Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Hoạch định chính sách quyết định can thiệp để đưa mức giá trở về giá trị ban đầu, thì họ sẽ cần sử dụng chính sách tài khóa và tiền tệ để điều tiết tổng cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.01 KB, 23 trang )

BÀI THẢO LUẬN
Đề bài:
Câu 1. Hãy lựa chọn mô hình kinh tế vĩ mô phù hợp để phân tích các tác động của các
yếu tố sau đây trong nền kinh tế nhỏ, mở cửa đến giá cả, lạm phát, tiêu dùng, đầu tư, lãi
suất, chi tiêu chính phủ, xuất khẩu, nhập khẩu, cán cân thương mại, tỷ giá hối đoái, cán
cân thương mại, thất nghiệp, GDP, tốc độ tăng trưởng kinh tế, cung tiền, cầu tiền.
a) Chính phủ tăng thuế
b) Khi hạn ngạch nhập khẩu được dỡ bỏ
c) Khi cung tiền giảm x́ng
d) Chính phủ giảm th́ nhập khẩu
e) Có sự suy giảm niềm tin của người tiêu dùng về tương lai làm cho họ chi tiêu ít hơn và
tiết kiệm nhiều hơn
f) Khi Thái Lan đưa ra thị trường một loại sản phẩm mỳ ăn liền rất hợp thị hiếu của người
Việt Nam (thích mỳ ăn liền Thái Lan hơn mỳ ăn liền sản xuất trong nước)
g) Khi việc sử dụng rộng rãi máy rút tiền tự động làm giảm nhu cầu về tiền
h) Ngân hàng trung ương tăng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc
i) Chi tiêu của chính phủ tăng lên
Anh/chị có ngụ ý gì cho chính sách kinh tế của Việt Nam?
Câu 2. Giả sử nền kinh tế Việt Nam ban đầu ở trạng thái cân bằng tại mức sản lượng tiềm
năng. Trong năm 2014, giá nhập khẩu các nguyên liệu chủ yếu (dầu, thép, phân bón,
nhựa,…) tăng mạnh trên thị trường thế giới. Nếu các nhà hoạch định chính sách quyết
định can thiệp để đưa mức giá trở về giá trị ban đầu, thì họ sẽ cần sử dụng chính sách tài
khóa và tiền tệ để điều tiết tổng cầu như thế nào? Hãy cho biết ưu điểm và nhược điểm
của giải pháp này. Đới phó với cú sốc này, giải pháp nào mà chính phủ Việt Nam có thể
sử dụng để góp phần kiềm chế lạm phát, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.


Bài làm
Câu 1. Hãy lựa chọn mô hình kinh tế vĩ mô phù hợp để phân tích các tác động của các
yếu tố sau đây trong nền kinh tế nhỏ, mở cửa đến giá cả, lạm phát, tiêu dùng, đầu tư, lãi
suất, chi tiêu chính phủ, xuất khẩu, nhập khẩu, cán cân thương mại, tỷ giá hối đoái, thất


nghiệp, GDP, tốc độ tăng trưởng kinh tế, cung tiền, cầu tiền.
a) Chính phủ tăng thuế
b) Khi hạn ngạch nhập khẩu được dỡ bỏ
c) Khi cung tiền giảm xuống
d) Chính phủ giảm thuế nhập khẩu
e) Có sự suy giảm niềm tin của người tiêu dùng về tương lai làm cho họ chi tiêu ít hơn và
tiết kiệm nhiều hơn
f) Khi Thái Lan đưa ra thị trường một loại sản phẩm mỳ ăn liền rất hợp thị hiếu của người
Việt Nam (thích mỳ ăn liền Thái Lan hơn mỳ ăn liền sản xuất trong nước)
g) Khi việc sử dụng rộng rãi máy rút tiền tự động làm giảm nhu cầu về tiền
h) Ngân hàng trung ương tăng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc
i) Chi tiêu của chính phủ tăng lên
Anh/chị có ngụ ý gì cho chính sách kinh tế của Việt Nam?
Để dễ hiểu và bài làm ngắn gọn, nhóm giới hạn đề bài sẽ nghiên cứu những
tác động của các yếu tố trong nền kinh tế nhỏ, mở cửa và vốn lưu động là hoàn hảo.
A. Điều kiện tỉ giá thả nồi
a) Chính phủ tăng thuế => Chính sách tài khóa
 Tỷ giá thả nổi

Hình 1.1.a.1
Trong mô hình Mundell – Fleming, chính phủ tăng thuế làm dịch chuyển đường
IS* sang trái IS1* => IS2*. Nếu tỷ giá hới đoái hồn tồn thả nổi tự do, thì đường LM*


không bị ảnh hưởng (tức vẫn ở vị trí cũ). Như thể hiện qua hình 1.1.a.1, tỷ giá hối đoái
giảm e1 => e2 (∆e < 0) trong khi tổng thu nhập không thay đổi ∆Y = 0.
Ở bài này, chúng ta qui ước tỷ giá hối đoái danh nghĩa là số đơn vị ngoại tệ đổi
lấy một đơn vị nội tệ và kí hiệu là e (e = 1/21000 = 0,000076)
Ԑ = tỷ giá hối đoái thực tế


Chính phủ tăng thuế, nghĩa là thực hiện CSTK thắt chặt, làm tăng tiết kiệm trong
nước, luồng vớn dịng và cung đơ la trong thị trường hối đoái khiến tỷ giá thực tế giảm và
nó làm cho xuất khẩu tăng, nhập khẩu giảm dẫn đến xuất nhập khẩu ròng tăng, ∆NX > 0.
Được thể hiện ở hình 1.1.a.2 sau đây:

