Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

SKKN MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG HIỆU QUẢ ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN TRONG DẠY HỌC CÔNG NGHỆ 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 28 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH HƯNG
TRƯỜNG TH & THCS TUYÊN BÌNH TÂY
----------  ----------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG HIỆU
QUẢ ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN TRONG DẠY
HỌC CƠNG NGHỆ 7

Đơn vị cơng tác: Trường TH & THCS Tuyên Bình Tây
Họ và Tên Giáo Viên: Bạch Văn Điền
Tổ: Xã Hội
Năm học: 2020-2021

I. Lý do chọn đề tài


2

1. Đặt vấn đề
1.1. Cơ sở lí luận
Trên cơ sở Nghị quyết số 29-NQ/TW, Đại hội XII của Đảng đã xác định
phương hướng, nhiệm vụ với 8 vấn đề lớn: Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ
yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực người
học; đổi mới chương trình, nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại,
thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề; hồn thiện hệ thống
giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây
dựng xã hội học tập; đổi mới căn bản công tác quản lý GD&ĐT, bảo đảm dân
chủ, thống nhất; phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý đáp ứng yêu cầu
đổi mới GD&ĐT; đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia


đóng góp của tồn xã hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng
dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý.
Trước công cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển như
vũ bão, việc chỉnh lý chương trình giáo dục và thay đổi nội dung sách giáo khoa
là một vấn đề rất cấp thiết và vơ cùng quan trọng. Chính vì lẽ đó mà “Giáo dục
là quốc sách hàng đầu”.
Như chúng ta thấy, con đường nhận thức ngắn nhất sẽ là con đường “Đi từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” và phương tiện hết sức cần thiết để
đi được trên “Con đường” nhận thức này chính là các “Dụng cụ trực quan”.
Đặc biệt trong hướng dạy học mới hiện nay, “Hướng tích cực hố hoạt
động học tập của học sinh”, yêu cầu người giáo viên phải biết tạo điều kiện cho
học sinh tự tìm tịi, khai thác kiến thức, biết điều khiển hoạt động nhận thức của
mình bằng các “Đồ dùng trực quan”, chính vì thế mà “Đồ dùng trực quan” đã
trở thành một nhân tố khá quan trọng trong hoạt động dạy học, vì nó vừa là
phương tiện giúp học sinh khai thác kiến thức, vừa là nguồn tri thức đa dạng,
phong phú mà học sinh rất dễ nắm bắt.


3

Trong việc đổi mới, cải tiến phương pháp dạy học, việc phát huy tính tích
cực của học sinh có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi vì xét cho cùng cơng việc giáo
dục phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động. Giáo dục phải
được thực hiện thông qua hành động và hành động của bản thân (tư duy và thực
tiễn). Vì vậy việc khơi dậy, phát triển ý thức, ý chí, năng lực, bồi dưỡng, rèn
luyện phương pháp tự học là con đường phát triển tối ưu của giáo dục. Một
trong những phương pháp đặc trưng bộ môn Công nghệ là phương pháp “Sử
dụng dụng cụ trực quan” trong giảng dạy.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Qua giảng dạy môn Công nghệ ở trường THCS đặc biệt là đổi mới

phương pháp dạy học qua các năm học tôi nhận thấy đây là một vấn đề bổ ích về
lí luận cũng như thực tiễn. Nó có ý nghĩa rất lớn đối với việc nâng cao chất
lượng bộ môn bởi vì đối tượng là học sinh THCS, về mặt thể chất cũng như tinh
thần, sự nhận thức, năng lực tư duy,…, của các em đã phát triển ở mức độ cao
hơn các em ở bậc tiểu học và các em ở lớp trên thì cao hơn các em ở lớp dưới.
Nếu được khơi dậy đúng mức tính tích cực, sự chủ động trong học tập cũng như
các hoạt động khác không những làm cho các em thu nhận được một lượng tri
thức tốt nhất cho bản thân mà còn là cơ sở vững chắc để các em bước vào bậc
THPT nơi mà các em sẽ phải có năng lực tư duy và ý thức tự học cao hơn.
Từ trước tới nay đã có rất nhiều người đề cập đến vấn đề phát huy tích
tính cực của học sinh trong học tập Công nghệ bậc THCS. Tuy nhiên những vấn
đề mà các nhà nghiên cứu đưa ra chỉ áp dụng vào một bậc học cụ thể mà ít đi
sâu vào một khối lớp cụ thể vì vậy trong khn khổ bài viết này tơi chỉ xin lưu ý
đến một khía cạnh gắn liền với việc giảng dạy nhiều năm môn Công nghệ, đó là
một số biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Cơng nghệ với mục
đích là góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Công
nghệ ở trường THCS nơi tôi đang giảng dạy, đồng thời cũng là để trao đổi, học
tập kinh nghiệm của các thầy giáo, các đồng nghiệp nhằm nâng cao trình độ
chun mơn cũng như phương pháp dạy học. Những vấn đề mà tôi nêu ra trên


