Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

4 trí tue nhan tao va van hoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.38 KB, 8 trang )

VỊ THẾ CỦA CON NGƯỜI
TRONG SÁNG TẠO VĂN HỌC THỜI ĐẠI 4.0

“Rồi đây, có thể xuất hiện những cỗ máy biết viết văn, làm thơ. Lúc đó, sáng
tạo văn học có cịn là độc quyền của con người?” – đó là nội dung đề thi học
sinh giỏi quốc gia môn Ngữ văn năm nay. Vấn đề được đặt ra trong đề thi
không phải là chuyện viễn tưởng, mà sẽ là một sự thực diễn ra trong tương
lai gần, khi cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0 có bước phát triển ngoạn mục
như chúng ta đang chứng kiến. Lúc đó, vị thế của con người trong sáng tạo
văn học là điều không thể không quan tâm.

Đọc Chùa Đàn của Nguyễn Tuân, tôi nhận ra một hàm ý mà tác giả ngầm
gửi gắm: kỹ nghệ là kẻ thù của nghệ thuật! Ở thời điểm viết Chùa Đàn, chắc chắn
Nguyễn Tuân không thể ngờ được khoa học cơng nghệ lại có những bước phát
triển vượt bậc như hiện nay, đặc biệt là sự xuất hiện trí tuệ nhân tạo. Với những gì
đang được chứng kiến, ta không thể không nghĩ đến vấn đề: trong thời đại trí tuệ
nhân tạo phát triển, liệu con người có cịn độc quyền trong sáng tạo văn học?
Tháng 5 năm 1997, một sự kiện làm rúng động dư luận thế giới: cỗ máy tính
Deep Blue của hãng IBM (Hoa Kỳ) đã đánh bại vua cờ Kasparov. Tiếp đó, quán
quân cờ vây thế giới Ke Jie cũng thúc thủ trước AlphaGo – trí thơng minh nhân
tạo, sản phẩm của Google. Với cuộc cách mạng công nghệ 4.0, khả năng phát triển
trí tuệ nhân tạo được dự báo là rất ghê gớm.
Ngày nay, người máy đã thâm nhập vào mọi hoạt động của con người. Trước
hết là trong lĩnh vực công nghiệp. Hàng ngàn cơng xưởng hiện đại giờ đây vắng
bóng con người, thay vào đó là “đội quân” robot tinh nhuệ, miệt mài lắp ráp các
linh kiện tinh vi để hồn tất sản phẩm với độ chính xác gần như tuyệt đối. Người

1


máy sẽ cướp công ăn việc làm của con người – những lời cảnh báo như thế đã vang


lên trên nhiều diễn đàn.
Song song với việc tạo ra robot làm việc trong lĩnh vực cơng nghiệp, các nhà
khoa học có tham vọng chế tạo những người máy có khả năng biểu lộ cảm xúc, có
thể tham gia vào việc làm ra các sản phẩm tinh thần – lĩnh vực mà trước đây cứ
ngỡ mãi mãi là độc quyền của con người. Người máy viết tin tức cho báo chí, phát
thanh viên kỹ thuật số… đã xuất hiện. Người máy viết văn cũng đâu còn là chuyện
tương lai. Một tác phẩm truyện được viết bằng cách sử dụng trí tuệ nhân tạo đã lọt
vào vòng chung kết của cuộc thi văn học Nhật Bản mang tên Shinichi Hoshi Japan News tin đưa.
Người máy viết văn, làm thơ? Văn học rồi sẽ đi về đâu? Liệu con người có
bị phế truất khỏi văn đàn?
Có thể trong tương lai, ở nhiều cửa hàng sách sẽ xuất hiện những tập thơ,
những cuốn tiểu thuyết, những bộ tranh truyện được thực hiện bởi người máy. Các
nhà quản lý “tác giả người máy” cũng có thể bằng mọi cách thu hút độc giả nhằm
chiếm lĩnh thị phần trên thị trường sản phẩm giải trí. Người ta có quyền khai thác
khả năng sản xuất với tốc độ cực nhanh của trí tuệ nhân tạo để đáp ứng yêu cầu
kinh doanh văn hóa. Cần nhớ rằng, hiện nay, nếu một phóng viên cần 30 phút để
viết một bản tin, thì người máy chỉ cần 10 giây! Với đà này, có thể rồi đây, sẽ có
một kiểu độc giả thích tiêu thụ những sản phẩm tinh thần do người máy làm ra.
Người ta cũng có thể, qua khả năng của trí tuệ nhân tạo, phóng chiếu trí tưởng
tượng, tìm hứng thú trong việc thưởng thức những “tác phẩm văn học” của người
máy.
Như vậy, dù muốn hay không, sản phẩm văn học của người máy cũng sẽ là
một phần tất yếu trong bức tranh tổng thể của văn học nhân loại. Tuy nhiên, tôi
2


