngủríu cả mắt, An và Liên vẫn cố chống lại cơn buồn ngủ. Cho đến khi, vì chờ đợi q lâu trong cái khơng
khí buồn tẻ của phố huyện, bé An không thể thức được nữa. Em gối đầu lên tay chị, mi mắt sắp sửa rơi xuống, còn
dặn với: – Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé! Thật là một cảnh chờ đợi thiết tha như mọi sự chờ đợi thiết tha ở trên
đời!.
Trên phố huyện ấy, giữa tâm trạng chờ đợi ấy của hai đứa trẻ, chuyến tàu đêm được Thạch Lam miêu tả tỉ mỉ và
trang trọng làm sao! Chuyến tàu được báo trước từ xa, với hình ảnh hai ba người cầm đèn lồng lung lay các bóng
sao, sự chờ đợi của các em cũng cho chúng ta một bài học: trong cuộc đời, phải biết vượt lên cái tẻ nhạt, cái vô vị
hàng ngày để mà hi vọng, vì cịn có hi vọng, dẫu cho hi vọng rất nhỏ bé, thì mới có thể cịn gọi là sống.
HAI ĐỨA TRẺ khơng thuộc loại truyện hấp dẫn người đọc vì sự ly kỳ hay gay cấn của cốt truyện. Sức mạnh và
sức sống của nó nằm trong vấn đề mà nó đặt ra và cả trong thái độ của Thạch Lam đối với cuộc sống: một thái độ
ấp iu đầy lòng nhân ái. Chính thái độ ấy cũng ảnh hưởng đến cách viết của Thạch Lam: tỉ mỉ và trân trọng. Truyện
tuy hơi buồn nhưng nó giúp cho con người thêm yêu thương con người.
Vì sao hai chị em Liên thức đợi đoàn tàu từ Hà Nội về? Ý nghĩa của chi tiết đó?
a. Tại sao trong tác phẩm “Hai đứa trẻ”, hai chị em Liên đêm đêm lại thức đợi đồn tàu từ Hà Nội
vì cuộc sống nơi hai đứa trẻ sinh sống là một cuộc sống nghèo khổ, lam lũ, tù đọng, đơn điệu, tẻ nhạt. Dường như
ngày nào cũng vậy, từ chập tối cho đến nửa đêm, lúc nào Liên cũng chỉ thấy lặp đi lặp lại những hình ảnh quen
thuộc (chị Tí, bác Siêu, gia đình bác xẩm…). Chừng ấy người ngồi trong bóng tối chờ đợi một cái gì đó tươi sáng
hơn sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ. Tất cả những điều đó đã hối thúc chị em Liên tìm đến ánh sáng đồn tàu
từ Hà Nội về như một sự giải thoát.
b. Ý nghĩa của sự chờ đợi đó:
- Ánh sáng đồn tàu vụt qua phố huyện với “các toa đèn sáng trưng” là nỗi khát khao chờ đợi của Liên. Đó là ánh
- Đó cũng chính là tình cảm nhân đạo sâu sắc của Thạch Lam, nhà văn luôn tin tưởng vào khả năng vươn dậy của
nhân vật.
Ý nghĩa chi tiết ngọn đèn chị Tý
Gợi ý:\r\n\r\na. Ngọn đèn dầu của chị Tý trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” được miêu tả: ngọn đèn lay động trên chõng
hàng của chị Tí; ngọn đèn phát ra “quầng sáng thân mật”; ngọn đèn chỉ chiếu
<b>b. Ý nghĩa: </b>
- Ánh sáng ngọn đèn con chị Tí trở đi trở lại nhiều lần và đi vào giấc ngủ của Liên như một ám ảnh tâm lí.
- Đó là ánh sáng biểu trưng cho cuộc sống thực tại: mòn mỏi, lay lắt, quẩn quanh, nhỏ nhoi đầy bế tắc, buồn chán
của chị em Liên,…; cho kiếp người vô danh, vô nghĩa, sống lam lũ, vật vờ,…trong cái đêm tối mênh mông của xã
hội cũ.
- Niềm đồng cảm sâu sắc của nhà văn đối với số phận con người, đặc biệt là số phận người nông dân trước
1945. Đồng thời đó cũng chính là tình cảm nhân đạo sâu sắc của Thạch Lam, nhà văn luôn tin tưởng vào khả năng
vươn dậy của nhân vật.
Trong Hai đứa trẻ, Thạch Lam quan tâm đến loại ánh sáng nào nhất? Vì sao?
Miêu tả cảnh đêm ở phố huyện, Thạch Lam khơng chỉ sử dụng bóng tối để tả trực diện mà cịn gián tiếp gợi lên qua
hình ảnh cách loại ánh sáng
Giữa đêm đen bao trùm, ánh sáng trở nên thu hút với các nhân vật trong truyện. TL được mệnh danh là nhà van
-Trong những loại ánh sáng ấy, TL đặc biệt quan tâm đến quầng sáng của ngọn đèn con và ánh sáng rực rỡ của
đoàn tàu, nhà văn gửi gắm vào 2 loại ánh sáng ấy nhiều ý nghĩa triết lí sâu sắc:
+Quầng sáng của ngọn đèn con trên chõng hàng chị Tí nhỏ bé, yếu ớt, tồn tại hằng ngày nơi phố huyện nghèo, nó
khơng tắt đi mà cũng khơng sánh thêm. Nó giống số phận của những con người tàn tạ, sống quẩn quanh bế tắc,
không hạnh phúc, không tương lai. Quầng sáng của ngọn đèn con thu hút sự chú ý của Liên và những người xung
quanh, chị dù có hướng mắt đi đến đâu song cuối cùng vẫn quay về với ngọn đèn con ấy, nó đi vào giấc ngủ của
Liên với bao sự xa xôi không biết, bao quanh nguồn sáng ấy là cuộc sống của người dân nơi phố huyện.
+ Đối lập hoàn toàn với ánh sáng của ngọn đèn con là ánh sáng rực rỡ của đoàn tàu đêm đi qua phố huyện. Nếu
ngọn đèn không đủ sức xua tan bóng tối thì ánh sáng của đồn tàu lại xuyên thủng màn đêm đen, nó lấn áp tất cả
các loại ánh sáng ở phố huyện. Ánh sáng của đoàn tàu mang ý nghĩa biểu trưng cho một thế giới khác hẳn với
những gì Liên đang sống, đang chứng kiến, đánh thức tâm hồn Liên về những ngày cả gia đình cịn sống ở Hà Nội,
mở ra cho trong chị những tia hy vọng về một cuộc sống mới trong tương lai. Ánh sáng của đoàn tàu cũng hàm
chứa nhiều giá trị nhâm đạo trong tác phẩm, nó khẳng định tấm lịng trân trọng, đồn cảm của nhà văn dành cho
nhân vật.
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” mở đầu bằng hình ảnh nào? Ý nghĩa?
Gợi ý:\r\n\r\na. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” mở đầu bằng hình ảnh: cảnh chiều tàn hiện lên “Phương Tây đỏ rực như
lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”; “tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió
nhẹ đưa vào”; “Liên khơng hiểu sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”.
b. Ý nghĩa:
- Tình yêu quê hương đất nước của Thạch Lam qua những hình ảnh thiên nhiên đượm hồn quê.
- Gợi lên không gian làng quê yên ả, đậm chất thơ nhưng chứa đựng nỗi buồn man mác.
\"Văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”
Nhận định của Nguyễn Minh Châu đã khắc họa thiên chức của văn chương chính là tấm gương phản ánh trung
thành hiện thực cuộc sống khách quan qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Dù được sáng tác bằng bất cứ thể
loại nào và trong bất cứ thời đại nào, ngịi bút của các nhà văn ln hướng đến cuộc sống với tất cả những nỗi
niềm, dù là vui tươi yêu đời hay đau khổ đến phẫn uất của con người. Đây cũng chính là mảnh đất cội nguồn màu
mỡ đã được các nhà văn đào sâu và khai phá tự muôn thuở của văn chương.
Thế nhưng, cũng nằm trong quan điểm đó, các sáng tác của Thạch Lam lại mang một dấu ấn rất riêng với bút pháp
vừa hiện thực lại vừa trữ tình mà tiêu biểu hơn cả chính là truyện ngắn “Hai đứa trẻ”. Qua không gian một phố
huyện nghèo xác xơ trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Thạch Lam đã khắc họa nên những nét đẹp trong tính
cách và tâm hồn của nhân vật Liên-một cô bé hồn nhiên, đáng yêu, giàu tình người và những khát khao thầm kín.
Bằng những nét phác thảo cơ bản nhưng rất đậm sắc, Thạch Lam đã tạc tạo nên những nét đẹp trong tính cách của
Liên. Đó là hiện thân của một cơ bé giàu lịng nhân hậu và tình u thương những cảnh đời khốn khó. Tận sâu
trong trái tim non nớt của Liên là sự rung cảm dạt dào và xót xa trước những kiếp người nghèo khổ. Bày lên trước
mắt Liên là hình ảnh của “những đứa trẻ con nhà nghèo đi nhặt nhạnh những thanh tre, thanh nứa” cịn sót lại sau
khi đã vãn chợ chiều. Đó cũng là hình ảnh đầy đau xót của mẹ con chị Tí, bác Siêu và gia đình bác xẩm với gánh
nặng cơm, áo, gạo, tiền trên vai đã chẳng bao giờ có thể thốt khỏi vịng đời nghèo khó quanh quẩn.Liên trơng thấy
tất cả những con người ấy trong một buổi chiều buồn ảm đạm nơi phố huyện nghèo xơ xác. Trong lòng Liên trào
dâng một “lịng thương” vơ hạn, một nỗi niềm xót xa khơng gì tả xiết. Bởi lẽ, những cảnh đời khốn khó ấy cũng
khơng ngoại trừ gia đình Liên ra khỏi vịng tay oan nghiệt của nó khi mà với gánh nặng vật chất đang đè nén, họ đã
bị xé lẻ đến nghiệt ngả. Từ nỗi buồn đơn sơ trước thời khắc của ngày tàn, Liên đã hướng nỗi buồn của mình sang
những người dân nghèo nơi phố huyện cũng như đồng cảm với những cảnh đời lam lũ cơ cực. Trái tim Liên đã hòa
chung nhịp đập với con người ở phố huyện-một nhịp đập sâu lắng, nhẹ nhàng mà uất nghẹn khôn nguôi. Để rồi
những tình cảm ấy sẽ được phân chất thành một nỗi u sầu đậm đặc trong tâm hồn Liên. Liên thương người là thế,
đau xót cho những kiếp khổ triền miên là thế mà cũng đành phải lẳng lặng làm thinh để cho tình thương chơn chặt
nơi đáy mắt không thể bật lên thành những hành động cao đẹp. Nỗi đời cơ cực đã chạm những nanh vuốt sắc lạnh
của nó đến bên gia đình Liên, đến bên tâm hồn ngây thơ giàu tình cảm của Liên. Tâm hồn ấy mãi cũng chỉ có thể là
tiếng khóc thương thầm lặng cho những kiếp người lầm than-một tiếng khóc buồn trong bế tắc khi mà “chính chị
rực và lấp lánh” trong những kỉ niệm ấu thơ giờ đã lụi tắt theo khung trời tối tăm chung quanh phố huyện- một
khung trời chật hẹp vẫn ngày đêm cắt những vết thương lòng sâu cay vào trái tim non nớt của Liên. Liên càng đau
đớn bao nhiêu thì ngọn lửa ước mơ trong chị lại càng cháy khát bấy nhiêu, như muốn thiêu rụi cả không gian chán
chường, buồn tẻ nơi phố huyện. Để rồi khi ngọn lửa ấy bùng cháy mãnh liệt nhất trong một ước mơ khôn nguôi,
Liên đã khát khao bỏng rát một tương lai tươi sáng sẽ soi rọi cho những số kiếp lầm than khốn khổ vẫn cứ mãi mỏi
mòn trong một ao đời phẳng lặng. Tất cả những ước mơ thầm kín ấy, những khát khao cháy bỏng ấy vẫn cứ ngày
đêm âm ỉ một niềm hy vọng trong tâm hồn Liên, giờ đây đã theo đoàn tàu “sáng trưng” và “huyên náo” bay về
những chân trời vô định của mộng tưởng ở một miền đất rất xa xăm… Đoàn tàu ấy cũng từ Hà Nội đến, cũng lại từ
một miền kí ức rất xa xơi đã đem những gam màu tươi tắn điểm xuyến vào cuộc sống thực tại tẻ nhạt của Liên, để
Liên lại có thể sống trong một miền kí ức đẹp dù chỉ trong phút giâyngắn ngủi. Rồi khi đoàn tàu đã đi xa trên con
đường bất tận của nó, những mơ ước vốn mơ hồ mong manh giờ đây lại rơi vào vô vọng.
Nhưng do đó trong thất vọng sẽ nảy mầm hy vọng. Và từ trong hy vọng, ta lại phát hiện và thêm trân trọng một tâm
hồn đẹp vẫn luôn luôn tỏa sáng chống lại đêm đen, tuôn trào không bao giờ cạn một nguồn sống đầy những ước
mơ, làm bừng lên sức sống từ trong sự điêu tàn của nghịch cảnh…
Qua những điều trên, ta càng thấu rõ những vẻ đẹp trong tính cách và tâm hồn của nhân vật Liên. Bằng một nghệ
thuật miêu tả nội tâm đặc sắc, Thạch Lam đã tạc tạo nên những nét đẹp ấy từ một viên ngọc quý với gam màu dịu
nhẹ và đường nét thanh tao. Viên ngọc ấy sẽ còn mãi tỏa ánh sáng êm đẹp trên nền hiện thực xã hội đầy ngang trái,
Cảm nhận về nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ
Nhân vật Liên được tác gả đặt ở vị trí trung tâm của truyện. Tính cách tâm hồn cơ bé được tái hiện qua ánh mắt
quan sát và những suy nghĩ cảm xúc khi đối diện với cuộc sống nơi phố huyện nghèo. Bằng tài nghệ khám phá thế
giới nội tâm phong phú tinh tế, Thạch Lam đã tái hiện một cách chân thực sống động những vẻ đẹp tiềm ẩn trong
nhân vật Liên…
1,Liên có tâm hồn nhạy cảm tinh tế nhân hậu của một đứa trẻ biết yêu thương.
a,Yêu thiên nhiên: Trái tim cô bé nhạy cảm tinh tế trước cái đẹp của thiên nhiên
- Tâm hồn trẻ thơ trong sáng ấy đã rộng mở để đón nhận những biến động tinh tế mơ hồ của cảnh vật. Liên càng
biết được sự đổi thay của đất trời lúc ngày tàn:
+ Em lắng nghe từng tiếng động, báo hiệu một ngày sắp hết: từ tiếng trống thu không; tiếng ếch nhái kên ran ngoài
đồng ruộng; đến cả tiếng muỗi vo ve. Như thể em đang đón nhận cả cái khơng khí im vắng tĩnh lặng của buổi chiều
quê.
+ Cái nhìn của Liên bao quát cả khung trời phía tây đang rực rỡ trong ánh hồng hơn. Bầu trời hồng rự rỡ như lửa
cháy với những đám mây “ánh lên như hòn than sắp tàn”. Trên nền trời nổi bật đường viền sẫm màu của những
rặng tre…Khoảnh khắc ngày tàn khơi lên trong cô bé một nỗi buồn man mác mơ hồ.
- Không chỉ yêu cảnh vật, Liên cịn rất gắn bó với miền đất này. Khi quan sát cảnh phiên chợ đã tàn em cảm nhận
được cái tiêu điều của vùng đất nghèo khó qua những thứ rác rưởi bot lại trên nền chợ ” vỏ bưởi vỏ thị, lá nhãn, lá
mía”. Liên yêu mảnh đất này đến mức thuộc lấy cả mùi cát bụi ” một mùi âm ẩm của cát bụi bốc lên khiến chị em
- Đặc biệt Liên tìm thấy ở đây những vẻ đẹp bình dị mà giàu chất thơ. Qua cách cảm nhận của em một đêm mùa hạ
bỗng trở nên trong trẻo êm ả lạ thường ” trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”.
Có cả vẻ đẹp của bầu trời đêm thăm thẳm với hàng ngàn ngôi sao đang ganh nhau lóe sáng….
==> Cách cảm nhận về thiên nhiên chứng tỏ tâm hồn cô bé Liên luôn rộng mở gắn bó và yêu thương với thế giới
xung quanh.
b, Không chỉ yêu thiên nhiên trái tim cô bé cịn biết u thương, cảm thơng xót xa cho những nỗi khổ của con
người.
- Liên thương trong cuôc sông nghèo khổ cơ cực của những người dân nghèo.
+ Em xót xa khi thấy những đứa trẻ nhà nghèo phải tìm bới nhặt nhạnh trong đống rác mặc dù biết mình khơng có
tiền cho chúng.
+ Liên dành cho cụ Thi điên chút lịng qua cút rượu rót đầy.
+ Cơ bé thương mẹ con chị Tí ” ngày mị cua bắt tép tối lại dọn hàng tới tận khuya mà cũng chẳng ăn thua”
+ Ánh mắt cô bế siết bao ái ngại khi quan sát cảng khốn cùng của gia đình bác sẩm ” cả nhà ngủ gục trên manh
chiếu rách; chiếc thau sắt trống không …” Dường như em mường tượng được nỗi đói rét cùng cực đang chờ đợi
họ.
không ánh sáng không tương lai. Cái nhìn của en thấm đượm niềm thương cảm sâu xa. ” Chừng ấy người ngồi lặng
trong bóng tối như đang mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho..” ( sr mình quên mất đoạn dc này)
==> Miêu tả những cảm xúc tinh tế sâu sắc khi đối diên với thiên nhiên con người cuộc sống. Thạch Lam đã làm
hiện lên một thế giới tâm hồn trẻ thơ trong sáng giàu tinh yêu thương.
2, Không chỉ biết u thương cơ bé Liên cịn biết ước mơ, biết hướng tới tương lai.
a, Tâm hồn ấy luôn thiết tha hướng về ánh sáng
- Bản thân cô bé phải sống trong không gian tiêu điều tăm tối của phố huyên nghèo, đặc biệt bóng tối như trùm lấp
cả đất trời chiếm lĩnh mọi khoảng thời gian không gian. Không phải ngẫu nhiên Thạch Lam tô đậm đêm tối ”
đường phố và các ngõ con dần chứa đầy bóng tối…tối hết cả con đường thăm thẳm qua sơng, con đường qua chợ,
những ngõ con vào làng càng…”. Trên nền trời cuộc sống tăm tối ấy nổi bật hình ảnh hai đứa trẻ nhỏ nhoi đáng
thương như bị qiam cầm trong bóng tối ” Từ khi nhà Liên dọn ở Hà Nội về đây, từ khi có cái cửa hàng này, đêm
nào Liên và An cũng phải ngồi với cái tối của quang cảnh phố chung quanh”.
- Nhưng bằng tất cả sức sống của một tâm hồn trẻ thơ tươi sáng, Liên đã không chịu ” khuất phục” cái bóng tơi dày
đặc kia. Ánh mắt em ln thiết tha kiếm tìm những nguồn sáng. Có lúc cô bé ngước lên bầu trời đêm thăm thẳm
đển chiêm ngưỡng ” hàng ngàn ngôi sao đang ganh nhau lấp lánh”, có lúc Liên tìm về những với những ngọn đèn
gần gũi ấm áp xung quanh: đèn dây sáng trong hiệu khách; vầng sáng nhỏ tên chõng hành chị Tí;…thậm chí Liên
nâng niu đến cả từng hột sáng lọt qua khe liếc. Tâm hồn em như một mầm cây khỏe khoắn ln hướng về nơi có
ánh sáng.
b, Cơ bé cịn biết kiếm tìm những niềm vui, biết hướng tới tương lai. Vẻ đẹp này được thể hiện qua niềm mong đợi
chuyến tàu đêm qua phố huyện.
- Liên cố thức đợi chuyến tàu không phải để bán thêm vài món hàng mà em đợi tàu để được nhìn thấy một cộc sơng
náo động, một ngn sáng rực rỡ. Bởi vì con tàu ấy là niềm vui duy nhất sau mỗi ngày dài đằng đẵng buồn tẻ và
tăm tối của cuộc sống nơi đây…Cho nên Liên đợi nó như người ta mong một điều gì đó lớn lao kì diệu.
- Liên đánh thức em dậy từ lúc tàu chưa đến..cơ bé đón với tất cả niềm hân hoan vui sướng
+ Qua cái nhìn của e con tàu bỗng trở nên lỗng lẫy lạ thường “đoàn tàu rầm rộ đi tới….” Con tàu như đến môth thế
giới của thần thoại. Nó khơi lên trong Liên biết bao nhiêu cảm xúc hồi tưởng về một quá khứ hạnh phúc và mơ
tưởng về môt thế giới khác
+Lúc con tàu đi qua Liên vẫn còn bâng khuâng dõi theo. Nó đánh thứ trong Liên những ý nghĩ mơ hồ mà em khơng
lí giải được. Em chìm vào giấc ngủ với ý nghĩ ” minhg sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như ….một vùng
nhỏ” Suy nghĩ ấy chứng tỏ Liên đã sớm có ý thức về bản thân mình , sự thức tình cái tơi cá nhân ấy đã gieo vào
lòng người đọc niềm hi vọng rằng cơ bé có tâm hồn tươi sáng kia sẽ không bị giam cầm trong kiếp sống tù đọng
tăm tối này mãi mãi.
Diễn biến tâm trạng nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ
“ Văn học là nhân học” ( M.Gorki). Trong văn học, do vậy, vẻ đẹp nhân bản của con ngườI luôn luôn là một
phương tiện thẩm mĩ mà ở đó chất thơ và chất hiện thực hoà quyện vớI nhau. Để làm rõ điều vừa nói, “hai đứa trẻ”
của Thạch Lam sẽ là một dẫn chứng.\r\n“ Hai đứa trẻ” vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một
bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác phẩm đã gieo vào lòng ngườI đọc một nỗI buồn bâng khuângday dứt về đờI sống con
người.
Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ xác và lạI càng xơ xác, tiêu điều hơn từ cái nhìn của nhà văn. Đó là
lúc hồng hơn của một ngày tàn nơi miền q “mặt trờI đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thấy khóm tre màu đen kịt
trên nền trờI phớt hồng” dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ngòi đồng, thế cũng đủ làm thành cái buổI
chiều êm như ru như bao chiều khác.
Như một mô típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh lạI hiện ra trong khung cảnh chợ vãn của buổI chiều chỉ còn lèo
tèo vài ba ngườI bán hàng đang thu dọn gánh, vài đứa trẻ đi thu lượm các thứ lặt vặt… Cái bức tranh ấy đã một lần
hiện lên trong “gió lạnh đầu mùa” nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗI buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn
trong “Hai đứa trẻ”.
Song bức trang phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của con người. Một hiện thực nơi
miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành được mang tớI từ con tàu đêm đêm. Cuộc sống phố huyện có gì?
Đó là hoạt động kiếm sống của những ngườI mang trong mắt Liên dường như quá quen thuộc, mỗI ngườI đã có
một thói quen. Như bác phở Siêu. chị Tí, bố con nhà hát sẩm, cụ Thi điên và ngay cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ
là nghe tiếng trống thu khơng thì đóng cửa quán mà đợI chờ. Hiện thực không làmta ngỡ ngàng đó là một phố
huyện nghèo vớI những ngườI cần cù lao động một cách lầm lũi đáng thương.
Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa trong chấ văn lãng mạn.ThờI gian
đi vào cuộc sống của phố huyện “ rõ ràng” không vụt nhanh hoặc tan vào đêm tối. ThờI gian cứ chậm rãi đi từng
bước phát triển của nộI tâm. Từ “tiếng trống thu không” đến một câu văn nhẹ nhàng : “Chiều, chiều rồI” cất lên
trong lịng, rồI trờI nhá nhem tốI đến khơng gian đã khuya khơng cịn những “tạp âm”, của ban ngày chỉ cịn “vịm
trờI vớI ngàn ngơi sao xanh ganh nhau lấp lánh”. MỗI thờI điểm lạI có một cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng đều
có phần thi vị hoá nhờ những câu văn tươi mát, uyển chuyển.
Lam mớI có cái mượt mà đượm chất thơ như thế.
Sự tài tình chính là ở chổ nhà văn vừa hoà nhập hai tâm hồn quan sát là một. HIểu là nhà văn quan sát cũng đúng
mà hiểu cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng chẳng sai. Ta thấy rõ điều đó qua cái giật mình của nhân
vật. “Liên mãi ngồI quên mất! Bây giờ Liên vộI vàng vào thắp đèn xếp những quả sơn đen lạI”.
“TrờI bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng gió mát”. Nhưng câu văn như vậy có rất nhiều và
được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu mực. PhảI chăng cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn nhà văn hay chính
là từ tâm hồn của Liên khi phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng. Trong con mắt “Dõi theo những bóng
ngườI về muộn từ từ trong đêm”.
Nếu như đầu tốI phố huyện cịn được “trang hồng” bằng những ánh đèn hắt ra từ những quán bên đường thì bây
giờ chỉ cịn là bóng đêm. Một vài tia sáng le lói từ kẻ cửa thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những
ánh sáng rất thực mà tìm đến cái mong manh của thứ đom đóm lập loè trong kẽ lá bàng lạI càng gợI buồn khó tả.
Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà văn “ chớp” nhanh trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó.
Vừa có vài hiện thực vừa có sự bay bổng của ngườI bút phác lên và đằm lạI trên trang văn. Nhưng tất cả vẫn là cái
thường nhật diễn ra trong cảnh sống vốn quẩn quanh lầm lũi.
Ánh đèn của chị Tí đủsoi một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức tranh khá hoàn chỉnh về mặt
nghệ thuật vớI hai “gam màu” sáng tối. Khuônmặt ngườI phụ nữ chân quê chất phát đã trảI qua một ngày bươn bảI
vớI cuộc sống để kiếm cái ăn, manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tốI tăm. Nhưng tốI nào chị cũng góp một ánh
đèn như thế. Tuy để làm thêm thu nhập, nhưng hình như họ chỉ bán cho lấy lệ.
Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? PhảI chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban đêm là nơi để họ sống…Âm
thanh của cuộc sống phát ra từ những lờI đốI thoạI, những hoạt động của con ngườI nơi đây. MỗI ngườI đều góp
một thứ ánh sáng, một chút hương vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo.
Chẳng có một nét chấm phá nào trong bức tranh nhưng tất cả những con ngườI có mặt đã làm nên tổng thể củacảnh
vật cuộc sống.
Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ vớI nước mắt của đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc
sống hiện thực trong văn Thạch Lam được “đo bằng” một đơn vị “lãng mạn” nhất định. Nét bút của ông đã phát
hoạ một cách rất nhẹ nhàng uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lý do để ngườI dân phảI lao vào
cuộc bon chen giành dật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một khơng khí chan hồ thực sự, ấm áp tình ngườI và mỗI
ngườI khi ra về chắc chắn vẫn giữ được sự ấm áp quen thân dù rất buồn.
Sự hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ nhàng thanh thoát, ẩn hiện nhân
cách tyệt vờI của ông.
Trở lạI vớI cảnh sinh hoạt ban đêm nơi phố huyện, chất lãng mạn không dừng lạI ở cảnh bao quát mà đắm lạI ở
những trang viết về chị em Liên. Đây chính lả điểm nhà văn đã tập trung khắc hoạ. Liên gây ấn tượng bởI nộI tâm
sâu sắc, xuất phát từ một con ngườI đa cảm. Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuống cũng chính là lúc Liên thấy
lịng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợI lên từ cảnh phố huyện xơ xác buồn
trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một cảnh tượng làm chị không khỏI chạnh
niềm thương: đó là những chú bé nheo nhóc nhớn nhác giữa chợ đã vãng từ lâu để nhặt những mẫu que kem và
những gì cịn có ích cho chúng. Ấn tượng đầu tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào. Tư thế của một
ngườI chị còn bé hơn thế nữa, nỗI lòng buồn báo hiệu một sự “trưởng thành” về tâm sinh lí.
Bức tranh phồ huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tốI hư vô của phố huyện. Cuộc sống phố huyện đã ăn
sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu một thứ gì của cảnh ngồi kìa, Liên đã thốt lên rồi. Nhưng tất cả
vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng cảm giác thân thuộc vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng
thương. Từng cảnh đờI, cảnh sống của mỗI ngườI lần lượt đi qua tâm hồn tưởng như non nớt của Liên.