4

cơ sở được trang bị những kiến thức cơ bản nhất, phương pháp dạy học Công
nghệ cũng như việc sử dụng đồ dùng trực quan, thực nghiệm sư phạm ở trường
THCS.
Nếu thầy giáo chỉ làm chức năng truyền thụ kiến thức thì sẽ thực hiện
phương châm “Thầy giáo là trung tâm’’ học sinh sẽ thụ động tiếp nhận kiến
thức, sẽ học thuộc lịng những gì thầy giáo giảng và cho ghi như trong sách đã
viết. Đó chính là cách giảng dạy giáo điều, nhồi nhét biến giáo viên thành người

thuyết trình, giảng giải và học sinh thụ động tiếp nhận những điều đã nghe, đã
đọc. Có nhà giáo dục đã gọi đó là cách “Nhai kiến thức rồi mớm cho học sinh”.
Chúng ta đều biết rằng việc dạy học được tiến hành trong một quá trình
thống nhất gồm hai khâu có tác dụng tương hỗ nhau: giảng dạy và học tập. Cả
việc giảng dạy và học tập đều là một quá trình nhận thức, tuân theo những quy
luật nhận thức. Nhận thức trong dạy học được thể hiện trong hoạt động của giáo
viên và học sinh đối với việc truyền thụ và tiếp thu một nội dung khoa học được
quy định trong chương trình với những phương pháp dạy học thích hợp, những
phương tiện hình thức cần thiết để đạt được kết quả nhất định đã đề ra.
Người giáo viên khơng chỉ giới hạn cơng việc của mình ở việc đọc cho
học sinh ghi chép những kiến thức có sẵn, bắt các em học thuộc lòng rồi kiểm
tra điều ghi nhớ của các em thu nhận được ở bài giảng của giáo viên hay trong
sách giáo khoa. Điều quan trọng là giáo viên cung cấp cho các em những kiến
thức cơ bản (bao gồm kiến thức khoa học, sự hiểu biết về các quy luật, nguyên lí
và các phương pháp nhận thức…) làm cơ sở định hướng cho việc tự khám phá
các kiến thức mới, vận dụng vào học tập và cuộc sống.
Vì vậy, việc cho các em quan sát đồ dùng trực quan rồi từ đó các em rút ra
những nhận xét, tiếp thu tri thức, bồi dưỡng, rèn luyện về học tập là con đường
phát triển tối ưu của giáo dục - đó chính là con đường lấy học sinh làm trung
tâm, làm chủ thể của việc nhận thức với sự hướng dẫn, giáo dục tích cực có hiệu
quả của giáo viên, điều này được thực hiện trên cơ sở hoạt động tích cực, tự giác
của học sinh. Đây là tính ưu việt của phương pháp phát huy tính tích cực của


5

học sinh đó cũng chính là vấn đề tơi quan tâm. Vì thế tơi chọn đề tài “Một số
phương pháp sử dụng hiệu quả đồ dùng trực quan trong dạy học Cơng nghệ
7” với hy vọng góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy bộ mơn Cơng nghệ.
2. Mục đích đề tài

Khi xây dựng sáng kiến kinh nghiệm này, tôi mong muốn đi sâu vào tìm
hiểu thực trạng và nguyên nhân vấn đề sử dụng đồ dùng dạy học. Từ đó, đề xuất
một số phương pháp sử dụng hiệu quả đồ dùng trực quan trong dạy học Công
nghệ 7 trong trường TH & THCS Tun Bình Tây nơi tơi đang cơng tác.
3. Lịch sử đề tài
Hiện nay có nhiều quan niệm, ý kiến khác nhau về vấn đề phát huy tính
tích cực của học sinh trong dạy học nói chung, dạy học Cơng nghệ nói riêng.
Việc xây dựng cơ sở lí luận là điều quan trọng trong thực tiễn dạy học bộ mơn.
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu của nhiều tác giả về các hình thức tổ
chức hoạt động nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong việc lĩnh hội tri
thức như: Đinh Quang Báo, Nguyễn Đức Thành, Trần Bá Hoành,… và một số
luận án tiến sĩ, thạc sĩ, khố luận tốt nghiệp có liên quan.
4. Phạm vi đề tài
- Đối tượng học sinh Trường TH & THCS Tuyên Bình Tây, đặc biệt là
học sinh lớp 7 năm học 2020 – 2021.
- Nội dung chương trình SGK Công nghệ.
- Sách hướng dẫn giáo viên, phân phối chương trình Cơng nghệ THCS,
và các tài liệu có liên quan.
- Giáo viên dạy bộ môn và thực trạng việc sử dụng đồ dùng trực quan ở
trường TH & THCS Tuyên Bình Tây hiện nay.
II. Nội dung cơng việc
1. Thực trạng


6

Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đối với học sinh. Các em phải được rèn
luyện ở mức độ cao hơn, khả năng tự học, tự nhận thức và hành động vì thế
ngày càng được coi trọng.
Muốn đạt được điều đó GV cần áp dụng nhiều phương pháp dạy - học

trong đó có phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan. Cần phải tiếp thu những
điểm cơ bản có tính nguyên tắc của cách dạy truyền thống song phải luôn luôn
đổi mới, làm một cuộc cách mạng trong người dạy và người học để khắc phục
sự bảo thủ, thụ động như: Giáo viên chỉ chuẩn bị giảng những điều học sinh dễ
nhớ, học sinh chỉ chú trọng ghi lời giảng của giáo viên và kiến thức trong sách
để trình bày lại khi kiểm tra.
Trong vài năm gần đây, bộ môn Công nghệ trong trường THCS được chú
trọng hơn trước. Đã được cung cấp thêm các trang thiết bị và tài liệu tham khảo
phục vụ cho việc dạy và học.
Tuy nhiên qua vài năm giảng dạy bộ môn này tôi thấy rằng việc dạy học
mơn Cơng nghệ hiện nay vẫn cịn gặp rất nhiều khó khăn, nhưng trở ngại nhất là
việc phát huy tính tích cực của học sinh trong việc quan sát, sử dụng đồ dùng
trực quan. Thực trạng của vấn đề này có thể giải thích ở những ngun nhân cơ
bản sau đây:
Thứ nhất là vẫn tồn tại một quan niệm cố hữu cho rằng môn Công nghệ
là những môn phụ.
Thứ hai là về cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và học tập tuy đã được
đầu tư từ nhiều năm trước nhưng đã hư hao theo năm tháng. Tình trạng dạy chay
vẫn cịn khá phổ biến. Trong suốt q trình học bộ mơn Cơng nghệ lớp 7 và cả
thầy và trị chưa bao giờ có điều kiện tham quan mơ hình trồng trọt điển hình,
hoặc mơ hình về chăn ni, thủy sản vì khơng có kinh phí. Điều đó làm cho vốn
kiến thức kiến thức của các em chỉ bó gọn trong sách vở và bài giảng.
Nguyên nhân thứ ba là việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh
trong học tập bộ môn Công nghệ còn nhiều hạn chế một phần là do những quy


7

định từ Giáo dục. Môn Công nghệ chưa bao giờ được chọn là mơn dự thi các
cấp.