khơng nghĩ rằng, thứ văn học do chính con người và chỉ con người làm ra lại dễ
dàng bị phế truất khỏi văn đàn, bởi quyết định điều này là con người chứ khơng
phải máy móc.
Vì sao vậy?

Câu trả lời, theo tôi, nằm ở hai chữ nhu cầu.
Đúng vậy. Sáng tạo văn học là một nhu cầu thiết yếu của con người. Đã là
nhu cầu thì cần được thỏa mãn, bằng mọi cách. Với con người, viết văn là để thỏa
mãn nhu cầu giãi bày và giải tỏa, nhu cầu tự biểu hiện mình, nhu cầu cảm thơng
chia sẻ, nhu cầu hưởng thụ khoái cảm trong sáng tạo, nhu cầu được chơi.
Viết, trước hết là cho mình, là giao tiếp với chính mình. Trong cái tĩnh lặng
gần như tuyệt đối của khoảnh khắc sáng tạo, người viết thì thầm trị chuyện với ai
đó, có khi chỉ là với mình. Khao khát giãi bày là một động lực sáng tạo văn
chương.
Giãi bày và giải tỏa luôn song hành với nhau. Giãi bày để giải tỏa, thông
qua giải tỏa để được giãi bày. Nhà văn nhà thơ chỉ có thể viết một khi tâm trạng ắp
ứ nỗi niềm, đầu óc chứa chất suy tư, cảm thấy khơng nói ra là khơng được. Viết,
lúc bấy giờ là một hành động tự phóng tỏa những dồn nén, căng thẳng tột cùng về
tâm lí. Hồn tất một tác phẩm là hồn kết một q trình giải tỏa cảm xúc để sau đó
tiếp tục khởi phát, tích dồn những cảm xúc, suy tư mới từ sự va chạm với đời sống.
Nó tạo nên một chuỗi phản ứng khơng bao giờ ngưng nghỉ trong tâm lí sáng tạo
của người nghệ sĩ. Nó nặng nhọc chứ khơng hề nhẹ nhàng, bởi đó là “nghiệp dĩ”, là
“cây thánh giá tinh thần” mà mỗi nghệ sĩ tự nguyện mang vác, người khác khơng
thể mang hộ, nói gì đến robot. Vâng, ai có thể cất lên tiếng chửi thay cho Hồ Xuân
Hương khi chính bản thân bà mới là người thấm thía nỗi cay đắng cùng cực của
kiếp làm lẽ: Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng/ Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
3


