Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về nhân tố con người với việc phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (677.04 KB, 67 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN TOÀN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÂN TỐ CON NGƯỜI
VỚI VIỆC PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP
ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
HIỆN NAY CỦA VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Huế, 05 / 2011
N
G
U
Y

N

T
O
À
N


















K
H
Ó
A

L
U

N

T

T

N
G
H
I

P
















H
U

,

0
5

/

2
0
1
1

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÂN TỐ CON NGƯỜI
VỚI VIỆC PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP
ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
HIỆN NAY CỦA VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CỬ NHÂN TRIẾT HỌC
Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
ThS. NGUYỄN THẾ PHÚC NGUYỄN TOÀN
Triết k31

Huế, 05 / 2011
Lời Cảm Ơn
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến
thầy giáo hướng dẫn ThS. Nguyễn Thế Phúc.
Đến quý thầy, cô giáo trong Khoa Lý luận
chính trị, bạn bè và người thân đã giúp đỡ
em hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Thư
viện trường Đại học Khoa học Huế đã tạo
điều kiện cho tôi hoàn thành Khóa luận tốt
nghiệp này.
Sinh viên
Nguyễn Toàn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÂN TỐ CON NGƯỜI
1.1 Nhận thức của Hồ Chí Minh về nhân tố con người
1.2 Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người
Chương 2: PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI THEO TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC VÀ HỘI NHẬP

KINH TẾ QUỐC TẾ HIỆN NAY
2.1 Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về Hội nhập kinh tế quốc tế

2.2 Thực trạng việc phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới
đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc cùng với những tinh hoa văn hóa của nhân loại và chủ nghĩa Mác - Lênin
nhằm vào mục đích giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người. Trước lúc đi xa Người đã để lại cho dân tộc Việt Nam và nhân loại
tiến bộ trên thế giới một di sản lý luận vô cùng quan trọng để hướng tới sự
nghiệp Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội. Trong di sản tư tưởng của
Người điều cốt lõi có ý nghĩa xuyên suốt là Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ
nghĩa xã hội. Vì vậy tư tưởng giải phóng của Người chính là lấy sự nghiệp
giải phóng con người làm trung tâm.
Hiện nay đất nước Việt Nam đang trong tiến trình đổi mới, hội nhập
kinh tế quốc tế. Vấn đề nhân tố con người với việc phát huy nhân tố con
người luôn được Đảng nhận thức rõ và khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn nhấn mạnh đến nguồn lực con người, coi đó là nguồn lực nội sinh quan
trọng nhất cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Kế thừa các
Đại hội trước Đại hội X nêu rõ “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách
con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời
kì công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi
dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý
tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người
Việt Nam”, và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Mở rộng dân
chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực

chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển…Phát huy mạnh mẽ mọi khả năng
sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất
nước…Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, chăm lo lợi
ích chính đáng và không ngừng nâng cao đời sống vậy chất, tinh thần của
mọi người dân, thực hiện công bằng xã hội”.
Trong tiến trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế trên phạm vi toàn
cầu như hiện nay, vấn đề con người và việc phát huy nhân tố con người đang
là vấn đề thời sự, là vấn đề trung tâm được nhiều nước trên thế giới đã và
đang tích cực đào tạo và phát triển nguồn nhân lực với nhiều mức độ khác
nhau.
Trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã lãnh đạo đất nước vượt qua nhiều khó khăn thử thách, thu được
nhiều thành quả to lớn. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng còn những hạn chế nhất
định. Để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới,
hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta cần những con người mang phẩm chất đạo
đức cách mạng, có tư duy sáng tạo có bản lĩnh chính trị vững vàng, có lòng
yêu nước, có tinh thần xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng về con người nói riêng mang
giá trị to lớn vượt thời đại, giá trị ấy đã được thực tiễn cách mạng đấu tranh
giành độc lập dân tộc, giải phóng đất nước của dân tộc Việt Nam, cũng như
thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hơn 55 năm qua khẳng định.
Vì thế việc làm rõ thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người, trong
điều kiện đất nước đang trong tiến trình đổi mới hội nhập kinh tế quốc tế, là
việc làm quan trọng và cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên mà tôi đã quyết định chọn đề tài “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người với việc phát huy nhân tố con
người trong sự nghiệp đổi mới đất nước hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay
của Việt Nam” để làm khóa luận tốt nghiệp cử nhân Triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài.