Cuộc sống của từng ngườI đã góp nên thành cuộc sống của cả một quần thể ngườI dân quê nghèo khó. Từ những
mảnh đờI cũng giống như Liên cùng chung môi trường sống , ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quẩn
chật hẹp của môi trường xã hội. Ngày lạI ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán vớI những khoảnh
đất trống “Lá đa lác đác trước lều” và những “con ngườI ấy” mà thôi.
Nhưng ở Liên lạI có một sự khác lạ mà trong số trên chẳng có ai. Một hành động tưởng như quái gở và vơ nghĩa,
đó là “đợI tàu”. Nếu mẹ Liên ở đó chắc khơng cho cơ thức. Nhưng đó mớI chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác
giả khắc hoạ hình ảnh Liên cùng em đợI tàu vớI một niềm háo hức rất trẻ con.
được nhiềm vui để mình sống có ý nghĩa hơn trong cõi đờI. quả thực, tâm hồn Liên là một bài thơ có cấu tứ khá
hồn chỉnh; nhưng đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam đem lại. Cho đến nay, chị vẫn sống vớI một niềm
vui của chuyến tàu đem lại. “Liên” là mảng màu chủ đạo tạo nên chất hiện thực và chất lãng mạn trong thiên
truyện. tạo nên bằng một cuộc đời. tạo nên như là ngườI dẫn chuyện.
Thành công của thạch Lam chính là sự kết hợp hài hồ giữa bút pháp lãng mạn vớI xu hướng hiện thực, nhân đạo.
Tạo cho mỗI tác phẩm của ông một sức sống trường tồn cùng lịng người. Tình ngườI của nhà văn vớI nhân vật đã
đưa ý nghĩa truyện lên một tầng cao mới. Ai đó đã định nghĩa về thơ : “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đờI còn là thơ
nữa” thì truyện ngắn “Hai đứa trẻ” và nhiều thiên truyện khác nữa của thạch lam có đầy đủ những yếu tố mang
phong vị của một bài thơ trữ tình đặc sắc mà lạI “cuộc đờI” thật nhiều sâu sắc.
Hình ảnh “con tàu” trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam
Con tàu là sản phẩm của nền văn minh phương Tây, xuất hiện ở Việt Nam trong bối cảnh người Pháp tiến hành
công cuộc khai thác thuộc địa Đơng Dương. Sự xuất hiện của nó khơng chỉ làm thay đổi đời sống kinh tế – xã hội,
mà còn đem đến cho văn chương Việt Nam một nguồn thi liệu mới. Giờ đây, bên cạnh hình ảnh con thuyền – bến
sông, trong văn chương nước nhà đã có thêm hình ảnh sân ga – con tàu. Giữa rất nhiều sáng tác trước 1945, chúng
ta thấy truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam đã miêu tả thành
Trước hết, hình tượng con tàu được nhà văn miêu tả nhằm thể hiện tình trạng tàn lụi của cuộc sống. Cuộc sống
- “Hơm nay, ngày phiên mà bán hàng cũng chẳng ăn thua gì”.
- “Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ?”.
- “Trước kia, ở sân ga, có mấy hàng cơm mở đón khách, đèn sáng cho đến nửa đêm. Nhưng bây giờ họ đóng cửa cả
rồi, cũng im lặng tối đen như ngoài phố”.
Câu thứ nhất là cảm nghĩ của Liên, câu thứ hai là lời chị Tý, cịn đoạn trích dẫn thứ ba là miêu tả của nhà văn về
những hàng quán ở sân ga. Suốt một ngày chợ phiên mà Liên bán hàng “chẳng ăn thua gì”. Khách hàng chị Tý
không ra mua hàng đều đặn như mọi khi. Cảnh những hàng quán ở sân ga thật tàn tạ. Cái tấp nập “đèn sáng cho
đến nửa đêm” giờ chỉ còn là dĩ vãng. Hiện thực trước mắt thật u buồn: những hàng cơm cửa đóng then cài, chìm
nghỉm giữa bóng đêm dày nặng. Liên kết những hình ảnh, chi tiết nói trên, chúng ta nhận ra chủ ý nghệ thuật của
Thạch Lam. Nhà văn không triết lý kiểu như Nam Cao mà để các hình thức nghệ thuật tự “lên tiếng”. Văn Thạch
Lam nhẹ nhàng mà sâu sắc là vì vậy.
Hình tượng con tàu ngồi ý nghĩa tả thực cịn mang ý nghĩa biểu trưng. Tính chất biểu trưng của nó được xác nhận
qua luồng ánh sáng rực rỡ. Trong cảm nhận của những tâm hồn thơ trẻ như Liên và An, ánh sáng con tàu gợi về
một thế giới khác “vui vẻ và huyên náo” hơn. Nó đối lập với cái u buồn, thinh lặng của không gian phố huyện.
“Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn các vầng sáng
ngọn đèn của chị Tý và ánh lửa của bác Siêu”. Trên nền cảm nhận về sự đối lập của hai thứ ánh sáng đó, tâm hồn
Liên nảy sinh những khát khao về sự đổi thay cuộc sống. Rõ ràng, những đứa trẻ như Liên, An đã mất đi cái hồn
nhiên, trong trẻo của tuổi thơ. Thay vào đó là nỗi buồn, là sự tự cố gắng để hy vọng vào một ngày mai. Chuyện hai
chị em cố thức để đợi tàu chính là vì cái lẽ ấy. Ta hiểu vì sao khi con tàu vừa rời khỏi sân ga, Liên lập tức “lặng
theo mơ tưởng”. Tâm hồn Liên đang tìm về với thế giới của ánh sáng rực rỡ và âm thanh huyên náo. Khi viết câu
văn “Liên lặng theo mơ tưởng”, Thạch Lam hình như cũng đang đau đáu về một sự đổi thay!
Vì sao chị em Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam đêm nào cũng cố thức để được nhìn chuyên tàu đi
qua,Thạch Lam muốn nói gì với người đọc?
Lời phát biểu của Thạch Lam, như đã nói, bao giờ cũng thầm kín, dịu dàng nhưng cứ thsam thìa mãi trong lịng
người mà ám ảnh mãi tâm trí người đọc
chị em một cô gái tên Liên, nhân vật chủ yếu của tác phẩm. Nhân vật của Thạch Lam nói chung là thế; khơng có
suy nghĩ sâu sắc, thường chỉ thể hiện những cảm giác, những vui buồn nào đây. Họ thường ngồi n lặng lắng nghe
tiếng nói thầm kín của lịng mình, ít phân tích lí giải đề xuất những khái quát triết lí như thường thấy ở nhân vật
Nam Cao.
Nhưng đằng sau thế giới nhân vật với những tâm trạng như thế, người ta thấy thấp thoáng nhân vật tác giả, người
kể chuyện. Nhân vật này thì giàu suy tư, thường phát biểu bằng một giọng nói dịu dàng nhỏ nhẹ những tư tưởng có
ý nghĩa nhân đạo sâu sắc.
- Tác phẩm tự nó chia làm ba đoạn:
+ Đoạn một: Tâm trạng Liên trước cảnh chiều muộn nơi phố huyện.
+ Đoạn ba: Tâm trạng chị em Liên khao khát được thấy chuyến tàu đi qua phố huyện. Chính ở đoạn ba này, chủ đề
của tác phẩm đã được phát biểu một cách sâu sắc và thấm thìa. Chủ đề đấy chính là lời giải đáp cho câu hỏi: “Tại
sao chị em Liên đêm nào cũng cố thức để được nhìn chuyến tàu qua?”.
Nhưng tác phẩm văn học là một chỉnh thể. Vậy muôn giải đáp câu hỏi trên, nhất thiết phải gắn đoạn ba với đoạn
một, đoạn hai của thiên truyện.
Ba đoạn gắn bó với nhau theo logic tâm trạng của nhân vật Liên để cuối cùng tô đậm tư tưởng của truyện ở đoạn
kết thúc.
Đoạn một thể hiện tâm trạng buồn của Liên trước quan cảnh tàn lụi của cảnh thiên nhiên và những cảnh đời nơi
phố huyện lúc chiều muộn.
Tâm trạng này tác giả đã ghi rõ trong đoạn văn: “Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đơi mắt chị bóng
tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tăm hồn ngây thơ của chị; Liên khơng hiểu sao,
nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”.
Ngày tàn trước hết báo hiệu bằng tiếng trống thu không như gọi buổi chiều về. Phương tây tuy đỏ rực như lửa cháy
nhưng cũng chỉ là ánh hồng của “hòn than sắp tàn”. Bóng tơi lấn dần, lấn dần... Nhìn xuống mặt đất là cảnh chợ
tàn, khơng có gì vui bằng lúc chợ đơng, nhưng cũng khơng có gì buồn hơn cảnh chợ tàn.
Đâu tiếng làng xa vắng chợ chiều.
Câu thơ trong bài Tràng giang của Huy Cận thật buồn.
Buồn vì người ta về hết cả, tiếng ồn náo nhiệt cũng tắt. Sự sống như tàn lụi. Cái nghèo phô bày không che đậy ở
những rác rưởi bỏ lại, ở mấy đứa trẻ nhà nghèo lom khom nhặt nhạnh những cái vặt vãnh cịn có thể dùng được của
những người bán hàng để lại...
Những con người quen thuộc với chị em Liên nơi phố huyện cũng vậy, đều là những cuộc đời tàn lụi: cái hàng
nước lèo tèo của chị Tí thì ế khách (“Ơi chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì”), cửa hàng của chị em Liên cũng
vậy (“Hôm nay ngày phiên mà bán cũng chẳng ăn thua gì”). Hình ảnh cụ Thi điên lảo đảo bước đi càng tô dậm một
cảnh ngộ bế tắc: “Cụ đi lần vào bóng tối, tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng”.
Đoạn hai thể hiện tâm trạng buồn và chán nản của Liên trước những cuộc đời tối tăm quẩn quanh đơn điệu của
những cư dân nơi phố huyện.
Tất cả đều diễn ra như đúng đêm trước, như hàng trăm đêm trước. Đường phố và các ngõ chứa đầy bóng tối. Các
nhà đã đóng cửa im ỉm, trừ một vài cửa hàng còn thức, chỉ hé một khe ánh sáng. Sau cửa hàng nước chị Tí là gánh
hàng bác phở Siêu mà chị em Liên đã biết chắc chắn ngay khi còn ở xa như một chấm lửa nhỏ và vàng “lơ lửng đi
trong đêm tối, mất đi rồi lại hiện ra”. Rồi đến gia đình bác Xẩm với cái thau sắt trắng chỏng trơ và thằng con bò ra
đất nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát. Đúng là những kiếp người khơng bao giờ biết đến hạnh phúc. Hiện tại
thì cực khổ, tương lai thì mù mịt. Sự tồn tại của họ dường như chỉ là để chờ đợi vu vơ một cái gì may mắn khơng
bao giờ xảy đến: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng
ngày”.
Được tơ đậm nhất ở đoạn này là hình ảnh những kiếp sống tối tăm. Điều đáng chú ý ở đây là cái tối tăm lại được
diễn tả bằng ánh sáng, thứ ánh sáng leo lét của ngọn đèn con nơi chõng hàng nước của chị Tí, đối chọi một cách
yếu ớt đến thảm hại trước “vũ trụ thăm thẳm bao la” trùm lên cái phố huyện nghèo; không phải ngẫu nhiên mà
thiên truyện ngắn vẻn vẹn chỉ có mấy trang mà hình ảnh ngọn đèn hàng nước chị Tý được nhắc đi nhắc lại tới bảy
lần. Nó trở thành một biểu tượng về những kiếp sống mù tối, lắt lay của những cư dân nghèo khổ tưởng chừng bị
chôn vùi đến cùng đời mãn kiếp trong bóng tối của phố huyện tiêu điều đã bị cuộc sống bỏ quên này.
Hai đoạn trên chuẩn bị cho đoạn ba. Buồn chán trước cảnh đời phố huyện, chị em Liên cuối cùng cũng tìm ra được
một lối thốt: trơng đợi để thấy được một chuyến tàu đi qua phố huyện.
Qua diễn biến tâm trạng của Liên, tác giả muốn nói gì với người đọc? Lời phát biểu của Thạch Lam, như đã nói,
bao giờ cũng thầm kín, dịu dàng nhưng cứ thsam thìa mãi trong lịng người mà ám ảnh mãi tâm trí người đọc: ấy là
Đây là một khía cạnh mới của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam từ khoảng 1930 - 1945, khi xuất hiện
những nhà văn thức tỉnh về ý thức cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời. Họ hết sức nhạy cảm
đối với thân phận những con người, không biết sống là vui, những kiếp sống tù mù, dật dờ trong bóng tối.
Bài 2 - Phân tích cảnh cho chữ trong tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân là một trong năm tác gia lớn của nền văn học Việt Nam. Ơng có đóng góp khơng nhỏ đối với nền văn
học hiện đại. Suốt cả cuộc đời Nguyễn Tuân ln khát khao đi tìm cái đẹp, cái tinh hoa của đất trời để sáng tạc nên
những kiệt tác văn học độc đáo. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” trích trong tập “Vang bóng một thời”của ơng cũng
chứa đụng những nết đẹp đó.
Từ xưa đến nay, chơi chữ được coi là một thú chơi tao nhã của những kẻ có học thức. Thú chơi chữ thể hiện được
toàn bộ cái đẹp, cái tài năng và cả trí tuệ của người viết cũng như người thưởng thức. Cảnh cho chũ thường được
diễn ra tại những nơi trang trọng, có đủ trăng hoa tuyết nguyệt để khơi nguồn cảm xúc. Rồi từ đó những nét chũ
uyển chuyển mang trong nó cả cái hồn riêng được ra đời. Nhưng cũng những nét chữ uyển chuyển có hồn ấy,
Nguyễn Tuân lại cho nó sinh ra trong một hoàn cảnh khác lạ, “ một cảnh xưa nay hiếm”. Đó là cảnh cho chữ trong
tác phẩm:”chữ ngươi tử tù” trích trong tập “Vang bóng một thời”.
Nguyễn Tn là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ơng có đóng góp rất lớn cho nền
văn học nước nhà đặc biệt là ở thể tùy bút. Nguyễn Tuân có nhiểu tác phẩm hay như: Một chuyến đi, Hà Nội ta
đánh Mĩ giỏi, sông Đà, Vang bóng mơt thời,… Vang bóng một thời là một trong những tác phẩm thành công nhất
của Nguyễn Tuân, cũng là một trong những truyện ngắn hay nhất trong kho tàng văn học Việt Nam.
Truyện ngắn “chữ người tử tù” ban đầu có tên là “dịng chữ cuối cùng”. Đây là tác phẩm kết tinh tài hoa của
Nguyễn Tuân trước Cách Mạng và được nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đánh giá là “ một văn phẩm đạt gần tới sự
“ Văn như Siêu Quát vô tiền Hán
Thi đảo Tùng Tuy thất thịnh Đường”.
Thật vậy, ngay lúc bước vào tù lao, vác trên vai cái gông lớn bằng gỗ lim, ông Huấn không những không mảy may
run sợ trước lời quát nạt của tên lính áp giải mà vẫn lạnh lùng “ thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng
đánh thuỳnh một cái”. Lúc bị giam trong nhà lao, trước sự biệt nhỡn của viên quản nguc, ngày ngày đưa rượu thịt
vào cho ơng và các đồng chí, ông vẫn thản nhiên đón nhận và coi đó là “hứng sinh bình”, thậm chí ơng cịn coi
khinh viên quản ngục, không muốn hắn bược vào buồng giam của ông thêm lần nào nữa.
đẹp, sự thất bại tmar hại của cái xấu, cái ác. Cảnh cho chữ khơng diễn ra ở nơi có trăng hoa tuyết nguyêt mà lại ở
trong căn buồng tăm tối chật hẹp. Nơi ngự trị của cái ác lại là nơi cái đẹp được “khai sinh”, thăng hoa. Tồn bộ
bóng đêm tăm tối của ngục tù đã sụp đổ, chỉ cịn lại vẻ đẹp thuần thiết của khí phách của thiên lương. Người tử tù
dù ngày mai có phải chịu án tử hình nhưng kẻ ấy khơng chết mà sẽ đi vào cõi bất tử cùng với cái đẹp. Huấn Cao là
hiện thân cho vẻ đẹp hoàn mĩ, con người ấy chỉ có thể chết về tinh thần , nhưng tử tưởng đẹp của ông Huấn và từng
lờ dạy của ơng sẽ cịn lại với đời, sẽ theo viên quản ngục trong suốt cuộc đời còn lại.
Câu chuyện thành cơng khơng chỉ vì nó phê phán đúng thực trạng xã hội đương thời mà cịn vì cái độc đáo khác lạ
của tình huống truyện. Câu chuyện kể về cuộc gặp gỡ giữa hai con người hoàn toàn khác nhau. Một người là viên
quan quản ngục- một công cụ trấn át kẻ tù tội phục vụ cho triều đình, cịn người kia là kẻ tử tù chống lại triều đình.
Thế nhưng chính cái đẹp đã dẩy hai con người hoàn toàn khác biệt ấy trở thành tri kỉ. Họ là người nghệ sĩ, biết yêu
Dường như, cảnh cho chữ và hình tựng nhân vật Huấn Cao đã giúp Nguyễn Tuân thể hiện thành cơng phong cách
nghệ thuật của mình. Ơng ln hướng tới cái đẹp, cái phi thường lí tưởng, đã đẹp phải tuyệt mĩ, đã tài phải siêu
phàm, nhưng cũng có cá tính độc đáo.
Câu chuyện kết thúc nhưng dư âm về cái đẹp, cái khí phách hiên ngang và thiên lương cao q của ơng Huấn vẫn
cịn vương vấn. Người đọc có thể hình dung ra một viên quản ngục từ biệt nơi quan trường đầy thị phi mà trở về
quê nhà. Ngày ngày, ông thư thả ngắm bức thi họa của ông Huấn ban cho được treo ngay ngắn trong gian giữa ngôi
nhà mà trong lòng vẫn khắc sâu lời khuyên răn của ông Huấn.
Cảm nhận về cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục cuối truyện
Có thể nói chủ đề của truyện ngắn Chữ người tử tù và vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao đã được bộc lộ sáng ngời
trong cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục.
<b>BÀI LÀM</b>
Có thể nói chủ đề của truyện ngắn Chữ người tử tù và vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao đã được bộc lộ sáng ngời
trong cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục. Đây không đơn thuần là cảnh cho chữ, mà “đây là sự chiến thắng
của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, sự nhơ bẩn của tinh thần bất khuất
trước thái độ cam chịu nơ lệ.
Trước hết đó là sự chiến thắng của ánh sáng đơi với bóng tối. Chính Nguyễn Tuân đã viết trong truyện, cảnh cho
chữ là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Vì sao vậy? bình thường sẽ khơng có cảnh cho chữ đẹp đẽ và trang
nghiêm trong chốn tù ngục tăm tối và nhơ bẩn này. Nhưng ở đây lại có, vì ở đây có chiến thắng của “thiên lương”
con người. Và nhà văn, với nghệ thuật đặc tả tài tình, với thủ pháp tương phản sắc xảo, đã dựng lên những cảnh
tượng đối lập để nêu bật ý nghĩa sâu xa và thâm thúy của sự chiến thắng đó. Cảnh cho chữ đã xảy ra vào lúc đêm
khuya trong nhà ngục. Nhà ngục vốn đã tối tăm, lại vào lúc đêm khuya khoắt, càng dày đặc bóng tối. Nhưng “trong
một khơng khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang
chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn nền hồ” và “lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm
phịng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo". Khơng phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã miêu tả đến hai lần cái sáng đỏ
rực”, cái "lửa đóm cháy rừng rực" đã xua lan và đẩy lùi cái bóng tối dày đặc trong phòng giam. Nhấn mạnh đến cái
ánh áng của bó đuốc tẩm dầu ấy, rõ ràng đó là dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Ở đây, không chỉ là sự đối lập của
ánh sáng và bóng tối theo ý nghĩa sắc màu vật lý, mà sâu xa hơn và khái quát hơn, đây là sự đối lập mang ý nghĩa
nhân sinh của con người: ánh sáng của lương tri, thiên lương và bóng tối của tàn bạo, độc ác. Ánh sáng của thiên
lương đã xua tan và đẩy lùi bóng tối của tàn bạo chính tại nơi tù ngục này. Ánh sáng ấy đã khai tâm, đã cảm hóa
con người lầm đường trở về với cuộc sống thiện .
Và trên hết đó là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Đây là sự phối hợp giữa
những con người trong cảnh cho chữ, đặc biệt ở đây, ta thấy có sự thay bậc đổi ngơi. Người tù lại như người làm
chủ (đường hoàng, hiên ngang, ung dung, thanh thản), còn bọn quản ngục lại khúm núm sợ hãi và xúc động trước
những lời khuyên dạy của tù nhân (viên quản ngục "khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ”. Thầy
thơ lại “run run bưng chậu mực”). Sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ đã được khắc
họa đậm nét trong cảnh cho chữ và những người trong cảnh ấy. Khơng cịn là cảnh cho chữ bình thường mà là một
cảnh thọ giáo thiêng liêng giữa người cho chữ và người nhận chữ. Lời khun dạy đĩnh đạc của Huấn Cao có khác
gì một chúc thư về lẽ sống trước khi ông đi vào cõi bất tử. Và lời khuyên đầy tình người ấy có sức mạnh cảm hóa
một tâm hồn bây lâu nay vẫn cam chịu nô lệ, một con người lầm đường trở về với cuộc sống lương thiện. Câu nói
nghẹn ngào trong nước mắt của viên quản ngục đã nêu bật sự chiến thắng của cái đẹp, cái thiện, của thiên lương
con người: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh".
Tóm những chiến thắng trong cảnh cho chữ đã giúp ta hiểu hơn khát vọng mà nhà văn Nguyễn Tuân gửi gắm.
Biết bao người đã tìm thấy sự đồng cảm ở đó. Cảnh cho chữ cũng làm nổi bật ý nghĩa nhân văn và giá trị nhân đạo
Nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân nổi tiếng là một nhà văn tài hoa, giàu cá tính. Ơng đã niệm và theo đuổi suốt đời quan niệm “...mà
thầy rằng yêu đẹp có nghĩa là quyết tâm bảo vệ đến cùng những gì mình đã nhận là đẹp\".
<b>BÀI LÀM</b>
Nguyễn Tuân nổi tiếng là một nhà văn tài hoa, giàu cá tính. Ơng đã niệm và theo đuổi suốt đời quan niệm “...mà
thầy rằng yêu đẹp có nghĩa là quyết tâm bảo vệ đến cùng những gì mình đã nhận là đẹp". Và trong rât nhiều cái đẹp
mà ông cảm khái, theo đuổi ấy ta thấy có cái đẹp ngời sáng giữa cảnh lao tù tăm tối, cái đẹp của lụa trắng tinh bay
những nét mực, cái đẹp từ sâu thẳm lịng người. Cái đẹp tốt ra từ người tử tù Huân Cao và Chữ người tử tù
Trong tác phẩm, Huân Cao là một con người tự ưọng, sống hiên ngang bất khuất, khơng có sức mạnh quyền thế,
bạc vàng có thể khuất phục ơng. Những con người chọc trời khuấy nước, đếm trên đầu ngón tay, người ta cũng
chẳng cịn biết nữa... Một con người khẳng khái như vậy cịn sợ gì cường quyền hay tham gì tiền bạc?
Là người chọc trời khuấy nước, riêng một giang sơn không chịu được triều đình phong kiến ngày càng suy thối,
mục rỗng, Huấn Cao chống lại triều đình ấy. Bị gọi là giặc nhưng là vì nghĩa lớn, vì lí tưởng lớn nên điều đó có hề
gì. Đến khi bị bắt giam, sắp lên đoạn đầu đài vẫn coi thường: Đến cái chết cũng chẳng sợ nữa.... Huân Cao có
những suy nghĩ, hành vi thật phóng khống ơng vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm
trong hứng bình sinh, dù đang bị cầm tù.
Dưới con mắt Huấn Cao, bọn cầm quyền chỉ là một lũ tiểu nhân thị oai, nên ông luôn tỏ ra khinh bỉ chúng, dù ở
giữa cảnh tàn nhẫn, lừa lọc giữa một đống cặn bã. Sau khi viên quản ngục khép nép hỏi ông có cần gì nữa khơng,
ơng trả lời như tát vào đối phương: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ cần một điều, là ngươi đừng đặt chân vào đây”.
Đó là cái khí phách, cái tư thế hiên ngang lồng lộng dù khi đang giữa cái nền xám xịt của ngục tù.
Là con người chọc trời khuấy nước, hiên ngang bất khuất, không sợ bất cứ cái gì nhưng Huân Cao lại trọng cái
bản chất tốt đẹp của con người. Trong phần người sâu thẳm mà đơi khi vì hồn cảnh, người ta phái giấu kín, việc
Ông yêu cái đẹp và cảm thông với người biết yêu cái đẹp. Huấn Cao hiểu được tấm lòng quản ngục thì sẵn sàng
cho chữ, bởi ơng cảm là cảm cái bản chất thiên lương.
Huấn Cao là người tài hoa rất mực, bên cạnh cầm kì, thi, họa, ơng cịn có tài viết đẹp, chữ của ơng nức cả một
vùng, chữ ông đẹp lắm, vuông lắm. Cái tài hoa ấy chỉ dành riêng cho người tri kỉ: Ồng biết cái tài của mình và
khơng vì nó mà ai ơng cũng sẵn sàng cho: “Đời ra cũng mới viết có bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba
người bạn của ta thôi”. Và lần cho chữ cuối cùng của đời ông là một ngoại lệ, một cảnh tượng xưa nay chưa từng
có đã xảy ra bởi vì cảm với tấm lịng, cho chữ có thể nói là một đoạn rất hay thể hiện tài năng của Nguyễn Tuân
miêu tả, dựng cảnh và thể hiện tài năng của nhân vật Huấn Cao.
Cái cao đẹp đối lập với dơ bẩn. Chơi chữ đẹp, viết chữ đẹp là một nét đẹp cao, trang trọng thường diễn ra trong
cảnh thanh khiết của thiên nhiên và người. Song ở đây là cả một sự đối lập. Tuy nhiên, đối lập mà không có gì mâu
thuẫn cả. Lấn át tất cả cái dơ dáy hôi hám của tù ngục, ánh sáng của đuốc, mùi thơm của mực, màu trắng của lụa,
đã tỏa sáng lung linh. Tất cả thể hiện nghĩa sâu sắc: cái đẹp có thể sản sinh từ nơi tội ác ngự trị, giữa mảnh đất chết
bởi một người cũng sắp chết (một tử tù). Lời khuyên của Huân Cao cho cái đẹp khơng thể cịng sống với cái ác
được.
Nhân vật Huấn Cao như nhiều nhân vật chính diện khác trong Vang bóng một thời nhất thiết là con người tài hoa.
Ở Huân Cao, bên cạnh tài hoa, có vẻ khí phách của một người có trách nhiệm đối với thời cuộc. Đó là nét độc của
Huân Cao so với nhân vật khác trong Vang bóng một thời.
nỗi .. khát khao theo đuổi một lí tưởng cao cả của người thanh niên Nguyễn Tuân khi bước chân vào đời. (Trương
Chính).
Phân tích truyện Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân
Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nhà văn lớn, một nghệ sĩ tài hoa của nền văn học Việt Nam.
<b>BÀI LÀM</b>
Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nhà văn lớn, một nghệ sĩ tài hoa của nền văn học Việt Nam. Mỗi lời văn
của Nguyễn Tuân đều là những nét bút trác tuyệt như một nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn ngữ
(Tạ Tỵ). Một trong những nét bút trác tuyệt đó là tác phẩm Chữ người tử tà. Nổi bật lên trong tác phẩm là hình
tượng nhân vật Huấn Cao và cảnh cho chữ - một cảnh tượng hiếm và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Chúng ta đều biết văn học lãng mạn thường mơ tả theo những mẫu hình lí. Có nghĩa là văn chương thường thả trí
tưởng tượng của minh để theo đuổi những vẻ đẹp hoàn hảo nhất. Bỡi thế nhân vật viết theo lối lãng mạn có tầm vóc
phi thường. Nó là biểu hiện cho những gì mà nhà văn mơ ước, khao khát. Huấn Cao là thế. Từ đầu đến cuối, ông
hiện ra như một con người phi thường. Từ tài hoa đến thiên lương, từ thiên lương đến khí phách, nhất nhất đều có
tầm vóc phi thường. Có thể nói Huấn Cao là một giấc mơ đầy tính nhân văn của ngòi bút Nguyễn Tuân.