Ai có thể ngậm ngùi thay cho Nguyễn Du được khi nhà thơ mới là người ớn lạnh
khi nhìn thấu ba trăm năm sau vẫn bặt bóng tri âm: Bất tri tam bách dư niên hậu/
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? (Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa/ Người đời ai
khóc Tố Như chăng?).
Viết cho mình khơng loại trừ nhu cầu viết cho người khác. Đúng ra, hai nhu
cầu này không hề mâu thuẫn nhau. Đến một lúc nào đó, người viết cảm thấy những

gì diễn ra trong thế giới nội tâm khơng cịn là của riêng mình nữa. Nó phải được
chia sẻ với ai đó, phải đánh động tâm tư, tình cảm của ai đó bằng những mối liên
hệ bí ẩn, vơ hình. Khơng một nghệ sĩ nào tự đủ trong thế giới của riêng mình.
Trong văn học, thơ là thể loại thể hiện rõ nhất tính độc thoại (tự nói với mình).
Hồng Ngọc Hiến cho rằng: đọc thơ là “nghe trộm” nỗi niềm của người khác. Vậy
mà, tự cổ chí kim, có ai giữ thơ cho riêng mình đâu. Viết được vần thơ đắc ý,
người ta cần bạn tri âm để sẻ chia, đồng cảm. Đỗ Phủ xưa đã cảm khái: Nhị cú tam
niên đắc/ Ngâm thành song lệ lưu/ Tri âm ví bất thưởng/ Quy ngọa cố sơn thu (Ba
năm viết được hai câu/ Ngâm xong đơi dịng lệ chảy/ Bạn xưa nếu khơng thưởng
thức/ Về nắm núi cũ mùa thu). Ứa lệ khi biết tin Dương Khuê mất, Nguyễn
Khuyến mới thấm thía cái hụt hẫng của người làm thơ mà vắng bạn tri âm: Câu
thơ nghĩ đắn đo không viết/ Viết đưa ai, ai biết mà đưa… Lí luận văn học hiện đại
đã xác quyết một điều: việc sản xuất văn bản mới chỉ là một cơng đoạn. Dừng lại ở
đó, chưa có văn học đúng nghĩa. Chỉ khi nào văn bản được đánh thức bởi người
đọc, tác phẩm mới thực sự có được đời sống riêng. Sức sống của kiệt tác Truyện
Kiều không chỉ ở 3254 câu lục bát tuyệt diệu được Nguyễn Du viết ra từ hơn 200
năm trước, mà còn ở sự tích tụ tình cảm của bao nhiêu thế hệ người đọc tiếp xúc
với nó từ bấy đến nay. Đó là điều chắc chắn khơng bao giờ có được ở người máy,
dù chúng tinh xảo đến đâu.

4


Song song với giãi bày là nhu cầu tự biểu hiện. Nói cách khác, tự biểu hiện
là một cấp độ khác của giãi bày. Viết văn, không ai muốn giấu mình triệt để. Kể cả
khi chỉ đề cập đến chuyện riêng tư, thầm kín nhất (khát khao nhục cảm, đổ vỡ tình
yêu,…), người ta vẫn muốn tự vẽ ra hình ảnh của mình một cách kín đáo. Hàn Mặc
Tử thú nhận: làm thơ nghĩa là “phản lại tất cả những gì mà lịng tơi, máu tơi, hồn
tơi đều hết sức giữ bí mật”. Khơng chỉ ở thơ mà văn xi cũng vậy. Dựng lên một
thế giới, vơ tình nhà văn đã làm lộ ra diện mạo của chính mình ngay trong thế giới