Ngồi ra cách tổ chức một số cuộc thi cử cũng còn nhiều hạn chế, chỉ chú
trọng về mặt kiểm tra lí thuyết mà coi nhẹ thực hành, ít chú ý đến việc phát triển
năng lực sáng tạo của học sinh.
Cuối cùng điều quan trọng là ý thức trách nhiệm của mỗi giáo viên trong
việc thực hiện các phương pháp dạy học phù hợp trong đó phải nói đến phương
pháp sử dụng đồ dùng trực quan để đem lại hiệu quả cho tiết dạy cũng như chất
lượng bộ môn ngày một nâng cao. Mỗi một GV – HS phải hiểu rõ sự nguy hại
của việc thi gì học nấy sẽ làm cho học vấn của học sinh thiếu tư duy và tính sáng
tạo.
 Thơng qua bài kiểm tra đánh giá thường xuyên thực hành ở HKI năm
học 2020 – 2021 tôi thu được kết quả như sau:

Lớp
7

Sĩ số
45

SL
14

Giỏi
TL
%
31,1

Khá
SL
19


Trung bình
Yếu
TL
TL
TL % SL
SL
%
%
42,2 12
26,7 0
0

2. Nội dung
Mục tiêu của chương trình mơn học cơng nghệ, có nhiệm vụ góp phần
hình thành nhân cách tồn diện cho học sinh, góp phần giáo dục hướng nghiệp,
tạo tiền đề cho việc lựa chọn tương lai. Giúp học sinh có một kiến thức và kĩ
năng cơ bản vận dụng vào đời sống hàng ngày làm quen và thực hành với nhiều
hoạt động, nhất là thuộc lĩnh vực kinh tế gia đình. Với phương châm dạy học lấy
học sinh làm trung tâm, để học sinh chủ động, tìm tịi lĩnh hội được kiến thức thì
đồ dùng dạy học khơng thể thiếu trong các tiết học, và việc sử dụng đồ dùng dạy
học như thế nào để có hiệu quả thì đó là vấn đề mà chúng ta cần nghiên cứu.


8

Để giúp học sinh khắc sâu được kiến thức, đồng thời tạo hứng thú trong
học tập, giúp các em chủ động tìm tịi kiến thức mới. Là một giáo viên ngồi đổi
mới phương pháp dạy học cịn phải biết kết hợp linh hoạt, sáng tạo các “đồ dùng
trực quan”. Ngoài những đồ dùng sẵn có trong nhà trường phải thường xuyên
sưu tầm, mày mò tự làm. Những đồ dùng trực quan cần thiết và không thể thiếu

trong từng tiết học đó là:
- Hình vẽ, tranh, ảnh.
- Mơ hình.
- Sơ đồ.
- Mẫu vật.
- Máy tính, máy chiếu, bảng tương tác (cơng nghệ thông tin - CNTT).
3. Biện pháp giải quyết
Đối với mỗi loại phương tiện thì người giáo viên Cơng nghệ cần có
phương pháp sử dụng sao cho phù hợp.
2.1. Đối với hình vẽ, tranh, ảnh
Học sinh lớp 7 cũng như các khối lớp khác các em rất thích xem các hình
vẽ, tranh, ảnh. Vì vậy giáo viên phải làm nổi bật nội dung các hình vẽ, tranh ảnh
để gây hứng thú cho học sinh, kích thích trí tị mị, phát triển năng lực nhận thức.
Từ đó làm cho các em tự khám phá được kiến thức của bài học. Giáo viên phải
lựa chọn được những hình vẽ, tranh ảnh phù hợp nhất, đặc trưng nhất cho nội
dung định trình bày, sao cho khi học sinh quan sát có thể trình bày được nội
dung quan sát mà giáo viên muốn truyền đạt. Khi đưa ra những hình vẽ, tranh,
ảnh giáo viên phải phân tích, định hướng trước cho học sinh cách để tự mình
nhận ra kiến thức thơng qua tranh ảnh đó.
Minh họa cho tác dụng của việc sử dụng tranh, ảnh, hình vẽ cụ thể như
sau:


9

Bài 15: Làm đất và bón phân lót ở mục I SGK giáo viên cho học sinh
quan sát 2 hình ảnh:

Thửa ruộng chưa làm đất


Thửa ruộng đã được làm đất

Đề nghị học sinh quan sát và hoàn thành nội dung trong bảng.
Nội dung

Thửa ruộng chưa

Thửa ruộng đã được

làm đất

làm đất

Tình hình cỏ dại

Tình trạng đất

Khả năng giữ nước và
chất dinh dưỡng

Sâu, bệnh tồn tại

Sau khi quan sát hoàn thành nội dung trong bảng giáo viên nhận xét qua
đó học sinh tìm ra được nội dung mục I: Làm đất nhằm mục đích gì?.