Thiên truyện được mở đầu bằng cuộc đối thoại của hai nhân vật quản ngục và thơ thơ lại. Ở đây tuy Huân Cao
hiện lên gián tiếp nhưng cũng đủ để cho ta thấy ông nổi tiếng với tài văn võ song toàn, uy danh đồn khắp cõi tỉnh
Sơn. Nhưng trong truyện cái tài được tô đậm nhất ở nhân vật này là tài viết chữ đẹp. Đó là nghệ thuật thư pháp -
một bộ môn nghệ thuật truyền thống và cao siêu của dân tộc. Ở đó mỗi lần nhà thư pháp hạ bút là mỗi lần sáng tạo,
mỗi nét bút là sự gửi gắm, kí thác tồn bộ những tâm nguyện sâu xa của mình. Bởi thế mỗi con chữ là một tác
phẩm nghệ thuật, là sự kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn của người viết. Mỗi con chữ là hiện thân của khí phách, của
thiên lương và tài hoa. Chữ Huấn Cao thể hiện nhân cách Huấn Cao. Nó q giá khơng chỉ vì được viết rất nhanh,
“đẹp lắm, vng lấm” mà trước hết vì đó là những con chữ nói lên khát vọng tung hồnh của một con người. Chính
vì thế mà có được chữ ơng Huấn Cao đã trở thành tâm nguvện lớn nhất, thiêng liêng nhất của quản ngục. Để có
được chữ Huấn Cao, quản ngục sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả sự hi sinh về quyền lợi và sinh mệnh của mình.
Nhưng Huấn Cao không chỉ là một đấng tài hoa, sâu xa hơn, ơng cịn có một tấm lịng - đó là tấm lòng biết quý
trọng phần thiện tâm sâu xa trong mỗi con người.
Một nhà văn nước ngoài đã nói: "Hãy đập vào trái tim mình thiên tài là ở đó". Thì ra cội nguồn của tài năng là ở
trái tim, gốc của cái tài là cái tâm. Tấm lòng biết trọng thiên lương là gốc rễ của nhân cách Huấn Cao. Trong mắt
Huấn Cao, quản ngục chỉ là một kẻ tầm thường làm nghề thất đức. Bởi thế, Huấn Cao đã thể hiện sự khinh bỉ
không cần giấu diếm, đến khi nhận ra quản ngục là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật
Cảm hứng lãng mạn bao giờ cũng xui khiến các nghệ sĩ khắc họa những hình tượng sao cho hồn hảo thậm chí
đến mức phi thường. Ơng Huấn Cao cũng thế. Nguyễn Tuân đã khiến cho hình tượng này trở thành một con người
siêu phàm với việc tơ đậm một khí phách siêu việt. Căm ghét xã hội thối nát, ông đã cầm đầu cuộc khởi nghĩa
chống lại triều đình, sự nghiệp khơng thành, ơng lĩnh án tử hình. Nhưng tù đầy, gơng cùm và cả chết cũng không
khuất phục được ông. Đối với Huân Cao, mọi sự trói buộc, tra khảo, giam cầm đều vơ nghĩa. Và khi quản ngục hỏi
ơng muốn gì để giúp, ông đã trả lời bằng sự khinh bạc: “Nhà người đừng đặt chân vào đây nữa” Lời nói của ơng có
thể là ngun cớ để ơng phải rước lấy những trận trả đũa. Nhưng một khi đã nói nghĩa là ông không hề run sợ,
không hề quy phục trước cường quyền và bạo lực. Có thể Huấn Cao sừng sững trong suốt cả thiên truyện như một
khí phách kiên cường bất khuất, uy vũ bất năng khuất.
Những phẩm chất tuyệt vời đó Huân Cao đã chói sáng lên trong cảnh tượng cuối cùng mà Nguyễn Tuân đã gọi là
cảnh tượng xưa nay chưa từng có - cảnh cho chữ. Cảnh cho chữ là sự biểu hiện sống động rực rỡ và tài hoa, phẩm
chất và khí phách của Huấn Cao.
Với một tương quan như vậy, quan hệ giữa họ ban đầu rất căng thẳng. Tâm nguyện lớn nhất của quản ngục là có
được chữ của ông Huân Cao nhưng đây là cơ hội cuối cùng. Cịn Hn Cao tuy có tài viết chữ nhưng lại chỉ cho
chữ những ai ông cho là tri kỉ. Vậy muốn có chữ Hn Cao thì quản ngục phải được ơng thừa nhận là tri kỉ trong
vịng mấy ngày tới. Điều đó lại dường như khơng thể đạt được. Trong mắt Huấn Cao, quản ngục cũng có những ưu
thế để đối xử với những người tù thơng thường. Đó là ơng là có thừa quyền lực và tiền bạc. Nhưng Huân Cao
không phải hạng tiểu nhân như thế, quyền lực không ép được ông cho chữ, tiền bạc không mua được chữ ông. May
thay ở viên quản ngục lại có một tấm lịng trong trẻo – tấm lòng “biệt nhỡn liên lài”. Và tấm lòng này đã khiến cho
Huấn Cao cảm động. Sự cảm này của Huấn Cao là cội nguồn dẫn đến cảnh cho chữ.
Vậy là việc Huấn Cao cho chữ không giống như việc trả nợ một cách tầm thường, khơng giống việc một kẻ sắp bị
tử hình đang đem tài sản cuối cùng cho người sống, cũng không phải là cơ hội cuối cùng mà để Huân Cao trình
diễn tài năng, về bản chất việc cho chữ là sự xúc động của một tấm lòng một tấm lòng.
Về cảnh cho chữ Nguyễn Tuân gọi là cảnh “xưa nay chưa từng có”. Bởi trước hết lẽ ra nó phải diễn ra ở nơi sang
trọng, đàng hồng thì nó lại diễn ra trong căn buồng giam chật hẹp, hôi hám, bẩn thỉu. Và người đem cho cái đẹp lẽ
ra phải thuộc thế giới tự do thì ở đây lại là tử tù sắp bị hành hình. Đặc biệt ở đây diễn ra một sự đổi ngơi xưa nay
chưa từng có. Kẻ cầm quyền hành trong tay thì bị tước hết quyền uy, khúm núm trước Huấn Cao, kẻ tưởng chừng
bị mất cả quyền sống là ơng Huấn Cao thì trở nên đầy quyền uy khi chăm chú tô đậm từng nét chữ và cho quản
ngục những lời khuyên. Và quản ngục vái lạy Huân Cao như một bậc thánh nhân: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh.
Cảnh cho chữ là khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, cái thiện trước cái xấu, cái ác. Trong căn phòng giam ẩm
thấp đó, ánh áng rực rỡ của bó đuốc đã đẩy lùi bóng tối, mùi thơm của chậu mực đã xua đuổi mùi phân chuột, phân
gián, màu trắng của tấm lụa bạch đã xóa tan sự u ám của nhà tù. Lúc này cái đẹp đang lên ngôi, cái đẹp đang đăng
quang, ngự trị chiến thắng hoàn toàn cái xấu. Trong những con người ấy lúc này chỉ còn là niềm kính trọng, tơn
sùng cái đẹp. Phẩm chât và nhân cách của Huấn Cao đang tỏa sáng, soi đường dẫn dắt quản ngục - một kẻ nhầm
đường, lạc lối. Qua đây tác giả cũng khẳng định rằng cái đẹp có thể tồn tại ở mọi nơi, mọi lúc, chiến thắng mọi cái
xấu, cái ác. Và cái đẹp có thể cứu rỗi linh hồn con người, giúp con người hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn. Cái
đẹp sẽ khơng bị khuất đi ngay cả khi nó bị vùi dập. Đó là giá trị nhân văn của tác phẩm.
Với nghệ thuật vẽ mây, nảy trăng và nghệ thuật đối lập, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật hình tượng Huấn Cao và
khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp. Đồng thời nhà văn còn sử dụng hệ thống ngôn ngữ cổ: biệt nhỡn liên tài,
thiên lương, bái lĩnh, sở nguyện.... mang lại cho truyện bầu khơng khí và nhịp điệu của thời phong kiến xa xưa,
giúp nhà văn tái tạo câu chuyện của một thời vang bóng.
Tại sao nói cảnh cho chữ trong tác phẩm “Chữ người tử tù” là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có
Nói cảnh cho chữ trong tác phẩm “Chữ người tử tù” là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có là vì:
Khơng gian và thời gian rất đặc biệt (nơi ngục tù bẩn thỉu,tường đầy mạng nhện,đất bừa bãi phân chuột,phân gián;
cảnh diễn ra vào lúc đêm khuya trong nhà ngục tối tăm).
- Người cho chữ trong cảnh “cổ đeo gông, chân vướng xiềng”; ngày mai lại phải vào kinh chịu án tử hình.
- Vị thế các nhân vật bị đảo ngược (tử tù thành thần tượng,ân nhân của cai ngục; cai ngục thành người ngưỡng
mộ,chịu ơn tử tù). Ngục tù sụp đổ,cái đẹp của nghệ thuật thư pháp và tài hoa,thiên lương thăng hoa. Ánh sáng chiến
Có mấy lần viên quản ngục vái lạy Huấn Cao? Ý nghĩa của những lần đó?
Gợi ý:\r\n\r\nTrong truyện có hai lần viên quản ngục bái lạy Huấn Cao:
+Lần 1 : Tư thế “xin lĩnh ý” khi bị Huấn Cao đổi ra khỏi phòng giam : Thái độ trân trọng, nghe theo một cách cung
kính
+Lần 2: Tư thế “xin bái lĩnh” khi nghe lời khuyên của Huấn Cao ở cuối truyện : tư thế vừa lạy vừa nhận lấy lời di
huấn một cách trang trọng.
- Cả hai tư thế đều đẹp, đều phản ánh tấm lòng trân trọng cái đẹp, cái thiện, tấm lòng hướng thiện ở nhân vật viên
quản ngục . Nhưng so với tư thế “ Xin lĩnh ý” thì tư thế “xin bái lĩnh” đẹp hơn rất nhiều. Hình ảnh viên quản ngục
khơng cịn nhỏ bé đáng thương mà trỏ lên cao đẹp, lồng lộng, tư thế “ cúi đầu làm cho con người ta trở lên cao cả
hơn, lớn lao hơn, lẫm liệt hơn, sang trọng hơn. …Đấy là cái cúi đầu của Cao Bá Quát trước hoa mai vậy” ( Nguyễn
Đăng Mạnh)
Hình tượng người quản ngục trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
“Chữ người tử tù” là một tác phẩm hay của tác giả Nguyễn tuân, đây là một tác phẩm yêu thích của tơi. Và tơi hồn
tồn phản đối bài viết của tác giả Trần Hà Nam khi nhận xét về tác phẩm này và nhân vật viên quan coi ngục. Có lẽ
về tuổi đời và kiến thức của tơi chưa bằng tác giả trên, nhưng tôi cũng xin đưa ra một vài ý kiến của riêng mình.
Theo như tác giả đã giới thiệu, viên quản ngục vốn là người đã từng “đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”, là người có
cái tâm, là “một âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xơ bồ” – đó là điều tác
giả đã khẳng định.
đến chuyện đó. Nhưng có thể đốn ra phần nào qua chức vụ của ông, của một viên quản ngục, buộc ông phải làm
thế. Tuy nhiên, tác giả cũng đã nói rằng viên quan này là “người có tính cách dịu dàng và biết giá người, biết trọng
ngưòi ngay”. Đối xử với Huấn Cao, khi nghe bọn lính lệ nhắc đến hai từ “để tâm”, ông hiểu, nhưng ông không làm
thế, không phải vì “ngưịi đó là Huấn Cao – người sở hữu báu vật”, mà Huấn Cao cịn là người ơng hằng kính
Việc ông muốn có chữ của Huấn Cao, đó không phải là sự thèm khát, mà là ước nguyện của ông. Phải nói cho rõ,
“ước nguyện” và “thèm khát”, hai từ này khác xa nhau về ngữ cảnh, ít nhất là đối với bài “Chữ người tử tù”. Tác
giả đã xây dựng được một hình tượng người quản ngục giữa chốn ngục tối mà nung nấu được cái sở nguyện cao
q như vậy.
Ơng là quản ngục, nhưng khơng có nghĩa là trong nhà tù ơng có tồn quyền sinh sát. Cho nên khi trải lụa cho Huấn
Cao viết chữ, ông đã không mở cùm gông, thêm nữa, nhà lao là nơi tai mắt rất nhiều, nếu sự việc có bị bại lộ thì sẽ
mang thêm trọng tội cho cả ba người. Chi tiết mà tác giả nói đến: “Huấn Cao cổ đeo gơng, chân vướng xiềng đang
dậm tô nét chữ” là muốn khẳng định sự bất tử của cái tài cái đẹp dù ở bất cứ đâu. Nét chữ ra đời trong khi “cổ
vướng gông, chân vướng xiềng” và nét chữ ra đời trong tư thế mà tác giả Trần Hà Nam gọi là “thể hiện trọn vẹn
thần thái khí phách người viết chữ”, suy cho cùng, cũng giống nhau cả thơi, có khác chăng là tư thế viết chữ, bởi
nét chữ đều đẹp, đều ý nghĩa. Nét chữ ra đời trong cảnh gơng cùm kìm kẹp, thực tế mà nói thì tất nhiên là khơng
thể “thỏa chí tung hồnh”. Nhưng trong tư tưởng, đó vẫn là con người tự do với những hoài bão tung bay. Chả thế
mà tác giả cũng đã nói rằng khi Huấn Cao ngồi từ, ông vẫn nghĩ đến cái “chí lớn không thành”. Huấn Cao đã dành
những giây phút cuối cùng của cuộc đời để sáng tạo cái đẹp, để cái đẹp bất tử, nói những lời khuyên cuối cùng
dành cho người mà ông coi như người bạn tri kỉ.
Vẻ đẹp của viên quản ngục trong bài văn chữ người tử tù
Nếu như nhân vật Huấn Cao là biểu tượng về cái đẹp với sức mạnh hướng thiện của nó, thì nhân vật viên quản
ngục được sáng tạo ra là để hiện thực hóa sức mạnh ấy. Có viên quản ngục thì ý đồ nghệ thuật của nhà văn mới
thực hiện được
Nhưng vai trị cực kì quan trọng ấy của nhân vật quản ngục không dễ nhận ra, bởi vì nhân vật này dường như được
Nguyễn Tuân “giấu” đi, ẩn xuống hàng thứ hai đằng sau nhân vật Huấn Cao. Cảm giác ban đầu khi đọc Chữ người
Tính cách của nhân vật Huấn Cao có phần một chiều, bất biến và đơn giản, ít những bất ngờ. Trái lại, nhân vật viên
quản ngục có sự vận động về tính cách. Trước khi là quản ngục, ông ta cũng là người đèn sách, “biết đọc vỡ nghĩa
sách thánh hiền”. Là người lương thiện, tử tế, lại có chữ thánh hiền bồi đắp cho “thiên lương” nảy nở tốt đẹp, ông
ta yêu đến say mê cái đẹp, “cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng
mình một đơi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”.
Nhưng sự đời run rủi, và “ông trời nhiều khi chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã.
Và những người thẳng thắn lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”, quản ngục sa vào chỗ tối tăm, phẩm chất từ đó
đã hoen ố đi ít nhiều. Giữa chốn tù ngục hầu như chỉ tồn tại hai thứ : cái ác, cái xấu, tàn nhẫn, lừa lọc và những nỗi
đau khổ, tuyệt vọng. Tình cờ, viên quản ngục gặp được ơng huấn Cao, gặp thần tượng của mình, gặp trong hồn
cảnh cực kì éo le : giữa chốn ngục thất, thần tượng của ông giờ đây lại là một tử tù, cịn ơng là cai ngục. Một tình
huống đầy kịch tính được mở ra : ở bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch nhau ; ở bình diện nghệ thuật, họ lại
là tri âm, tri kỉ của nhau. Kẻ cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình lại là một nghệ sĩ tài hoa tầm cỡ “thiên
hạ đệ nhất thư pháp”, kẻ đại diện cho luật pháp của triều đình lại là người có “tấm lòng biệt nhỡn liên tài”’ ngưỡng
mộ tài thư pháp ấy. Cuộc “kì ngộ” khiến cho lịng u cái đẹp trong quản ngục sống dậy mãnh liệt tới mức ơng có
thể bất chấp cả tính mạng và địa vị, mong sao có được mấy chữ của ơng Huấn.
“tên bát phẩm thơ lại này đem cáo giác với quan trên thì khó mà ở n”, ơng phải “dò ý tứ hắn lần nữa xem sao rồi
sẽ liệu”.
Nhân vật viên quản ngục được xây dựng với bút pháp giàu chất hiện thực, gần với cuộc đời hơn, thật hơn. Và chính
ở đây thể hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Đọc truyện, người đọc như thấy hiện ra trước mắt dáng đi,
điệu đứng, lời ăn tiếng nói của viên quản ngục này. Lúc ở công đường, dáng điệu của y rõ bệ vệ, quan cách, oai
Trong nhận xét rất tinh tế của người dẫn truyện thì viên quản ngục có “tính cách dịu dàng và lịng biết giá người”.
Ơng được coi “là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”, là “cái
thuần khiết” bị đày ải “vào giữa một đống cặn bã”, là “người thẳng thắn lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”. Là
quản ngục, nhưng ông ta cũng chính là tù nhân chung thân của cái nhà tù do ông cai quản. Cái danh, cái lợi, trách
nhiệm, bổn phận của một ngục quan là những thứ gơng cùm, xiềng xích vơ hình xiết chặt tâm hồn quản ngục suốt
đời. “Lũ người quay quắt”, cái “đống cặn bã” bao quanh ơng chẳng khác gì nơi buồng tối giam tử tù “một buồng
tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đã có lúc, ngục quan thấm thía
thân phận lạc lồi, cơ đơn giữa chốn tù ngục của chính mình, y than thở một mình : “Có lẽ lão bá này, cũng là một
người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi”. Nếu như bi kịch của ông Huấn là bi kịch của
người anh hùng thất thế, thất thế nhưng vẫn kiêu hùng, lẫm liệt ; thì bi kịch của ngục quan là bi kịch lầm đường. kẻ
lầm đường lạc lối, may thay, vẫn cịn có lương tri, lương năng, cịn có “lịng biệt nhỡn liên tài”, cịn có khát vọng
giải thốt. Y tơn thờ cái đẹp, say mê cái đẹp để hi vọng tự giải thoát. Lúc ngục quan gặp huấn Cao thì “đầu đã điểm
hoa râm, râu đã ngả màu”, “bộ mặt tư lự” đã hằn nhiều nếp nhăn của cuộc đời “tù nhân” nhọc nhằn, nhưng khát
vọng giải thoát biểu hiện ở khát vọng hướng tới cái đẹp vẫn mãnh liệt vô cùng. Âm ỉ bấy lâu, nay nó bùng cháy lên
thành lửa ngọn. Ngục quan tự hạ mình xuống trước tử tù, nhẫn nhục chấp nhận sự “khinh bạc đến điều” của ông
Huấn. Y không oán thù, y biết người ta, “y cũng thừa hiểu những người chọc trời quấy nước, đến trên đầu người ta,
người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Về bản chất, đó là sự
ngưỡng mộ trước cái đẹp một cách hoàn tồn tự nguyện. Hành động biệt đãi ơng Huấn cũng là xuất phát từ lịng
say mê đó. Nhưng đến cuối tác phẩm thì khơng chỉ cịn là chuyện say mê, tôn thờ mấy cái chữ đẹp nữa, mà cao hơn
thế, đó là sự trân trọng, tơn thờ nhân cách cao quý của một bậc tài danh. Bị cái đẹp và nhân cách cao thượng của
ông Huấn thuyết phục, viên quản ngục thực sự cảm động cũng giống như ông Huấn Cao đã cảm động trước “sở
thích cao quý” và “tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của ngục quan. Đó là điểm gặp gỡ để trở thành tri âm, tri kỉ của hai
con người cách nhau quá xa về vị trí xã hội. Sự tri kỉ ấy được đánh dấu bằng dịng lệ và tiếng nói nghẹn ngào : “Kẻ
Vận mệnh nghệ thuật của tính cách ông Huấn Cao đã kết thúc cùng với sự kết thúc của thiên truyện ; trong khi đó,
vận mệnh vẫn còn tiếp tục ở nhân vật viên quản ngục : người đọc có thể tin rằng sau những lời khuyên bảo ân cần
của ông Huấn, viên quản ngục đã luống tuổi ấy sẽ từ bỏ nghề bất nhân về quê ở để giữ thiên lương cho trong sạch,
lành vững.
Nhân vật viên quản ngục là một sáng tạo rất mực sinh động của Nguyễn Tuân, để vừa tơ đậm vẻ đẹp lí tưởng của
nhân vật Huấn Cao, lại vừa thể hiện vẻ đẹp của một con người đang được dắt dẫn bởi cái đẹp và cái thiện. Đây là
kiểu sáng tạo nhân vật rất mới trong văn học hiện đại Việt Nam, cái cách để cho nhân vật tự tạo tính cách.
Cảm nhận về hình ảnh bát cháo hành trong truyện "Chí Phèo" và hình ảnh bát cháo cám trong "vợ nhặt"
Cảm nhận của anh/chị về ý nghĩa của hình ảnh bát cháo hành trong truyện ngắn “Chí Phèo” (Nam Cao) và hình ảnh
bát cháo cám trong truyện ngắn “Vợ nhặt” (Kim Lân).
<b>1. Giới thiệu chung về các tác giả, tác phẩm và hai hình ảnh:</b>
- Nam Cao, cây bút hiện thực xuất sắc và thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Chí Phèo (1941) là kiệt tác đã kết tinh cao
nhất đặc điểm nghệ thuật của nhà văn.
- Kim Lân là một cây bút có sở trường truyện ngắn, có nhiều trang viết cảm động về đề tài nông thôn và người
nông dân. Văn phong của ơng giản dị mà thấm thía. Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của đời
văn Kim Lân nói riêng và văn học kháng chiến nói chung.
- Hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và bát cháo cám trong Vợ nhặt đều là những hình ảnh đặc sắc, góp phần
thể hiện rõ nét nội dung tư tường của các tác phẩm và tài năng của các nhà văn.
<b>2. Trình bày cảm nhận: </b>
<b>a. Hình ảnh bát cháo hành: </b>
<b>* Sự xuất hiện: Hình ảnh này xuất hiện ở phần giữa truyện. Chí Phèo say rượu, gặp Thị Nở ở vườn chuối. Khung </b>
cảnh hữu tình của đêm trăng đã đưa đến mối tình Thị Nở - Chí Phèo. Sau hơm đó, Chí Phèo bị cảm. Thị Nở thương
tình đã về nhà nấu cháo hành mang sang cho hắn.
- Về nội dung:
+ Thể hiện sự chăm sóc ân cần, tình thương vơ tư, khơng vụ lợi của thị Nở khi Chí Phèo ốm đau, trơ trọi.
+ Là biểu hiện của tình người hiếm hoi mà Chí Phèo được nhận, là hương vị của hạnh phúc, tình yêu muộn màng
mà Chí Phèo được hưởng.
+ Là liều thuốc giải cảm và giải độc tâm hồn Chí, gây ngạc nhiên, xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ
về tình trạng thê thảm hiện tại của mình. Nó khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào
một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện. Như vậy, bát cháo hành đã đánh thức nhân tính bị vùi lấp lâu
nay ở Chí Phèo.
- Về nghệ thuật:
+ Là chi tiết rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch
của nhân vật.
+ Góp phần thể hiện sinh động tư tưởng Nam Cao: tin tưởng vào sức mạnh cảm hố của tình người.
<b>b. Hình ảnh nồi cháo cám:</b>
* Sự xuất hiện: Hình ảnh này xuất hiện ở cuối truyện, trong bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới của gia đình bà cụ
Tứ.
* Ý nghĩa:
- Về nội dung:
+ Đối với gia đình Tràng, nồi cháo cám là món ăn xua tan cơn đói, là món ăn duy nhất của bữa tiệc cưới đón nàng
dâu mới về. Qua đó, tác giả đã khắc sâu sự nghèo đói, cực khổ và rẻ mạt của người nơng dân trong nạn đói 1945.
+ Qua chi tiết nồi cháo cám, tính cách của nhân vật được bộc lộ.
Bà cụ Tứ hiện lên là một người mẹ đảm đang, yêu thương con hết mực.
Vợ Tràng đã có sự thay đổi về tính cách. Hết sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám nhưng người con dâu mới vẫn
điềm nhiên và vào miệng để làm vui lòng mẹ chồng. Chứng tỏ, Thị khơng cịn nét cách chỏng lỏn như xưa nữa mà
đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới.
+ Nồi cháo cám là nồi cháo của tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng. Trong hồn cảnh đói kém, mẹ con
Tràng dám cưu mang, đùm bọc thị, chia sẻ sự sống cho thị. Bà cụ Tứ nói tồn chuyện vui, đem nồi cháo cám ra đãi
nàng dâu vốn để làm không khí vui vẻ hơn.
- Về nghệ thuật: Chi tiết góp phần bộc lộ tính cách các nhân vật, thể hiện tài năng của tác giả Kim Lân trong việc
lựa chọn chi tiết trong truyện ngắn.
<b>3. So sánh:</b>
- Giống nhau:
+ Cả 2 hình ảnh đều là biểu tượng của tình người ấm áp.
+ Đều thể hiện bi kịch của nhân vật và hiện thực xã hội: Ở "Chí Phèo" là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người [bát
cháo hành rất bình di, thậm chí là nhỏ bé, tầm thường nhưng đó là lần đầu tiên Chí được cho mà không phải đi
cướp giật]. Ở "Vợ nhặt", số phận con người cũng trở nên rẻ mạt.
+ Đều thể hiện tấm lịng nhân đạo sâu sắc, cái nhìn tin tưởng vào sức mạnh của tình yêu thương con người của các
nhà văn.
- Khác nhau:
+ Bát cháo hành: biểu tượng của tình thương mà thị Nở dành cho Chí Phèo nhưng xã hội đương thời đã cự tuyệt
Chí, đẩy Chí vào bước đường cùng. Qua đó, chúng ta thấy bộ mặt tàn bạo, vơ nhân tính của XH thực dân nửa
phong kiến cũng như cái nhìn bi quan, bế tắc của nhà văn Nam Cao.
+ Nồi cháo cám: biểu tượng tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng vào phẩm chất tốt đẹp của người dân lao
động trong nạn đói. Sau bát cháo cám, mọi người nói chuyện về Việt Minh. Qua đó, thức tỉnh ở Tràng khả năng
c/mạng. Như vậy ở Kim Lân có cái nhìn lạc quan, đầy tin tưởng vào sự đổi đời của nhân vật, dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
+ Có sự khác nhau đó là do ảnh hưởng của lí tưởng Cách mạng với mỗi nhà văn (chú ý thời điểm sáng tác các tác
phẩm)
Đọc truyện Chí Phèo cua Nam Cao, em thích nhất chi tiết, hoặc hình ảnh nào? Hãy đặt tên tiêu đề và viết bài phân
tích, hoặc bình giảng chi tiết, hoặc hình ảnh đó
Tác phẩm Chí Phèo của nhà văn hiện thực và nhân đạo Nam Cao là một bức tranh thê thảm đầy bi thương của kiếp
sống đói nghèo nhưng lương thiện, bị xơ đẩy, tha hố rất đáng cảm thương của những người nơng dân.