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người nói chung, nhân tố con
người nói riêng cũng như vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và
phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay được
Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Trong những năm qua ở Việt Nam có
nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, tiêu biểu như:
- Hồ Kiếm Việt, Góp phần tìm hiểu đặc sắc tư duy triết học Hồ Chí
Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2004.
- Vũ Thị Kim Dung, Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, Tạp chí Khoa
học Chính trị, số 2, năm 1998.
- Thành Duy, Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2001.
- Nguyễn Thế Kiệt, Xây dựng và phát triển con người nâng cao chất
lượng nguồn lực con người trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay,
Tạp chí Triết học số 6, năm 2008.
- Nguyễn Xuân Thắng, Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đối với
tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội, năm 2007.
Và nhiều công trình nghiên cứu trên các sách báo tạp chí khác.
Trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp cử nhân Triết học, tác
giả kế thừa những thành tựu trên của các nhà nghiên cứu, trên cơ sở đó để hệ
thống hóa thành lý luận phục vụ cho sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người, và
việc phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập
kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài không đề cập đến toàn bộ nội dung tư tưởng
Hồ Chí Minh, mà chỉ đề cập đến một số nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh liên
quan đến vấn đề con người trên góc độ triết học, để từ đó vận dụng vào việc
phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập kinh
tế quốc tế ở nước ta hiện nay.

4. Phương pháp nghiên cứu.
Để nghiên cứu đề tài này, tác giả đứng trên lập trường của chủ nghĩa
Mác - Lênin, lấy thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng để
xem xét những vấn đề liên quan đến đề tài.
Kết hợp giữa phương pháp logic và phương pháp lịch sử. Ngoài ra, để
đạt được kết quả nghiên cứu cao, tác giả còn sử dụng các phương pháp khác
như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, điều tra xã hội học…v.v.
5. Đóng góp của đề tài.
Đề tài kế thừa những thành quả của các nhà nghiên cứu, những tác giả đi
trước, đồng thời khái quát nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
con người và một số nội dung về việc phát huy nhân tố con người trong sự
nghiệp đổi mới đất nước hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở nước ta.
Ngoài ra kết quả nghiên cứu của đề tài còn là tài liệu tham khảo cho các
bạn sinh viên các nghành Triết học, Giáo dục chính trị, Lịch sử, Văn học,
Báo chí …v.v.
6. Bố cục của khóa luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm có 2 chương 4 tiết.
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÂN TỐ CON NGƯỜI
1.1 Nhận thức của Hồ Chí Minh về nhân tố con người.
1.1.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người không phải là một sản
phẩm chủ quan phản ánh tâm lý nguy vọng của nhân dân Việt Nam đối với
lãnh tụ kính yêu của mình. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người là
sản phẩm tất yếu của cách mạnh Việt Nam, ra đời do yêu cầu khách quan và
là sự giải đáp những yêu cầu bức thiết do cách mạng Việt Nam đặt ra từ đầu
thế kỷ XX đến nay, và cũng là sản phẩm của sự kết hợp giữa những điều kiện
lịch sử - xã hội cụ thể của dân tộc và thời đại với phẩm chất năng lực cá nhân
của Hồ Chí Minh. Sản phẩm đó hình thành dựa trên những cơ sở sau.

1.1.1.1 Cơ sở khách quan.
Về nguồn gốc thực tiễn.
Bối cảnh lịch sử Việt Nam.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Việt Nam vẫn là xã hội phong kiến,
với nền nông nghiệp lạc hậu, chính quyền triều Nguyễn từng bước khuất
phục trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp, đã lần lượt ký kết các hiệp ước
đầu hàng thừa nhận sự bảo hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Đông Dương.
Các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu “Cần Vương” do các sĩ
phu văn thân lãnh đạo diễn ra vào cuối thế kỷ XIX cũng hoàn toàn thất bại.
Hệ tư tưởng phong kiến đã tỏ ra lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử. Bước
sang đầu thế kỷ XX cuộc khai thác của thực dân Pháp khiến xã hội nước ta có
nhiều biến đổi và phân hóa sâu sắc, bắt đầu xuất hiện giai cấp công nhân,
tầng lớp tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Cùng lúc đó các “Tân thư”, “Tân văn”,
“Tân báo” và những ảnh hưởng của trào lưu cải cách ở Nhật Bản, Trung
Quốc tràn vào Việt Nam làm cho phong trào yêu nước của nhân dân ta
chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản. Các sĩ phu nho học có tư tưởng
tiến bộ tức thời, có lòng yêu nước như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh…Đã
phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, họ tổ chức và vận động cuộc
đấu tranh chống Pháp theo phương pháp mới. Song chủ trương cầu ngoại
viện dùng bạo lực để khôi phục độc lập của Phan Bội Châu và chủ trương “ỷ
Pháp cầu tiến bộ” khai thông dân trí, nâng cao dân khí trên cơ sở đó mà lần
tính chuyện giải phóng của Phan Chu Trinh đều bị thất bại. Con đường khởi
nghĩa của anh hùng Hoàng Hoa Thám thì mang nặng cốt cách phong kiến…
Các cuộc khởi nghĩa đó chưa phải là lối thoát rõ ràng, chưa phải là hướng đi
đún đắn. Tất cả sự việc ấy của dân tộc, tất cả những hoàn cảnh bế tắc ấy của
dân tộc đã tác động sâu sắc tới tư tưởng và sự nghiệp cách mạng của Nguyễn
Ái Quốc.
Bối cảnh quốc tế.
Trong lúc, ở Việt Nam đang bế tắc về con đường cứu nước giải phóng
dân tộc, xã hội Việt Nam là một xã hội nữa phong kiến, thuộc địa thì trên thế