10

Hoặc khi dạy đến mục II. Các công việc làm đất. GV cho học sinh quan
sát các hình ảnh:


1

2

3

4

Qua tranh, ảnh, hình vẽ ấy học sinh sẽ tư duy gọi được tên các cơng việc
tương ứng với từng hình và tìm ra tác dụng của từng cơng việc. Cuối cùng giáo
viên khái quát, chốt lại phần kiến thức trọng tâm nhất.
Việc tìm tịi ra kiến thức bằng phương pháp này học sinh sẽ hứng thú và
yêu thích hơn so với phương pháp cũ.
Tương tự đối với bài 30: Vai trò, nhiệm vụ của phát triển chăn ni, bài
49: Vai trị, nhiệm vụ của nuôi thủy sản. Hai bài học nêu ở trên đều nói về “vai
trị” vì thế khi giáo viên dạy mục I “Vai trị của chăn ni, hoặc vai trị của ni


11

thủy sản”. Nên đưa ra bốn hình vẽ tương ứng với bốn vai trò của từng ngành để
học sinh quan sát và rút ra kết luận.

Hình 50: Vai trị của chăn ni trong nền kinh tế.

Hình 75: Vai trị của nuôi thủy sản trong nền kinh tế và đời sống xã hội.
Tranh ảnh trong SGK là một phần đồ dùng trực quan trong quá trình dạy
học. Từ việc quan sát, học sinh sẽ đi tới công việc của tư duy trừu tượng. Thông
qua quan sát miêu tả tranh ảnh, học sinh được rèn luyện kỹ năng diễn đạt, lựa

chọn ngôn ngữ. Từ việc quan sát thường xuyên các tranh ảnh, giáo viên luyện
cho các em thói quen quan sát và khả năng quan sát vật thể một cách khoa học,
có xem xét, phân tích, giải thích, đánh giá để đi đến những nét khái quát và rút
ra những kết luận chủ động. Như vậy việc sử dụng tranh ảnh vừa khai thác được
nội dung kiến thức bổ sung cho bài giảng, vừa phát huy được năng lực tư duy


12

cho học sinh, kích thích trí tưởng tượng phong phú, tạo hứng thú học tập cho các
em.
Để thấy được vai trị quan trọng của tranh ảnh, hình vẽ trong dạy học tơi
xin đưa ra thêm một vài ví dụ minh họa sau: Khi giảng bài “Giống vật nuôi” dạy
đến mục I. “Khái niệm về giống vật nuôi” giáo viên cho học sinh quan sát tranh
ảnh các giống vật ni có ở địa phương (Giáo viên sưu tầm) và các hình vẽ SGK
phóng to sẽ kích thích sự tư duy, tìm tịi của học sinh từ đó giúp học sinh tìm ra
khái niệm giống vật ni là gì?.
Với những tranh ảnh khơng có trong sách giáo khoa để giúp học sinh
nhận biết được kiến thức và vận dụng chúng trong đời sống thì giáo viên phải là
người tìm tịi, sáng tạo, tích cực trong việc thu thập, sưu tầm thêm nhiều các loại
tranh ảnh phục vụ cho bài dạy như:
- Sưu tầm thêm một số tranh ảnh về các giống trâu, bị, lợn, gà, vịt, cá,...
đang được ni phổ biến ở nước ta.
- Sưu tầm tranh ảnh, hình vẽ tên các loại nhãn hiệu thuốc trừ sâu, phân
bón đang được tin dùng, tốt cho môi trường, đang lưu thông trên thị trường để
giúp các em có thể áp dụng ngay trong trồng trọt ở gia đình và địa phương.
- Sưu tầm một số nhãn hiệu thức ăn tổng hợp cho vật ni cùng với các
loại vacxin thơng thường. Với những hình ảnh thực tế này không những giúp các
em nhớ lâu, khắc sâu kiến thúc mà còn giúp các em vận dụng được ngay trong
đời sống thực tế tại gia đình và địa phương.

* Để mang lại hiệu quả cao khi sử dụng tranh, ảnh, hình vẽ yêu cầu
đối với giáo viên, học sinh như sau:
- Giáo viên:
+ Hiểu rõ nội dung của từng bức tranh, ảnh.
+ Sưu tầm thêm nhiều tranh ảnh liên quan đến từng bài học.


13

+ Định hướng cho học sinh biết cách khai thác nội dung của từng tranh
ảnh, hình vẽ.
+ Sau mỗi bức tranh ảnh đưa ra sau khi học sinh quan sát, tìm tịi kiến
thức, cuối cùng giáo viên phải chốt lại những kiến thức trọng tâm liên quan đến
tranh ảnh đó.
- Với học sinh:
+ Đọc tên tranh ảnh, xác định xem bức tranh đó thể hiện gì?.
+ Tường thuật lại nội dung bức tranh.
+ Rút ra được ý nghĩa và nội dung kiến thức thơng qua tranh ảnh.
Ngồi tranh ảnh trong SGK giáo viên nên hướng dẫn học sinh phải sưu
tầm thêm những tranh ảnh, thường xuyên cập nhật những tin tức mới để phục vụ
cho bài học: ví dụ như báo nơng nghiệp, báo khuyến nơng, chương trình nơng
thơn mới, chương trình bạn của nhà nơng,…
2.2. Mơ hình
Mơn cơng nghệ 7 cũng được trang bị một số mơ hình có sẵn như mơ hình
con lợn, mơ hình con gà. Để tăng hiệu quả của việc sử dụng mơ hình trước tiên
giáo viên phải giới thiệu mơ hình đang sử dụng, mơ hình là vật tượng trưng cho
phần kiến thức nào?. Sau đó dùng các câu hỏi dẫn dắt học sinh đến mục đích mà
giáo viên định truyền tải. Bằng việc trả lời được những câu hỏi giáo viên nêu ra
là học sinh đã tìm ra các kiến thức liên quan.
Ngồi mơ hình có sẵn trong sách giáo khoa để tăng thêm hứng thú cũng

như ghi nhớ kiến thức thì giáo viên nên siêu tầm thêm nhiều mơ hình khác trong
nội dung các bài học như: Mơ hình con châu chấu được làm bằng lá dừa trong
bài “Sâu bệnh hại cây trồng”;