<b>Đọc truyện Chí Phèo của Nam Cao, em thích nhất chi tiết, hoặc hình ảnh nào ? Hãy đặt tên tiêu đề và viết </b>
<b>bài phân tích, hoặc bình giảng chi tiết, hoặc hình ảnh đó</b>
<b>BÀI LÀM</b>
Bát cháo hành liều thuốc giải độc. Tác phẩm Chí Phèo của nhà văn hiệu thực và nhân đạo Nam Cao là một bức
tranh thê thảm đầy bi thương của kiếp sống đói nghèo nhưng lương thiên, bị xơ đẩy, tha hố rất đáng cảm thương
của những người nơng dân.
thị Nở...) Chí Phèo đã có ý thức vươn lên khao khát được làm người lương thiện. Động lực thúc đẩy là tình thương
Khi nhận được bát cháo hành, Chí rất ngạc nhiên. "Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình ươn ướt". Và Chí Phèo đã
khóc, dịng nước mắt xúc động, nghẹn ngào. Hắn đã khóc vì "lần thứ nhất hắn được người đàn bà cho. Tự bao giờ
những tình cảm con người đã thức dậy trong tâm can "con vật lạ, con thú dữ của làng Vũ Đại ấy. Bên cạnh Chí, thị
Nở múc cháo” trộm hắn rồi lại cười toe toét. Trông Thị thế à có dun...''. Lần đầu tiên, Chí đã biết đến cái duyên
của một con người. Rồi hắn nhớ lại khi xưa, nghĩ về quá khứ của mình khi phải săn sóc cho "bà ba", phải làm
những việc xấu xa, hắn dã thấy nhục hơn là thích, rồi hắn thấy sợ. Xưa kia, cũng như bây giờ hắn thật trong sáng,
lương thiên. "Vì vậy bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có the tìm bạn được. Đây là một đoạn
văn tuyệt bút, đầy chất thơ.
Đồng thời khi ăn bát cháo ấy, "hắn vã mồ hôi thật nhiều". Và tất nhiên với một người cảm gió, mồ hơi ra được
nhiều sẽ khỏi. Hắn cũng thế, đã khỏi bệnh. Hắn đã cảm nhận được vị ngon của cháo "Trời ơi! Cháo mới thơm làm
sao... những người suốt đời không ăn cháo hành không biết cháo hành rất ngon. Nhưng tại sao mãi đến bây giờ mới
nếm vị cháo ":" Hắn tự hỏi rồi lại tự trả lời. Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi tay đàn bà”
Câu trả lời cua Chí một lẩn nữa khẳng định sự kì diệu mà thị Nở đã đem đến cho Chí Phèo. Một tình cảm ngàn
vàng giữa những con người cùng cảnh ngộ khốn cùng.
Cuộc gặp gỡ thị Nở đã tỏa sáng như một tia chớp trong cuộc đời tăm tối của Chí Phèo. Tình u thương đã thức
tinh Chí và linh hồn của Chí lâu nay phải bán cho quỷ dữ để đổi lấy miếng cơm,, manh áo thì nay đã trở về với bát
cháo hành và tình thương của Thị Nở là một liều thuốc q khơng gì so sánh được mà nhà văn đã ban cho Chí Phèo
bằng tấm lịng nhân đạo của mình.
<b>Giá trị hiện thực và nhân đạo trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao</b>
Là nhà vãn trung thành với chù nghĩa chân thực, cũng như các cây bút tả chân đương thời, Nam Cao quan tâm
trước hết tới việc đi sâu thể hiện tình cảm khốn khổ của người nghèo bị áp bức, trong đó có tác phẩm Chí Phèo.
<b>DÀNBÀI</b>
<b>1. Mở bài</b>
Là nhà vãn trung thành với chù nghĩa chân thực, cũng như các cây bút tả chân đương thời, Nam Cao quan tâm
trước hết tới việc đi sâu thể hiện tình cảm khốn khổ của người nghèo bị áp bức, trong đó có tác phẩm Chí Phèo.
Tác phẩm tượng đậm nét về bức tranh đời sống xã hội nơng thơn. Đó là hệ thống trật tự của làng Vũ Đại: là ấn
tượng về tình trạng khép kín của làng xã phong kiến. Đặc biệt nó đã phơi bày các mối quan hệ xã hội phức tạp của
hiện thực đã miêu tả trung thực những quan hệ thực. Đồng thời là tình thương đối với những con người bị xã hội
đẩy vào con đường tha hóa, bị hắt hủi... Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo của Chí Phèo.
Nam Cao được coi là Nhà văn của nơng dân trước hết vì có tác phẩm Chí Phèo Tác phẩm có phạm vi phản ánh
hiện thực trải ra cả bề rộng không gian và bề dài thời gian. Làng Vũ Đại trong tác phẩm chính là hình ảnh thu nhỏ
của xã hội nơng thơn Việt Nam đương thời.
Ngịi bút Nam Cao tỏ ra sắc sảo khi vạch ra mối quan hệ thực trong nội bộ bọn cường hào. Chẳng phải vì đất làng
Vũ Đại có cái thế quần ngư tranh thực như lời ơng thầy địa lí nói nên bọn cường hào chia năm bè bảy cánh đối
nghịch nhau, mà do chúng là một đàn cá tranh mồi, mồi thì ngon đây, nhưng năm bè bảy mối. Ngồi mặt tử tế với
nhau nhưng trong bụng muốn cho nhau lụn bại. Đây là hiện tượng có tính quy luật ở nông thôn, ảnh hưởng sâu sắc
tới đời sống xã hội - ruồi muỗi phải chết oan uổng khi trâu bò húc nhau.
Dựng nên bức tranh xã hội ở nông thôn, trước hết Nam Cao tập trung làm nổi bật xung đột giai cấp giữa địa chủ
cường hào với người nông dân bị áp bức – phản ánh hiện thực nơng thơn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp. Nó làm
nên giá trị nhận thức và sức mạnh phê phán to lớn.
- Nam Cao đã xây dựng hình tượng điển hình về giai cấp thống trị ở nông thôn: Bá Kiến - lão cường hào cáo già
- Mở đầu tác phẩm là hình ảnh Chí Phèo ngật ngưỡng vừa đi vừa chủi. Nhưng đằng sau chân dung gã say rượu
cái gì như là sự vật vã của một linh đau đớn, tuyệt vọng. Tiếng chửi của Chí Phèo khơng hẳn là bâng quơ. Tuy
nhưng vẫn mơ hồ thấm thìa nỗi khổ của thân phận. Chí Phèo là điển hình một bộ phận cố nông bị đẩy vào con
đường lưu manh hóa. Chí Phèo trước hết hiện tượng có tính quy luật của tình trạng áp bức bóc lột tàn bạo ở nơng
thơn Việt Nam lúc bấy giờ. Đó là hiện tượng những người nông dân bị đè nén thái quá đã chống trả lại để tồn tại
bằng việc bán cả nhân phẩm đã trở thành lượng mù quáng dễ dàng bị bọn thống trị lợi dụng. Vì thế, Chí Phèo từ
chỗ liều chết với bố con lão, chỉ cần lời nói và mấy hào chỉ trở thành tay say mới lão. Sức mạnh tố cáo to lớn của
hình tượng Chí Phèo trước hết đã làm nổi hình tượng có tính quy luật diễn ra ở nơng thơn - hiện tượng lưu manh
hóa. Song ý nghĩa khái qt của hình tượng Chí Phèo cịn ở cấp độ cao hơn: sự hủy diệt nhân tính trong xã hội độc
ác, không cho con người được làm người.
<i> b) Tác phẩm Chí Phèo khơng dừng ở đó mà với câu chuyện về mối tình Chí Thị, bằng giọng vẫn bơng lơn, có </i>
lúc như chế giễu chuyện tình của hạng nửa người nửa ngợm thì đây vẫn là chuyện có nội dung nghiêm túc, chứa
đựng tư tưởng nhân đạo mới mẻ.
- Giữa lúc cả làng Vũ Đại không chấp nhận giao tiếp, xem Chí như quỷ dữ thì một người đàn bà thuộc dòng
giống mả hủi, xấu đến ma chê quỷ hờn lại có tấm lịng vàng, thấy Chí hiền lành, Thị Nở chính là chiếc cầu nối đưa
Chí ở đáy sâu của tha hóa thức tỉnh bản chất người lao động. Bằng sự chăm sóc giản dị, tình yêu thương mộc mạc
mà chân thành của người đàn bà khốn khổ đã khơi dậy linh hồn Chí Phèo. Chí nghe thấy những âm thanh cuộc
sống thường ngày mà bây lâu nay vùi trong những cơn say nên Chí khơng biết đến. Nó vang động sâu xa trong
lịng Chí, trở thành tiếng gọi cuộc sống khẩn thiết, làm Chí nhớ đến ước mơ ngày nhỏ ngày xưa. Có lẽ đây là lần
đầu tiên sau bao nhiêu năm Chí tỉnh táo để tự ý thức về thân phận. Để rồi nhận ra sự tác oai, tác quái của mình bấy
lâu nay. Và mong muốn : giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?... Hay mình sang ở với tớ một nhà cho vui? Khi Thị Nở
bê bát cháo hành đến hắn ngạc nhiên bởi đây là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Hắn nhận ra hương
cháo hành - hương vị tình yêu thương chân thành, hạnh phúc giản dị mà có thật. Hắn thèm lương thiện, làm hịa với
Giá trị nhân đạo cịn thể hiện ở tấn bi kịch tinh thần của Chí Phèo: bi kịch của con người bị từ chối không được
làm người. Khi hiểu ra xã hội không công nhaanh mình, bà cơ Thị Nở - định kiến xã hội đã khơng chấp nhân cho
cháu bà đến với Chí. Chí vật vã đau đớn. Hắn càng uống càng tỉnh , hắn ơm mặt khóc rưng rức. Chí quằn quại, đau
đớn vì tuyệt vọng, thấm thìa về tội ác kẻ thù. Chí Phèo trợn mắt chỉ tay vào Bá Kiến đòi quyền làm người, đòi lại
bộ mặt người đã bị vằm nát. Kẻ thù bị đền tội, và sau đó Chí tự sát. Chí phải chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về,
không chấp nhận kiếp thú vật. Chí Phèo chết giữa ngưỡng cửa trở về cuộc sống. Chí chết quằn quại trong vũng
máu, trong khao khát được làm người lương thiện. Ai cho tao lương thiện là lời nói đanh thép, phẫn nộ, làm người
đọc sững sờ và day dứt. Đó vẫn là một câu hỏi lớn không lời đáp.
<b>3. Kết bài</b>
Chí Phèo của Nam Cao được đánh giá cao chính ở giá trị tố cáo. Thơng qua số phận Chí Phèo, Nam Cao phản
ánh sâu sắc hiện thực xã hội Việt Nam lúc bây giờ thực trạng người nông dân bị đày đọa, đề nén và âm thầm chịu
đựng nỗi tuyệt vọng, liều lĩnh phản ứng cực đoan. Nam Cao cũng bày tỏ niềm cảm thơng, tình thương yêu đối với
người nông dân bị đẩy vào con đường lưu manh hóa, phát hiện ràn chất tốt đẹp vốn có của họ. Song cũng như các
nhà văn hiện thực đồng thời, chưa tìm được cho nhân vật của mình lối thốt. Sau này, bằng con đường cách nạng.
Tơ Hồi, Kim Lân đã tìm cho nhân vật mình một hướng đi riêng.
Phân tích truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
Chỉ là một truyện ngắn, lại là truyện ngắn sáng tác sớm của Nam Cao về đề tài nơng dân, nhưng Chí Phèo là sự
tổng hợp, sự kết tinh của ngòi bút Nam Cat về đề tài này.
<b>BÀI LÀM</b>
Chỉ là một truyện ngắn, lại là truyện ngắn sáng tác sớm của Nam Cao về đề tài nơng dân, nhưng Chí Phèo là sự
Khác với truyện ngắn cùng đề tài của tác giả, Chí Phèo có phạm vi hiện thực được phản ánh trải ra cả bề rộng
không gian (một làng quê) và cả bề dài thời gian. Có thể nói, làng Vũ Đại trong truyện chính là hình ảnh thu nhỏ
của xã hội nơng thơn Việt Nam đương thời.
Những năm 1940 - 1945, nông thôn vẫn là một đề tài lớn trong văn xuôi khu vực hợp pháp. Các nhà văn đã đi
vào đề tài này theo chiều hướng khác nhau. Trước hết là đi vào phong tục tập quán dân quê, sự lục đục giữa vợ cả
và vợ lẽ, mẹ chồng và nàng dâu, dì ghẻ và con chồng, anh và em, chú bác, cô cậu và những đứa cháu bên nội, bên
ngoại.
Song, dựng lên bức tranh xã hội ở nông thôn, Nam Cao trước hết tập trung nổi bật mối xung đột giai cấp đối
kháng giữa bọn địa chủ cường hào thống trị và người nơng dân bị áp bức bóc lột. Tức là, cũng như tác giả Tắt đèn,
Bước cùng.... Nam Cao đã phản ánh hiện thực nông thôn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp.
Chí Phèo của Nam Cao đã xây dựng một hình tượng điển hình khá hồn chỉnh về giai cấp phong kiến thống trị ở
nông thôn: Bá Kiến.
Chân dung lão cường hào cáo già Bá Kiến dần dần hiện rõ trong tác phẩm những nét tính cách được thể hiện hết
sức sinh động, đầy ấn tượng. Đó là khái quát “rất sang” (“bắt đầu bao giờ cụ cũng quát để thử dây thần kinh mọi
người”), lối nói ngọt nhạt, và nhất là “cái cười Tào Tháo” (“cụ vẫn tự phụ hơn đời cái cười Tào Tháo ấy”) - tất cả
đều cho thấy bản chất gian hùng của lão cường hào “khơn róc đời” này. Nam Cao cũng hé cho thấy tư cách nhem
nhuốc của “cụ tiên chỉ”: đó là thói ghen tng thảm hại của lão cường hào háo sắc mà sợ vợ - lão cay đắng nhận ra
mình “già yếu quá ” mà “bà Tư” thì “cứ trẻ, cứ phây phây”, “nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ... khác gì nhai
miếng bị lựt sựt khi rụng gần hết răng". Đó là chuyện lão gỡ gạc tồi tệ đối với người vợ lính vắng chồng... Và bổ
sung vào đó, để cho sự thối nát của nhà “cụ Bá” được hoàn chỉnh, cịn có “Bà Tư” quỷ cái “thường gọi canh điền
lên bóp chân mà lại “cứ bóp lên trên, trên nữa’’... Nhà văn chỉ kể qua, nhẹ nhàng, - tuy không kém thâm thúy, chứ
không sa đà trong việc soi mói đời tư thối tha của lão cường hào.
Ơng tập ưung ngịi bút vào việc soi sáng bản chất xã hội của nhân vật, chủ yếu thể hiện trong mối quan hệ với
người nông dân bị áp bức. Đoạn độc thoại nội tâm rất mực sinh động của “cụ tiên chỉ làng Vũ Đại" về cái “nghề
tổng lí”cho thấy Nam Cao chẳng những soi thấu tim đen của nhân vật mà còn tỏ ra hiểu rất sâu các mối quan hệ xã
hội ở nông thôn. Bá Kiến đã lặng lẽ nghiền ngẫm về nghề thống trị, rút ra từ bốn đời tổng lí những phương châm,
thủ đoạn thống trị khơn ngoan: “mềm nắn, rắn bng”, “bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu", “thứ nhất sợ kẻ
anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân”, “chỉ bóp đến nửa chừng", "hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông
nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn"... Cịn đây là chính sách dùng người của lão: “khơng có những thằng đầu bị
thì lấy ai trị những thằng đầu bị”, “thu dụng những thằng bạt mạng khơng sợ chết và không sợ đi tù. Những thằng
ấy chính là những thằng được việc. Khi cần đến chỉ cho nó dăm hào uống rượu là có thể sai nó đến tác oai tác quái
bất cứ anh nào khơng nghe mình (...). có chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp mà ăn.... ”... Tất cả đều nhằm sao cho
vừa bóp nặn được nhiều nhất, vừa giữ chắc cái ghế thống trị. Tâm địa thâm độc tới ghê sợ của Bá Kiến còn thể
hiện trong việc hắn nhẹ nhàng “khích” Chí Phèo địi nợ đội Tảo, đẩy những kẻ sẵn sàng đâm chém ấy vào chỗ
chém nhau, để kẻ nào sống “cũng có lợi cụ cả”! Bá Kiến thật là một con hổ biết cười!.
Vạch khổ cho người nông dân bị áp bức bóc lột, Nam Cao khơng đi vào nan sưu thuế, nạn chiếm đoạt ruộng đất,
nạn tô tức, quan tham lại những, thiên tai địch họa.... ở Chí Phèo và nhiều truyện nữa, nhà văn đi vào một phương
khác: người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó, bị phủ nhận giá trị, tư cách làm
người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo khơng phải ở chỗ tất cả cuộc đời người nông dân cố cùng này chỉ là
một không: không nhà, không cửa, không cha khơng mẹ, khơng họ hàng thân thích khơng tấc đất cắm dùi, cả đời
không hề biết đến một bàn tay chăm sóc của đàn bà nếu khơng gặp Thị Nở..., mà chính là ở chỗ anh đã bị xã hội
rạch nát cả bộ mặt người, cướp đi linh hồn người, để bị loại ra khỏi xã hội loài người, phải sống kiếp sống tối tăm
của thú vật. Mở đầu truyện là hình ảnh hết sức sống động, độc đáo của Chí Phèo khật khưỡng vừa đi vừa chửi.
Nhưng đằng sau cái chân dung gã say rượu chửi lảm nhảm được vẽ bằng những nét bút tưởng đâu là kí họa gây
cười ấy, nếu đọc kĩ cịn có thể thấy một cái gì như là sự vật vã của một linh hồn đau đớn, tuyệt vọng. Khơng, tiếng
chửi của Chí Phèo khơng hẳn là bâng quơ. Hắn từ “chửi trời” đến “chửi đời” rồi “chửi ngay tất cả làng Vũ
Đại...” .Và hắn bỗng tức tối khi thấy “không ai lên tiếng cả”... Trong cơn say hắn vẫn cảm thấy tuy mơ hồ mà thấm
thìa “nơng nỗi" khơn khổ của thân phận. Đó là “nơng nỗi” khơng có người nào chịu chửi lại hắn! Có nghĩa là tất cả
mọi người đã dứt khốt không coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người, là còn bằng lòng
giao tiếp, đối thoại với hắn. Chí Phèo chửi cả làng với... hi vọng được người nào đó chửi lại. Những tín hiệu yêu
Giá trị điển hình, sức mạnh tố ếo to lớn của hình tượng Chí Phèo trước hết là ở chỗ làm nổi bật lên cái hiện
tượng có tính quy luật vẫn hằng diễn ra ở xã hội nông thôn đầy bất công và tội ác đương thời đó. Vấn đề của Chí
Phèo là vấn đề nơng dân - với ý nghĩa đó, vẫn có thể nói Chí Phèo là một hình tượng điển hình về nông dân.
Truyện ban đầu được tác giả đặt tên là Cái lị gạch cũ; hình ảnh cái lò gạch cũ được xuất hiện ở phần mở đầu và
cả khi kết thúc truyện. Rõ ràng đó là ý nghệ thuật của Nam Cao. Cái lò gạch cũ như là một biểu tượng về sự hiện
tất yếu của hiện tượng Chí Phèo, gắn liền với tuyến chủ đề chính của tác phẩm.
Câu chuyện mối tình Chí Phèo - Thị Nở quả là hấp dẫn đặc biệt. Song mặc dù giọng văn bơng lơn, có lúc như chế
giễu, mặc dù đối với một số người, đó là sự hấp dẫn của loại truyện tình bờ hụi của hạng nữa người ngợm, ngưu
tầm ngưu mã tầm mã, “đơi lứa xứng đơi”, thì đây vẫn thật sự là truyện có một nội dung hết sức nghiêm túc, chứa
đựng một tư tưởng nhân đạo thật mới mẻ, độc đáo đem lại cho tác phẩm một tầm vóc bất ngờ.
Ban đầu, Chí Phèo đến với Thị Nở một cách rất... Chí Phèo. Trong một đêm “rười rượi những trăng”, có những
tầu chuối nằm ngửa ưỡn cong cong lên hứng lấy trăng xanh rười rợi như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay lại
giãy lên đành như là “hứng tình”, Chí Phèo rất say và cảm thấy “bứt rứt”, “ngứa ngáy" da thịt, đã xông tới người
đàn bà khốn khổ “dại dột đã nằm ềnh ệch mà ngủ ngay gần nhà hắn”. Khi Thị Nở hốt hoảng kêu làng, thì “cái
thằng trời đánh không chết ấy lại kêu to hơn, “vừa kêu vừa dằn người đàn bà xuống”! Trâng no, lì lợm đến thế là
cùng! Nhưng điều kì diệu đã xảy ra là, nếu như ban đầu, Thị Nở chỉ khơi dậy bản năng giống đực ở gã đàn ơng Chí
Phèo, thì sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và lịng u thương mộc mạc mà chân thành của đàn bà khốn khổ
ấy đã làm thức dậy bản chất lương thiện của người lao động trong Chí Phèo. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh
hồn Chí Phèo sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, là một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ và tập trung thể hiện tư tưởng nhân
đạo sâu sắc bất ngờ cùa ngòi bút Nam Cao.
Sáng hơm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy muộn và lòng “bâng khuâng”, “mơ hồ buồn”. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm,
Chí Phèo mới lại nghe thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ
nể chèo đuổi cá...Những âm thanh quen thuộc trong cuộc sống lao động xung quanh ấy hơm nào chả có, nhưng
hơm nay bỗng trở nên vang động sâu xa trong lịng Chí Phèo, trở thành những tiếng gọi tha thiết của cuộc sống
đàn bà cho”. Hắn ăn bát cháo từ tay Thị Nở và bỗng nhận thấy rằng cháo hành ăn rất ngon. Bởi vì hương vị cháo
hành này chính là hương vị của tình yêu thương chân thành, của hạnh phúc giản dị, mà có thật, lần đầu tiên đến với
Chí Phèo. Lần đầu tiên, Chí Phèo mắt "như ươn ướt", “ơi sau mà hắn hiền, ai dám bảo đó là thằng Chí Phèo vẫn
đập đầu, rạch mặt của mình". Trở lại là anh canh điền trong trắng năm xưa cảm thây bị xúc phạm khi bị cái bà ba
“quỷ cái" gọi lên bóp chân, trở lại anh nông dân lương thiện từng mơ ước cuộc sống gia đình hạnh phúc hết sức
bình dị khiêm nhường trong lao động... "Đó là cái bản tính của hắn ngày thường bị lấp đi... ”
Như vây là, lịng u thương, cái tình người chân thành đã làm sống lại trong Chí Phèo cái bản chất đẹp đẽ của
người nông dân lao động, bao lâu nay bị cho lấp, vùi dập nhưng vẫn không tắt. Bọn cường hào và nhà tù thực dân,
nói rộng ra là cả cái xã hội tàn bạo ấy, ra sức giết chết cái “bản tính tốt" ấy của anh “Trần trụi giữa bầy sói”, anh
khơng thể hiền lành, trong trắng, mà để tồn tại anh phải cướp giật, ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phải liều và mạnh,
những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo ln ln say, “ hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn
làm" - xét cho cùng, Chí Phèo khơng chịu trách nhiệm về những hành động của mình: linh hồn của anh đã bị cướp
đi rồi.
Nhưng hơm nay, tình u đã thức tỉnh anh và linh hồn anh đã trở về. Anh thấy “thèm lương thiện”, “muốn làm
hòa với mọi người biết bao!”, Anh như rưng rưng và bẽn lẽn trong sự phục sinh của linh hồn đó. Anh mong được
cảm, chia sẻ nỗi lịng? Vì nếu tình u chân chính là tình u làm nhân đạo hóa con người, nâng cao sống, thì đã có
mấy lần tình u có tác dụng nhân đạo hóa kì diệu, cảm động như mối tình Thị Nở - Chí Phèo? Chẳng phải tình
u thương tuy đơn giản, có phần thơ lỗ của người đàn bà xấu xí ấy đã gọi dậy linh hồn người trong con quỷ dữ
Chí Phèo, đưa hắn từ cõi địa ngục trở về cõi người đó sao? Chẳng phải một sự hóa giải thần bí nào mà chỉ là một
tình yêu rất mực trần tục, nhưng là tình u đích thực con người, thật lành mạnh, khỏe khoắn. Mơ típ nghệ thuật
này được xử lí bằng một tư tưởng nhân đạo lớn lao và một bút lực phi thường, chỉ có Nam Cao.
Tư tưởng nhân đạo và hút lực phi thường đó cịn thể hiện ở đoạn văn miêu tả tấn bi kịch tinh thần của Chí Phèo.
Truyện ngắn đầy hấp dẫn này càng về cuối càng đặc biệt hấp dẫn; không phải chỉ vì cốt truyện, tình tiết đầy tính
kịch, biến hóa khơn lường, mà cịn vì tầm tư tưởng càng ngày càng nâng cao một cách bất ngờ của tác phẩm.
Nhiều người cũng nói đến Chí Phèo như là một bi kịch số phận, song nếu hiểu cho chặt chẽ, chính xác thì chỉ từ
nhân vật này đã thức tỉnh linh hồn, khao khát trở lại làm người nhưng bị cự tuyệt lạnh lùng, thì chỉ đến khi đó, Chí
Phèo mới thật sự rơi vào tình thế bi kịch: bi kịch của con người bị từ chối không được làm người.
Khi hiểu ra rằng xã hội khơng cơng nhận mình, Chí Phèo vật vã đau đớn. Hắn lại uống, nhưng điều lạ là, hôm nay
“hắn càng uống càng tỉnh ra”. Đúng hơn là tuy say, trong tâm thức Chí Phèo lúc này vẫn có một điềm tỉnh: nỗi đau
khơn cùng về thân phận, và “hắn ơm mặt khóc rưng rức”. Rồi như để chạy trốn bản thân, chạy trốn nổi đau, hắn
“lại uống... lại uống... đến say mềm người”. Rồi hắn đi với một con dao và vừa đi vừa chửi... như mọi lần. Nhưng
lại hoàn toàn khác mọi lần: hơm nay, Chí Phèo quằn quại đau đớn vì tuyệt vọng, càng thấm thía hơn bao giờ tội ác
của kẻ thù, đã đến thẳng trước Bá Kiến “trợn mắt, chỉ tay vào mặt” lão, dõng dạc đòi quyền làm người, đòi lại bộ
mặt người đã bị vằm nát của mình. Kẻ chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, anh không thể chấp nhận trở lại kiếp
sơng thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống, chết trong tâm trạng bi kịch đau đớn.
Thế là, trước đây, để bám lại sự sống, Chí Phèo phải từ bỏ nhân phẩm, bán linh hồn cho quỷ; giờ đây, ý thức nhân
phẩm thức dậy, linh hồn trở về. Nhiều người nghi ngờ tâm lòng của Nam Cao đối với nơng dân, vì thấy người nơng
dân của nhà văn phần nhiều xấu xa dữ tợn. Vậy mà chính ở những người khốn khổ có bộ mặt và tính cách khơng
mấy “đáng yêu” đó, nhiều khi ý thức nhân phẩm cịn mạnh hơn cả cái chết. Lão Hạc bề ngồi dường như lẩm cẩm,
gàn dở nhưng lão đã lặng lẽ tìm đến cái chết để giữ trọn lịng tự trọng trong cảnh cùng đường (Lão Hạc). Lang Rận
Cảm nhận về tình u trong tác phẩm ‘Chí Phèo’ của Nam Cao
Tình u là một hiện tượng đặc biệt và khá phức tạp của cuộc sống con người, là đề tài nổi bật, hấp dẫn, khơng hề
vơi cạn của văn học nhân loại. Chính vì vậy trong văn chương, tình yêu là đề tài liên tục thu hút sự chú ý của giới
sáng tác, nghiên cứu, phê bình. Khn mặt của tình u tuỳ vào quan điểm thẩm mỹ, văn hoá, xã hội của từng thời
kỳ, của từng tác giả mà có những dạng tồn tại khác nhau.
Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao xưa và nay vẫn được xem là một truyện ngắn tiêu biểu, xuất sắc của văn học
sáng tác theo khuynh hướng hiện thực phê phán. Tác phẩm được chú ý khai thác ở các khía cạnh tố cáo xã hội phi
nhân tính, sự áp bức của giai cấp thống trị, số phận con người bị tha hố… nhiều hơn là nhìn từ góc độ tình u.
Tồn bộ nội dung, kết cấu tác phẩm gắn liền với cuộc đời của nhân vật chính là Chí Phèo, có một chi tiết đáng lưu
ý là: các biến cố làm nên những đổi thay to lớn, những bước ngoặt trong cuộc đời Chí Phèo cũng như trong kết cấu
tác phẩm lại đến từ hình bóng những người đàn bà. Tuy nhiên có bóng dáng đẩy Chí Phèo vào chốn tăm tối những
cũng có gương mặt tuy xấu xí nhưng lại đưa Chí Phèo ra nơi ánh sáng của cõi minh triết.