Hình 1.1.a.2
 Tỷ giá hối đoái cố định

Hình 1.1.a.3


Khi chính phủ thực hiện chế độ tỷ giá hoái đoái cố định: Khi đường IS* dịch
chuyển sang trái, IS1* => IS2* như trong hình 1.1.a.3 thì cung tiền phải giảm để giữ cho tỷ
giá hối đoái không đổi. Hậu quả là đường LM* dịch chuyển sang trái từ LM 1* => LM2*
như trong hình vẽ, và sản lượng giảm từ Y1 => Y2 trong khi tỷ giá hoái đoái vẫn như cũ.
Vì xuất khẩu ròng chỉ thay đổi khi tỷ giá hới đoái thay đổi hoặc đường x́t khẩu
rịng dịch chuyển. Do ở đây cả hai tình huống đều khơng xảy ra nên chúng ta có thể nhận
định rằng x́t khẩu rịng khơng thay đổi.
Tóm lại, có thể nhận định rằng trong nền kinh tế nhỏ, mở cửa chính sách tài
chính có hiệu quả. Nó tác động tới sản lượng trong cơ chế tỷ giá hối đoái cố định, nhưng
khơng hiệu quả trong chế độ tỷ giá hối đối thả nổi.
b) Khi hạn ngạch nhập khẩu được dỡ bỏ => Chính sách thương mại
 Tỷ giá hối đối thả nổi

Hình 1.1.b.1
Trong mô hình Mundell – Fleming, dưới cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi, việc dỡ bỏ
hạn ngạch nhập khẩu sẽ làm dịch chuyển đường xuất khẩu ròng sang trái từ NX 1(e) =>
NX2(e), như thể hiện qua hình 1.1.b.1. Như trong hình vẽ cho thấy ứng với mỗi mức tỷ
giá hới đoái cho trước nào (ē) thì x́t khẩu rịng đều giảm. Đó là vì bây giờ người dân
có thể mua sắm được nhiều hàng hóa nước ngồi hơn so với khi có hạn ngạch nhập khẩu.

Sự dịch chuyển vào phía trong của đường xuất khẩu ròng cũng làm đường IS*
cũng dịch chuyển sang trái, như thể hiện như ở hình 1.1.a.1. Tỷ giá hối đoái giảm e 1 => e2
(∆e < 0) trong khi tổng thu nhập không thay đổi ∆Y = 0. Tỷ giá hối đoái giảm trong khi
thu nhập vẫn không đổi. Cán cân thương mại cũng không đổi. Chúng ta biết điều này vì:
NX (e) = Y – C(Y - T) – I(r) – G.
Do chính sách dỡ bỏ hạn ngạch không ảnh hưởng gì đến Y, C, I hay G, cho nên nó
cũng khơng ảnh hưởng gì đến cán cân thương mại.


 Tỷ giá hối đoái cố định
Nếu chỉnh phủ áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái cố định, thì sự dịch chuyển của
đường IS* tạo ra áp lực làm giảm tỷ giá hối đoái, như ở phần trên. Để giữ cho tỉ giá hối
đoái cố định, ngân hàng trung ương buộc phải mua nội tệ và bán ngoại tệ vào lưu thông.
Làm giảm cung tiền trong lưu thông khiến cho đường LM* dịch chuyển sang trái từ LM 1*
=> LM2* như được chỉ trong hình 1.1.b.2 dưới đây:

Hình 1.1.b.2
Tại trạng thái cân bằng, thu nhập giảm xuống từ Y 1 => Y2 ∆Y < 0, trong khi tỷ giá
hoái đoái vẫn như cũ và vẫn là ē ∆e = 0. Khi đó cán cân thương mại phải giảm. Chúng ta
biết được điều này vì ở phía trên đã thấy rằng xuất khẩu ròng giảm tại mọi mức tỷ giá hới
đoái.
c) Khi cung tiền giảm xuống => Chính sách tiền tệ thắt chặt
 Tỷ giá hối đoái thả nổi

Hình 1.1.c.1


Trong mô hình Mundell – Fleming với tỷ giá hối đoái thả nổi, chính sách cắt giảm
cung tiền làm giảm sớ dư tiền thực tế M/P, qua đó làm cho đường LM* dịch chuyển sang
trái, từ LM1* => LM2* biểu thị qua hình 1.1.c.1. Kết quả là, nền kinh tế chuyển sang trạng

thái cân bằng mới với thu nhập thấp hơn và tỷ giá hối đoái cao hơn. Sự gia tăng tỷ giá hối
đoái hay là đồng nội tệ lên giá sẽ làm cán cân thương mại xấu đi.
 Tỷ giá hối đối cố định
Nếu tỷ giá hới đoái cớ định, thì sức ép làm tăng tỷ giá hối đoái buộc ngân hàng
trung ương phải bán nội tệ và mua ngoại tệ để đẩy tiền vào lưu thông. Hoạt động này làm
cung tiền M tăng lên trong lưu thông và đẩy đường LM* dịch chuyển ngược lại bên phải
cho đến khi đạt được tới LM1* như vị trí ban đầu được chỉ ở trong hình 1.1.c.2:

Hình 1.1.c.2
Tại trạng thái cân bằng, thu nhập, tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại khơng
thay đổi.
Do vậy, chúng ta có thể kết luận rằng trong nền kinh tế nhỏ, mở cửa, chính sách
tiền tệ có hiệu quả, tác động tới sản lượng trong có chế tỷ giá hối đối thả nổi nhưng
hồn tồn khơng có hiệu quả trong cơ chế tỷ giá hối đối cố định.
d) Khi Chính phủ giảm thuế nhập khẩu => Chính sách thương mại
 Tỷ giá hối đối thả nổi
Trong mô hình Mundell – Fleming với tỷ giá hối đoái thả nổi thì khi Chính phủ
giảm thuế nhập khẩu thì sẽ làm dịch chuyển đường xuất khẩu ròng sang trái từ NX 1(e) =>
NX2(e), như thể hiện qua hình 1.1.d.1. Như trong hình vẽ cho thấy ứng với mỗi mức tỷ
giá hới đoái cho trước nào (ē) thì x́t khẩu rịng đều giảm. Đó là vì bây giờ người dân
có thể mua sắm được nhiều hàng hóa nước ngoài hơn so với khi lãi suất nhập khẩu chưa
được giảm.