14

Học sinh cảm thấy thích thú khi quan sát mơ hình qua đó tìm ra cấu tạo
của cơn trùng và khắc sâu về hình ảnh đại diện cho kiểu biến thái khơng hồn
tồn.
* Để sử dụng mơ hình có hiệu quả:
- Giáo viên cho học sinh quan sát nhận biết đó là mơ hình gì?.
- Mơ hình đó dùng để làm gì.
- Mơ hình phải đảm bảo tính thẩm mỹ.
- Có đủ số lượng mơ hình cho q trình hoạt động nhóm.
- Sau khi sử dụng mơ hình phải rút ra được phần kiến thức có liên quan.
2.3. Sơ đồ
Trong giảng dạy các mơn học nói chung và mơn Cơng nghệ nói riêng,
việc sử dụng sơ đồ cũng được coi là một “đồ dùng trực quan”. Với loại đồ dùng
này đòi hỏi giáo viên cũng phải tư duy, nghiên cứu kĩ nên đưa ra sơ đồ sao cho
phù hợp, vừa giúp các em khái quát được kiến thức, lại chủ động trong q trình
học. Để phát huy được tính chủ động, khả năng tư duy, tính tự giác của học sinh
thì giáo viên nên sử dụng những sơ đồ câm. Sau đó cho học sinh tự nghiên cứu,
hoặc học sinh ghi nhớ từ SGK sau đó điền lên sơ đồ. Như vậy các em sẽ tích cực


15

trong học tập sẽ phần nào giảm đi tính chây lười, ỷ lại ở một số học sinh yếu
kém.

Một số ví dụ minh họa khi áp dụng sơ đồ vào bài học:
Trong bài 2: “Khái niệm về đất trồng và thành phần của đất trồng”. Sau
khi giáo viên hỏi các thành phần của đất rồi đưa ra sơ đồ câm về thành phần của
đất, chắc chắn học sinh sẽ hoàn thành được ngay sơ đồ.
Tương tự ở Bài 11: “Sản xuất và bảo quản giống cây trồng” giáo viên đưa
ra sơ đồ câm về quy trình sản xuất giống cây trồng bằng hạt thơng qua việc
nghiên cứu SGK sau đó lên bảng hoàn thành sơ đồ.
Khi dạy đến Bài 52: “Thức ăn của động vật thủy sản” sơ đồ 16 mối quan
hệ về thức ăn, đây là một mối quan hệ phức tạp nếu chỉ giải thích thì học sinh rất
khó hiểu song giáo viên treo sơ đồ, yêu cầu học sinh thảo luận nhóm sau đó lên
điền vào bảng. Như vậy sẽ giúp học sinh nhớ nhanh và hiểu rõ vấn đề hơn.
Ngồi ra giáo viên cũng có thể sử dụng sơ đồ để tổng kết lại một phần của
nội dung bài học hoặc cả bài, cả một chương,… để học sinh nắm lại và khắc sâu
hơn kiến thức đã được học.
Cụ thể khi dạy bài 15: Làm đất và bón phân lót, giáo viên dùng sơ đồ kết
hợp với nội dung kiến thức chính phần II cho học sinh nắm bài.
Các công việc làm đất

Cày đất

Bừa đất

Đập đất

Lên luống

Đất tơi Làm
xốp,nhỏ
thống
dại.Dễ

ngập
úng,
tạo tầng đất dày ch
đất,khí,
gomvùi
cỏlấp
dại,cỏtrộn
đềuchăm
phân,sóc,
sanchống
phẳng
Làm nhỏ
mặtđất.
ruộng.


16

Vậy tùy nội dung từng bài học mà giáo viên nên đưa sơ đồ sao cho phù
hợp để tăng hiệu quả của tiết học đồng thời kích thích khả năng ghi nhớ ngay tại
lớp phần kiến thức trọng tâm.
* Để tăng hiệu quả sử dụng sơ đồ giáo viên nên:
- Sử dụng sơ đồ phải dể hiểu và có tính khoa học.
- Chuẩn bị sơ đồ phóng to, chữ viết rõ ràng.
- Lựa chọn những nội dung phù hợp cho từng loại sơ đồ.
- Động viên kịp thời những học sinh hoàn thành tốt phần nội dung mà
giáo viên yêu cầu.
2.4. Mẫu vật
Bên cạnh mơ hình thì mẫu vật cũng là phương tiện khơng thể thiếu trong
q trình giảng dạy môn công nghệ 7 này. Từ những mẫu vật hết sức gần gũi

trong cuộc sống giáo viên có thể chuẩn bị và khéo léo đưa vào bài học để góp
phần tạo sự hứng thú, tị mị, phấn khích cho học sinh khi học.
Cụ thể khi dạy bài 4: Xác định thành phần cơ giới của đất bằng phương
pháp đơn giản. Mẫu vật cho bài học này học sinh và giáo viên rất dễ tìm thấy từ
mơi trường sống xung quanh. GV chuẩn bị mẫu vật là 2 mẫu đất:

Trước khi thực hành

Kết quả sau khi thực hành

Từ mẫu đất ban đầu giáo viên hướng dẫn qua các bước thực hành, học
sinh sẽ thích thú khi quan sát và thực hiện theo hướng dẫn của giáo viên. Thông
qua bản phân cấp đất ở SGK/Trang 11 và trạng thái đất sau khi vê học sinh có


17

thể xác định được loại đất của mình đã chuẩn bị. Qua bài học các em cũng đã
hình thành kiến thức bổ ích và có thể ứng dụng thực tế trong cuộc sống.
Hoặc khi dạy đến bài 12: Sâu, bệnh hại cây trồng giáo viên có thể chuẩn
bị một số mẫu vật như là cây trồng, củ, quả bị sâu, bệnh phá hại để dẫn dắt các
em vào bài mới và tìm ra tác hại của sâu, bệnh đối với cây trồng.