Cuộc đời Chí Phèo đột nhiên chuyển hướng do việc tiếp xúc miễn cưỡng với bà Ba Bá Kiến, một người “đàn bà
<i>phốp pháp, má hây hây”, để từ một anh nông dân hiền lành chất phác trở thành một tên tù, một tên lưu manh mất </i>
hết nhân tính, mất ln cả ý thức về mình lẫn ý thức làm người. Tuy nhiên, lần gặp gỡ với Thị Nở lại mang đến
một hệ quả ngược, nó làm đảo lộn tất cả. Chính cuộc gặp gỡ với Thị Nở chứ không phải một biến cố xã hội nào đã
làm thay đổi toàn bộ cuộc đời Chí Phèo và quyết định số phận của cả Chí Phèo lẫn Bá Kiến.
Chút tình cảm tưởng chừng rất vu vơ giữa Chí Phèo và Thị Nở ấy đã tác động, chi phối một cách sâu sắc đến quan
hệ giữa Chí Phèo và Bá Kiến. Từ đó có thể thấy không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao đã xây dựng nhân vật Chí
Phèo bắt đầu từ buổi tối trước khi gặp Thị Nở, cái buổi tối mà hắn “vừa đi vừa chửi”, để rồi từ đó mối quan hệ dây
mơ rễ má với Bá Kiến, những khúc, đoạn trong cuộc đời Chí Phèo như một cuốn phim quay chậm được tái hiện.
Tất cả những chi tiết này có tính chất như một đường truyền, một lời đề dẫn hay như những hoạ tiết có tính chất
phông nền để làm nổi bật tác động của tình u, tình người đến cuộc đời Chí qua nhân vật Thị Nở.
thân sự tồn tại nhếch nhác của nhân vật Lang rận cùng với vẻ bề ngoài bẩn thỉu là một sự trái ngược, mâu thuẫn với
nghề nghiệp, vị thế xã hội mà nhân vật mang vác. Tất cả những đối nghịch đó được thâu tóm trong một cái
tên: Lang rận, và được khắc sâu hơn trong sự tương phản giữa vẻ bên ngoài nhếch nhác, thấp kém với đời sống tâm
hồn cao đẹp. Hay trong truyện Nửa đêm, người cha có tên là Thiên Lôi nhưng lại đặt tên con là Đức - như hai mặt
của một quá trình biện chứng nhân quả…v.v.
Từ những chi tiết đó có thể hiểu tại sao Nam Cao lại lạ hố câu chuyện tình Chí Phèo – Thị Nở như vậy. Không
lãng mạn thơ mộng như các câu chuyện tình của Tự Lực Văn Đồn, buổi tối gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở bắt
đầu bằng hình ảnh Chí Phèo “vừa đi vừa chửi… chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo”, cuộc đời hắn chìm trong những
cơn say.
Chưa bao giờ hắn tỉnh táo để “nhớ rằng hắn có ở đời”. Tức trong hắn chỉ tồn tại không phải ý thức mà là một khối
u u mê mê, tối tăm đặc quánh, vô cảm, vô thức. Ngay cả sự hiện hữu của bản thân, hắn cũng không nhận thức
được, hắn chỉ kinh ngạc rồi cười ngặt nghẽo, cười rũ rượi khi phát hiện ra mình dưới dạng một cái bóng trên đường
trăng nhễ nhại, méo mó, xệch xạc. Chính hình ảnh này hướng đến sự ẩn dụ về một dạng tồn tại bất toàn của con
người trong xã hội cũ. Con người khơng được sống thực là chính mình mà chỉ là những cái bóng, nhưng cũng
khơng được là cái bóng của chính mình mà là bóng của giai cấp thống trị nên thành “cái vật xệch xạc, một cái gì
<i>đen và méo mó trên đường trăng nhễ nhại”. Với cái bóng đó, với ý thức hiện hữu về sự méo mó của chính mình, </i>
Chí Phèo đến với Thị Nở. Đó là cuộc gặp gỡ tất yếu là hệ quả từ hai cuộc đời trống rỗng và bất toàn của hai con
người.
Thị Nở trước khi gặp Chí Phèo vốn chỉ là một thực thể khơng có đường nét cá tính gì đặc biệt mà cịn khùng khùng
dại dại, còn dung nhan là những đường nét tự nhiên, thô mộc đến mức dị hợm: trên một khuôn mặt ngắn ngủn, có
cái mũi “vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành” và một đôi môi “cũng cố to cho không thua cái
<i>mũi” hơn nữa, lại dày và có “màu thịt trâu xám ngốch”. Tồn bộ “nhan sắc” của Thị Nở được Nam Cao tóm lại </i>
trong một nhận xét là “xấu đến ma chê quỷ hờn”. Từ hai cuộc đời, hai thân phận khiếm khuyết, hai trí tuệ mơng
muội tăm tối của Chí Phèo – Thị Nở, Nam Cao đã để cho họ kết hợp lại như một sự liên kết hoàn hảo để tạo ra một
con người mới thống nhất trong sự bừng nở trở lại của một trí tuệ minh triết. Đó là Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.
Với Nam Cao, tình u khơng đi liền với sự lý tưởng hoá đối tượng, với sự hâm mộ sùng bái người yêu mà bắt đầu
chỉ thuần tuý là bản năng. Ánh trăng trong mắt của Chí Phèo đêm gặp Thị Nở mang đầy màu sắc nhục thể,
cứ “xanh rời rợi như là ướt nước”. Cây dâu tây gần bờ sơng thì “thân mềm oặt”, những tàu chuối trong vườn nhà
hắn thì “nằm ngửa, ưỡn cong cong lên” thỉnh thoảng lại “giẫy lên đành đạch như là hứng tình”. Cái bóng – dấu ấn
về sự hiện hữu méo mó của bản thân Chí Phèo cũng được phát hiện trong lúc này. Hành động chiếm đoạt Thị Nở
của Chí Phèo lúc đầu chỉ thuần tuý là bản năng nhưng chính trong cõi âm u của bản năng ấy một ánh loé diệu kỳ đã
bùng dậy hé mở cho ta nhìn thấy bản thể tốt đẹp của con người.
Nam Cao đã vượt trước những nhà văn của thời đại ông ở chỗ không dừng lại ở những tình yêu lý tưởng thuần tuý
tinh thần như của Loan và Dũng trong Đoạn Tuyệt (Khái Hưng), Lan và Ngọc trong Hồn bướm mơ tiên(Khái
Hưng), Thanh và Ngọc trong Dịng sơng Thanh Thuỷ (Nhất Linh), mà ơng đã hợp nhất tình u trong sự hồ hợp
tinh thần và thể xác. Đó là những chi tiết làm căn cứ để khẳng định đây là tình yêu chứ không thuần tuý là bản năng
khi Nam Cao tiếp tục miêu tả thêm lúc Chí Phèo đau bụng và ói mửa, được Thị Nở dìu về lều… Hành động ban
đầu là bản năng đã làm sống dậy tình yêu, sống dậy phần nhân tính tưởng khơng có hay đã chết trong con người
của cả Chí Phèo lẫn Thị Nở. Ở đây có sự tái sinh, phục sinh của tinh thần nhờ tình yêu và sự gắn kết hai thân xác.
Nó đã cải hóa, tái sinh Chí Phèo, tình u cho Chí Phèo và Thị Nở ý thức về chính mình.
Trước đây, họ chỉ là hai khối mơng muội, Chí Phèo thì hung bạo và triền miên trong vô thức và những cơn say vô
tận:“Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt chửi bới dọa nạt trong lúc say,
<i>uống rượu trong lúc say để rồi say nữa, say vơ tận”. Vậy nhưng trong tình cảm với Thị Nở, Chí Phèo đã tìm thấy </i>
chính mình, khám phá ra chính mình, hơn thế nữa khám phá ra sự sống. Con người ý thức, con người cảm xúc của
Chí Phèo sống dậy. Lần đầu tiên hắn tỉnh hẳn rượu, đó là cái tỉnh của ý thức.
Tại sao Chí Phèo “càng uống lại càng tỉnh ra?”. Bởi vì tình yêu của hắn và Thị Nở đã làm thay đổi tâm điểm cuộc
sống của hắn. Tâm điểm đó đã trượt từ cõi u minh của vô thức những ngày trước đây về với cõi thực tại, bắt Chí
Phèo thừa nhận một thực tại cuộc sống đang tồn tại dù có hay khơng có hắn. Nó định vị tâm điểm cuộc sống của
Chí Phèo từ những cơn say nghiêng ngả vào một cuộc sống bình thường. Chính vì vậy mà hắn tỉnh, hắn đã nhìn
thấy chính bản thân mình. Thấy “bâng khng” rồi “lịng mơ hồ buồn”rồi “nghĩ vẩn vơ”… Thị Nở cũng thế, lần
đầu tiên Thị lắng nghe cảm xúc của tâm hồn mình để “trằn trọc” “nghĩ ngợi” “tưởng tượng bâng quơ” .v.v..
Những giới hạn của cuộc đời Chí Phèo như đã được phá bỏ, nó mở rộng, liên thơng với cuộc đời bên ngồi. Chính
tình u đã mở thơng lối về với cuộc đời của Chí Phèo, hắn cảm nhận được cuộc sống xung quanh:“Tiếng chim hót
<i>ngồi kia vui vẻ q, có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng</i>
<i>quen thuộc ấy hơm nào chả có. Nhưng hơm nay hắn mới nghe thấy… Chao ôi là buồn !”.</i>
cô độc và muốn làm hòa với mọi người, muốn làm người lương thiện. Sự chuyển vị này là hệ quả tất yếu do tình
u đem lại, nó khắc họa một cách sâu sắc bản thể bất tồn và cơ độc của Chí Phèo lẫn Thị Nở trước khi yêu và
được u. Chính tình u đã bù đắp khiếm khuyết trong tâm hồn, tái sinh một cuộc đời và làm giàu có đời sống nội
tâm của nhân vật này rất nhiều.
Chính vì thức tỉnh, vì đã được khai hóa và giàu có nhờ tình u nên khi bị Thị Nở từ chối “và ngoay ngốy cái
<i>mơng đít ra về”, Chí Phèo mới cảm thấy tuyệt vọng và đau khổ. Sức mạnh của tình yêu đã đưa hai nhân vật này </i>
đến một tâm điểm tuyệt đối của cuộc sống, trong khi thực tại lại khơng như vậy, nó vẫn tồn tại những định kiến xã
hội không dễ bng tha cho con người nên thiên đường tình u, khát vọng làm người của Chí rơi tõm vào hiện
thực trần trụi và vỡ toang, buộc Chí Phèo phải đối diện với hiện thực với nỗi đau khổ, tuyệt vọng để vùng lên cầm
dao giết chết Bá Kiến.
Lời chì chiết của bà cơ Thị Nở như là một chi tiết “giải thiêng” tình u của Chí Phèo. Nó thực tế, trần trụi đến tàn
nhẫn. Đó là cái giá mà Chí Phèo và Thị Nở phải trả để đến với nhau, những thành trì xung quanh tình yêu ấy khơng
dễ gì phá nên Chí Phèo tự kết liễu đời mình là một cách chọn lựa thích hợp nhằm chối bỏ sự thỏa hiệp, quay lại
cuộc sống trước kia.
Sau những tác phẩm về tình yêu của Tự Lực Văn Đồn của chủ nghĩa lãng mạn thì Chí Phèo của Nam Cao là một
Chính vì vậy tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao khơng mang dáng dấp của truyện tình theo nghĩa thơng thường ta
vẫn hiểu, cũng khơng chuyển tải nội dung tình u theo cách thơng thường mà theo một cách rất trái khốy, rất
nghịch dị mang dấu ấn riêng của Nam Cao. Nó làm cho hiện thực cuộc sống khơng cịn bị gị ép trong cái khn
khổ thơng thường, quen thuộc trong cái nhìn của mọi người mà hiện ra một cách đột ngột bất ngờ tạo sự ngạc nhiên
trong cảm nhận.
<b>Chí Phèo giết Bá Kiến trong trạng thái nào? Tỉnh hay say rượu? Ý nghĩa cái chết của hai nhân vật Chí Phèo </b>
<b>và Bá Kiến</b>
Chí Phèo là nhân vật điển hình xuẩt sắc của nhà văn Nam Cao trong truyện ngắn Chí Phèo ra đời năm 1941
<b>Chí Phèo giết Bá Kiến trong trạng thái nào ?tỉnh hay say rượu? Ý nghĩa cái chết của hai nhân vật Chí Phèo </b>
<b>và Bá Kiến.</b>
<b>BÀI LÀM</b>
Chí Phèo là nhân vật điển hình xuẩt sắc của nhà văn Nam Cao trong truyện ngắn Chí Phèo ra đời năm 1941. Đây là
một người nông dân cùng quẫn vốn lương thiện, hiền lành, tự trọng nhưng đã bị Bá Kiến cho đi tù oan, bị lưu manh
hố, cơn đồ hố. Sau khi gặp Thị Nở, được hưởng tình cảm u thương. Chí muốn trở lại lương thiện. Tuyệt vọng
vì khơng thể hồn lương. Chí cầm dáo đến nhà kè thù, sau khi đã nốc rất nhiều rượu. Vậy Chí Phèo giết Bá Kiến
trong trạng thái say hay tỉnh ?
Theo tác giả miêu tả thì Chí đã uống hết hai chai rượu. Cũng theo truyện thì Chí rắp tâm đến nhà Thị Nở "để đâm
chết cả Iilià nó". Ch/ có ý định đó vì Thị Nờ nghe lời bà cơ thị, đã cự tuyệt quan hệ với Chí Phèo. Nhưng rồi Chí
khơng đến nhà “người tình bội bạc” mà lại đến thẳng nhà Bá Kiến. Nhă văn đưa ralời bình : “Những thằng điên và
Nhưng phân tích và kết luận như thế chưa đủ. Trước khi hạ thủ kẽ thù, Chí đã nói những lời rất tỉnh táo. Chí nói ba
câu rất gọn và rõ. Một câu khẳng định quyết liệt: "tao muốn làm người lương thiện !". Mội câu hỏi uất ức: "Ai cho
tao lương thiện?''. Rồi mệt câu phú định đau xót : "Tao khơng thể là người lương thiện nữa". Chí Phèo muốn là
nguyện vọng. Nguyện vọng xuất phát từ bản chất, cội nguổn lượng thiện của Chí và vẫn dai dẳng tiềm ẩn trong con
người anh ta, dẫu từ khi biến chất anh ta lúc nào cũng say, cũng là một thằng “đầu bị”. Chí Phèo hỏi trong sâu xa
Chí rất rõ nguyên nhân nào và ai đã làm Chí thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Và sự tự phủ định cuối cùng
chứng tỏ Chí Phèo hiểu con đường cùng đầy thương cảm, xót xa của bản thân. Sự chuyển đổi cảm xúc ấy diễn ra
một cách tự nhiên khơng gị bó. Cho nên khơng thể nói Chí Phèo giết Bá Kiến vì say rượu. Chỉ có lời nói đó giây
phút lóe tỉnh trong cơn say Sự loé lên của ý thức này thật chỉ hơn tất cả cơn say triền miên của Chí. Bởi thực chất
Chí say vì uất ức, say vì muốn trả thù say vì cùng quẫn. Và vì tất cả những nguyên cớ lương thiện này cho nên Chí
giả vờ vậy, có thể nói, trong say, Chí thực ra là '‘Chí giả” — một Chí hình nộm
Mang tên Chí Phèo. Giết Bá Kiến là cái anh Chí làm canh điền; chí có một mong ước "ao ước có một gia đinh nho
nhỏ. Chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải chúng lại hò một con lợn để làm vốn liếng khá thì mua dăm ba sào
ruộng làm Cho nên lại có thế nói, mà như thế này mới chính xác — giết Bá Kiến là mọi Chí Phèo rất tỉnh. Đầy lịng
phẫn uất và căm thù nhưng khơng có con đường nào khác để cho đánh liều thân với kẻ thù.
của họ. Khiến họ, một khi khơng có cơ may tìm thấy lối ra, mà sự khát khao làm người rực cháy mà chỉ còn mội
con đường là cùng chết với kẻ thù.
Phân tích truyện Chí Phèo của Nam Cao
Chí Phèo là câu chuyện về đoạn cuối cuộc đời của một con người trong xã hội thực dân phong kiến diễn ra và được
ghi lại bởi Nam Cao (1917 — 1951), một ngòi bút bậc thầy cách nay đã hơn sáu mươi năm.
<b>Phân tích truyện Chí Phèo của Nam Cao.</b>
BÀI LÀM
Chí Phèo là câu chuyện về đoạn cuối cuộc đời của một con người trong xã hội thực dân phong kiến diễn ra và được
ghi lại bởi Nam Cao (1917 — 1951), mội ngòi bút bậc thầy cách nay đã hơn sáu mươi năm.
Mở đầu tác phẩm Chí Phèo xuất hiện trong tư thế khật khưỡng của kẻ say rượu vừa đi vừa chửi. Hắn chửi vung tất
cả. Chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi những đứa khổng chửi nhau với hắn. Đây chính là lí do để ngay
phần tiếp theo, tác giả kể vể lai lịch của Chí. Hắn vốn là đứa trẻ từ khi mới đẻ ra đã bị bỏ rơi trong cái lị gạch bị
hoang, được người làng nhặt về ni, đi ở cho nhiều nhà khác nhau, cuối cùng đến năm 20 tuổi thì về làm canh
điền cho Lí Kiến. Có thể vì ghen tng, nghi cho bà ba vốn tính lẳng lơ có tư tình với anh canh điền khoẻ mạnh, Bí
Kiến cho người bắt Chí giải lên huyện và đẩy vào lao tù.
Ngay sau khi ở tù về, Chí đã uống rượu say khướt rồi cầm vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến (lúc này Bá Kiến đã là Bá
bộ) chửi Lí Cường con trai Bá Kiến xơng ra hành hung Chí, được thể Chí đã dùng mảnh chai rạch mặt ăn vạ. Đang
thế, Bá Kiến xuất hiện, lên giọng mắng Lí Cường rồi dùng lời ngon ngọt để an ủi Chí, lại mời Chí vào nhà thết đãi
cơm rượu hậu hĩnh, cho Chí một đổng bạc đem về Chí vơ cùng hả hê. Từ đó, khi nào hết tiền hắn ,lại đến ăn vịi.
Lần thứ hai, Chí đến nhà Bá Kiến xin đi ờ tù lần nữa với cách lập luận đi tù cịn có cơm ăn, ở làng mảnh đất cắm
rùi cũng khơng có mà cái ăn cũng khơng, Bá Kiến lợi dùng cơ hội này nhờ hắn đi đòi nợ Đội Tảo 50 đồng và hứa
sẽ,có vườn cho Chí. Sau khi Chí hồn thành việc được giao, Bá Kiến cho vài hào uống rượu và cắt cho hắn 5 sào
vườn ở bãi sơng. Lúc này Chí mới 27, 28 tuổi. Cũng bắt đẳu từ đây, Chí trờ thành kẻ đâm thuê chém mướn, một
công cụ đắc lực của Bá Kiến nhằm ức hiếp dân lành và thanh tốn những kẻ có máu mặt trong làng nhưng khơng
cùng vây cánh. Chí Phèo đã thực sự trở thành "con quỷ dữ của làng Vũ Đại", ai ai cũng đều sợ hắn và tránh mặt
hắn.
Một lần trong buổi tối sáng trăng, sau khi được uống rượu với Tự Lãng, hắn trở về túp lều ven sông định bước
xuống tắm, tình cờ nhìn thấy Thị Nở đang nằm ngủ. Thị là người nghèo rót mồng tơi, xấu ma chê quỷ hờn lại ngẩn
ngơ như người đẩn trong cổ tích Họ đã ăn nằm với nhau và đánh thức tình cảm bình thường cùng mong muốn làm
một người bình thường trong Chí. Nhờ thứ tình cảm này mà bao nhiêu mơ ước hiền lành thời trai trẻ bỗng thức
đậy, hắn muớn có một tổ ấm gia đình bình dị. Rơi Chí bị cảm. Thị Nở đã an cần chăm sóc, nấu cháo hành cho hắn
ăn giải cảm... Tưởng được bền lâu, nào ngờ chỉ được vẻn vẹn năm ngày, đến ngày thứ sáu, bà cô thị Nở đi buôn
chuyến trở về. Bà đã xỉ vả mắng nhiếc thị vì đã biết được chuyện giữa Thị với Chí Phèo. Do đấy, Thị Nở đến mằng
Nghe tin hai cái chết, trong lúc bao người, báo kẻ hả hê, Thị Nở nghĩ đến Chí “sao có lúc nó hiền như đất và nhớ
lại những lúc ăn nằm với hắn”. Thị lo mình có chửa. Khép lại câu chuyện là hình ảnh thị nhìn nhanh xuống bụng và
“đột nhiên thị thấy c lị gạch thống hiện , xa nhà cửa và vắng bóng người qua lại”
Về yếu tố ngơn ngữ truyện có nhiều điều có thể bán được nhưng ở đây chỉ xin đơn cử một cách thức sử dụng ngổn
ngữ hết sức sáng tạo và độc đáo kiểu Nam Cao. Ông đã đan xen, trộn lẫn lời nhân vật và lời người kể truyện, nhiều
đơn vị lời văn có thể là của nhân vật vừa là của người kể chuyện. Điều này có tác dụng rất lớn cho phép nhà văn soi
quét, lách sâu vào thẻ giới nội tâm rất phức tạp và tinh tế của nhân vật. Nhờ vậy chân dung nhân vật hiện ra hết sức
chân thực và sống động. Chỉ cần đơn cử đoạn mở đầu truyện là đã thấy thủ pháp nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đan
xen, hoà trộn như thế’ nào. Đây là một kĩ thuật của ngôn ngữ tiểu thuyết hiện đại mà không phải nhà văn cùng thời
nào với Nam Cao cũng đã biết và sử dụng. Hiểu như vậy mới thấy sự cách tân và đóng ghóp vào kĩ thuật tiểu
thuyết của Nam Cao thực sự là không nhỏ và có nhiều-ý nghĩa cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Tóm lại, chỉ với tác phẩm Chí Phèo đã dù thấy Nam Cao trong buổi mạt kì của chủ nghĩa hiện thực phê phán nước
ta đã có cơng đưa nó lên một tầm cao mới về cả nội dung và nghệ thuật trước khi nó im tiếng.
Sau khi tỉnh rượu Chí Phèo đã nghe được những âm thanh nào?
a. Sau khi tỉnh rượu Chí Phèo đã nghe được những âm thanh: tiếng chim hót ngồi kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền
chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng mấy bà đi chợ bán vải về
b. Ý nghĩa của những âm thanh ấy đối với sự thức tỉnh của Chí Phèo:
- Cuộc gặp gỡ bất ngờ với Thị Nở và trận ốm đã làm cho con quỷ dữ có sự thay đổi hẳn về tâm sinh
lý.- Từ khi đi tù về đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm Chí hết say, hồn tồn tỉnh táo và có được một
- Âm thanh đó đã đánh thức trong Chí những cảm xúc của con người. Chí nhớ về quá khứ,nhớ lại giấc mơ thời
trai trẻ của mình “chồng cuốc mướn cày thuê,vợ dệt vải”. Chí ý thức được hiện tại và nghĩ đến tương lai“cơ độc và
đói rét ốm đau”.
Ý nghĩa 3 lần Chí Phèo đến nhà Bá Kiến
Đề bài: Sau khi ở tù về, nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao đã đi đến nhà Bá Kiến mấy lần?
Anh (Chị) hãy thuật lại một cách ngắn gọn và đầy đủ các lần Chí Phèo đến nhà Bá Kiến. Trong mỗi lần cần làm rõ:
GỢI Ý LÀM BÀI
Thân bài (Ý I lần thứ nhất):
1 – Sau khi ở tù về một ngày, Chí Phèo đã ra chợ uống rượu với thịt chó từ trưa đến chiều, “say k hướt” rồi ngật
ngưỡng, hung hăng cầm vỏ chai đến nhà Bá Kiến gọi tên liên tục ra mà chửi. Cụ Bá chưa về. Con trai Cụ là Lý
Cường nổi tiếng hách dịch đã xông ra đánh nhau với Chí Phèo. Chí Phèo vừa rạch mặt ăn vạ, vừa kêu làng như bị
người ta cắt cổ họng “Ối làng nước ôi! Cứu tôi với….ối làng nước ôi! Bố con thằng Lý Kiến nó đâm chết tơi…làng
nước ơi!”. Giữa lúc đó, Cụ Bá về. Cụ cất tiếng hỏi rất sang: “Cái gì mà đơng thế này?” Nhưng khi thống nhìn thấy
cảnh Chí Phèo “Nằm dài, k hơng nhúc nhích, rên k he k h ẽ như gần chết”, cụ Bá đã biết cơ sự rồi. Một mặt, Cụ dịu
giọng bảo mọi người đứng xem hãy trở về nhà mình, một mặt khác cuúi xuống dỗ dành ngọt ngào Chí Phèo. Cuối
cùng, Chí Phèo đã theo Bá Kiến vào nhà, được cụ Bá thết đãi cơm rượu, thịt gà, khi ra về còn được cho một đồng
bạc mua thuốc chữa vết thương. “Chí Phèo vơ cùng hả hê”
2 – Như vậy, lần này, Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với động cơ đập đầu ăn vạ và có bao hàm cả sự trả thù. Qua đây,
Nam Cao cũng hé mở cho người đọc thấy được bao điều.
3. a – Về phía nạn nhân, qua lần “gặp gỡ” đầu tiên này, tính cách tha hố lưu manh của Chí Phèo đã bộc lộ một
cách khá đầy đủ trước mặt dân làng Vũ Đại. Đâu cịn hình ảnh anh canh điền khoẻ mạnh về thể xác, lành mạnh về
b – Về phía bọn thống trị, kẻ thủ phạm mà hiện thân là Bá Kiến, qua cảnh này và cũng là cảnh đầu tiên Bá Kiến
xuất hiện trước người đọc. Quan sát việc lão ứng xử với Chí Phèo, chúng ta thấy Bá Kiến hiện nguyên hình là một
tên cường hào, địa chủ, một tên cáo già lọc lõi, lắm mưu nhiều kế và rất thâm hiểm. Sự ngọt ngào và cách cư xử
khôn khéo của cụ Bá đã xoa dịu được cơn giận của Chí Phèo làm cho “Chí Phèo mềm nhũn”. Chí Phèo từ chỗ hung
hăng xơng đến nhà Bá Kiến tuyên bố quyết liều chết với bố con lão, đến chỗ “hả hê ra về”, trở thành chỗ đầy tớ tay
chân cho Bá Kiến.
c – Hiện tượng nói trên cũng là một hiện tượng khá mỉa mai chua sót mà có thật trong xã hội cũ. Nhiều người
lao động bị áp bức khi đã trở thành lưu manh thì chỉ biết phản ứng một cách mù quáng, liều lĩnh và dễ bị bọn thống
trị mua chuộc lợi dụng. Vạch ra được điều đó chứng tỏ ngịi bút của Nam Cao thật giàu tính hiện thực.