Sự dịch chuyển vào phía trong của đường xuất khẩu ròng cũng làm đường IS*
cũng dịch chuyển sang trái, như thể hiện như ở hình 1.1.a.1. Tỷ giá hối đoái giảm e 1 => e2
(∆e < 0) trong khi tổng thu nhập không thay đổi ∆Y = 0. Tỷ giá hối đoái giảm trong khi
thu nhập vẫn không đổi. Cán cân thương mại cũng không đổi. Chúng ta biết điều này vì:
NX (e) = Y – C(Y - T) – I(r) – G.


Hình 1.1.d.1.
Do chính sách dỡ bỏ hạn ngạch không ảnh hưởng gì đến Y, C, I hay G, cho nên nó
cũng khơng ảnh hưởng gì đến cán cân thương mại.
 Tỷ giá hối đoái cố định
Nếu chỉnh phủ áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái cố định, thì sự dịch chuyển của
đường IS* tạo ra áp lực làm giảm tỷ giá hối đoái, như ở phần trên. Để giữ cho tỉ giá hối
đoái cố định, ngân hàng trung ương buộc phải mua nội tệ và bán ngoại tệ vào lưu thông.
Làm giảm cung tiền trong lưu thông khiến cho đường LM* dịch chuyển sang trái từ LM 1*
=> LM2* như được chỉ trong hình 1.1.d.2 dưới đây:

Hình 1.1.d.2


Tại trạng thái cân bằng, thu nhập giảm xuống từ Y 1 => Y2 ∆Y < 0, trong khi tỷ giá
hoái đoái vẫn như cũ và vẫn là ē ∆e = 0. Khi đó cán cân thương mại phải giảm. Chúng ta
biết được điều này vì ở phía trên đã thấy rằng xuất khẩu ròng giảm tại mọi mức tỷ giá hới
đoái.
e) Có sự suy giảm niềm tin của người tiêu dùng về tương lai làm cho họ chi tiêu ít
hơn và tiết kiệm nhiều hơn.
 Tỷ giá hối đoái thả nổi

Hình 1.1.e.1
Sự suy giảm niềm tin của người tiêu dùng về tương lai làm cho họ chi tiêu ít hơn,
có nghĩa là tiêu dùng của các hợ gia đình giảm, làm cho tổng cầu giảm => đường IS*
dịch chuyển sang trái từ IS1 => IS2 như trong hình 1.1.e.1.
Do tỷ giá hối đoái thả nổi nên cung tiền không bị điều chỉnh (vẫn giữ nguyên như
cũ) do đó đường LM* không dịch chuyển. Do đường LM* không dịch chuyển nên sản
lượng Y cũng không thay đổi ∆Y = 0. Vì vậy sự dịch chyển sang trái của đường IS* làm
cho tỷ giá hối đoái giảm xuống. Hay sự giảm tiêu dùng của các hộ gia đình cũng làm cầu
tiền và lãi suất trong nước giảm xuống thấp hơn lãi śt thế giới. Mợt dịng vớn sẽ chảy

ra nước ngồi để thu được lãi suất cao hơn. Trên thị trường ngoại hối, cầu về ngoại tệ
tăng làm đồng ngoại tệ lên giá. Do vậy, khả năng cạnh tranh của hàng nội tăng lên, làm
tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu. Kết quả là xuất khẩu ròng tăng đúng bằng mức tiêu
dùng giảm.
 Kết quả cuối cùng là làm đồng nội tệ giảm giá, tỉ giá hoái đoái giảm, cán cân
thương mại được cải thiện và sản lượng không thay đổi.
 Tỷ giá hối đoái cố định
Trong trường hợp này tỷ giá hới đoái bị cớ định, nên nó khơng thể giảm khi
đường IS* dịch sang trái. Thay vào đó, sản lượng Y sẽ giảm. Vì tỷ giá hối đoái không
thay đổi, nên chúng ta biết rằng cán cân thương mại cũng không thay đổi.


Về cơ bản, sự suy giảm của mức chi tiêu mong muốn tạo ra áp lực làm giảm lãi
suất bởi vậy cũng tạo ra sức ép làm giảm tỷ giá hối đoái. Nếu áp dụng chế độ tỷ giá hối
đoái cố định, thì ngân hàng trung ương phải mua hết lượng nội tệ mà các nhà đầu tư
muốn bán ra và cung ngoại tệ ra thị trường làm cho lượng cung tiền trong lưu thông M
giảm dẫn đến LM* dịch chuyển sang trái từ LM 1* => LM2* như được chỉ trong hình
1.1.e.2 dưới đây:

Hình 1.1.e.2
. Kết quả là, tỷ giá hoái đoái vẫn như cũ và vẫn là ē ∆e = 0 và cán cân thương mại
cũng không thay đổi. Cho nên, khơng có ́u tớ nào ngăn ngừa sự giảm sút của tiêu dùng
và sản lượng giảm xuống từ Y1 => Y2 ∆Y < 0.
f) Khi Thái Lan đưa ra thị trường một loại sản phẩm mỳ ăn liền rất hợp thị hiếu
của người Việt Nam (thích mỳ ăn liền Thái Lan hơn mỳ ăn liền sản xuất trong nước)
 Tỷ giá hối đoái thả nối
Khi người tiêu dùng Việt Nam thích mỳ ăn liền Thái hơn mỳ ăn liền sản xuất
trong nước thì đường xuất khẩu ròng phải dịch chuyển sang trái như được biểu diễn trong
hình 1.1.f.1. Điều này hàm ý, tại bất kỳ mức tỷ giá hới đoái nào thì x́t khẩu rịng cũng
thấp hơn trước đây.