Quả bưởi bị sâu đục quả hại

Lá bị sâu ăn lá gây hại

Ví dụ: Bài 8: “Nhận biết một số loại phân hóa học thơng thường”. Giáo
viên cần chuẩn bị ít nhất các mẫu vật sau: Phân đạm, phân lân, phân kali, phân
NPK, vôi.


Phân Đạm

Phân kali


18

Phân lân

Vôi

Từ những mẫu vật trên giáo viên hướng dẫn các em cách phân biệt được
các loại phân bón bằng các cách thơng thường như: quan sát bằng mắt thường,
hịa vào nước, đốt trên ngọn lửa. Sau khi được tận mắt quan sát, tận tay được
làm thí nghiệm học sinh khơng những hào hứng, nhiệt tình, say mê mà kết quả
thu được đúng như mong đợi của giáo viên.
Tương tự Bài 17: “Thực hành: Xử lí hạt giống bằng nước ấm”. Để làm
được bài thực hành này ngoài những dụng cụ sẵn có tại phịng thí nghiệm thì
giáo viên cần phải chuẩn bị mẫu vật là hạt giống nông nghiệp cho học sinh thực
hành. Sau khi đã có đầy đủ mọi dụng cụ và vật liệu cần thiết với sự hướng dẫn
của giáo viên học sinh có thế biết cách xử lí hạt giống bằng nước ấm và hiểu
được tại sao lại phải xử lí hạt giống trước khi gieo trồng.
Mẫu vật là một dụng cụ trực quan vô cùng sinh động. Nhưng để khai thác
hết mặt tích cực của nó khơng hề đơn giản địi hỏi người giáo viên phải hiểu thật
sâu sắc về những mẫu vật mình đưa ra. Phải hướng dẫn học sinh cách khai thác
mẫu vật đó, tìm ra những kiến thức của bài học liên quan đến mẫu vật. Có như
thế các em sẽ khắc sâu kiến thức bài học đồng thời có thể vận dụng được ngay
vào đời sống. Để làm được như vậy giáo viên cần chuẩn bị:
- Mẫu vật phải thật sự đặc trưng cho từng bài học.

- Mẫu vật sinh động, đảm bảo tính khoa học, chính xác.
- Có đủ mẫu vật cho hoạt động nhóm.


19

2.5. Máy vi tính, máy chiếu, bảng tương tác (ứng dụng công nghệ
thông tin - CNTT)
Ngày nay CNTT đang được ứng dụng hết sức rộng rãi và hiệu quả vào các
lĩnh vực hoạt động của con người, tạo nên những thay đổi to lớn trong xã hội,
trong đó có nhà trường.
Do sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thơng mà mọi người
đều có trong tay nhiều cơng cụ hỗ trợ cho q trình dạy học nói chung và phần
mềm dạy học nói riêng. Nhờ có sử dụng các phần mềm dạy học này mà học sinh
trung bình, thậm chí học sinh trung bình yếu cũng có thể hoạt động tốt trong mơi
trường học tập.
Nhờ có máy vi tính mà việc thiết kế giáo án và giảng dạy trên máy tính
trở nên sinh động hơn, tiết kiệm được nhiều thời gian hơn so với cách dạy theo
phương pháp truyền thống, chỉ cần sử dụng bút tương tác hoặc “bấm chuột”, vài
giây sau trên màn hình hiện ra ngay nội dung của bài giảng với những hình ảnh,
âm thanh sống động thu hút được sự chú ý và tạo hứng thú với học sinh. Thông
qua giáo án điện tử, giáo án tương tác, giáo viên cũng có nhiều thời gian đặt các
câu hỏi gợi mở tạo điều kiện cho học sinh hoạt động nhiều hơn trong giờ học.
Những khả năng mới mẻ và ưu việt này của công nghệ thơng tin và truyền thơng
đã nhanh chóng làm thay đổi cách sống, cách làm việc, cách học tập, cách tư
duy và quan trọng hơn cả là cách ra quyết định của con người.
Với mơn cơng nghệ 7 thì tất cả các bài học đều có thể sử dụng CNTT
trong dạy học, sau đây tơi xin đưa ra một vài ví dụ điển hình.
Khi dạy Bài 12: “Sâu, bệnh hại cây trồng” bằng các hình ảnh đã chuẩn bị
như các loại sâu, bệnh của một số loại sâu hại điển hình, video vịng đời của

bướm (hình ảnh thật – video) cho học sinh quan sát. Qua những hình ảnh thực
tế đó cùng với những hiệu ứng mà giáo viên tạo ra khi xuất hiện những hình ảnh
ấy chắc chắn sẽ thu hút được sự chú ý của học sinh.