giới chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn cạnh tranh tự do sang giai đoạn độc
quyền và đã xác lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi toàn cầu, trong
quá trình xâm lược và thống trị, chủ nghĩa thực dân tại các nước nhược tiểu ở
châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ la tinh đã làm xã hội xuất hiện thêm các giai
cấp, tầng lớp mới, làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và tầng lớp tư
sản là nổi trội. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX diễn ra cuộc đấu tranh sôi
nổi của công nhân các nước tư bản chủ nghĩa rộng khắp trên thế giới, đã dẫn
đến một cao trào mới của cách mạng thế giới với đỉnh cao là cuộc Cách mạng
Tháng Mười Nga (1917) đã lật đổ Nga Hoàng để thiết lập nên chính quyền
Xô Viết, mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người, góp phần “thức tỉnh
các dân tộc châu Á”. Cách mạng Tháng Mười Nga đã nêu lên một tấm gương
sáng ngời về sự giải phóng các dân tộc bị áp bức “mở ra trước mắt họ thời đại
cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc” [32;562]. Từ sau
Cách mạng Tháng Mười Nga thành công và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản
(3/1919), phong trào công nhân trong các nước tư bản phương Tây và phong
trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa càng có quan hệ mật thiết với
nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung của nhân loại là chủ nghĩa đế
quốc.
Quê hương và gia đình.
Hồ Chí Minh được sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi
với nhân dân. Thân phụ của Người là Cụ phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc một nhà
nho cấp tiến, có lòng yêu nước thương dân sâu sắc, ông là tấm gương cần cù
lao động ý chí kiên cường vượt gian khổ, khó khăn để đạt được mục tiêu.
Đặc biệt tư tưởng thương dân với chủ trương lấy dân làm trung tâm cho mọi
cải cách chính trị của Cụ Bảng Sắc đã ảnh hưởng rất lớn đối với sự hình
thành nhân cách và tư tưởng của Hồ Chí Minh sau này. Bên cạnh người cha,
Hồ chí Minh còn được kế thừa tấm lòng nhân ái thương người và bao dung
độ lượng của người mẹ đó là bà Hoàng Thị Loan. Người còn được tiếp thu
những tri thức hết sức tiến bộ và bổ ích từ các thầy học của mình khi còn thơ
ấu. Chính gia đình là cái nôi hình thành tư tưởng và con người Hồ Chí Minh.

Nghệ Tĩnh là nơi sinh ra Hồ Chí Minh, là vùng đất giàu truyền thống
yêu nước chống giặc ngoại xâm, là quê hương của nhiều anh hùng nổi tiếng
trong lịch sử nước nhà cho đến các lãnh tụ yêu nước cận đại. Làng Kim Liên
làng quê đã hun đúc nên con người Hồ Chí Minh, cũng đã thấm máu bao anh
hung liệt sĩ, cả chị và anh của Người cũng đều tham gia hoạt động yêu nước.
Từ nhỏ Người đã chứng kiến cuộc sống nghèo khổ bị bót lột, bị đàn áp dã
man ngay trên quê hương của mình. Những năm ở Huế, Người đã tận mắt
thấy tội ác của thực dân và thái độ ươn hèn bạc nhược của Triều đình phong
kiến nhà Nguyễn.
Tất cả điều đó đã chuẩn bị cho Người về nhiều mặt và thôi thúc Người
ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, giải phóng con người.
Về giá trị truyền thống dân tộc.
Trong truyền thống lịch sử dân tộc Việt Nam, nhân dân ta đã nhận thức
đúng về nhân tố con người trong sự phát triển của đất nước. Nhìn từ các triều
đại phong kiến đã cho thấy “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Thực tiễn
lịch sử đã cho thấy “Hiền tài + minh quân thì đất nước quốc gia sẽ thịnh
vượng”. Còn lúc nào mà hôn quân + bạo chúa thì đất nước sẽ lụi bại.
Một dân tộc Việt Nam trong hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ
nước đã hình thành nên những giá trị truyền thống hết sức phong phú, đặc sắc
và cao quý mang đậm nét riêng của dân tộc Việt Nam. Những truyền thống
quý báu ấy đã góp phần hun đúc nên con người Hồ Chí Minh.
 , chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng
nước và giữ nước. Chủ nghĩa yêu nước là dòng lưu chính, là huyết mạch chảy
xuyên suốt trường k‚ lịch sử dân tộc Việt Nam. “Chủ nghĩa yêu nước truyền
thống là tư tưởng tình cảm cao quý thiêng liêng nhất, là cội nguồn của trí tuệ
sáng tạo và lòng dũng cảm của người Việt Nam, đó cũng là chuẩn mực đạo
đức cơ bản của dân tộc” [2;28]. Chính sức mạnh của lòng yêu nước đó đã
thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước, tìm kiếm những gì hữu ích cho
dân tộc.
 , tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân,