Hình 1.1.f.1.
Sự giảm sút của xuất khẩu ròng đến lượt nó lại làm dịch chuyển đường IS* sang
trái, IS1* => IS2* được biểu diễn trong hình 1.1.f.2. Nếu tỷ giá hới đoái hồn tồn thả nổi
tự do, thì đường LM* không bị ảnh hưởng (tức vẫn ở vị trí cũ). Như thể hiện qua hình
1.1.f.2, tỷ giá hối đoái giảm e1 => e2 đồng tiền trong nước xuống giá (∆e < 0) trong khi
tổng thu nhập không thay đổi ∆Y = 0.

Hình 1.1.f.2
Cán cân thương mại cũng không thay đổi cho dù có sự giảm sút của tỷ giá hới
đoái. Chúng ta biết điều này vì NX = S – I, và cả tiết kiệm và đầu tư đều giữ nguyên như
cũ.
 Tỷ giá hối đoái cố định


Hình 1.1.f.3
Hình 1.1.f.3 minh họa cho trường hợp tỷ giá hối đoái cố định. Sự dịch chuyển
sang trái của đường IS* tạ sức ra sức ép làm giảm tỷ giá hối đoái. Ngân hàng trung ương
mua nội tệ và bán ngoại tệ để giữ cho e cố định. Hành động này làm giảm cung tiền M và
làm dịch chuyển đường LM* sang trái từ LM1* => LM2*.
Kết quả là sản lượng giảm xuống Y 1 => Y2, tỷ giá hối đoái cố định. Cán cân
thương mại giảm xuống bởi vì sựu dịch chuyển trong đường xuất khẩu ròng hàm ý xuất
khẩu ròng thấp hơn tại mọi mức đã cho của tỷ giá hối đoái.
g) Khi việc sử dụng rộng rãi máy rút tiền tự động làm giảm nhu cầu về tiền
Theo đề bài, việc sử dụng rộng rãi máy rút tiền tự động làm giảm nhu cầu về tiền.
Được biết trạng thái cân bằng trên thị trường tiền tệ yêu cầu cung về số dư tiền tệ thực tế
M/P phải bằng cung, nghĩa là:
M/P = L (r*, Y)
(1)


Hình 1.1.g.1
Khi giảm sút của cầu tiền hàm ý nếu thu nhập và lãi suất không thay đổi, vế phải
của phương trình này không giảm. Do cả M và P đều cố định, nên chúng ta biết vế trái


của phương trình này là không thể điều chỉnh trở lại trạng thái cân bằng. Chúng ta cũng
biết rằng lãi suất cố định ở mức lãi suất thế giới. Do đó thu nhập – biến duy nhất có thể
điều chỉnh – phải tăng lên làm tăng cầu tiền. Kết luận này hàm ý đường LM* dịch chuyển
sang phải. Nhìn vào hình 1.1.g.1 mô tả tình huống tỷ giá hối đoái thả nổi. Nhìn vào hình
vẽ ta thấy thu nhập tăng lên ∆Y > 0, tỷ giá hối đoái giảm xuống ∆e < 0 (đồng tiền trong
nước xuống giá) và cán cân thương mại được cải thiện.
 Tỷ giá hối đoái cố định
Hình 1.1.g.2 mô tả trường hợp tỷ giá hối đoái cố định. Nhìn vào hình vẽ chúng ta
thấy đường LM* dịch chuyển sang phải. Vẫn như trước, điều này có xu hướng đẩy lãi
śt trong nước x́ng và làm cho đồng tiền xuống giá. Tuy nhiên, để giữ cho tỷ giá hối
đoái không thay đổi, ngân hàng trung ương phải mua nội tệ và bán ngoại tệ. Hành động
này làm giảm cung tiền và làm dịch chuyển đường LM* sang trái. Đường LM* liên tục
dịch chuyển sang trái cho đến khi về đúng vị trí ban đầu của nó và nền kinh tế trở về
trạng thái cân bằng ban đầu .
Kết quả cuối cùng là cả thu nhập, tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại đều
không thay đổi.

Hình 1.1.g.2
h) Ngân hàng trung ương tăng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc => Chính sách tiền tệ
 Tỷ giá hối đoái thả nổi
Theo bài ra, ngân hàng trung ương tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, sẽ làm cung tiền M
trong lưu thông bị giảm, làm LM* dịch chuyển sang trái. Vế trái của (1) P không đổi, vế
phải lãi suất cố định ở mức lãi suất thế giới. Do đó để 2 vế của phương trình (1) ở phần g
bằng nhau thì chỉ có thể điều chỉnh biến duy nhất là Y – phải giảm Y để giảm cầu tiền.

Hình 1.1.h.1 mô tả tình huống tỷ giá hối đoái thả nổi khi NHTW tăng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc. Nhìn vào hình vẽ ta thấy thu nhập giảm xuống ∆Y < 0, tỷ giá hối đoái tăng lên


∆e > 0 (đồng tiền trong nước có giá hơn) và khi đó sẽ làm giảm xuất khẩu tăng nhập khẩu
khiến cho cán cân thương mại xấu đi.