(Ý II Lần thứ hai):
trong làng. Thế là từ đây, Chí Phèo mặc nhiên trở thành tay sai đắc lực cho Bá Kiến.
b – Về phía nạn nhân: ở lần gặp gỡ này, ta thấy tính cách Chí Phèo đã có một bước biến đổi. Đó là Chí Phèo càng
dấn sâu vào con đường lưu manh và trở thành công cụ lợi hại cho lão cường hào cáo già độc ác. Nhưng mặt khác
trong lời cầu khẩn của Chí Phèo: “Xin cho đi ở tù…đi ở tù cịn có cái mà ăn, bây giờ về làng, một thước đất cắm
dùi cũng khơng có chả làm gì nên ăn”, ta có thể thấy trong đáy sâu tâm hồn Chí Phèo ln ln chất chứa một nỗi
xót xa cho thân phận mình. Qua chi tiết này, tác phẩm cũng đã nói lên được tình trạng cùng cực khơng có lối thốt
của người nơng dân lao động nghèo. Ở tù về, tứ cố vô thân, vô điền thổ, cảnh ngộ đã đẩy người dân vào vòng tội
lỗi.
c – Về phía bọn thống trị: Cũng ở lần gặp gỡ thứ hai này, bản chất gian hùng, nham hiểm của con cáo già Bá Kiến
đã được tô đậm thêm một mức nữa. Khi biết được Chí Phèo đến để xin đi ở tù, và nếu khơng được thì sẽ đâm chết
1 – Lần này Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với một tâm trạng đặc biệt, khác hẳn hai lần trước. Đó là khi bị Thị Nở cự
tuyệt, hắn lại uống rượu và rồi xách dao ra đi. Hắn không rẽ vào nhà Thị Nở như dự định ban đầu, mà đến thẳng
nhà Bá Kiến. Dưới chân Chí Phèo hơm nay, khơng hẵn là bước chân của kẻ say rượu, mà đúng là bước chân của kẻ
vừa say, vừa tỉnh. Chí Phèo tỉnh vì ý thức nhân phẩm đã trở về. Tình yêu thương mộc mạc và chân thành của Thị
Nở đã làm thức dậy bản chất lương thiện của Chí Phèo “Hắn thèm lương thiện. Hắn muốn làm hoà với mọi người
biết bao!” Câu trả lời của Thị Nở sẽ quyết định số phận của hắn: được công nhận quyền làm người hay mãi mãi bị
đày đoạ trong kiếp sống thú vật? Chí Phèo hồi hộp hy vong. Nhưng cánh cửa hy vọng vừa hé mở thì đã bị đóng
sầm ngay lại. Vì bà cơ của Thị Nở không cho Thị đâm đầu dđ lấy một thằng đã bị xã hội khai trừ. Mọi người đã
quen coi Chí Phèo là con quỹ dữ từ lâu rồi. Hơm nay, linh hồn Chí Phèo đã trở về, nhưng mọi người khơng nhận ra.
Thế là Chí Phèo rơi vào một tấn bi kịch tinh thần đau đơn: Thèm lương thiện mà bị xã hội lạnh lùng cự tuyệt.
2 – Quặn quại trong đau khổ và tuyệt vọng, Chí Phèo càng thấm thía tội ác của kẻ đã cướp cả nhân tính lẫn nhân
hình của mình là Bá Kiến. Nên hơm nay Chí Phèo ra đi với sự thơi thúc của lòng căm thù, của thái độ kiên quyết
đòi lại gương mặt và tâm hồn đã bị xã hội cuớp mất. Trước Bá Kiến, lần này Chí Phèo có một tư thế và cách nói
năng chững chạc, quyết đoán và chủ động hơn. Bá Kiến ngạc nhiên đến sửng sốt: “Thôi cầm lấy vậy! Tôi k hông
cịn hơn”. Chí Phèo lại vênh mặt lên, nói một cách rất kiêu ngạo: “Tao đã bảo tao k hông cần tiền”. Bá Kiến nói
mỉa mai và hỏi Chí: “Giỏi! Hơm nay mới thấy anh k hơng địi tiền. Thế thì anh cần gì?”. Chí Phèo dõng dạc nói:
“Tao muốn làm người lương thiện”. Bá Kiến lại mỉa mai “Ồ tưởng gì! Tơi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ
nhờ”. Chí Phèo lắc đầu: “Khơng được! Ai cho tao lương thiện?”"Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai
trên mặt này?
Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết khơng? Chỉ cịn một cách…”. Chỉ cịn một cách, đó là Chí Phèo
“Xơng vào văng dao tới….vừa chém túi bụi vừa k êu làng thật to”. Và sau khi giết Bá Kiến, hắn đã quay lại tự kết
liễu cuộc đời mình “Hắn giẫy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi”.
3 – a- Hành động giết Bá Kiến hơm nay của Chí Phèo không phải là hành động giết người của một Chí Phèo lưu
manh, mà là hành động lấy máu rửa hờn của một người nông dân đã thức tỉnh về quyền sống. Như thế là Nam Cao
b- Phản ứng quyết liệt dữ dội của Chí Phèo trên đây cho thấy hình như đằng sau những luỹ tre xanh tưởng như
thanh bình yên ả:
“Thong thả nhân gian nghỉ việc đồng
Lúa thì con gái mướt như nhung
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng
Ngào ngạt ong bay bượn lượn vịng”
(Nguyễn Bính)
vẫn ln ln tiềm ẩn mâu thuẩn giai cấp gay gắt nghìn đời giữa người nơng dân và địa chủ. Mối mâu thuẩn ấy
khơng thể điều hồ, càng nén nó xuống thì càng bùng lên dữ dội. Ngịi bút hiện thực sắc sảo của Nam Cao đã phát
hiện ra cái quy luật ấy.
5 – Tóm lại ba lần “gặp gỡ” giữa Chí Phèo và Bá Kiến là những lần đụng đầu quyết liệt giữa hai tính cách kể thống
trị và người áp bức, bị đầy đoạ đến mức khơng cịn là người nữa. Tác phẩm đã phản ánh được một vấn đề quan
trọng bức xúc trong đời sống hiện thực nông thôn thời ấy: xã hội phong kiến thực dân đã đầy đoạ làm tha hoá con
người. Và khi ý thức nhân phẩm đã trở về thì lại bị xã hội lạnh lùng cự tuyệt, để phải tự huỷ diệt cuộc sống của
mình. Nam Cao đã vạch trần được tội ác khủng khiếp đó và lên tiếng kêu cứu nhằm bảo vệ lấy nhân phẩm của con
người, hãy tiêu diệt hồn cảnh phi nhân tính. Nam Cao đồng cảm và chia sẽ với những nạn nhân đau khổ đồng thời
tìm thấy dưới đáy tâm hồn tưởng như u mê cằn cỗi vẫn lấp lánh ánh sáng nhân phẩm; vẫn cháy bỏng một niềm khát
khao được sống lương thiện.
Kết luận: Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo vừa độc đáo, vừa sâu sắc, vừa mới mẻ,vừa rộng lớn của tác
I. MỞ BÀI\r\nNam Cao là đại biểu ưu tú của dịng văn học hiện thực phê phán. Ơng là cha đẻ của những tác phẩm
tên tuổi : “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Đời thừa”… trong đó Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao và cũng là kiệt tác của
văn học hiện thực phê phán
Thơng qua hình tượng nhân vật Chí Phèo và con đường tha hóa của người nông dân trước Cách mạng, Nam Cao đã
khắc họa thành công tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo mang đến cho bạn đọc bao
niềm xúc động sâu sắc.
II. THÂN BÀI
1. Bi kịch là gì ? Bi kịch là sự mâu thuẫn giữa hiện thực đời sống và khát vọng cá nhân. Hiện thực đời sống không
đủ điều kiện để cá nhân thực hiện được khát vọng của mình dẫn đến cá nhân rơi vào hồn cảnh bi đát (có thể dẫn
đến cái chết). Trong văn học Việt Nam ta đã từng bắt gặp bi kịch tình yêu của Thúy Kiều, bi kịch nghệ thuật của
nhà văn Hộ, bi kịch của Vũ Như Tô… nhưng bi kịch lạ lùng nhất là bi kịch “bị cự tuyệt quyền làm người” của Chí
Phèo.
2. Bi kịch ấy ngay từ đầu tác phẩm đã hiện lên qua tiếng chửi của Chí Phèo. Chí Phèo xuất hiện lần đầu tiên trước
mắt người đọc không phải bằng xương bằng thịt mà là bằng tiếng chửi “hắn vừa đi vừa chửi”. Đó là hình ảnh vừa
quen vừa lạ. Quen vì đó là tiếng chửi của những thằng say rượu. Lạ vì hắn chửi mà khơng có ai chửi nhau với hắn,
khơng ai lấy làm điều. Chí “chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn,
chửi đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn”. Đó là một tiếng chửi vật vã, đau đớn của một thân phận con người ít
nhiều nhận thức được bi kịch của chính mình. Chửi cũng là một cách để giao tiếp nhưng đớn đau thay đáp lại tiếng
chửi của Chí Phèo là một sự im lặng đến rợn người. Cay đắng hơn nữa, đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo lại là “tiếng
chó cắn lao xao”. Chí đã bị đánh bật ra khỏi cái xã hội lồi người. Xã hội mà dù sống trong nó Chí cũng khơng cịn
được xem là con người nữa. Qua tiếng chửi ấy, ta nhận ra bốn thái độ: Thái độ của người chửi: hằn học, hận thù;
thái độ người nghe: dửng dưng, khinh miệt; thái độ nhà văn: xót xa, thương cảm; thái độ người đọc: tị mị… Vậy
Chí Phèo là ai?
3. Bi kịch của một đứa con hoang bị bỏ rơi. Lật lại trang đời của Chí, người đọc khơng sao cầm được nước mắt
trước một hoàn cảnh đáng thương. Ngay từ khi mới ra đời Chí đã bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lị gạch cũ giữa một cánh
đồng mùa đơng sương trắng. Rồi Chí được dân làng nhặt về ni nấng. Tuổi thơ của anh sống trong bất hạnh, tủi
cực “hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác, năm hai tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá
Kiến”. Đây là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời của Chí, bởi đó là quãng đời lương thiện, quãng đời tuổi trẻ
nhiều mộng đẹp. Chí giàu lịng tự trọng, biết ghét những gì mà người ta cho là đáng khinh. Bị con mụ chủ bắt làm
điều khơng chính đáng, Chí vừa làm vừa run, thấy nhục hơn là thích. Chí cũng như bao con người khác, anh cũng
có ước mơ giản dị: “có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn
ni để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Đó chính là một ước mơ lương thiện. Nhưng đớn
đau thay, cái xã hội bất lương ấy đã bóp chết cái ước mơ đó của Chí khi cịn trứng nước. Một cơn ghen vu vơ của
lão cáo già Bá Kiến đã đẩy anh vào cảnh tội tù. Chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cáo già biến Chí Phèo từ
một anh canh điền khỏe mạnh thành một kẻ lưu manh hóa, một kẻ tội đồ.
vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận”. Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy
mình tồn tại trên đời bởi vì “những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh
mang”. Nam Cao đã cho người đọc thấy một thực tế đau lòng về cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng tháng
Tám. Đó chính là cuộc sống bị bóp nghẹt ước mơ và khát vọng, người nông dân bần cùng hóa dẫn đến lưu manh
hóa. Một cuộc sống tối tăm khơng ánh sáng. Nhà văn xót thương cho nhân vật, cay đắng và đau đớn cùng nhân vật.
Đây chính là vẻ đẹp của tấm lịng nhân đạo và yêu thương của nhà văn dành cho những kiếp người như Chí Phèo.
5. Gặp Thị Nở và khao khát hồn lương. Nam Cao khơng trách giận Chí Phèo, ngịi bút của ông dành cho nhân vật
vẫn nồng nàn yêu thương. Ông phát hiện trong chiều sâu của nhân vật là bản tính tốt đẹp, chỉ cần chút tình thương
chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý
nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu đến “ma chê quỉ hờn”, kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào
chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo để thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã
ngủ mê qua bao ngày tháng bị dập vùi, hắt hủi. Chính cuộc tình ngắn ngủi với Thị Nở trong một đêm trăng đã vơ
tình thắp lên ngọn lửa cuộc sống trong Chí. Có nhà phê bình đã cho rằng: Thị Nở là một sứ giả mà Nam Cao phái
đến để thức tỉnh Chí Phèo. Đó là sứ giả của tình u thương và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Nhưng có
lẽ cần phải nói thêm, Thị Nở khơng chỉ là vai trị sứ giả của lịng nhân đạo mà Thị cịn là một “thiên sứ” của tình
u. Vị thiên sứ này khơng có đơi cánh thiên thần nhưng có đơi tay đầy ắp tình người. Thiên sứ ấy như một ngọn
Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao,
nghe được tiếng chim hót ngồi kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao
của người đi chợ bán vải về… Những âm thanh ấy ngày nào chả có. Nhưng hơm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là
buồn! Âm thanh cuộc sống này khiến ta liên tưởng đến tiếng sáo của đêm tình mùa xuân trong tác phẩm Vợ chồng
A Phủ. Tiếng sáo đã lay động tiềm thức xa xôi của Mị, đánh thức tâm hồn Mị, thức dậy cả một quá khứ đẹp tươi.
Đó chính là những chi tiết nghệ thuật đặc sắc làm nên chất thơ cho tác phẩm. Chính cuộc sống đã lay động trong
tiềm thức xa xơi của Chí. Nó như cơn gió thổi tung đám tro tàn nguội lạnh, như từng giọt nước nhỏ vào tâm hồn sỏi
đá, cằn khô làm tan đi giá băng tâm hồn. Hơn hết, nó làm sống dậy ước mơ một thời trai trẻ :”có một gia đình nho
nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn ni để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm
ba sào ruộng làm”. Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo đã cơ đơn hơn bao giờ hết “Nhìn phía trước
người thân chẳng có/ Ngó sau lưng quá khứ rợn ghê người”. Hắn như đã thấy “tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và
cơ độc – cái này cịn sợ hơn đói rét và ốm đau”. Phải chăng Chí đang hối hận và ăn năn những việc mà mình đã
làm? Chẳng biết có phải hay khơng mà Chí thấy lịng buồn man mác. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn
đã khóc được mất.
6. Đỉnh điểm của bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở
cũng khơng thể gắn bó với Chí Phèo. Lời nói của bà cơ Thị Nở như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt Chí Phèo
làm tắt ngúm ngọn lửa lòng vừa được nhen lên trong Chí. “Ai lại đâm đầu đi lấy một thằng khơng cha khơng mẹ
như cái thằng Chí Phèo” đã trở thành định kiến khắc nghiệt lấp mất lối về của Chí. Cánh cửa cuộc đời vừa hé mở
thì cũng ngay lập tức đóng sầm lại trước mắt của anh. Đó chính là bi kịch của một con người chết trên ngưỡng cửa
trở về với cuộc sống lương thiện. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là
khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình khơng cịn trở về với
lương thiện được nữa. Cánh cửa trở về với xã hội lương thiện, xã hội loài người vừa mở ra thì cũng là lúc đóng sầm
lại ngay trước mắt Chí Phèo. Thị Nở như tia chớp rạch ngang bầu trời đêm đen của Chí Phèo vừa đủ để soi lên một
niềm cảm thơng cũng là lúc nó tắt ngấm giữa đêm đen cuộc đời Chí. Nói xa hơn, cái xã hội thực dân nửa phong
kiến đó đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn khơng trả lại. Nó đã tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối
Chí với cuộc đời.
Chí Phèo tìm đến rượu nhưng rượu không phải bao giờ cũng làm cho người ta say. Một khi rượu khơng cịn đủ sức
để làm lu mờ lí trí con người thì nó sẽ quay ngược trở lại thức tỉnh lý trí ấy. Càng uống Chí càng tỉnh, càng tỉnh
càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Chí đau đớn khi nghe “thoang thoảng mùi cháo hành” rồi Chí ơm mặt
khóc rưng rức. Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con
“khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí
đến thẳng nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí hiểu ra rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình
ra nỗng nỗi khốn cùng này chính là Bá Kiến. Anh càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người, cướp đi cả
bộ mặt và linh hồn của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nơ lệ thức tỉnh, địi quyền làm người:
– Tao muốn làm người lương thiện ?
– Ai cho tao lương thiện ?
Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau của một con người thấm
thía được nỗi đau khơn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như
cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ. Lương thiện có ngay trong
mỗi con người là di sản tinh thần của mỗi người. Tại sao phải đi đòi lương thiện ? À, thì ra Chí đã bị cái xã hội vơ
nhân tính ấy cướp mất. Khốn nạn thay cho Chí, ngay cả cái quyền được làm một con người cũng bị xã hội người ăn
thịt người ấy bóp nát. Và Chí Phèo cũng đã tự kết liễu cuộc đời mình sau khi kết liễu tên cáo già Bá Kiến. Cái chết
bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là
tiếng gọi thảm thiết cấp bách của nhà văn: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người!
Tác phẩm Chí Phèo thơng qua tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật chính, nhà văn đã mang đến
những giá trị nhân văn cao đẹp. Tác phẩm đã lên án, tố cáo tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến đã đàn áp và
bóc lột nhân dân lao động. Qua đó nhà văn đồng cảm với những nỗi khổ đau, bị đày đọa và lăng nhục của người
nông dân. Đồng thời nhà văn cũng kịp thời phát hiện và trân trọng trước vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật và khao khát
thay đổi thực tại để mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.
III. KẾT BÀI
Chí Phèo là một kiệt tác bất hủ bởi nó chứa đựng trong đó là tư tưởng, tình cảm lớn mang giá trị nhân đạo và hiện
thực sâu sắc mà người đọc rút ra được từ những trang sách giàu tính nghệ thuật của Nam Cao. Tác phẩm Chí Phèo
mãi mãi bất tử, mãi mãi có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi dậy những tình cảm đẹp đẽ trong tâm hồn người đọc
mọi thời đại. Có một nhà thơ đã từng viết rằng: “Nam Cao mất và Chí Phèo vẫn sống – Nào có dài chi một kiếp
người – Nhà văn chết, nhân vật từ trang sách – Vẫn ngày ngày lăn lóc giữa trần ai”. Vâng! Gần một thế kỉ qua, giá
trị nghệ thuật và ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm, vượt qua gió bụi thời gian, đã chứng minh sức sống mạnh mẽ, bất
hủ của nó.
Tác phẩm Chí Phèo từng có những nhan đề nào? Ý nghĩa nhan đề “Chí Phèo”?
Gợi ý:\r\n\r\nChí Phèo là kiệt tác của văn học hiện thực nói chung và là kiệt tác của Nam Cao nói riêng. Tác phẩm
gây tiếng vang lớn đã đưa tên tuổi của Nam Cao lên vị trí hàng đầu của Văn học hiện thực. Tác phẩm có nhiều tên
gọi khác nhau.
Đầu tiên, Nam Cao đặt nhan đề : Cái lò gạch cũ. Sau đó NXB tự ý đổi tên thành Đơi lứa xứng đôi. Năm 1946, khi
in lại trong tập Luống cày, Nam Cao đã đặt lại tên tác phẩm là Chí Phèo.
- Ý nghĩa của nhan đề: Chí Phèo, vẽ nên một con người cụ thể, một số phận cụ thể, cô đơn, cô độc… Ngay từ nhan
đề đã gợi nên tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Tên gọi của tác phẩm Chí Phèo là hay nhất, đầy đủ nhất góp
phần làm hiện lên giá trị của tác phẩm.
Ý nghĩa tiếng chửi của Chí Phèo
Gợi ý\r\n\r\nCách mở đầu truyện Chí Phèo:\r\n\r\n- Truyện ngắn Chí Phèo được mở đầu bằng hình ảnh Chí Phèo
uống rượu xong và “hắn vừa đi vừa chửi”. Nhưng đáp lại tiếng chửi của Chí là sự im lặng đến ghê người của dân
làng Vũ Đại, chỉ có tiếng chó sủa từ xa vọng lại.
+ Tố cáo tội ác của xã hội đương thời. Xã hội ấy đã tước đoạt của ngơời nông dân lương thiện quyền làm người và
quay lưng lạnh lùng cự tuyệt khi họ muốn quay trở lại với xã hội loài người
+ Về nghệ thuật, cách mở đầu như vậy tạo nên sự bất ngờ, hấp dẫn
Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao (đoạn từ khi gặp thị Nở
đến khi kết thúc cuộc đời)
Những ý cần đạt\r\n- Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề cần phân tích.\r\n- Phân tích:\r\n+ Hồn cảnh gặp thị
Nở trong cơn say
+ Trước hềt là sự thức tỉnh: khi tỉnh rượu, hắn cảm nhận về khơng gian, cuộc sống xung quanh, tình trạng của
mình… sau đó hắn tỉnh ngộ, cảm nhận được tình u thương, sự chăm sóc của thị Nở.
+ Sau đó là hắn hy vọng, ước mơ lương thiện trở về, đặt niềm hy vọng lớn ở thị Nở. Hắn đã ngỏ lời với thị,
trông đợi thị về xin phép bà cô.
+Tiếp đó là thất vọng và đau đớn: bà cô không cho thị Nở lấy Chí Phèo và thị Nở đã từ chối Chí nhưng hắn
vẫn cố níu giử. Đau đớn và căm hận, Chí quyết giết chết thị và bà cơ thị.
+ Cuối cùng là phẫn uất và tuyệt vọng: Chí về nhà uống rượu, ơm mặt khóc. Và rồi hắn xách dao đi đến nhà
bá Kiến, đòi lương thiện. Hắn đã giết bá Kiến và tự sát.
- Kết luận:
+ Bi kịch của con người sinh ra là người mà không được làm người.
+ Sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương thiện trong con người và sự bế tắc của những khát
vọng trong hiện thực xã hội ấy.
<b>Bài văn tham khảo:</b>
Nam cao viết văn từ những năm 30 cuả thế kỉ XX nhưng đén năm 1941 ơng mới khẳng định vị trí của mình
Chí Phèo nguyên là một đứa trẻ khốn khổ, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ bỏ không. Năm hai mươi tuổi, hắn
làm canh điền cho nhà lí Kiến. Đây là một canh điền khỏe mạnh, nhưng hiền lành như đất, không những hiền lành
anh ta cịn nhút nhát, chính Bá Kiến khi đó là lí Kiến đã tận mắt chứng kiến cảnh Chí Phèo vừa bóp đùi cho bà Ba
<i>vừa run run. Anh ta cũng có những ước mơ rất giản dị và lương thiện như trăm ngàn người nông dân khác là có </i>
<i>một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn ni để làm vốn liếng. </i>
<i>Khá giả thì mua thì mua dăm ba sào ruộng làm. Ở một xã hội bình thường, những con người như thế hồn tồn có </i>
thể sống một cách lương thiện và n ổn. Nhưng chỉ vì ghen tng vu vơ, bá Kiến đã nhẫn tâm đẩy người thanh
niên hiền lành, chất phác ấy vào tù. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào, sau 7- 8 năm đã biến một nông
dân hiền lành, khỏe mạnh, lương thiện và tự trọng thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Từ đây, Chí Phèo bị cướp đi
cả nhân hình lẫn nhân tính. Chí Phèo đã bị cướp mất hình hài của con người: Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo
<i>trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm… Cái ngực phanh, đầy những nét chạm </i>
<i>trổ… Khơng những thế tính cách Chí cũng khác hẳn khi xưa. Chí khơng cịn là một anh canh điền ngày xưa mà bây</i>
giờ Chí là một thằng liều mạng. Hắn có thể làm tất cả mọi việc như một thằng đầu bị chính cống: kêu làng, rạch
mặt ăn vạ, đập phá, đâm chém…
Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống kiếp thú vật, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở một bờ bụi nào đó nhưng
bằng tài năng và nhất là bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo trở về sống kiếp
người một cách tự nhiên. Dưới ngòi bút sắc sảo của chủ nghĩa hiện thực, q trình thức tỉnh lương tâm, nhân tính
của một con người bị tha hóa, lầm lạc đã diễn ra không hề đơn giản, một chiều, dễ dãi mà do hoàn cảnh khá đặt
biệt. Trong một lần say rượu khơng bình thường đã vơ tình đưa Chí Phèo đến gặp thị Nở – một người đàn bà xấu xí
và q lứa lỡ thì. Lần say rượu đặc biệt ấy cùng với trận ốm thập tử nhất sinh đã khiến Chí Phèo có những biến đổi
khứ, hiện tại, tương lai. Trước hết, hắn nhớ lại những ngày rất xa xôi hắn mơ ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng
<i>cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua năm sào ruộng </i>
<i>làm. Mơ ước của Hắn thật nhỏ bé và giản dị nhưng suốt ba năm qua nó vẫn chưa trở thành hiện thực. Thì ra, những </i>
ước mơ tốt đẹp của Chí Phèo khơng hề bị mất đi mà nó chỉ chìm sâu vào một góc tăm tối nào đó của tâm hồn Chí.
Hiện tại của hắn thật đáng buồn. Buồn vì Chí Phèo thấy mình đã già đã sang cái dốc bên kia cuộc đời, có thể đã hư
<i>hỏng nhiều thế mà hắn vẫn đang cô độc. Tương lai của hắn lại đáng buồn hơn, bởi hắn có quá nhiều sự bất </i>
hạnh đói rét ốm đau và cơ độc. Đối với Chí, cơ độc cịn đáng sợ hơn nhiều đói rét và ốm đau. Từ khi đi tù về,
Chí bao giờ cũng say, say vô tận. Giờ đây lần đầu tiên hắn tỉnh táo suy nghĩ nhận thấy tình trạng bi đát, tuyệt vọng
của cuộc đời mình.
Đúng lúc Chí đang vẩn vơ nghĩ mãi thì thị Nở mang một nồi cháo hành cịn nóng ngun vào. Việc làm này
của thị Nở đã khiến Chí rất ngạc nhiên và xúc động đến mức trào nước mắt bởi vì đây là lần đầu tên trong đời hắn
<i>được một người đàn bà cho. Hắn thấy cháo hành của thị Nở khơng như bát cháo hành bình thường mà trong đó cịn</i>
hàm chứa tình u thương chân thành của thị dành cho hắn. Và như vậy, cũng có nghĩa hàm chứa cả hạnh phúc lứa
đơi mà lần đầu tiên Chí cảm nhận được. Cịn đối với thị Nở, đây là bát cháo hành tình nguyện, bát cháo hành đem
cho, đem tặng, bát cháo hành tình yêu, mở đầu cho hạnh phúc gia đình. Một mặt, bát cháo hành thể hiện tình cảm
chan chứa nhân đạo của nhà văn. Mặt khác, nó cũng thể hiện tài năng nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật
của Nam Cao. Nếu như ban đầu, người đàn bà xấu xí, q lứa lỡ thì, lại dở hơi ấy chỉ khơi lại cái bản năng ở Chí
Phèo thì sau đó điều kì diệu đã xảy ra, sự săn sóc đầy ân tình và u thương mộc mạc của thị Nở đã làm thức dậy
bản chất lương thiện tiềm ẩn trong con người Chí Phèo. Bát cháo hành của thị Nở là món quà quý giá nhất mà lần
đầu tiên Chí cảm hận được trong đời mình. Hắn ăn và nhận thấy rằng cháo hành rất ngon. Hương vị cháo hành hay
hưong vị của tình yêu thương chân thành cảm động, của hạnh phúc giản dị mà có thật , lần đầu tiên đến với Chí
Khi ăn bát cháo hành, Chí Phèo trở lại là anh canh điền ngày xưa và thấm thía nỗi đau của con người biết tự
trọng khi bị vợ Bá Kiến sai làm những việc nhục nhã. Điều này chứng tỏ một lần nữa Chí Phèo có bản tính tốt lành,
nhưng cái bản tính này trước đây bị lấp đi đến nay mới có cơ hội được thể hiện, bởi vì Chí Phèo vốn là người nơng
dân lương thiện có bản tính tốt đẹp. Mặc dù bị xã hội tàn ác – đại diện là bá Kiến và nhà tù thực dân dẫu có ra sức
hủy diệt bản tính ấy nhưng nó vẫn âm thầm sống trong đáy sâu tâm hồn Chí Phèo, ngay cả khi nhân vật này tưởng
chừng đã biến thành quỷ dữ. Khi gặp thị Nở và cảm nhận được tình yêu mộc mạc chân thành của thị trong lúc yếu
đuối và cô đơn, lại trong hồn cảnh vừa qua một trận ốm thì bản chất ấy có cơ hội hồi sinh và nó đã hồi sinh. Từ
đây, Chí sống đúng với con người thật của mình: khao khát tình thương và muốn trở thành những người lương
thiện.