ấy. Chỉ bằng sự trải nghiệm cuộc sống với vô vàn trạng thái cảm xúc, nhà văn mới
tự họa hình tượng chính mình với những nét cá tính độc đáo trong tác phẩm – điều
không một thứ máy móc tinh vi nào có thể làm nổi.
Việc nhà văn, nhà thơ quyết giữ độc quyền trong lĩnh vực văn học cịn có
một ngun nhân khác: sáng tạo văn học vừa là một thứ lao động nặng nhọc, khó
khăn, lại vừa là nguồn khối cảm bất tận. Nguyễn Tn có lí khi dùng từ “khổ
hạnh” để nói về hoạt động đặc thù này. Vừa khổ đau vừa hạnh phúc, đấy là bản
chất của công việc viết văn làm thơ. Khổ đau vì day dứt, trăn trở, trải nghiệm đắng
cay, buộc phải “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”
(Nam Cao), phải làm sao để mỗi tác phẩm được viết ra là “một khám phá về nội
dung và một phát minh về hình thức” (L. Leonov). Khổ đau vì nghề viết là nghề
mạo hiểm, dấn thân một đời để có khi nhận lấy thất bại phũ phàng. Vưgotxki – nhà
nghiên cứu về tâm lí sáng tạo nghệ thuật – đã đúc kết: hơn 90% người viết văn
khơng bao giờ thỏa mãn nội tâm khi nhìn lại những gì đã viết. Ấy là chưa kể những
oan trái, bầm dập, tai ương trong nghề nghiệp. Gương tày liếp về điều này là những
án văn tự cổ kim.
Nhưng phía khác là những hứng thú đặc biệt mà nghề văn mang lại cho chủ
thể. Nhà văn, nhà thơ thường cảm thấy viết là một niềm hạnh phúc, là thụ hưởng
một thứ lạc thú. Nguyễn Tuân từng cảm thấy sung sướng đến ứa nước mắt khi
5


được ướm từng chữ lên trang giấy, và ông tưởng tượng sẽ chết ngay nếu bị tước
mất cái quyền viết.
Người ta dùng hình ảnh “thai nghén”, “sinh nở” để chỉ hoạt động sáng tạo
văn học. Đúng quá. Một người mẹ nhìn đứa con vừa được đẻ ra từ cơn đau xé ruột,
qua chín tháng mười ngày thai nghén nặng nhọc chắc chắn sẽ cảm thấy hạnh phúc
lớn lao, khác biệt hơn nhiều so với người phụ nữ đưa tay đón đứa con của mình
qua dịch vụ đẻ thuê. Hạnh phúc “sinh nở” chỉ có thể có ở nhà văn lao tâm khổ tứ
viết nên tác phẩm chứ khơng thể có ở một lập trình viên chờ sản phẩm được làm

bởi người máy. Như vậy, nếu trong sản xuất công nghiệp, con người thụ hưởng
thành quả cuối cùng (sản phẩm), thì ở văn học, sự thụ hưởng diễn ra trong suốt cả
q trình, từ sản xuất đến thành quả. Khơng một bộ óc nhân tạo nào có thể thụ
hưởng thay cho con người những khoái cảm sáng tạo này.
Cuối cùng, thêm một lí do để con người quyết giữ độc quyền: sáng tạo nghệ
thuật cịn là một trị chơi.
Ngày nay, lí thuyết trò chơi trong văn học đã được thừa nhận rộng rãi. Các
nhà nghiên cứu cho rằng, chức năng giải trí khơng hề hạ thấp vị thế của văn học
nghệ thuật như quan niệm phổ biến một thời. Trong bối cảnh hiện tại, khi con
người phải đối mặt với những áp lực ghê gớm từ nhiều phía, nhu cầu giải trí càng
trở nên quan trọng. Ai có thể phủ nhận, trong quá trình sáng tác một tác phẩm, chủ
thể đã không từng trải qua cái cảm giác được chơi: chơi vần điệu ngôn từ, chơi sắp
xếp chữ nghĩa, chơi đuổi bắt ý tứ, chơi ngâm vịnh, chơi kết cấu… Hầu như ở ngơn
ngữ nào cũng có thủ pháp chơi chữ trong văn học. Viết Truyện Kiều, dù muốn thể
hiện cảm hứng nhân văn cao đẹp, nhưng chắc chắn nhiều lúc Nguyễn Du cũng có
khối cảm được chơi – một kiểu chơi nghệ thuật ngôn từ hết sức thanh tao. Hẳn thế
nên khi hạ câu lục bát cuối cùng để kết thúc tác phẩm, nhà thơ đã tính đến tác dụng
6