tương ái, “lá lành đùm lá rách” trong hoạn nạn khó khăn. Truyền thống này
cũng hình thành và gắn bó cùng một lúc với sự hình thành dân tộc, từ hoàn
cảnh nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và giặc ngoại xâm, mặc dù
trong xã hội Việt Nam trải qua nhiều biến động, song giá trị này luôn luôn
tồn tại trong lòng dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh đã chú ý kế thừa, phát huy
sức mạnh của truyền thống nhân nghĩa, nhấn mạnh bốn chữ “đồng”, (đồng
tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh).
, dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan,
yêu đời, trong muôn vàn khó khăn dân tộc ta thường động viên nhau “Chớ
thấy sóng cả mà ngã tay chèo”, tinh thần lạc quan đó có cơ sở từ niềm tin vào
sức mạnh của bản thân mình, tin vào sự tất thắng của chân lý, của chính
nghĩa. Hồ Chí Minh là hiện thân của truyền thống lạc quan đó.
, dân tộc Việt Nam là một dân tộc cần cù, dũng cảm, thông
minh, sáng tạo trong sản xuất và chiến đấu nên cũng là một dân tộc ham học
hỏi và không ngừng mở rộng đón nhận tinh hoa văn hóa của nhân loại, từ
Nho - Phật - Lão ở phương Đông đến văn hóa tư tưởng ở phương Tây trên cơ
sở giữ vững bản sắc của dân tộc, nhân ta đã chọn lọc, tiếp thu và cải biến
những cái hay cái tốt, cái đẹp của người thành những cái có giá trị riêng của
dân tộc, mà Hồ Chí Minh là hình ảnh sinh động và trọn vẹn của truyền thống
đó.
Về tinh hoa văn hóa nhân loại.
Kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa phương Đông với các thành
tựu của văn minh phương Tây là nét đặc sắc trong quá trình hình thành nên
nhân cách và văn hóa Hồ Chí Minh.
Tư tưởng và văn hóa phương Đông.
Trước hết là về Nho giáo: Trong Nho giáo có nhiều yếu tố duy tâm lạc
hậu, phản động, nhưng bên cạnh đó Nho giáo cũng có nhiều yếu tố tích cực,
đã được Hồ Chí Minh chọn lọc tiếp thu đó là: Triết lý hành động, tư tưởng
nhập thế, hành đạo giúp đời, lý tưởng về một xã hội bình trị, tức ước vọng về
một xã hội an ninh hòa mục, một “thế giới đại đồng”; là triết lý nhân sinh tu

thân dưỡng tính, nó đề cao văn hóa lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học.
Ngoài ra Hồ Chí Minh còn biết chắc lọc những tinh túy trong các học thuyết,
tư tưởng triết học của các đại biểu, trường phái khác như: Lão Tử, Mạnh Tử,
Quản Tử…v.v.
Về tư tưởng Phật giáo: Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của văn hóa truyền
thống là đã bao hàm cả ảnh hưởng của Phật giáo, những mặt tích cực của
Phật giáo đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tư duy, hành động ứng xử của
con người Việt Nam đó là: Tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái cứu khổ cứu nạn,
thương người như thể thương thân, một tình yêu bao la đến cả chim muông
cây cỏ; là nếp sống có đạo đức trong sạch, giản dị, chăm lo điều thiện; là tinh
thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phát chống lại mọi phân biệt đẳng cấp;
là việc đề cao lao động, chống lười biếng “nhất nhật bất tác, nhất nhật bất
thực”; là chủ trương sống không xa lánh việc đời mà gắn bó với dân, với
nước, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh chống kẻ thù dân tộc. Đặc biệt là
tư tưởng Vô Ngã, Vô Thường trong triết lý của nhà Phật đã được Hồ Chí
Minh kế thừa tiếp thu có chọn lọc những giá trị tích cực. Những mặt tích cực
trên của Phật giáo đã đi vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân lao động. Gia
đình Bác là một gia đình nhà nho nghèo, gần gũi với nhân dân lao động nên
cũng thấm nhuần tinh thần đó của nhà Phật và đã để lại dấu ấn sâu sắc trong
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Sau khi đã trở thành người mácxít, Người tiếp tục tìm hiểu về chủ nghĩa
Tam Dân của Tôn Trung Sơn (nhà cách mạng tư sản Trung Quốc), Người đã
tìm thấy trong đó những điều thích hợp với điều kiện nước ta, các tiêu chí của
chủ nghĩa Tam Dân là: Dân tộc - độc lập, Dân quyền - tự do, Dân sinh - hạnh
phúc đã được Hồ chí Minh rút gọn trong khẩu hiệu của Việt Nam đó là “ Độc
lập - Tự do - Hạnh phúc”.
Về tư tưởng văn hóa phương Tây.
Trong 30 năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Hồ Chí Minh sống
chủ yếu ở châu Âu nên Người cũng chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền văn
hóa dân chủ và cách mạng phương Tây. Người sớm làm quen và tìm hiểu các