20

Ngồi ra cũng có thể sử dụng tính năng của bảng tương tác để hoàn thành
một số câu hỏi đặt ra trong quá trình dạy học và trong phần củng cố bài tạo sự
thích thú cho HS trong giờ học. Từ sự thích thú đó học sinh nhanh chóng tìm ra
kiến thức bài học.
Ở Bài 31: “Giống vật nuôi”. Để hình thành được khái niệm thế nào là
giống vật ni, giáo viên cho các em quan sát hình ảnh từng giống vật ni điển
hình ở địa phương (hình ảnh thật - giáo viên tự quay). Từ đó các em tự hình
thành nên khái niệm.
Để ứng dụng CNTT trong giảng dạy đạt hiệu quả cao địi hỏi mỗi người
giáo viên khơng ngừng bồi dưỡng nâng cao trình độ tin học của mình, tự học tự
tìm tịi soạn bài giảng điện tử. Hơn thế nữa mỗi người giáo viên cần thường
xuyên truy cập chia sẻ các thông tin giáo dục trên Internet. Đó chính là kho tư
liệu rất hữu ích đối với giáo viên.
Mục tiêu cuối cùng của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
là nâng cao một bước cơ bản chất lượng học tập cho học sinh, tạo ra một mơi
trường giáo dục mang tính tương tác cao, học sinh được khuyến khích và tạo
điều kiện để chủ động tìm kiếm tri thức, sắp xếp hợp lý quá trình tự học tập, tự
rèn luyện của bản thân mình. Vì vây mỗi giáo viên cần mạnh dạn, khơng ngại
khó, tự thiết kế và sử dụng bài giảng điện tử của mình sẽ giúp cho giáo viên rèn
luyện được nhiều kỹ năng và phối hợp tốt các phương pháp dạy học tích cực
khác.
Khi thiết kế bài giảng điện tử giáo viên cần chú ý:
- Chuẩn bị trước kịch bản, tư liệu (Video, hình ảnh, bảng đồ,...), chọn giải

pháp cho sử dụng cơng nghệ, sau đó mới bắt tay vào soạn giảng. Cần lưu ý về
Font chữ, màu chữ và hiệu ứng thích hợp (hiệu ứng đơn giản, nhẹ nhàng tránh
gây mất tập trung vào nội dung bài giảng).
- Không lạm dụng cơng nghệ nếu chúng khơng tác động tích cực đến quá
trình dạy học và sự phát triển của học sinh.


21

- Nội dung bài giảng điện tử cần cô đọng, súc tích, các mơ phỏng cần sát
với chủ đề.
Như vậy việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học ở trường THCS là
một việc làm rất quan trọng, rất phong phú và có ý nghĩa lớn cần được mỗi thầy
giáo, cô giáo quán triệt một cách sâu sắc và vận dụng sáng tạo trong cơng tác
giảng dạy của mình, trong hoạt động nội khoá cũng như hoạt động ngoại khố.
Tuy nhiên để làm tốt việc này cần có sự chuyển biến mạnh mẽ mang tính cách
mạng trong phương pháp dạy – học Cơng nghệ và phải có thời gian kiểm
nghiệm sự đúng đắn của nó so với kiểu dạy truyền thống.
Mỗi giáo viên sau khi vận dụng các phương pháp dạy học này vào từng
bài phải có sự nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm và trao đổi, phổ biến với đồng
nghiệp để khẳng định những biện pháp sư phạm trong việc nâng cao chất lượng
bộ môn. Cần tránh khuynh hướng “tách lí thuyết với thực tế”,... đáp ứng được
những yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong thời đại cơng
nghiệp hố - hiện đại hoá.
4. Kết quả, chuyển biến
Qua việc áp dụng phương pháp sử dụng một số đồ dùng trực quan phù hợp
với nội dung bài dạy ở một lớp điển hình để thử nghiệm có kết quả như sau:
+ Phần lớn các em đã có ý thức học tập bộ mơn và có phương pháp học
tập tốt.
+ Đại bộ phận các em đã hình thành được một số kỹ năng đơn giản.

+ Các em tích cực, chủ động trong việc lĩnh hội các kiến thức, biết liên hệ
thực tế.
+ Đa số học sinh chuẩn bị bài, vật liệu, dụng cụ đầy đủ khi đến giờ học và
thực hành.
+ 100% học sinh có sách giáo khoa.


22

+ 94% học sinh yêu thích và say mê học bộ môn Công Nghệ và sử dụng
thành thạo đồ dùng trực quan.
 Thông qua bài kiểm tra đánh giá giữa kỳ ở HKI năm học 2020– 2021,
tôi thu được kết quả như sau:

Lớp
7

Sĩ số
45

Giỏi
TL
SL
%
22
48,9

Khá
SL
16


Trung bình
TL
TL % SL
%
35,6
7
15,5

SL
0

Yếu
TL
%
0

Như vậy so với phương pháp truyền thống thì hiệu quả của phương pháp
sử dụng đồ dùng trực quan phù hợp trong các tiết dạy mang lại hiệu quả cao.
III. Kết luận
1. Tóm lược giải pháp
1.1. Tóm lược giải pháp đề tài
Đồ dùng trực quan được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của
nhiều giác quan, sẽ kết hợp chặt chẽ cho được hai hệ thống tín hiệu với nhau: tai
nghe, mắt thấy tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, phát triển năng lực
chú ý quan sát, hứng thú của học sinh. Tuy nhiên nếu không sử dụng tốt, đúng
mức và bị lạm dụng thì dễ làm học sinh phân tán sự chú ý, không tập trung vào
các dấu hiệu cơ bản chủ yếu. Đồ dùng trực quan có nhiều loại. Mỗi loại lại có
cách sử dụng riêng, nhưng phải chú ý các nguyên tắc cơ bản sau:
- Mỗi loại dụng cụ trực quan phải có phương phương pháp dạy học thích

hợp.
- Sử dụng dụng cụ trực quan với các phương pháp dạy học khác: như nêu
vấn đề, mô tả, diễn giải,... cho nhuần nhuyễn, đạt hiệu quả cao.
- Căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ, nội dung và hình thức của các loại bài
học để lựa chọn dụng cụ trực quan cho thích hợp, khơng nên dùng quá nhiều
dụng cụ trực quan cho một tiết dạy.