Con đường trở lại làm người lương thiện vừa mở ra trước mắt Chí Phèo đã bị đóng sầm lại. Sự mong ước
được sống hiền lương của Chí Phèo một lần nữa lại không thành sự thật. Thị Nở khơng thể giúp gì thêm cho hắn,
bởi lẽ bà cơ thị kiên quyết ngăn cản mối tình này. Bà không thể đồng ý cho cháu bà đâm đầu đi lấy thằng Chí Phèo
– con quỷ dữ của làng Vũ Đại, bấy lâu nay chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ, hắn mãi mãi chỉ là con quỷ dữ, khơng
bao giờ có thể làm người. Cách nhìn nhận của bà cơ thị cũng chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay
đối với Chí. Tất cả quen coi anh là quỷ dữmất rồi. Nên hôm nay lương tri anh thức tỉnh, linh hồn người của anh đã
trở về nhưng nào có ai nhận ra? Cho nên Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần vô cùng đau đớn – bi kịch
bị cự tuyệt làm người lương thiện. Các hy vọng được sống với thị Nở, sâu xa hơn là hy vọng được quay về với
cuộc đời lương thiện như một đóm lửa vừa mới được nhóm lên thì đã bị ngay một gáo nước lạnh dội vào cho tắt
ngấm. Mặc dù, khi nghe những lời bà cô mắng thì thị Nở thấy lộn rột nhưng cũng phải nghe theo. Và thị đã giận dữ
nói lại với Chí Phèo tất cả những lời của bà cô. Điều này khiến Chí ngẩn người vì thất vọng nhưng nhưng này có
lẽ hắn chưa tuyệt vọng vì lúc đó hắn lại như hít thấy hơi cháo hành. Chí ngẩn người ra vì cay đắng, chua xót trước
một sự thật phũ phàng: mọi người đã cự tuyệt, không chấp nhận, dứt khốt khơng con hắn là một con người. Mùi
cháo hành vẫn thoang thoảng đâu đây khiến hắn lại càng thêm đau xót, thấm thía. Hắn thấy rõ mọi con đường đều
đang đóng chặt trước mặt hắn. Khi thị ra về, hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay nhưng thị gạt ra. Điều đó chứng tỏ Chí
ln ln khao khát tình u, thiết tha đến với thị Nở, đến với cuộc đời lương thiện. Từ đây, Chí đã thấm thía sâu
sắc bi kịch của con người sinh ra làm người nhưng khơng được làm người. Chí vật vả, đau đớn và tuyệt vọng. Thật
là lạ khi thấy Chí ơm mặt khóc rưng rức. Những giọt nước mắt đau đớn, hối hận nhưng đã quá muộn màng. Khơng
sống cuộc sống con người trong cái xã hội tàn bạo, ngột ngạt , vùi dập nhân tính ấy? Thế rồi, Chí đâm chết kẻ thù.
Hành động của Chí đã vượt khỏi suy nghĩ của tên địa chủ nổi tiếng khôn ngoan, gian hùng. Đây là cách hành động
của người say không theo dự kiến ban đầu, nhưng trong sâu thẳm tâm hồn, Chí lờ mờ hiểu ra nguyên nhân sâu xa
đâu phải vì thị Nở hay bà cơ thị mà cái kẻ làm ra Chí như thế này chính là bá Kiến. Đến đòi quyền làm người lương
thiện là phải địi nơi lão bá, khơng địi dược thì phải trả thù. Tuy làm tay sai cho bá Kiến nhưng ngọn lửa căm hờn
vẫn âm ỉ cháy trong con người Chí Phèo. Khi Chí Phèo đã thức tỉnh thì hắn hiểu ra nguồn gốc bi kịch của mình nên
ngọn lửa căm hờn càng bùng lên dữ dội. Do vây, Chí Phèo đâm chết bá Kiến khơng hẳn vì say rượu mà chính vì
mối thù đã bừng cháy. Cái chết của Chí chứng tỏ Chí khao khát trở về cuộc sống lương thiện. Vì vậy cái chết của
Chí Phèo có ý nghĩa tố cáo mạnh mẽ cái xã hội thực dân nửa phong kiến không những đẩy người dân lương thiện
vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa mà cịn đẩy họ vào cái chết.
Với nhân vật Chí phèo, Nam Cao đã đặt ra bi kịch của người nông dân trước cách mạng: đó là bi kịch con
người sinh ra là người mà không được làm người. Đồng thời qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã hai lần tố cáo cái
xã hội thực dân phong kiến: xã hội đó cướp đi những gì Chí Phèo có và đã cướp những gì Chí Phèo muốn. Điều
này thể hiện sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương thiện trong con người và sự bế tắc của những
khát vọng trong hiện thực xã hội ấy. Ngồi ra, tác phẩm cịn đặt ra một vấn đề nhân sinh mang tính triết lí sâu sắc:
làm thế nào để con người sống đúng nghĩa là người trong cái xã hội tàn bạo phi nhân tính đương thời. Với thành
công của truyện ngắn này, Nam cao đã trở thành cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiên thực 1930 –
1945.
Ý nghĩa bát cháo hành trong tác phẩm Chí Phèo
Bát cháo hành là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc trong tác phẩm Chí Phèo góp phần thể hiện giá trị nhân đạo của tác
phẩm:
- Bát cháo ấy khơng những giúp Chí thốt khỏi trận ốm “thừa sống thiếu chết” mà hơn hết,nó là liều thuốc khai
- Chí sung sướng hạnh phúc khi cảm nhận được vị ngọt của tình yêu qua bát cháo hành của Thị. Vì vậy, bát chào
hành của Thị chất chứa tình u thương chân thành đã biến Chí từ một thằng lưu manh chuyên rạch mặt ăn vạ
thành một anh nông dân lương thiện với biết bao cảm xúc,nghĩ suy của một con người khát khao được trở về với
XH lồi người.Bát cháo đầy tình u thương của Thị đã giúp Chí rũ bỏ lốt quỷ để trở lại làm người.
- Tuy nhiên,hương vị của bát cháo hành cũng làm tăng thêm bi kịch mồ côi của Chí Phèo. Hương vị bát cháo hành
cũng là hương vị tình u của Thị Nở,làm xúc động Chí,đây là lần đầu tiên Chí có tình cảm của một con người:
bâng khuâng buồn,vui hồn nhiên như đứa trẻ “muốn làm nũng với thị như với mẹ”.
<b>Tham khảo:</b>
Không hiểu sao khi đọc “Chí Phèo” của Nam Cao tơi ln ln hình dung ra một con đường in bóng hình những
bước chân loạng choạng, ngật ngưỡng đầy phẫn uất của một Chí Phèo say – tỉnh. Và trên con đường – hành trình
đời đầy nỗi đau và bi kịch ấy, những giây phút hạnh phúc, những cử chỉ yêu thương mà Chí được hưởng thật hiếm
muộn như những giọt nước trên sa mạc mênh mông. Song dù chỉ là một giọt nước giữa sa mạc đời bao la của Chí
thì bát cháo hành của thị Nở vẫn làm tròn nhiệm vụ của một nguồn nước mát lành góp phần thức tỉnh, hồi sinh tâm
hồn Chí sau bao tháng năm đọa đày trong kiếp sống của con quỷ dữ. Cùng với những ám ảnh về bi kịch nhân sinh
của con người, hương cháo hành thoang thoảng trong“Chí Phèo” mãi mãi cịn vương vấn trong hồn người đọc như
một biểu tượng của tình cảm nhân đạo sâu sắc đậm đà trong siêu phẩm này.
Hình ảnh “bát cháo hành” mà nhân vật thị Nở mang cho Chí Phèo trong truyện gắn liền với mối tình “đơi lứa xứng
đơi” Chí Phèo – thị Nở. Trước khi gặp thị, Chí đã từng là một người nơng dân lương thiện, hiền lành như cục đất.
Con người ấy dù có tuổi thơ bất hạnh, bị chuyên tay như một món hàng nhưng vẫn giữ trọn những vẻ đẹp tâm hồn
cao quý, thiêng liêng của một đời lương thiện, biết phải trái, đúng sai, biết tự trọng. Nhưng bàn tay của bọn cường
hào phong kiến (mà đại diện là Bá Kiến) và cái nhà tù thực dân không cho con người hiền ấy sống đời lương thiện.
Chúng hùa với nhau, tước đi của Chí cả nhân hình, nhân tính của người nơng dân lương thiện, để biến anh Chí
thành thằng Chí Phèo, biến anh canh điền hiền lành, chăm chỉ thành kẻ lưu manh có mỗi một nghề là rạch mặt ăn
vạ. Sau 7, 8 năm đi khỏi làng Vũ Đại, Chí Phèo hồi hương trong tình cảnh vơ sản “trần như nhộng”. Sự hiện hữu
say triền miên, vô tận, đến nỗi chính hắn khơng biết về chính bản thân mình. Gương mặt quỷ dữ, hành động tác
quái theo kiểu quỷ dữ của Chí đã khiến con đường trở về của Chí cụt lối. Cánh cửa của xã hội lương thiện đã đóng
sầm trước mặt hắn khi hắn hồi hương thì đến nay nó được chèn cài kỹ lưỡng, im ỉm như một khối băng. Chí hiện
diện như một bóng hình hắc ám đi bên lề cuộc sống của làng Vũ Đại.
Thế nhưng, phía cuối đường hầm vẫn cịn chút ánh sáng le lói để Chí hy vọng. Trong cái làng Vũ Đại ấy vẫn còn
một con người nhìn đến Chí, khơng sợ Chí Phèo và ln đi qua vườn nhà Chí để kín nước. Đó là một người đàn bà
khốn nạn, khổ đau, chịu nhiều thiệt thịi – thị Nở. Chao ơi! Sao Nam Cao lại dùng những lời văn lạnh lùng đến tàn
nhẫn, mỉa mai để tả người đàn bà khốn khổ ấy? Đã mang một dung nhan “xấu ma chê quỷ hờn”, Thị lại còn dở hơi
“ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích”, mà thị lại cịn nghèo nếu trái lại thì ít nhất có một người đàn ơng
khổ sở. Chưa hết, thị Nở cịn có dịng giống mả hủi nên người ta vẫn tránh thị như tránh một con vật rất tởm. Ngoài
30 tuổi thị vẫn chưa lấy chồng trong khi ở cái làng Vũ Đại người ta kết bạn từ lúc lên tám, lên chín, có con từ lúc
15, không đợi đến năm hai mươi đẻ đứa con thứ nhất. Trong tình hình đó ta có thể nói qch thị khơng có chồng.
Ơng trời nhiều khi run rủi, thương người nhưng thực sự ở trường hợp Chí Phèo – thị Nở này ta có thể nói ông
thương hay ông ác, gây nghịch cảnh trớ trêu? Trách trời chi cho xa, trách nhà văn Nam Cao sao khơng tác thành
cho mối tình “đơi lứa xứng đôi” ấy? Song làm sao mà tác thành được, ai cho phép họ đến với nhau. Cả một xã hội
với bao định kiến không cho họ đến với nhau, không cho họ hạnh phúc trọn vẹn. Xét đến cùng ta mới thấy Nam
Cao thương người, nếu khơng có ngịi bút của ơng thì những kẻ tha hóa như Chí Phèo, những người đàn bà cùng
khốn như Thị Nở chẳng bao giờ được biết đến chút ít hạnh phúc của tình ái. Họ đã gặp nhau trong một đêm gió
mát, rười rượi ánh trăng ở vườn chuối cạnh bờ sơng mà những tàu chuối bị gió bay lại giẫy lên đành đạch như là
hứng tình. Khung cảnh lãng mạn đang tác thành cho họ. Chí Phèo uống rượu ở nhà Tự Lãng đã say từ nửa đường;
thị Nở đi kín nước cũng hớ hênh tựa vào gốc chuối ngủ trong cái gió mát như quạt hầu. Hai con người dị dạng, hai
số phận trớ trêu đã trải qua một đêm tình lãng mạn đúng kiểu “Chí Phèo – thị Nở”. Nhưng Nam Cao dựng lên mối
Đêm tình ấy khiến thị Nở xao xuyến, suy nghĩ nhiều, đặc biệt về Chí Phèo, về trận ốm của Chí. Thị về nhà sau
cuộc tình, sau khi dìu Chí vào nhà và trằn trọc không sao ngủ được. Thị nghĩ “thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi là
hôm nay nhọc nhừ”. Và thị thấy phải cho hắn ăn một tí gì mới được, “Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được
mồ hơi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà”. Thế là vừa sáng thị đã chạy đi tìm gạo để nấu cháo cho Chí. Hành thì
nhà thị may lại còn. Nam Cao đã miêu tả chiều sâu tâm lý nhân vật với những rung cảm, nhưng suy tư tinh tế. Tâm
lí của thị Nở vừa rất ngơ nghê lại vừa sâu sắc. Đó là rung cảm, những tình cảm tha thiết của một người đàn bà, nhất
là một người đàn bà đang yêu và muốn chăm sóc cho người u của mình. Thị khơng dở hơi mà ta thấy thị rất lo
cho Chí, lo với tình cảm của nhân tình, nhân ngãi, của người làm ơn và cũng là của người chịu ơn. Thị nghĩ: “mình
bỏ hắn lúc này cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau như “vợ chồng”. Tiếng “vợ chồng” thấy ngường
ngượng mà thinh thích…”. Thiên tính nữ, thiên chức của người đàn bà thức dậy trong thị. Thị khao khát hạnh phúc,
tình yêu như mọi người, dù chỉ là làm vợ của thằng… Chí Phèo. Cho nên bát cháo hành của thị Nở đem cho Chí
khơng chỉ là trách nhiệm mà còn là cả một tấm lòng. Hơn tất cả những người đẹp đẽ ở làng Vũ Đại, thị có một tấm
lịng vàng, tấm lịng chân thành và cao cả. Trong thâm tâm của thị, thị lo cho Chí, một nỗi lo thực sự của những
người thân yêu dành cho nhau. Thị còn thấy thương Chí: “cái thằng liều lĩnh ấy kể ra thì đáng thương, cịn gì đáng
thương bằng đau ốm mà nằm cịng queo một mình”. Đồng thời bát cháo ấy cịn có lịng u, tình u: “Thị thấy
như u hắn: đó là cái lịng u của một người làm ơn. Nhưng cũng có cả lịng u của một người chịu ơn”.
Cho nên, thị đem cho Chí nồi cháo hành cịn nóng ngun để hắn ăn cho khỏi ốm. Hơn một chi tiết nghệ thuật, bát
cháo hành của thị Nở đã trở thành một biểu tượng nghệ thuật, một siêu mẫu trong văn học hiện đại Việt Nam. Bát
cháo ấy do thị Nở nấu có thể chẳng mấy ngon nhưng quan trọng nó là tình thương, tình u, tình người ấm áp. Nó
là sự chăm sóc ân cần mang theo những nỗi lo âu thực sự của tấm lịng thị Nở dành cho Chí. Đặt trong qng đời
dài dặc đầy bi kịch của Chí, trong hồn cảnh dưới đáy hiện tại của Chí, bát cháo ấy là tình người hiếm hoi mà Chí
nhận được, là hạnh phúc tình u muộn mằn, q giá vơ ngần mà lần đầu tiên trong đời hắn được hưởng. Hương vị
cháo hành – hương vị tình yêu tỏa sáng, vượt lên hoàn cảnh, lên trên mọi định kiến của xã hội. Nó mãi mãi cịn
thoang thoảng, lan tỏa theo suốt cuộc đời của Chí. Một điều độc đáo ở đây là Nam Cao đã miêu tả quá tình diễn
biến tâm lý nhân vật Thị Nở rất tinh, rất sâu theo một tiến trình, một quá trình. Cách miêu tả tâm lý ấy cộng hưởng
cùng nghệ thuật đối lập (giữa ngoại hình và tâm hồn nhân vật thị Nở) khiến mỗi người đọc cũng xúc động rưng
rưng cùng nhân vật. Hóa ra Nam Cao khơng thóa mạ, hay hạ thấp con người bằng những nét vẽ ngoại hình trần
tính của con người. Ơng ln mang trong mình niềm tin mãnh liệt vào con người, vào phần lương thiện thiêng
liêng, quý báu trong mỗi con người. Thiên lương ấy không bao giờ bị mất đi, khơng một thế lực nào giết được. Nó
như một thứ lửa luôn âm ỉ cháy trong trái tim của con người, kể cả những con người ở giữa vũng bùn lầy của sự tha
hóa như Chí Phèo – khơng cịn chút nhân hình, nhân tính nào nữa – theo cái nhìn từ bên ngồi, từ người ngồi.
Những dịng Nam Cao miêu tả Chí Phèo ăn cháo hành có thể nói là những dịng văn sâu sắc, xúc động nhất tác
phẩm. Nhìn thấy bát cháo hành “Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt. Bởi
vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì…”. Chí
đi từ ngạc nhiên đến xúc động nghẹn ngào. Đây là lần thứ nhất trong đời hắn khóc sau những năm tháng bị đọa đày
và cũng là lần thứ nhất trong đời hắn nhận được một thứ người ta cho, cho vơ tư, khơng tính tốn. Hắn khơng phải
dọa nạt hay cướp giật mà vẫn có được. Quan trọng, đây là lần đầu tiên trong đời Chí được một người đàn bà quan
tâm, săn sóc, dành tình cảm cho; cũng là lần đầu tiên sau khi ra tù Chí được một con người nhìn nhận mình như
một con người, đối xử với mình theo cách con người dành cho nhau. Và hắn thấy thị có duyên bởi trong mắt kẻ si
tình người yêu của mình bao giờ chẳng đẹp, chẳng duyên. Để rồi sau đó, Chí Phèo tỉnh, tỉnh để suy tư, chiêm
nghiệm. Chí thực sự đã tỉnh rượu, đã tỉnh ngộ và ý thức được về cuộc sống sau những tháng năm say triền miên, vơ
tận, say để khơng biết có sự hiện hữu của mình trên cõi đời. “Hắn thấy vừa vui, vừa buồn. Và một cái gì nữa giống
như là ăn năn”. Chí cảm nhận được tất cả vị thơm ngon của nồi cháo hành: “Trời ơi cháo mới thơm sao! Chỉ khói
xơng lên mũi cũng đủ làm người nhẹ nhõm. Hắn húp một húp và nhận ra rằng: Những người suốt đời không ăn
cháo hành không biết rằng cháo hành rất ngon…”. Hơi cháo hành, bàn tay chăm sóc và tình cảm của thị Nở đã làm
cho Chí tỉnh, tỉnh để mà nhận ra mình, nhận thức về những việc mình đã làm. Hơi cháo làm Chí nhẹ người, chí
khỏi ốm để ăn năn, sám hối. Hơn lúc nào, Chí cảm thấu tình cảnh thê thảm, bi đát của mình cho nên hắn vừa vui lại
vừa buồn. Vui vì tình yêu, hạnh phúc muộn mằn, dù muộn nhưng đã đến; buồn vì thân phận, vì cuộc sống q lồi
vật của bản thân. Cháo hành rất ngon nhưng “tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm vị mùi cháo?”. Hắn hỏi rồi
hắn tự trả lời: “có ai nấu cho mà ăn đâu? Mà còn ai nấu cho mà ăn nữa! Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một
bàn tay “đàn bà”. Thê thảm quá! Bi kịch quá! Xót xa mn phần! Một chút gì như cay đắng nghẹn lịng nữa! Chí
nghĩ đến những tháng ngày nhục nhã bị bà ba nhà Bá Kiến – “con quỷ cái” cứ hay gọi hắn đấm lưng, bóp chân “mà
lại cứ bắt bóp lên trên, trên nữa”. Hắn thấy nhục chứ sung sướng gì. “Hai mươi tuổi người ta khơng là đá, nhưng
Nam Cao vốn là một nhà văn có cái nhìn đời thấu suốt, tinh sắc. Ơng khơng dừng lại ở sự thức tỉnh của Chí Phèo
nhờ bát cháo hành mà ơng cịn đưa người đọc đi xa hơn đến chân trời ước mơ, hy vọng của Chí. Với ước mơ quá
khứ sống dậy, ước mơ trong hiện tại bùng cháy thiêu đốt tâm can, Chí đã thực sự hồi sinh, là một con người hoàn
toàn theo đúng nghĩa của hai chữ CON NGƯỜI viết hoa (chữ của M.Gorki).
Bát cháo húp xong, thị Nở đỡ lấy bát và múc thêm bát nữa. Hắn thấy đẫm bao nhiêu mồ hôi, những giọt mồ hôi to
như giọt nước. Chí biết mình đã đến cái dốc bên kia của cuộc đời và chí thấy “thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa
với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn sao người khác không thể…
Họ sẽ nhận lại hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Hạnh phúc chớm nở như
hoa hàm tiếu và hy vọng được nhen lên rồi bùng cháy mãnh liệt như ngọn lửa được tiếp ơxi. Chí khao khát cuộc
đời lương thiện, muốn làm hòa với mọi người. Thị Nở sẽ là cầu nối, là hy vọng, mở ra cánh cửa của thế giới lương
thiện vẫn đóng im ỉm cho Chí. Bát cháo hành của tình yêu, tình người đã làm tươi lại, thanh lọc tâm hồn Chí. Cái
ước mơ của Chí rất giản dị mà thiêng liêng, cao cả xiết bao. Nó mang tư tưởng nhân văn sâu sắc, mới mẻ của nhà
văn Nam Cao. Bởi đã là con người, dù dị dạng, dù tha hóa nhưng họ vẫn có quyền được sống lương thiện, vẫn
khơng thơi ước mơ, khơng hết sự khát thèm cuộc đời bình dị trong hạnh phúc và tình yêu.
Song xã hội lương thiện mà Chí Phèo thấy bằng phẳng kia khơng hề bằng phẳng. Nó cịn bao định kiến, bao sự
cách ngăn, bao điều nghi kỵ. Tất cả đã khơng cho Chí một cơ hội nào trở về cuộc đời bình thường như bao người
bình thường. Bị thị Nở cự tuyệt, hắn phẫn uất, cùng cực tìm đến rượu. Nhưng hắn “càng uống lại càng tỉnh ra”.
“Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành”. Hơi cháo hành ấy là dư ảnh của bát cháo kia
xuất hiện lần cuối để giữ Chí lại bên bờ tỉnh, để hắn tự ngấm, tự thấm bi kịch nhân sinh cuộc đời. Tất cả hy vọng
của Chí đã tan biến theo làn khói hành mong manh, hư ảo. Nhưng hắn khơng thể sống như trước nữa vì hắn đã tỉnh,
hắn vẫn khơng thơi ước mơ. Chí khóc rưng rức trong tuyệt vọng, trong những tỳ vết tâm hồn, những vết cứa, vết
xước của tội ác trong tim hắn biểu hiện lên khuôn mặt dị dạng của hắn vĩnh viễn khơng thể mất đi. Tất cả đưa Chí
sâu sắc. Nó thúc đẩy sự phát triển, tạo bước ngoặt cho cốt truyện. Đồng thời, nó cũng đầy ám gợi để khắc họa sắc
nét, tinh tế thế giới tâm hồn, diễn biến tâm trạng phong phú, phức tạp của các nhân vật. Từ đó, chi tiết làm bật nổi
tính cách và bi kịch của các nhân vật ấy như những hồi chng gióng giả, vang vọng đầy ám ảnh về con người. Bát
cháo hành của thị Nở có thể khơng thể tồn vẹn, thơm tho như chính con người nhân vật nhưng nó là bát cháo của
tình yêu thương, của tình người ấm áp, của tình cảm nhân đạo sâu sắc và mối quan hoài thường trực mà nhà văn
Nam Cao dành cho con người, nhất là con người có số phận bi kịch. Chính cái nhỏ nhoi, bình dị ấy là một trong
những nhân tố quan trọng tạo nên tầm vóc kinh điển cho kiệt tác “Chí Phèo”.
Vì sao truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao lại được coi là kiệt tác?
Truyện ngắn của Nam Cao ra đời gây một tiếng vang lớn trên văn đàn Việt Nam thời bấy giờ. Nó là một dẫn chứng
hùng hồn chứng minh cho thắng lợi của quan điểm nghệ thuật vì dân sinh của các văn tiến bộ. Truyện ngắn xuất
sắc này đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong đội ngũ các nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 1930-1945.
Qua nhiều truyện ngắn của mình, Nam Cao đã tố cáo trước dư luận tình hình thống khổ của nhân dân dưới ách
thống trị của thưc dân, phong kiến. Họ là nạn nhân của bọn cường hào áp bức và tham nhũng. Bạo lực đen tối, sưu
cao thuế nặng cùng nhiều hủ tục khác ở nông thôn đã đồn đẩy họ vào bước đường cùng, thậm chí tước đoạt quyền
sống, quyền làm người của họ. Hình tượng có giá trị tố cáo xa hội sâu sắc là hân vật chí phèo trong tryện ngắn cùng
tên – Một nơng dan lương thiện bị bần cùng hóa, lưu manh hóa. Chính vì có ý nghĩa hiện thực to lớn và giá trị nghệ
thuật sâu sắc nên truyện ngắn này được đánh giá là một kiệt tác trong nền văn xuôi Việt Nam.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã khác họa thật sinh động và tài tình chân dung có một khơng hai của gã Chí Phèo say
rượu: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có
của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: Đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay
tất cả làng Vũ Đại. Nhưng tất cả làng Vũ Đại cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Khơng ai lên tiếng cả. Tức thật!ờ!
Thế này thì tức thật! Tức chết đi mất! Đã thế hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với nhau với hắn nhưng
cũng khơng ai ra điều. Mẹ kiếp! thế có phí rượu khơng? Thế thì có khổ hắn khơng? Khơng biết chết mẹ nào lại đẻ
ra thân hắn khổ đến nông nỗi này ? Aha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn,
Quả là một nguồn gốc xuất thân đầy bí ẩn. Ấy thế nhưng thân Chí Phèo mọi người đều rõ. Hắn chính là đứa trẻ bỏ
rơi lúc lọt lòng, trong chiếc lò gạch bỏ hoang giữ đồng không mông quạnh. Một anh đi thả ống lươn lúc sáng sớm
đã mang hắn về làng. Tuổi thơ hắn bơ vơ hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ. Khơng thân thích, khơng tác đất
cắm dùi hắn lớn lên như thú hoang, như cỏ dại, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Đó là cuộc đời khốn khổ
của kè cùng hơn cả dân cùng ở nơng thơn ngày trước.
Chí Phèo phải chịu đựng mọi nỗi đau bất hạnh như bao nông dân nghèo cực khác, nhưng điều bất hạnh lớn nhất
của hắn ta là khơng được sống bình thường ngay trong cuộc đời nghèo khổ mà lương thiện của mình. Anh thanh
niên có cái tên hiền lành, dễ thương là Chí đã bị xã hội vạn ác cướp đi cả bộ mặt người cùng tính người, bị biến
thành gã lưu manh hung tợn Chí Phèo nên đã bị dân làng gạt ra khỏi cộng đồng một cách không thương tiếc
Chí vốn là anh trai cày cục mịch, chất phát, làm tá điền cho nhà Lý Kiến. Chỉ vì cơ ghe bóng ghe gió của tên cường
hào nham hiểm này mà Chí bị bắt đi tù. Bẩy, tám năm trong tù, sống chung với tầng lớp cặn bã của xã hội, tâm hồn
Chí đã bị nhuộm đen. Cái phần người trong Chí Phèo đã bị thui chột. Từ mặt mũi đến tính cách của hắn đã trển nên
quáy dị, đáng sợ.
Bọn thống trị trong làng mà tiêu biểu là Bá Kiến- kẻ đã gây ra bi kịch của cuộc đời Chí Phèo – giờ đây lại dùng thủ
đoạn nham hiểm và sức mạnh của đồng tiền để mua chuộc, sai khiến, sử dụng Chí Phèo như con dao trong tay đồ
tể, gây họa cho bao người.
Chí Phèo phản ướng gay gắt, quyết liệt với xã hội bằng thái độ ngang ngược, liều lĩnh. Lúc nào hắn cũng say, cũng
giận dữ, sẵn sàng dùng mảnh chai rạch mặt ăn vạ, kêu làng…Q trình biến đổi dữ dội trong tính cách của chí Phèo
tố cáo sự hủy hoại nghê gớm của xã hội thối nát đối với phẩm chất nhân cách của người lao động.
Chí Phèo là hiện thân của nỗi đau khổ tột cùng: Sinh ra là người mà không được làm người. Để quên đi nỗi đau bất
hạnh ấy Chí Phèo dùng rượu để giải khuây: Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác thành một cơn dài,
mênh mông, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa say vô tận. Chưa bao
giờ hắn tỉnh, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn tồn tại trên đời. Có lẽ hắn cũng khơng biết rằng
ẩm thấp vẫn mới chỉ hơi lờ mờ. Ở đây người ta thấy chiều lúc chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng.
Chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi chưa bao giờ hết say.
Nhưng bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài. Cũng như những người say tỉnh
dậy, hắn thấy miệng đắng, lịng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay khơng buồn nhấc. Hay là đói rượu? Nghĩ
đến rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nơn nao lên một tí. Hắn sợ rượu cũng như người ốm thường sợ cơm.
Tiếng chim hót ngồi kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi
cá. Những tiếng quen thuộc ấy hơm nào chả có. Nhưng hơm nay hắn mới nghe thấy…Chao ôi là buồn!