Hình 1.1.h.1
 Tỷ giá hối đối cố định
Nếu tỷ giá hới đoái cớ định, thì sức ép làm tăng tỷ giá hối đoái buộc ngân hàng
trung ương phải bán nội tệ và mua ngoại tệ để đẩy tiền vào lưu thông. Hoạt động này làm
cung tiền M tăng lên trong lưu thông và đẩy đường LM* dịch chuyển ngược lại bên phải
cho đến khi đạt được tới LM1* như vị trí ban đầu được chỉ ở trong hình 1.1.h.2:

Hình 1.1.h.2
Tại trạng thái cân bằng, thu nhập, tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại khơng
thay đổi.
i) Chi tiêu của chính phủ tăng lên => Chính sách tài khóa
 Tỷ giá hối đối thả nổi


Hình 1.1.i.1
Trong mô hình Mundell – Fleming, tăng chi tiêu chính phủ làm dịch chuyển
đường IS* sang phải IS 1* => IS2*. Nếu tỷ giá hới đoái hồn tồn thả nổi tự do, thì đường
LM* không bị ảnh hưởng (tức vẫn ở vị trí cũ). Như thể hiện qua hình 1.1.i.1, tỷ giá hối
đoái tăng e1 => e2 (∆e > 0) trong khi tổng thu nhập không thay đổi ∆Y = 0. Khi tỷ giá hối
đoái tăng sẽ làm giảm xuất khẩu tăng nhập khẩu khiến cho cán cân thương mại xấu đi.
 Tỷ giá hối đoái cố định
Khi chính phủ thực hiện chế độ tỷ giá hoái đoái cố định: Khi đường IS* dịch
chuyển sang phải, IS1* => IS2* như trong hình 1.1.i.2 thì cung tiền phải tăng để giữ cho tỷ

giá hối đoái không đổi. Hậu quả là đường LM* dịch chuyển sang phải từ LM 1* => LM2*
như trong hình vẽ, và sản lượng tăng từ Y1 => Y2; ∆Y > 0 trong khi tỷ giá hoái đoái vẫn
như cũ.
Vì xuất khẩu ròng chỉ thay đổi khi tỷ giá hới đoái thay đổi hoặc đường x́t khẩu
rịng dịch chuyển. Do ở đây cả hai tình huống đều khơng xảy ra nên chúng ta có thể nhận
định rằng x́t khẩu rịng khơng thay đổi.


Hình 1.1.i.2
Câu 2. Giả sử nền kinh tế Việt Nam ban đầu ở trạng thái cân bằng tại mức sản lượng
tiềm năng. Trong năm 2014, giá nhập khẩu các nguyên liệu chủ yếu (dầu, thép, phân
bón, nhựa,…) tăng mạnh trên thị trường thế giới. Nếu các nhà hoạch định chính sách
quyết định can thiệp để đưa mức giá trở về giá trị ban đầu, thì họ sẽ cần sử dụng
chính sách tài khóa và tiền tệ để điều tiết tổng cầu như thế nào? Hãy cho biết ưu điểm
và nhược điểm của giải pháp này. Đới phó với cú sớc này, giải pháp nào mà chính phủ
Việt Nam có thể sử dụng để góp phần kiềm chế lạm phát, đồng thời thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
 Lý thuyết căn bản:
Cú sốc cung xẩy ra do:
- Sự thay đổi giá cả các yếu tố đầu vào
- Sự thay đổi các nguồn lực trong nền kinh tế
Các cú sốc:
- Làm giảm tổng cung (đường AS dịch sang trái) gọi là cú sốc cung bất lợi: làm sản
lượng giảm (suy thoái), mức giá tăng (lạm phát).
- Làm tăng tổng cung (đường AS dịch sang phải) gọi là cú sốc cung có lợi
Theo như đầu bài, nền kinh tế Việt Nam ban đầu ở trạng thái cân bằng tại mức sản
lượng tiềm năng. Trong năm 2014, giá nhập khẩu nguyên vật liệu chủ yếu (dầu, thép,
phân bón, nhựa,…) tăng mạnh trên thị trường thế giới => Xác định đây là cú sốc cung.
Cú sốc xảy ra do sự thay đổi giá cả các yếu tố đầu vào.
Khi giá nhập khẩu nguyên vật liệu chủ yếu tăng lên mạnh => làm cho chi phí sản

xuất tăng lên => Tổng cung giảm AS↓; Đường AS0 dịch chuyển sang trái tới AS1
AS1 ∩ AD0 ≡ B (Y1, P1); P1 > P0 và Y1 < Y*


 P↑ và Y↓ => cắt giảm sản xuất và việc làm => U↑ lạm phát đi kèm suy thoái
trong ngắn hạn (hình 2.1)

Hình 2.1
 Trong ngắn hạn: nền kinh tế dịch chuyển từ điểm A => B (Y thấp hơn và P cao
hơn)
 Dài hạn: nền kinh tế dịch chuyển trở lại từ điểm B => A ( Y như cũ mức tiềm
năng, P như cũ)
 Chính sách ổn định là:
Chính sách tài khóa:
Thứ nhất, nếu ḿn triệt tiêu tác động bất lợi của sự dịch chuyển tổng cung ngắn
hạn đến sản lượng thì các nhà chính sách phải có biện pháp kích cầu nhằm đưa AD 0 tới vị
trí AD1 vừa đủ để duy trì mức sản lượng ban đầu.
Kết quả là: Sản lượng trở về mức sản lượng tiềm năng, mức giá tiếp tục tăng lên,
và duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức tự nhiên, chấp nhận tỷ lệ lạm phát cao. (hình 2.2)


Hình 2.2
Thứ 2, muốn triệt tiêu tác động bất lợi của cú sốc cung đến mức giá thì họ cần chủ
động cắt giảm tổng cầu bằng cách giảm chi tiêu G để đưa tổng cầu về vị trí AD1 vừa đủ
để duy trì mức giá ban đầu.
Kết quả là: duy trì được mức giá cũ song sản lượng giảm, chấp nhận tỷ lệ thất
nghiệp cao nền kinh tế suy thoái sâu sắc hơn. (hình 2.3)

Hình 2.3
Chính sách tiền tệ: Ngân hàng trung ương tăng lãi suất thức tế lên làm giảm đầu

tư và tổng cầu dịch chuyển sang trái như giảm chi tiêu G ở trên.
Kết quả: Sản lượng giảm, mức giá trở về vị trí ban đầu, thất nghiệp cao (Giống
như hình 2.3)


Vậy, nếu các nhà hoạch định chính sách quyết định can thiệp để đưa mức giá trở
về ban đầu, thì họ có thể điều chỉnh thơng qua chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
thắt chặt.
Ưu điểm: Cả hai chính sách đều đưa được mức già về mức giá ban đầu
Nhược điểm: Xong cả hai chính sách đó đền dẫn đến những kết quả là sản lượng
giảm và tỷ lệ thất nghiệp cao, đây là sự đánh đổi quá lớn cho nền kinh tế, chính vì vậy
cần phải nghiên cứu kĩ càng hơn khi đưa ra quyết định thực hiện chính sách nào cho phù
hợp và cái được sẽ nhiều hơn cái mất.