23

- Trước khi sử dụng cần phải giải thích: Dụng cụ trực quan này nhằm mục
đích gì? Giải quyết vấn đề gì? Nội dung gì trong bài học.
- Đảm bảo tính trực quan, rõ ràng, thẩm mỹ, cần chú ý tới quy luật nhận
thức, giáo dục thẩm mỹ cho học sinh. Không nên sử dụng dụng cụ trực quan quá
cũ nát, các hình vẽ cẩu thả,...
1.2. Bài học kinh nghiệm
- Với cương vị là người hướng dẫn HS, người giáo viên phải luôn tác
động ý thức học tập của các em, phải khơi dậy trong các em sự tìm tịi, ham hiểu
biết, sẵn sàng khám phá khoa học có như thế mới đem lại hiệu quả.Về phương
pháp sử dụng: phải sử dụng tinh tế, khéo léo phải đảm bảo tính trực quan, vừa
đảm bảo tính khoa học.
- Khi sử dụng dụng cụ trực quan trong giảng dạy cần phải có sự lựa chọn
cho phù hợp với nội dung bài dạy, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh,
đặc biệt là những dụng cụ trực quan tạo ấn tượng, giúp học sinh khắc sâu, nhớ
kỹ, tái hiện lại những kiến thức đã học.
- Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan muốn thực hiện tốt trong giảng
dạy Công nghệ, địi hỏi người giáo viên ngồi năng lực chun mơn, nghiệp vụ
sư phạm, mà cịn phải có ý thức trách nhiệm cao, phải có cái tâm mang đặc thù
của nghề dạy học bởi vì phương pháp dù hay đến mấy nhưng người thầy khơng
có trách nhiệm cao, khơng u nghề và thương u học sinh hết mực thì cũng

khơng đem lại kết quả như mong muốn. Có như vậy chúng ta mới góp phần đào
tạo thế hệ trẻ thành những người lao động làm chủ nước nhà: có trình độ văn
hố cơ bản, phẩm chất đạo đức tốt, có sức khoẻ, thông minh sáng tạo,… đáp ứng
được những yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong thời đại cơng
nghiệp hố - hiện đại hố.
2. Phạm vi đối tượng - kiến nghị
2.1. Phạm vi đối tượng


24

- Áp dụng cho tất cả HS và GV đang theo học và giảng dạy mơn cơng
nghệ nói chung mơn cơng nghệ lớp 7 nói riêng.
- Ngồi ra sáng kiến về phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong
giảng dạy này cịn có thể áp dụng cho tất cả các môn học ở trường. Cụ thể là
cách sử dụng tranh ảnh, hình vẽ, mơ hình, mẫu vật, sơ đồ,… sao cho đạt hiệu
quả cao trong giảng dạy, tạo sự hứng thú và u thích cho mơn học.
2.2. Kiến nghị
Sau khi thực hiện đề tài nghiên cứu trong việc sử dụng đồ dùng trực quan
trong giảng dạy Công nghệ tôi xin đưa ra một số kiến nghị như sau:
- Giáo viên cần chủ động bổ sung hình ảnh, sơ đồ, bảng biểu ở các nguồn
khác nhau để bổ sung cho hệ thống hình ảnh sẵn có trong sách giáo khoa.
- Cần phát huy tối đa vai trò của hệ thống kênh hình trong sách giáo khoa.
- Giáo viên cần lưu ý là việc sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy học cần
kết hợp một cách hài hòa giữa ý tưởng thiết kế nội dung bài giảng và kỹ thuật vi
tính. Một mặt phải đảm bảo đặc trưng bộ mơn, chuyển tải được các đơn vị kiến
thức cơ bản cần thiết, mặt khác phải đảm bảo tính thẩm mỹ, khoa học và thuận
tiện trong việc sử dụng đồ dùng trực quan. Điều này đòi hỏi khi thiết kế giáo án
điện tử cần nắm bắt tính hệ thống và kết cấu của một bài giảng điện tử, những
thơng tin, hình ảnh, đoạn phim phải được chọn lọc, phải thiết thực, phù hợp với

nội dung bài giảng.
- Xem xét nội dung bài học, có những nội dung nào cần sự hỗ trợ của đồ
dùng trực quan. Chỉ nên ứng dụng khi dạy các q trình khó mơ tả bằng lời, các
đồ thị, biểu đồ, phim, hình ảnh minh họa,…
- Việc sử dụng kênh màu, kênh chữ phải hài hòa, hợp lý, rõ ràng.
- Về phía giáo viên cần tìm tịi, sáng tạo và nâng cao phương pháp dạy
học trực quan hơn nữa, một số giáo viên chưa có kỹ năng tin học cần phải tích
cực tham gia các khóa huấn luyện.


25

- Về phía nhà trường nên tạo điều kiện, khuyến khích giáo viên
được tham gia tập huấn, học tập sử dụng các thiết bị mới, các phần
mềm dạy học mới. Cần chú trọng đầu tư các trang thiết bị hỗ trợ dạy
học, hỗ trợ học tập cho các ngành học theo đặc thù của từng môn,
từng đối tượng học tập và các trang thiết bị dạy học này phải mang
tính khoa học, thẩm mỹ và sư phạm.
Trong quá trình thực hiện chỉ với tư cách cá nhân và chỉ có sự tham khảo
đóng góp ý kiến của bạn bè đồng nghiệp trong trường nên cũng cịn nhiều khiếm
khuyết. Tơi rất mong có sự giúp đỡ, xây dựng của các đồng nghiệp và các cấp
lãnh đạo để hồn thiện, có hiệu quả, nâng cao chất lượng bộ mơn Cơng nghệ và
góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới PPDH và thực hiện đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin vào công tác quản lý và dạy học.
Tuyên Bình Tây, ngày 07 tháng 04 năm 2021
Giáo viên thực hiện

Bạch Văn Điền

MỤC LỤC


I. Lý do chọn đề tài

Trang 1


×