Những âm thanh quen thuộc ấy vọng đến tai Chí Phèo bỗng trở thành tiếng gọi của sự sống và lay động sâu xa tâm
hồn hắn: “Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn, cày thuê vợ dệt vải,
chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm…Tỉnh dậy hắn thấy già mà vẫn
cịn cơ độc. Buồn thay cho đời! Có lí nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngồi bốn mươi tuổi đầu…Dẫu
sao, đó khơng phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở những người như
hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đày đọa, cực nhọc, mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu
hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đơng đã đến.
Chí Phèo hình như đã trơng thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cơ độc, cái này cịn đáng sợ hơn đói
rét và “ốm đau”.
Trái tim tưởng như chai đá của Chí Phèo dần dần sống dậy. Cái phần người trong hắn cũng hồi sinh. Hắn khao khát
được sống cuộc sống bình thường, được làm hịa với mọi người. Thị Nở sẽ là cây cầu nối giữa hắn với dân làng Vũ
Đại. Chí Phèo háo hức nghĩ tới một tương lai tốt đẹp.
Nhưng chút tình yêu thương của Thị Nở khơng đủ mạnh để cứu Chí Phèo. Con đương trở lại làm người của hắn đã
bị một trở lực ghê gớm ngăn cản. Định kiến xã hội biểu hiện qua sự cấm đốn gay gắt của bà cơ Thị Nở khơng cho
Đau đớn thay tiếng kêu tuyệt vọng của Chí Phèo khi vác dao đến nhà Bá Kiến để hỏi tội hắn: Tao muốn làm người
lương thiện! Ai cho tao lương thiện? làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể
là người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ có một cách…biết khơng! Căm thù cao độ và khơng cịn lối thốt, Chí
Phèo đã giết chết bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt thân mình để giải quyết bi kịch của số phận. Hành động quyết
liệt ấy cho thấy một một khi phần người đã sống dậy thì Chí Phéo khơng chấp nhận trở lại kiếp thú hoang.
Nỗi thống khổ của Chí Phèo đã bị tước đoạt quyền làm người, không được nếm trải đủ những buồn vui, sướng khổ
của kiếp người. Chí Phèo chết trong nỗi đau đớn tột cùng bởi khao khát mãnh liệt được làm người lương thiện đã bị
định kiến xã hội dập tắt một cách tàn nhẫn. Câu hỏi cuối cùng trong những giây phút tỉnh táo cuối cùng của cuộc
đời Chí Phèo chất chứa khao khát, đớn đau, phẫn uất và tuyệt vọng. Nó có giá trị tố cáo rất lớn cái xã hội thực thực
dân phong kiến vơ nhân đạo và có sức thức tỉnh, nay động mạnh mẽ, làm cho tâm hồn người đọc day dứt khơn
ngi. Đó chính là giá trị nhân văn cao cả của tác phẩm.
Qua hình tượng nhân vật bất hủ của Chí Phèo, Nam Cao muốn đề cập tới, một vấn đề quan trọng là: Làm thế nào
để con người được sống đúng nghĩa là người trong xã hội phi nhân tính đương thời? Tác phẩm mang ý nghĩa triết lí
sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật độc đáo đã khẳng định Nam Cao là cây bút bậc thầy về truyện
ngắn và tơn vinh tác giả lên vị trí hàng đầu trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Nhận xét về bi kịch cái chết của Chí Phèo
Cái chết cua Chí Phèo là tiếng chuông cảnh tỉnh cả một xã hội đầy rẫy định kiến, thiếu tình nhân hậu, bao dung,
vừa đẩy người ta đến chỗ tột cùng khơng lối thốt vừa không cho người ta cái cơ hội trở lại làm người
Bắt đầu từ một buổi sáng. Đấy là buổi sáng mà hắn đã nghe được những âm thanh bình thường của cuộc đời: tiếng
chim hót ngồi kia vui vẻ quá, tiếng người thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng cười nói của những người đi chợ.
Những tiếng ấy hơm nào chả có nhưng hơm nay hắn mới nghe thấy vì hơm nay hắn mới tỉnh rượu. Những âm
Khó mà quên được hình ảnh Chí Phèo mắt “ươn ướt” khi bưng bát cháo hành của Thị Nở mà lòng cứ bâng khuâng.
Hắn nhận ra một chán lí sơ đẳng của con người sống giữa mọi người và bỗng nhiên bững ngộ ra một. điều: những
người không ăn cháo hành không biết cháo hành ngon. Bởi, có một cái gì đó sâu xa hơn hương vị cháo hành kia.
Nhưng tại sao đến tận bày giờ hắn mới được nếm mùi vị cháo? Hắn thèm một cuộc sống lương thiện, thèm cái tình
nhân ái của con người. Hắn khát khao được chung sống hạnh phúc với Thị Nở, sống thân thiện với mọi người. Và
hắn thốt lên với người mình u: “Giá như thế này mãi thì thích nhỉ”, sung sướng nhận được sự đồng tình của thị
("Thị không đáp nhưng cái mũi đỏ của thị như càng bạnh ra”). Nam Cao vui vẻ dự báo: “Chúng sẽ làm thành một
cặp xứng đôi”.
nhận ra rằng, hắn không thể trở lại làm người lương thiện được nữa rồi. Đó là bi kịch đau đớn nhất, cay đắng nhất
đối với hắn. Chí Phèo đã ý thức được rất rõ về nỗi đau này. Hắn “ôm mặt khóc rưng rức, khóc vì tuyệt vọng”.
Nỗi đau ấy khiến Chí Phèo uống rượu. Và trong cơn say cơn tỉnh, hắn muốn đi trả thù. Ban đầu hắn lẩm bẩm “phải
đến cái nhà con đĩ Nở kia, đến để đâm chết cả nhà nó, đâm chét cái con khọm già nhà nó”. Nhưng trong tiềm thức
hắn nhận ra kẻ gây ra nơng nổi này chính là Bá Kiến. Đây mới là kẻ đã vạch lên gương mặt lương thiện của hắn
những vết sẹo tội ác, đẩy hắn đến chỗ tuyệt vọng. Cho nên dù say rượu mà bước chân Chí Phèo vẫn đủ tỉnh táo. Và
như một tất yếu, hắn đã vung dao đâm chết Bá Kiến - nguyên nhân gây nên bi kịch của đời mình. Rồi cũng bằng
con dao vấy máu đó, hắn đã tự vẫn, kết thúc một cuộc đời bi kịch.
Cái chết cua Chí Phèo là tiếng chng cảnh tỉnh cả một xã hội đầy rẫy định kiến, thiếu tình nhân hậu, bao dung,
vừa đẩy người ta đến chỗ tột cùng khơng lối thốt vừa khơng cho người ta cái cơ hội trở lại làm người. Đó là bi
kịch về quyền được sống lương thiện, bi kịch về lịng nhân ái...
Chí Phèo giết Bá Kiến trong trạng thái tỉnh hay say rượu? Ý nghĩa cái chết của hai nhân vật Chí Phèo và Bá Kiến.
Giết Bá Kiến là một Chí Phèo rất tỉnh. Đầy lịng phẫn uất và căm thù khơng có con đường nào khác để sống đành
liều thân với kẻ thù.
Chí Phèo là nhân vật điển hình xuất sắc của nhà văn Nam Cao trong truyện ngắn Chí Phèo ra đời năm 1941. Đây là
Theo tác giả miêu tả thì Chí đã uống hết hai chai rượu. Cũng theo truyện thì Chí rắp tâm đến nhà thị Nở “để đâm
chết cả nhà nó”. Chí có ý định đó vì thị Nở nghe lời bà cơ thị, đã cự tuyệt quan hệ với Chí Phèo. Nhưng rồi Chí
khơng đến nhà “người tình bội bạc” mà lại đến thẳng nhà Bá Kiến. Nhà văn đưa ra lời bình: “những thằng điên và
những thằng say rượu không bao giờ làm những cái mà lúc ra đi chúng định làm”. Căn cứ vào những chi tiết đó, ta
có thể kết luận Chí Phèo xơng đến và đâm chết Bá Kiến trong trạng thái say.
Nhưng phân tích và kết luận như thế chưa đủ. Trước khi hạ thủ kẻ thù, Chí đã nói những lời rất tỉnh táo. Chí nói ba
câu rất gọn và rõ. Một câu khẳng định quyết liệt: “Tao muốn làm người lương thiện!”. Một câu hỏi uất ức: “Ai cho
tao lương thiện?”. Rồi một câu phủ định đau xót: “Tao khơng thể là người lương thiện nữa”. Chí Phèo muốn, là
nguyện vọng. Nguyện vọng xuất phát từ bản chất, cội nguồn lương thiện của Chí và vẫn dai dẳng tiềm ẩn trong con
người anh ta, dẫu từ khi biến chất anh ta lúc nào cũng say, cũng là một thằng “đầu bị”. Chí Phèo hỏi, là trong sâu
xa Chí rất rõ nguyên nhân nào và ai đã làm Chí thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Và sự tự phủ định cuối cùng
chứng tỏ Chí Phèo hiểu con đường cùng đầy thương cảm, xót xa của bản thân. Sự chuyển đổi cảm xúc ấy diễn ra
một cách tự nhiên khơng gị bó. Cho nên lại khơng thế nói Chí Phèo giết Bá Kiến vì say rượu. Chỉ có thể nói đó là
giây phút lóe tỉnh trong cơn say. Sự lóe lên của ý thức này thật Chí hơn tất cả cơn say triền miên của Chí. Bởi thực
chất Chí say vì uất ức, say vì muốn trả thù, say vì cùng quẫn. Và vì tất cả những nguyên cớ rất lương thiện này cho
nên Chí mới say. Do vậy, có thể nói, trong say, Chí thực ra là “Chí giả” - một Chí hình nộm - mang tên Chí Phèo.
Giết Bá Kiến là cái anh Chí làm canh điền, chỉ có một mong ước hiền lành từng “ao ước có một gia đình nho nhỏ.
Chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào
ruộng làm” cho nên lại có thể nói, mà như thế này mới chính xác - giết Bá Kiến là một Chí Phèo rất tỉnh. Đầy lịng
phẫn uất và căm thù khơng có con đường nào khác để cho đành liều thân với kẻ thù.
Chính nhờ Nam Cao mà Chí Phèo có được sức sống mạnh mẽ đến vậy trong lòng độc giả. Mỗi lần đọc Chí Phèo là
mỗi lần cảm nhận khác nhau về cảnh đời, số phận của những con người trong xã hội cũ. Và mỗi lần như vậy, người
đọc lại càng thương cảm hơn cho cái dáng vẻ ngất ngưởng, dềnh dàng bước ra từ trang sách của Chí Phèo. Càng
Giá trị hiện thực và nhân đạo trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Caọ
Thơng qua số phận Chí Phèo, Nam Cao phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội Việt Nam lúc bấy giờ và thực trạng
người nông dân bị đày đọa, đè nén và âm thầm chịu đựng rồi tuyệt vọng, liều lĩnh phản ứng cực đoan.
Là nhà văn trung thành với chủ nghĩa hiện thực, cũng như các cây bút tả chân đương thời, Nam Cao quan tâm trước
hết tới việc đi sâu thể hiện tình cảnh khốn khổ của người nghèo bị áp bức, trong đó có Chí Phèo. Tác phẩm gây ấn
tượng đậm nét về bức tranh đời sống xã hội nơng thơn. Đó là hệ thống tơn ti trật tự của làng Vũ Đại; là ấn tượng về
tình trạng khép kín của làng xã phong kiến. Đặc biệt nó đã phơi bày các mối quan hệ xã hội phức tạp của hiện thực,
đã miêu tả trung thực những quan hệ thực (Ăng-ghen). Đồng thời là tình thương đối với những con người bị xã hội
đẩy vào con đường tha hóa, bị hắt hùi... Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo của Chí Phèo.
Nam Cao được coi là nhà văn của nơng dân trước hết vì ơng có Chí Phèo. Chí Phèo có phạm vi hiện thực phản ánh
trải ra cả bề rộng không gian và bề dài thời gian. Làng Vũ Đại trong tác phẩm chính là hình ảnh thu nhỏ của xả hội
nông dân Việt Nam đương thời.
nghịch nhau, mà do chúng là một đàn cá tranh mồi, mồi thì ngon đấy, nhưng năm bè bảy mối. Ngồi mặt tử tế với
nhau nhưng trong bụng muốn cho nhau lụi bại. Đây là hiện tượng có tính quy luật ở nông thôn, ảnh hưởng sâu sắc
tới đời sống xã hội - ruồi muỗi phải chết oan uổng khi trâu bò húc nhau.
Dựng nên bức tranh xã hội ở nông thôn, trước hết Nam Cao tập trung làm nổi bật xung đột giai cấp giữa địa chủ
cường hào với người nông dân bị áp bức - phản ánh hiện thực nơng thơn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp. Nó làm
nên giá trị nhận thức và sức mạnh phê phán to lớn.
Nam Cao đã xây dựng hình tượng điển hình về giai cấp thống trị ở nơng thôn: Bá Kiến - lão cường hào cáo già với
giọng quái rất sang, cái cười Tào Tháo cho thấy bản chất gian hùng, khơn róc đời. Và tư cách nhem nhuốc của cụ
Nam Cao không đi vào nạn sưu thuế, tô tức, tham nhũng mà ở Chí Phèo Nam Cao đi vào phương diện: người nông
dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt về nhân tính, bị phủ nhận tư cách làm người. Nỗi thống khổ của Chí
Phèo khơng phải ở chỗ cuộc đời Chí Phèo chỉ là số không: không nhà cửa, không cha mẹ, khơng họ hàng thân
thích, khơng tấc đất cắm dùi... mà chính là ở chỗ Chí Phèo bị xã hội rạch nát bộ mặt, cướp đi linh hồn, bị loại khỏi
xã hội loài người, sống kiếp quỷ dữ.
Mở đầu tác phẩm là hình ảnh Chí Phèo ngật ngưỡng vừa đi vừa chửi. Nhưng đằng sau chân dung gã say rượu có
cái gì như là sự vật vã của một linh hồn đau đớn, tuyệt vọng. Tiếng chửi của Chí Phèo khơng hẳn là bâng quơ. Tuy
say, nhưng vẫn mơ hồ thấm thìa nỗi khổ của thân phận. Chí Phèo là điển hình cho một bộ phận cố nơng bị đẩy vào
con đường lưu manh hóa. Chí Phèo trước hết là hiện tượng có tính quy luật của tình trạng áp bức bóc lột tàn bạo ở
nơng thơn Việt Nam. Lúc bây giờ. Đó là hiện tượng những người nông dân bị đè nén thái quá đã chống trả lại để
tồn tại bằng con đường lưu manh. Nam Cao khốn khổ giành lấy sự tồn tại bằng việc bán cả nhân phẩm đã trở thành
lực lượng mù quáng dễ dàng bị bọn thống trị lợi dụng. Vì thế, Chí Phèo từ chỗ liều chết với bố con lão, chỉ cần lời
nói và mấy hào chỉ trở thành tay sai mới của lão. Sức mạnh tố cáo to lớn của hình tượng Chí Phèo trước hết đã làm
nổi bật hiện tượng có quy luật diễn ra ở nông thôn - hiện tượng lưu manh hóa. Song ý nghĩa khái qt của hình
tượng Chí Phèo còn ở cấp độ cao hơn: sự hủy diệt, nhân tính trong xã hội độc ác, khơng cho con người được làm
người.
Tác phẩm Chí Phèo khơng dừng ở đó mà với câu chuyện về mối tình Chí - Thị, bằng giọng văn bơng lơn, có lúc
như chế giễu chuyện tình của hạng nửa người nửa ngợm thì đây vẫn là chuyện có nội dung nghiêm túc, chứa đựng
tư tường nhân đạo mới mẻ.
Giữa lúc cả làng Vũ Đại khơng chấp nhận giao tiếp, xem Chí như quỷ dữ, thì một người đàn bà thuộc dịng giống
ma hủi, xấu đến ma chê quỷ hờn lại có tấm lịng vàng, thấy Chí hiền lành, Thị Nở chính là chiếc cầu nối đưa Chí ở
đáy sâu của sự tha hóa thức tỉnh bản chất người lao động. Bằng sự chăm sóc giản dị, tình u thương mộc mạc mà
chân thành của người đàn bà khốn khổ đã khơi dậy linh hồn Chí Phèo. Chí nghe thấy những âm thanh cuộc sống
Giá trị nhân đạo còn thể hiện ở tấn bi kịch tinh thần của Chí Phèo: bi kịch của con người bị từ chối không được làm
người. Khi hiểu ra xã hội khơng cơng nhận mình, bà cơ Thị Nở - định kiến xã hội đã không chấp nhận cho cháu bà
đến với Chí. Chí vật vã đau đớn. Hắn càng uống càng tỉnh hắn ơm mặt khóc rưng rức. Chí quằn quại, đau đớn vì
tuyệt vọng, thấm thía về tội ác kẻ thù. Chí Phèo trợn mắt chỉ tay vào Bá Kiến đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt
người đã bị vằm nát. Kẻ thù bị đền tội, và sau đó Chí tự sát. Chí phải chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, khơng
chấp nhận kiếp thú vật. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống, Chí chết quằn quại trong vũng máu, trong
khao khát được làm người lương thiện. Ai cho tao lương thiện là lời nói đanh thép, phẫn nộ, làm người đọc sững sờ
và day dứt. Đó vẫn là một câu hỏi lớn khơng lời đáp.
Chí Phèo của Nam Cao được đánh giá cao chính ở giá trị tố cáo. Thơng qua số phận Chí Phèo, Nam Cao phản ánh
sâu sắc hiện thực xã hội Việt Nam lúc bấy giờ và thực trạng người nông dân bị đày đọa, đè nén và âm thầm chịu
đựng rồi tuyệt vọng, liều lĩnh phản ứng cực đoan. Nam Cao cũng bày tỏ niềm cảm thơng, tình thương yêu đối với
người nông dân bị đẩy vào con đường lưu manh hóa, phát hiện bản chất tốt đẹp vốn có của họ. Song cũng như các
nhà văn hiện thực cùng thời, chưa tìm được cho nhân vật của mình lối thốt. Sau này, bằng con đường cách mạng,
Tơ Hồi, Kim Lân đã tìm cho nhân vật mình một hướng đi riêng.
Nam Cao đã chứng tỏ là một cây viết hiện thực sắc sảo, là “thư kí trung thành của thời đại”, một tấm lòng nhân ái,
rộng mở bị ám ảnh bởi số phận đau khổ của kiếp người nơ lệ
Tác phẩm Chí Phèo khép lại ở trang cuối cùng với một cảnh tượng đầy hãi hùng hai xác chết của hai con người -
Tồn truyện Chí Phèo là một sức căng. Nam Cao đã đưa người đọc lạc vào cung bậc khác nhau của những sự căng
thẳng về thần kinh bởi những câu chửi choang choang của Chí, bởi những cơn nốc rượu như nước, bởi những lần
rạch mặt ăn vạ ghê rợn. Tưởng thế đã là đáng nhớ lắm, Nam Cao còn bất ngờ đưa tay, lia ngòi bút một lần cuối để
kết thúc bản nhạc của mình, cả trang sách như rung lên khi Chí vung dao chém vào người Bá Kiến và tự kết thúc
cuộc đời mình.
Khi Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan... ra đời, mấy ai cịn có thể tưởng tượng tới
một cảnh đời nào bần cùng hơn, bế tắc hơn, tủi cực hơn thế. Tưởng như cuộc sống chị Dậu và anh Pha đã là tột
cùng của nỗi khổ đau ở đời. Nhưng cùng hơn cả những con người bần cùng đó, vẫn có Chí Phèo đã bước ra từ
trang sách của Nam Cao, là hiện thân đầy đủ của những gì là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cùng ở một
nước thuộc địa: bị giày đạp, bị cào xé, bị hủy hoại cả nhân tính lẫn nhân hình. Chị Dậu, anh Pha dù có khổ mấy vẫn
được cơng nhận là người. Cịn Chí, con người hiền lành, chất phác qua lần vào tù ra tội đã bán cả nhân tính, nhân
hình để trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại. Thoát được cửa tù con, Chí Phèo lại ra vào cứa tù lớn và lẫn này thì mãi
mãi, Chí bị khóa chặt trong cuộc đời thú vật mà chế độ “ban” cho. Từng ấy bất hạnh đáng được để cho nhân vật nổi
loạn lắm, nhưng ngòi bút Nam Cao tỉnh táo và sắc sảo, đủ điều kiện cùng nhân vật đi đến cuối truyện. Mọi cái được
nâng lên với mức độ cao hơn khi Chí Phèo với ý định đến nhà thị Nở, quen chân thuận đường lại đến nhà Bá Kiến;
vơ tình một cách có ý thức, Nam Cao cho nhân vật của mình lại đi lệch đường, nhưng đúng hướng, đúng cái đích
mà Nam Cao vạch ra cho nhân vật của mình. Cái chết của Bá Kiến đầy bất ngờ, không ai nghĩ rằng con cáo già như
Bá Kiến lại có thể chết nhanh gọn đến thế. Với Chí Phèo thì khơng có gì là khơng thể bởi sự liều lĩnh của hắn đã
được tôi luyện từ lâu rồi trong xã hội cũ. Nam Cao luôn đi tìm nhân phẩm và tình thương yêu chân thật ở những
người lao động cùng khổ, bị giày xéo và khinh bỉ. Đây cũng là vấn đề “đôi mắt” mà Nam Cao luôn hướng tới, là
đặc diểm cơ bản của chủ nghĩa hiện thực và nhân đạo của Nam Cao.
mình một lẽ sống, một sự cơng bằng đã bị tước đoạt. Giết chết Bá Kiến mới chỉ đạt được một nửa cơng việc, Chí
Phèo hồn thành nốt “cơng việc” cịn lại bằng cách tự giết ln cả mình. Nếu cịn sống, Chí Phèo vẫn tiếp tục cuộc
đời quỷ dữ của mình, vẫn phải đối chọi với con trai của Bá Kiến. Ta còn nhớ Nam Cao đã cho một nhân vật của
mình ăn bả chó tự tử, đó là lão Hạc. Nay ta lại thấy Chí Phèo tự kết liễu mình. Phải chăng, với suy nghĩ riêng của
Chí Phèo chỉ ao ước trở lại làm một người lao động bình thường với mối tình thị Nở, nhưng không được. Cách xây
dựng nhân vật của Nam Cao thật độc đáo.
Chí Phèo vừa là một gã mất trí, công cụ nguy hiểm trong tay bọn thống trị, lại vừa là nô lệ thức tỉnh, trở thành con
người có đầu óc sáng suốt nhất của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có ý nghĩa khái quát sâu sắc vượt quá
mức thường ngày, vượt quá tầm khôn ngoan lọc lõi của Bá Kiến: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất
được những vết mảnh chai trên mặt này?” Nỗi ray rứt rất con người, đầy nhân văn này lại được thốt ra từ miệng
một kẻ chuyên uống rượu say mềm. Bá Kiến cũng bất ngờ, mất cảnh giác nên Chí đã dễ dàng sát hại. Diễn biến rất
hợp lí, từng chi tiết nhỏ đều rất tôn trọng “chủ nghĩa hiện thực”. Chí Phèo ngay sau đó cũng tự kết liễu đời mình
bởi trong giây phút điên cuồng đó, hắn đã tỉnh táo hơn bao giờ hết và ý thức được mọi điều mình làm. Khơng tự
giết, Chí Phèo cũng sẽ phải chết vì con trai Bá Kiến cịn đó, vì bao đối tượng khác ln lâm le muốn xóa sổ hắn.
Giết được Bá Kiến, Chí Phèo như lấy lại được thanh danh cho mình, như đã hài lịng về bản thân, cảm thấy khơng
cần phải sống để địi nợ ai nữa. Hắn khơng chết cũng sẽ khơng cịn ai cho hắn tiền uống rượu, khơng cịn Bá Kiến
cho hắn rạch mặt ăn vạ nếu hắn chết. Có những cái chết bế tắc, nhưng cái chết của Chí Phèo lại là bước mở đầu cho
sự sống, cho sự tháo cũi xổ lồng, giải thốt cho chính mình. Viết nên những trang sách ấy, Nam Cao vẫn chưa ý
thức đầy đủ về sức mạnh vĩ đại của quần chúng lao động, sức công phá mãnh liệt của những kiếp người nô lệ,
nhưng ông đã lờ mờ nhận thấy một sức sống tiềm tàng trong con người lao động bị áp bức. Đằng sau sự đâm chém
hải hùng kia có cái gì như là sự vật vã tuyệt vọng đang cố vùng vẫy để thoát khỏi nó. Bi kịch của Chí khơng phải là
sự nghèo hèn vật chất, thứ vị xã hội mà ở chỗ là người mà khơng được xã hội lồi người dung nạp. Sống trong sự
thờ ơ lẫn sợ hãi, xa lánh của mọi người càng làm cho Chí cùng thêm, liều thêm cho đến khi ý thức được điều đó thì
hắn chỉ cịn biết tìm đến cái chết.
Thực ra, trong chuỗi ngày dài trong đời hắn, hắn không hề biết mình đang sống, hắn chưa biết đến cái chết nghĩa là
hắn chưa sống. Kết thúc truyện hắn đã tìm đến cái chết, cũng là lúc hắn nhận biết được cuộc sống thú vật của hắn.
Còn Bá Kiến, sẽ cịn Chí Phèo. Hết Bá Kiến, Chí Phèo cũng khơng tồn tại. Ở đây ta cịn thấy một sự thâm thúy sâu
xa của Nam Cao khi cho cả hai nhân vật tồn tại song song và có vai trị tác động lẫn nhau. Nếu khơng phải là Bá
Kiến thì anh Chí ngày xưa chưa hẳn đã là Chí Phèo bây giờ. Bởi ở Bá Kiến là cả sự khôn ngoan lọc lừa, một kẻ biết
Nam Cao có lần đã nói: Nghệ thuật khơng cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật
có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thốt ra từ kiếp lầm than. Đó là lời của Điền (Trăng sáng), nhưng cũng là nỗi băn
khoăn trong cuộc đời cầm bút của Nam Cao. Ngịi bút của ơng hướng về người dân lao động nghèo khổ nhiều khi
là những con người xấu xí như Chí Phèo, Thị Nở... Ơng cố tình đưa cái khn mặt rách nát của Chí hay khn mật
kì dị của Thị vào trang viết bởi chỉ với nhân vật như thế, Nam Cao mới tố cáo hết sự tàn bạo của giai cấp thống trị
và nỗi đau khổ tột cùng của người nơ lệ.
Trong Chí Phèo, Nam Cao đã tập trung xoáy sâu và làm nổi bật lên mâu thuẫn xã hội cơ bản ở nông thôn: đó là
mâu thuẫn cực độ giữa người dân lào động bi áp bức và bọn thống trị, địa chủ chun bóc lột. Kết cục bi thảm của
truyện chính là kết quả tất yếu, không tránh khỏi mâu thuẫn đó. Nam Cao rất tơn trọng bút pháp hiện thực, vì vậy,
khi viết ơng khơng ngần ngại đưa vào truyện những chi tiết trần tục như việc tả Chí Phèo và Thị Nở ở đêm trăng.
Cả hai con người gàn dở ấy cũng khao khát yêu đương, cũng có những ham muốn rất con người, nếu ngịi bút Nam
Cao khơng chân thực thì chúng ta khơng thể thấy hết điều đó. Càng hiện thực, càng cho chúng ta thấy một Nam
Cao đầy lòng vị tha, nhân ái, một tấm lòng nhân đạo cao cả.
Bi kịch ở cuối truyện là sự bứt phá, tự giải phóng cho nhân vật. Nam Cao lồng cả tình cảm của mình vào để gián
tiếp bộc lộ lòng căm thù sâu sắc của mình đối với chế độ và sự yêu thương, trân trọng với giai cấp nông dân. Bá
Kiến chết đi là mong muốn của sự kết thúc một chế độ đen tối bất cơng. Chí Phèo chết đi là cách duy nhất Nam
Cao hóa kiếp cho lồi người đau khổ, chỉ có cái chết mới giải thốt được cho họ. Cái nhìn của Nam Cao tuy hơi
cực đoan, bế tắc song nó hợp với logic của truyện ngắn. Khi cái xâu xa đã ăn sâu vào thành tích cách, phẩm chất
của con người thì khơng cịn cách nào thay đổi được, chỉ chết đi mới rũ bỏ được tất cả. Tìm đến cái chết, nghĩa là
Chí Phèo đang tìm kiếm sự sống, một cuộc sống thực sự.