Đối phó với cú sốc này, giải pháp nào mà chính phủ Việt Nam có thể sử dụng
để góp phần kiềm chế lạm phát, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế là:
-

Sừ dụng chính sách tiền tệ hơp lý (cung tiền)

Sự thay đổi về cung tiền kéo theo sự thay đổi về tỷ giá hối đoái. Đây là hai yếu tố
ảnh hưởng tới tình hình lạm phát, chỉ sớ có mới quan hệ chặt chẽ tới tăng trưởng kinh tế,
thu nhập của đất nước.
Sự tăng lên của tỷ giá và cung tiền đều làm ảnh hưởng tiêu cực tới lạm phát, hay
nói mợt cách khác là sẽ kéo theo lạm phát tăng lên.
Có thể dẫn mợt ví dụ về sai lầm của Việt Nam liên quan đến mức cung tiền.
Chính sách tỷ giá của Việt Nam trong thời gian qua là cố định (tỷ giá hối đoái
neo). Nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, chính sách tiền tệ mở rộng
không phải là sai lầm như hàm ý của mô hình Mundell, vì một nền kinh tế tăng
trưởng đòi hỏi cung tiền tăng để hỗ trợ. Tuy nhiên, Việt Nam mắc sai lầm khi mở rộng

cung tiền một cách thái quá. Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi, tính từ đầu năm 2005
cho đến cuối tháng 6/2007, GDP VN tăng 22% trong khi mức cung tiền lên đến 110%.
Trong cùng giai đoạn này, GDP của Trung Quốc tăng 29% nhưng mức cung tiền chỉ tăng
50%. Chênh lệch giữa tăng GDP và tăng cung tiền Thái Lan là hầu như không đáng
kể. Chính sách tiền tệ mở rợng quá mức, mợt mặt, nó khơng hữu hiệu để làm gia tăng
GDP như hàm ý của mô hình Mundell-Fleming; mặt khác, nó là mợt tác nhân làm gia
tăng lạm phát. Điều này cho thấy một sai lầm trong chính sách điều hành tiền tệ của VN.
Có vẻ như những hàm ý của mô hình Mundell-Fleming nên được các nhà hoạch định
chính sách tìm hiểu kỹ hơn.
Do đó, với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát của chính phủ,
chính phủ cần kiểm soát chặt chẽ hơn cung tiền cho nền kinh tế và giữ ổn định tỷ giá cả
trong ngắn hạn và dài hạn.


-

Thực hiện chính sách kinh tế phù hợp với chế độ tỷ giả

Theo như mô hình Mundell – Fleming, trong nền kinh tế nhỏ, mở cửa với luồng
vốn lưu động hồn tồn, chính sách tài khóa khơng thể tác đợng vào GDP thực tế. Chính
sách tài khóa có thể làm xuất hiện hiện tượng tháo lui, làm giảm xuất khẩu rịng, làm tăng
tỷ giá hới đoái, làm tăng giá đồng nội tệ. Kết quả này cũng được thể hiện qua phân tích
trường hợp thứ hai ở trên.
Bởi vậy muốn đạt được mục tiêu của nền kinh tế, cần lựa chọn chính sách kinh tế
vĩ mơ phù hợp đồng thời có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các chính sách với nhau sao
cho phát huy được hiệu quả tới đa.
-

Chính sách tiền tệ thắt chặt


Những năm gần đây, do tỷ giá được điều chỉnh linh hoạt theo hướng sát với giá trị
thực của nó, vai trị của tỷ giá nhằm kiểm soát lạm phát khơng cịn nữa, đồng thời để
hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, Việt Nam nên tiếp tục thực hiện chính sách tiền
tệ thắt chặt hướng vào mục tiêu kiểm soát lạm phát, giảm thiểu những rủi ro trên thị
trường bằng các biện pháp như kiểm soát mức tăng trưởng tín dụng và lượng tiền trong
lưu thông, giữ ổn định lãi suất và tiến tới giảm mặt bằng lãi suất.
Từ năm 2012, NHNN đã nỗ lực trong công tác tập trung vào việc thực hiện các
chính sách tiền tệ hướng tới mục tiêu kiềm chế lạm phát, tái cơ cấu hệ thống các tổ chức
tín dụng, tháo gỡ khó khăn cho khu vực sản xuất, hỗ trợ thị trường.

Mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong công tác điều hành của NHNN là lạm phát đã
được kiềm chế, diễn biến theo xu hướng giảm và khá ổn định. Nếu lạm phát của năm
2012 là 6,81% thì lạm phát của năm 2013 chỉ ở mức 6,04% - mức thấp nhất trong vịng
10 năm trở lại đây.
Hoạt đợng trên thị trường tiền tệ nhìn chung diễn biến khá tích cực, phản ánh sự
chủ động của NHNN trong công tác kiểm soát khối lượng tiền cung ứng. Trong năm


2013, khối lượng giao dịch (KLGD) trên thị trường liên ngân hàng diễn ra khá ổn định và
đồng đều qua các quý so với năm 2012, đồng thời hoạt động bơm, hút tiền trên thị trường
mở cũng rất nhịp nhàng, gần như là lượng cung tiền được dự báo phù hợp với nhu cầu và
diễn biến của nền kinh tế và KLGD cũng giảm đáng kể so với năm 2012.