giải trí mà truyện kể của ơng mang lại: Lời quê chắp nhặt dông dài/ Mua vui cũng
được một vài trống canh. Đó khơng hề là những lời đãi bơi, khiêm tốn. Hành động
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây/ Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do của Hồ Chí
Minh ở trong tù chẳng phải là một kiểu chơi sao? Trải nghiệm một đời sáng tạo
phong phú, rốt cuộc, Tản Đà cũng chia văn chương của mình thành hai loại: loại
văn có ích và loại văn chơi.
Chơi trong văn học nghệ thuật, con người nhất định phải đóng vai chủ thể.
Chỉ với vai trò chủ thể, người chơi mới được hưởng trọn vẹn cái lí thú mà trị chơi
đưa lại. Chỉ khi trực tiếp chơi, con người mới được sống với cái hồn nhiên, trẻ thơ
của tâm hồn. Nhìn rộng ra một chút, trong bóng đá, mặc dù trọng tài nhiều khi có

những quyết định sai lầm, vậy mà người ta vẫn rất hạn chế sử dụng công nghệ hỗ
trợ. Thì ra, cái sai lầm của trọng tài cũng được chấp nhận như một phần tất yếu của
cuộc chơi. Thiếu nó, các trận bóng đá khó tạo ra được những cao trào cảm xúc mà
con người muốn được thể hiện trên sân chơi môn thể thao Vua. Cũng vậy, kể từ
thời điểm cỗ máy Deep Blue hạ gục vua cờ Kasparov (1997) đến nay, việc chế tạo
những “kì thủ robot” để thay thế con người trong những cuộc đấu đỉnh cao khơng
hề được tiếp tục. Đơn giản, vì người ta cho rằng, chơi cờ là việc của con người. Về
mặt này, sân chơi thể thao không khác sân chơi nghệ thuật. Trong văn học, chỉ có
trực tiếp tham gia trị chơi, con người mới có điều kiện bộc lộ mọi trạng thái cảm
xúc của mình. Quyền lợi tinh thần ấy, chắc con người khơng dại gì để máy móc
cướp mất.
Tuy nhiên, bàn về vị thế con người trong sáng tạo nghệ thuật ở thời đại 4.0,
ta cũng cần đặt câu hỏi: liệu quyền tự quyết của con người rồi có bị tước đoạt khi
xuất hiện những thế hệ người máy có khả năng vượt xa sức tưởng tượng của chúng
ta hiện nay?

7


Theo dự đoán của các nhà khoa học, đến năm 2050, trí tuệ nhân tạo sẽ thơng
minh gấp 100 lần con người. Nếu vậy, đến một thời điểm nào đó, người máy sẽ là
một thực thể có ý thức tự giác, có khả năng tự trị, vượt khỏi quyền kiểm sốt của
con người. Nó khơng cịn là phương tiện mà là đối trọng, thậm chí đối lập với con
người. Người máy sẽ tự thiết kế, tự chế tạo, tự lập trình, tự khắc phục những khiếm
khuyết để ngày càng hồn hảo. Biết đâu, trong “mắt” của người máy, loài người một sinh vật vốn phức tạp, rắc rối - không đáng tồn tại. Những gì mà con người tạo
ra, kể cả văn chương nghệ thuật, khơng ích gì với chúng, cần phải “thanh lí”. Đó
khơng phải là cướp quyền sáng tạo, mà là hủy diệt. Bên cạnh những nguy diệt
vong của nhân loại như cạn kiệt tài nguyên, biến đổi khí hậu, hố đen vũ trụ, chiến
tranh ngun tử, ối oăm thay, cịn có một nguy cơ vốn là sản phẩm kì diệu của
con người: trí tuệ nhân tạo. Cảnh báo đáng sợ này không phải được đưa ra bởi một

người bình thường, mà từ bộ óc xuất chúng nhất của thời đại chúng ta: Stephen
Hawking.
Đặng Lưu
(Đã đăng tạp chí Văn hóa Nghệ An, tháng 6/2019)

8



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×