cuộc cách mạng ở phương Tây, đặc biệt Người đã tiếp thu các giá trị về
quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của con người trong
Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ, và tiếp thu giá trị của bản Tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền của đại Cách mạng Pháp năm 1789. Thời
gian người sống và hoạt động ở Pari - Thủ đô nước Pháp, đồng thời cũng là
trung tâm văn hóa - nghệ thuật của châu Âu lúc bấy giờ. “Sống ở giữa nơi
hợp lưu của các dòng văn hóa thế giới, anh Nguyễn đã có điều kiện thuận lợi
để nhanh chóng chiếm lĩnh vốn tri thức của thời đại, đặc biệt là truyền thống
văn hóa dân chủ tiến bộ của nước Pháp” [10;36], Pari là quê hương của lý
tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái Người được tiếp xúc với các tác phẩm của
các nhà tư tưởng khai sáng như: Vônte, Rutxô, Môngtexkiơ…Và chịu ảnh
hưởng tư tưởng của các nhà khai sáng. Ngoài ra Người còn hấp thụ được tư
tưởng dân chủ và hình thành nên phong cách dân chủ của mình từ trong thực
tiễn sống và tham gia hoạt động cách mạng của mình ở châu Âu, cùng với sự
dìu dắt trực tiếp của nhiều nhà cách mạng và trí thức tiến bộ Pháp như;
M.Casanh, P.V.Cutuyariê, G.Môngmutxô…Như vậy Hồ Chí Minh đã từng
bước trưởng thành, làm giàu tri thức của mình bằng vốn trí tuệ của cả phương
Đông và phương Tây, Người tiếp thu có sự chọn lọn để có thể kế thừa và
phát triển một cách sáng tạo.
Ngoài ra Hồ Chí Minh còn kế thừa lòng nhân ái, đức hi sinh cao cả,
những giá trị cơ bản của Thiên Chúa giáo,. Người lên án gay gắt những kẻ
giả danh Chúa để thực hiện “hành vi ác quỷ” mất hết tính người, những hành
vi vô đạo đức, những hành động đi ngược lại và phản bội lại lòng nhân ái cao
cả của Chúa, làm hoen ố hình ảnh của Chúa, đi ngược lại ước muốn mưu cầu
phúc lợi an lành cho xã hội của Đức Chúa, “Khi nói tới đạo Thiên Chúa, Hồ
Chí Minh đã nhấn mạnh lòng thương người của Chúa: Tôn giáo Giêsu có ưu
điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Lòng nhân ái chính là phẩm chất cao quý
cần được xây dựng trong tư tưởng, ý nghĩ, hành vi của mỗi con người. Có
điều là đối với Hồ Chí Minh lòng nhân ái trước hết phải hướng đến những
người lao khổ, trở thành lẽ sống của người chiến sĩ cách mạng và là mục tiêu

tương lai của nhân loại. Nó phải biến thành sức mạnh to lớn để phá tan chế
độ áp bức bóc lột…” [14;120] chính Người là hiện thân của lòng nhân ái và
đức hi sinh cao cả của dân tộc Việt Nam.
Những giá trị truyền thống của phương Đông đã được Hồ Chí Minh kết
hợp với những giá trị hiện đại của tư tưởng phương Tây, tạo nên những giá trị
mới sâu sắc và mang tính khoa học, và được Người vận dụng một cách tài
tình trong công cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc cũng như
trong cuộc sống thường nhật của mình, “Lúc đấu tranh Người có thể viết văn
Anh, văn Pháp sắc sảo như một nhà báo phương Tây thực thụ, nhưng khi có
nhu cầu “tự bạch” thì Người lại làm thơ bằng chữ Hán. Chính điều đó làm
nên nét đặc sắc ở Hồ Chí Minh, một con người tượng trưng cho sự kết hợp
hài hòa văn hóa Đông Tây” [10;32, 33].
Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và quan điểm về con người của chủ
nghĩa Mác - Lênin nói riêng, giữ vai trò về mặt thế giới quan và phương pháp
luận đối với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người,
“Chủ nghĩa Mác - Lênin thực chất là học thuyết về giải phóng con người và
xã hội loài người. Vấn đề con người là nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng” [11;603]. “Chủ nghĩa Mác
- Lênin nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng xem vấn đề con người là
trung tâm của mọi khoa học xã hội và nhân văn. Chủ nghĩa Mác - Lênin ra
đời xuất phát từ con người và mục đích cuối cùng của nó là soi sáng sự
nghiệp giải phóng cho mỗi con người và cho cả loài người” [11;604].
Ra đi tìm đường cứu nước ở tuổi đôi mươi Hồ Chí Minh đã được dân
tộc, quê hương và gia đình trang bị cho một vốn học thức chắc chắn, một
năng lực trí tuệ sắc sảo và một ý chí mãnh liệt, chính điều này đã hướng
Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin như một sự hiển nhiên, Hồ Chí Minh
đến với chủ nghĩa Mác - Lênin được nói đến như một “cuộc hẹn hò lịch sử”,
“sự bắt gặp”, “sự tìm thấy” những chân lý thời đại. Quá trình đó diễn ra một
cách chân thành và giản dị, điều này được Người cắt nghĩa trong bài: Con

đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Mác- Lênin, “Lúc bấy giờ; tôi ủng hộ Cách
mạng Tháng Mười chỉ theo cảm tính tự nhiên…Tôi kính yêu Lênin vì Lênin
là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng đồng bào mình…Tôi tham gia
Đảng Xã hội Pháp chẳng qua vì các “ông bà” ấy (Hồi đó tôi gọi các đồng chí
của tôi như thế), đã tỏ ra đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc
bị áp bức. Còn như Đảng là gì, Công đoàn là gì, Chủ nghĩa xã hội và Chủ
nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu” [25;126]. Trong quá trình bôn ba tìm
đường cứu nước, điều tác động và gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng của
Người, chính là lúc Người đọc: Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin năm 1920, chính Luận cương
đã nâng cao nhận thức của Người về con đường giải phóng, nó phù hợp và
đáp ứng những tình cảm, suy nghĩ, hoài bão đã ấp ủ từ lâu của Người. Người
viết: “Chính chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa Cộng sản đã đưa
tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”[25;128].
Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin, Người tiếp tục nghiên
cứu chủ nghĩa Mác một cách sâu sắc hơn và rồi tiếp thu lý luận Mác - Lênin
theo phương pháp mácxít, nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất, tiếp thu có
chọn lọc không sao chép máy móc, giáo điều. Người tiếp thu chủ nghĩa duy
vật biện chứng mácxít về vấn đề con người và vai trò con người trên các quan
điểm cơ bản như: Con người là thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt
xã hội; trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những
quan hệ xã hội; con người là chủ thể và là sản phẩm của xã lịch sử; quan hệ
giữa cá nhân và xã hội; vai trò quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử,
trong quan điểm này lại chứa đựng những nội dung nói lên vai trò to lớn của
con người như: Vai trò của cá nhân - vĩ nhân - lãnh tụ và vai trò của quần
chúng nhân dân. Đặc biệt trong vai trò của quần chúng nhân dân bao gồm
những nội dung cơ bản rất quan trọng, chúng là cơ sở hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề nhân tố con người, nổi bật là vấn đề: Quần chúng nhân
dân là chủ thể sáng tạo chân chính của lịch sử, thể hiện qua 3 nội dung. 
, quần chúng nhân dân là lực lượng sản suất cơ bản của xã hội, trực tiếp

sản suất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội.
, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã
hội. , quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa
tinh thần. Trên cơ sở lập trường, quan điểm và phương pháp duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh vận dụng vào giải quyết
những vấn đề trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, chứ Người không đi tìm
những kết luận có sẵn trong sách vở.
Từ đây nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người được hình
thành, bổ sung và hoàn thiện trên nền tảng cơ sở khách quan như trên và dựa
trên bối cảnh thực tiễn của cách mạng Việt Nam, đồng thời còn kết hợp với
nhân tố chủ quan con người Hồ Chí Minh.
1.1.1.2 Nhân tố chủ quan.
Bằng thực tiễn hoạt động cách mạng và nghiên cứu lý luận Người tìm
thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước và giải phóng các dân tộc
thuộc địa. Qua đó chúng ta thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có tư duy
độc lập, tự chủ, sáng tạo cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt
trong việc tìm hiểu các cuộc cách mạng tư sản hiện đại, không để bị đánh lừa
bởi hào nhoáng bên ngoài. Có sự khổ công học tập chiếm lĩnh vốn tri thức
phong phú của thời đại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của các phong trào giải
phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế, tiếp cận và nghiên cứu sâu sắc
chủ nghĩa Mác - Lênin khoa học về cách mạng của giai cấp vô sản quốc tế.
Có tâm hồn của một nhà yêu nước chân chính, một chiến sĩ cộng sản nhiệt
thành cách mạng. Có trái tim yêu nước thương dân, sẵn sàng chịu dựng hi
sinh vì độc lập tự do của tổ quốc, hạnh phúc của đồng bào. Có bản lĩnh luôn
kiên định vững vàng, luôn tin vào nhân dân, khiêm tốn, bình dị, ham học hỏi,
nhạy bén với cái mới. Có phương pháp biện chứng. Có đầu óc thực tiễn.
Chính những phẩm chất cá nhân hiếm có đó, cùng với những đặc điểm
khách quan như trên, nhân tố chủ quan con người Hồ Chí Minh là yếu tố
quyết định hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người và
nhân tố con người, đó là tư tưởng cốt lõi trong toàn bộ tư tưởng Hồ Chí