Chính sách điều hành của NHNN đã hướng dịng vớn tín dụng tập trung vào hỗ
trợ cho các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ,
doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, doanh nghiệp sử dụng
nhiều lao động và các dự án hiệu quả. Tăng trưởng tín dụng tuy thấp hơn các năm trước
đây nhưng hiệu quả và chất lượng tín dụng ngày càng được cải thiện. Nhờ đó, kinh tế vĩ
mơ đã có những chủn biến khá tích cực, tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước, năm
sau cao hơn năm trước, lạm phát tiếp tục xu hướng giảm và sản xuất kinh doanh cũng có

những tín hiệu khả quan hơn.
Thị trường ngoại tệ và thị trường vàng diễn biến ổn định, phù hợp với diễn biến
cung cầu ngoại tệ trên thị trường, niềm tin vào VNĐ ngày càng được củng cớ, hỗ trợ
kiềm chế lạm phát, góp phần giảm thiểu tình trạng đơ la hóa, vàng hóa tại Việt Nam; tạo
môi trường ổn định để thu hút vớn đầu tư nước ngồi, tạo điều kiện tḥn lợi cho các
doanh nghiệp trong việc lập và thực hiện kế hoạch kinh doanh.
-

Thắt chặt chính sách tài khóa

Chính sách tiền tệ cần sự hỗ trợ từ chính sách tài khóa. Chính sách kiểm soát lạm
phát ở Việt Nam không thể thành cơng nếu khơng có sự cam kết chi tiêu từ chính sách tài
khóa, mức cầu chi tiêu của Chính phủ phải hợp lý và rõ ràng vì nếu chi tiêu của chính
phủ tăng thì nguồn tài trợ sẽ gián tiếp chảy từ NHNN thơng qua vịng chu chủn của trái
phiếu Chính phủ qua các ngân hàng thương mại. Điều này cho thấy chính sách tiền tệ có


thể sẽ bị đợng do chính sách tài khóa mở rộng và việc này làm giảm hiệu quả của chính
sách tiền tệ. Do vậy, cần phải cắt giảm chi tiêu công và tập trung chi tiêu vào các hạng
mục đầu tư có hiệu quả và các hạng mục mang lại lợi ích cho xã hợi cao hơn. Việt Nam
có thể tăng các rào cản phi thuế quan đối với hàng nhập khẩu như sử dụng biện pháp cấp
phép nhập khẩu, hạn ngạch thuế quan (theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam đã bảo lưu
được quyền áp dụng hạn ngạch th́ quan đới với 4 nhóm mặt hàng là: đường, trứng gia
cầm, lá thuốc lá và muối), các loại phí phụ thu… Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp
này phải được xem xét trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên của WTO và phải tuân
thủ lộ trình giảm thuế đã cam kết.
-

Linh hoạt trong cơ chế tỷ giá


Nghiên cứu trên chỉ ra rằng, chính sách tỷ giá tại các nước đang phát triển không
cần thiết phải ổn định mà có thể biến đổi giữa các cơ chế tỷ giá trung gian. Điều này có
nghĩa là tuỳ từng bối cảnh kinh tế mà đưa ra chính sách tỷ giá phù hợp. Chính sách tỷ giá
cũng như các chính sách kinh tế khác không phải là quy ết định mợt lần và mãi mãi, nó
phải được áp dụng linh hoạt cho các tình huống khác nhau. Trong bối cảnh xu hướng hội
nhập tài chính, cơ chế tỷ giá cần hướng đến một cơ chế linh hoạt hơn.
Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam đang có nhiều thay
đổi về mặt chính sách. Riêng đới với chính sách quản lý ngoại hối hiện nay, Việt Nam
đang xây dựng Pháp lệnh về ngoại hối trên nguyên tắc là tự do hóa trao đổi các giao dịch
vãng lai, từng bước nới lỏng quản lý ngoại hối đối với các giao dịch vốn, tạo điều kiện
cho thị trường ngoại hối của chúng ta hoạt động phong phú, đa dạng hơn.
Đó là định hướng chính sách quản lý ngoại hới. Điều đó có nghĩa là chính sách tỷ
giá của chúng ta sẽ theo hướng ngày càng trở nên linh hoạt. Đương nhiên, đồng đô la Mỹ
vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong các giao dịch về thương mại và các giao dịch vốn của
nền kinh tế Việt Nam.
Chính sách tỷ giá của Việt Nam cũng sẽ theo hướng tách rời sự neo buộc vào
đồng đô la Mỹ để gắn kết vào một số ngoại tệ khác. Chúng ta sẽ lựa chọn nhiều ngoại tệ,
qua đó tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại cung ứng bảo hiểm rủi ro về lãi suất,
tỷ giá hối đoái, cho phép các ngoại tệ mạnh trên lãnh thổ Việt Nam được tự do chủn
đổi.
Như vậy vai trị của đồng đơ la Mỹ sẽ dần hạn chế hơn và thị trường có thể sử
dụng rất nhiều đồng tiền trên nền tảng là các đồng tiền đó đã được bảo hiểm bằng các
dịch vụ hối đoái do các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại cung ứng trên thị
trường.