Minh, một tư tưởng đặc sắc đã và đang trở thành tư tưởng Việt Nam hiện đại.
1.1.2 Quan niệm của Hồ Chí Minh về nhân tố con người.
Nhân tố con người là một khái niệm rộng bao gồm những nhân tố,
những tiêu chí nói lên vai trò của con người với tư cách là chủ thể của các
quan hệ xã hội trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người. Khi định nghĩa về con người
Hồ Chí Minh viết: «Chữ người nghĩa hẹp là gia đình, anh em họ hàng, bầu
bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng hơn nữa là cả loài người». Có thể
thấy ở Hồ Chí Minh không có con người trừu tượng, Hồ Chí Minh xem xét
con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực và các hoạt động
của nó; xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập thiện - ác,
hay - dở, tốt - xấu, hiền - dữ Thống nhất giữa con người ở mặt sinh học - ở
mặt xã hội. Theo Hồ Chí Minh con người có tốt, có xấu nhưng «dù là xấu,
tốt, văn minh hay dã man đều có tình» [31;60]. Hồ Chí Minh xem xét con
người được xác định bởi điều kiện lịch sử cụ thể và con người trong tính đa
dạng của nó trong các quan hệ xã hội, trong quan hệ giai cấp, tầng lớp, đồng
chí đồng bào, quan hệ nghề nghiệp, giới tính lứa tuổi Và quan hệ trong khối
thống nhất của cộng đồng dân tộc và quan hệ quốc tế. Con người của dân tộc
Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh đó là toàn thể nhân dân lao động, toàn
thể dân tộc Việt Nam, đó là con người hiện thực cụ thể khách quan.
Hồ Chí Minh xem bản chất con người mang tính xã hội. Để sinh tồn con
người phải lao động sản xuất, trong quá trình đó xác lập các mối quan hệ giữa
người với người hình thành nên quan hệ xã hội của con người. Hồ Chí Minh
quan niệm con người là sản phẩm của xã hội, con người là sự tổng hợp của
quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, chủ yếu là các quan hệ: Anh em, Họ hàng
bầu bạn, đồng bào, loài người. Hồ Chí Minh chỉ dùng khái niệm «CON
NGƯỜI» trong một số trường hợp hạn hữu, nhưtrong
 người dùng «phẩm giá con người», trong  ! ở
báo Người cùng khổ Người viết sứ mệnh của tờ báo là «giải phóng con
người», hay như trong bản bổ sung cho Di chúc Người viết «Đầu tiên là công

việc đối với con người».
Khi được soi sáng bằng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan niệm
về nhân tố con người của Hồ Chí Minh đã vượt lên tư duy của các bậc nho sĩ,
đó là «Con người được quy định bởi hoàn cảnh sống của họ, do họ tạo ra
trong thực tiễn: Cho nên việc giải quyết mọi việc xã hội của con người là
phải đặt trong mối quan hệ con người với hoàn cảnh đó mà phát huy tính tự
giác, năng động của con người giải quyết. Mọi việc tu dưỡng đạo đức cá nhân
cũng như đấu tranh giành lại chủ quyền và quản lý đất nước đều không đặt
trong mối quan hệ với lực lượng siêu nhiên hoặc phụ thuộc tuyệt đối vào tự
nhiên»[42;111]. Theo Hồ Chí Minh muốn thành công phải có ba điều kiện:
Thiên thời, địa lợi, nhân hòa trong đó nhân hòa là quan trọng hơn hết. Tầm
cao giá trị tư tưởng của Người là "#$%&'()&.
Nhưng không phải là từ sự ban ơn của kẻ bề trên như «Trời» hoặc những vĩ
nhân xuất chúng ra tay cứu độ, mà phải xuất phát từ lòng tin vào khả năng
của con người, phát huy mọi tiềm năng của con người tự giải phóng cho
mình, bởi «một lẽ rất giản đơn, dễ hiểu: Tức là vô luận việc gì, đều do người
làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều thế cả» [29;241].
Với thế giới quan mácxít, tuân thủ quyết định luận duy vật, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ý thức sâu sắc về sự tương tác biện chứng giữa con người và hoàn
cảnh sống của chính bản thân con người tạo ra trong quá trình phát triển lịch
sử. Người quan niệm sự tự giải phóng này không phải là một hành vi duy ý
chí, hành động bất chấp quy luật khách quan mà là sức mạnh cải tạo thế giới
của con người, cụ thể là cải tạo hoàn cảnh sống của bản thân mình ở mỗi
không gian thời gian nhất định, nhằm nâng cao chất lượng sống trên cơ sở
nhận thức và hành động phù hợp với quy luật khách quan.
Trong khuôn khổ của quyết định luận duy vật mácxít, trong tư tưởng
Hồ Chí Minh nhân tố con người trong đặc thù triết lý dân tộc Việt Nam trở
thành chủ thể của lịch sử, có nội lực và tiềm năng to lớn làm chủ cuộc sống
của mình. Sức mạnh của con người có được là nhờ nhận thức được tính tất
yếu của lịch sử vào hành động phù hợp với quy luật khách quan tất yếu đó.