-

Bên cạnh đó thực hiện quyết liệt và đồng bộ bảy giải pháp sau đây:


Một là, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Cho dù do nhiều nguyên nhân,
nhưng lạm phát ln có ngun nhân tiền tệ. Mức cung tiền trong lưu thông và dư nợ tín
dụng tăng liên tục từ năm 2004 qua các năm và tăng cao trong năm 2007 là nguyên nhân
quan trọng gây lạm phát. Nhận thức được tình hình đó, Chính phủ chủ trương kiểm soát
chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng ngay từ đầu năm. Ngân hàng
nhà nước, thông qua việc chủ động, linh hoạt sử dụng hợp lý các công cụ chính sách tiền
tệ theo nguyên tắc thị trường để thực hiện bằng được yêu cầu này. Điều cần nhấn mạnh là
trong khi kiên quyết thắt chặt tiền tệ, cần bảo đảm tính thanh khoản của nền kinh tế và
hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá và
xuất khẩu phát triển.
Hai là, cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng
ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ
thâm hụt ngân sách. Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp nhà
nước hiện chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt giảm nguồn đầu tư này sẽ làm giảm
áp lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Chính phủ sẽ
quy định cụ thể tỷ lệ vốn đầu tư và chi phí hành chính phải cắt giảm và yêu cầu các Bộ,
địa phương xác định các công trình kém hiệu quả, các công trình chưa thực sự cần thiết
để có sự điều chỉnh thích hợp. Điều này sẽ được thực hiện một cách kiên quyết ngay
trong việc phân bổ lại và cân đối nguồn vốn. Cũng trên tinh thần đó, Chính phủ u cầu
các Bợ trưởng, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố với tư cách là đại diện chủ sở hữu
nhà nước, rà soát chặt chẽ các hạng mục đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, kiên quyết
cắt bỏ các công trình đầu tư kém hiệu quả. Đồng thời, tạo điều kiện và tập trung vớn cho
những cơng trình sắp hồn thành, những cơng trình đầu tư sản xuất hàng hoá thuộc mọi
thành phần kinh tế đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào sản xuất.
Ba là, tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục
nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm. Hiện
nay, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên
đầy đủ của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân tăng mạnh,
thị trường xuất khẩu được mở rộng, vì vậy, phát triển sản xuất là giải pháp gốc, tạo hiệu
quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước và xuất khẩu, góp phần

kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại không gây phản
ứng phụ. Để thực hiện yêu cầu này, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các Bộ trưởng, Chủ
tịch UBND các tỉnh và thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ các khó khăn,
vướng mắc về vớn, về thị trường, về thủ tục hành chính, thúc đẩy sản xuất phát triển.


Bốn là, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập
siêu. Cân đối cung cầu về hàng hoá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời
sống nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ.
Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng đã và sẽ tiếp tục làm việc với các Hiệp hội ngành
hàng, các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu, như: lương thực, thực phẩm,
thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng, phân bón... giao nhiệm vụ cho các
đơn vị này phải bảo đảm nguồn hàng, đồng thời có trách nhiệm cùng Chính phủ kiềm giữ
giá cả.
Năm là, triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng. Hiện nay, tình trạng lãng
phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị. Tiềm năng tiết
kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Vì vậy, Chính phủ yêu cầu các cơ quan nhà
nước cắt giảm 10% chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản
chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thông. Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để
tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng. Đây là giải pháp vừa có tác dụng giảm
sức ép về cầu, giảm nhập siêu, vừa góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền sản xuất xã
hội.
Sáu là, tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp
luật nhà nước về giá. Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động trên
thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng,
như: xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm…; ngăn chặn
tình trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn lậu xăng dầu, khoáng sản. Các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải thường xuyên kiểm tra giá bán tại các mạng
lưới bán lẻ và các đại lý bán lẻ của doanh nghiệp mình. Chính phủ đã chỉ đạo các Tổng
công ty nhà nước phải gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện yêu cầu này và chịu trách

nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của hệ thống bán lẻ và đại lý bán lẻ của doanh
nghiệp. Chính phủ cũng yêu cầu các Hiệp hội ngành hàng tham gia tích cực, ủng hộ các
chủ trương và giải pháp bình ổn thị trường, giá cả.
Bảy là, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội. Trước tình hình giá cả
tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là vùng nghèo, hộ nghèo, vùng bị
thiên tai, người lao đợng có thu nhập thấp, Chính phủ đã chủ trương mở rộng các chính
sách về an sinh xã hội.
Phải phối hợp đồng bộ
Chống lạm phát là một nhiệm vụ phức tạp, đòi hỏi sự trả giá và đánh đổi. Để
chống lạm phát đạt kết quả, sự trả giá và đánh đổi là thấp nhất, nhất thiết phải có sự phối
hợp đồng bộ của các cơ quan quản lý nhà nước, sự chấp hành và tổ chức, triển khai thực
hiện nghiêm túc của các cấp chính quyền. Hơn nữa, thị trường thế giới đang biến động,
phải theo dõi sát tình hình, cập nhật đầy đủ thơng tin để có các giải pháp phản ứng kịp


thời, chính xác, nhằm một mặt, hạn chế các tác đợng xấu do những khó khăn khách quan
mới nẩy sinh; mặt khác, tận dụng được thời cơ mới xuất hiện để phát huy tiềm năng tăng
trưởng của đất nước, thúc đẩy kinh tế phát triển cao hơn khi điều kiện thuận lợi.
Chính phủ nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình trước toàn Đảng, toàn dân về
kiềm chế lạm phát. Nhưng, cơng c̣c này chỉ có thể đạt được kết quả khi có sự ủng hợ
và đồng tâm, hiệp lực của cả hệ thống chính trị, của cộng đồng doanh nghiệp, của các cơ
quan thông tin đại chúng và của toàn thể nhân dân cả nước.
Nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề, khó khăn thách thức trong quá trình phát triển đi
lên có mặt cũng rất gay gắt, nhưng thời cơ thuận lợi và tiềm năng tăng trưởng của nền
kinh tế nước ta còn rất lớn và rất cơ bản. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng, dưới sự lãnh
đạo của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng và với sự quyết tâm, chung sức
chung lòng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, chúng ta sẽ kiềm chế được lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tiếp tục đưa nền kinh tế nước ta phát triển
bền vững, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 mà Đại hợi Đảng
tồn q́c lần thứ X đã đề ra.




×