Với quyết định luận duy vật đó, Hồ Chí Minh quan niệm “lấy dân làm gốc”,
nhân dân từ lợi ích của mình, vì sự tồn tại và phát triển của Tổ quốc mình,
phát huy tinh thần và lực lượng đã đứng lên tự giải phóng và xây dựng cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc phù hợp với sự tiến bộ của lịch sử; chứ nhân
dân không phải là đối tượng của sự ban phát, không là công cụ, phương tiện
để thực hiện một lý tưởng, “một xã hội, ngay cả khi phát hiện được quy luật
tư nhiên của sự vận động của nó Cũng không thể nào nhảy qua các giai đoạn
phát triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xóa bỏ những giai đoạn đó. Nhưng
nó có thể rút ngắn và làm dịu bớt được những cơn đau đẻ” [15;21]. Hồ Chí
Minh đã tìm đáp số cho con đường phát triển xã hội Việt Nam từ cụm từ “có
thể rút ngắn và làm dịu bớt những cơn đau đẻ”, và nhân tố để thực hiện được
điều đó không gì khác ngoài nhân tố con người với việc phát huy nhân tố con
người. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối cách mạng Việt Nam,
Người đã thể hiện một sắc thái riêng của Người về quyết định luận duy vật
mácxít. Trong quy trình cách mạng Việt Nam và đảm bảo cho cách mạng
Việt Nam giành thắng lợi, yếu tố hàng đầu là lực lượng cách mạng, bao gồm
đại đa số quần chúng nhân dân được tổ chức với hạt nhân lãnh đạo là Đảng
Cộng sản. Vậy là trong những điều kiện cần và đủ đảm bảo cho cách mạng
Việt Nam giành thắng lợi cuối cùng, hiện thực hóa tất yếu lịch sử, vận động
phù hợp với quy luật tiến hóa của xã hội trong thời đại quá độ lên chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi toàn thế giới, đó là: Nhân tố con người - Nhân dân Việt
Nam đóng vai trò quyết định.
Quan tâm hàng đầu trong triển khai đường lối cách mạng là phải tổ chức
lực lượng cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chẳng những đặt nhân tố con
người trong các điều kiện cần và đủ có tính tất yếu để biến đổi cách mạng xã
hội, mà còn với tư cách là chủ thể lịch sử tạo ra, phát triển, hoàn thiện và quy
tụ các điều kiện đó lại nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra của cách mạng. Một
điểm quan trọng nữa trong tư duy Hồ Chí Minh khẳng định tính quyết định
của nhân tố con người, đó là tính tổng hợp trong vận động lịch sử xã hội mà
con người - chủ thể hoạt động, ý thức được và vận dụng để tạo ra sức mạnh

tổng hợp giành thắng lợi trong đấu tranh xã hội cũng như trong chiến thắng
thiên nhiên. Điều này được thể hiện trong khẩu hiệu “toàn diện kháng chiến”,
tức là không chỉ có ý nghĩa đánh địch trên mọi mặt trận mà còn mang ý nghĩa
hợp lực của mọi mặt trận lại để tạo nên sức mạnh, và con người là nhân tố tạo
nên sức mạnh tổng hợp đó, chính tính tích cực chủ động của con người nắm
bắt và giải quyết những vấn đề mâu thuẫn, khó khăn, trở ngại Phát huy
những thuận lợi, vận dụng phát huy sức mạnh, bổ sung cho nhau của các yếu
tố tạo ra sự thống nhất cao độ, làm nên sức mạnh tích hợp to lớn.
Nhân tố con người có vai trò quyết định trong tiến trình tất yếu lịch sử.
Với quan niệm đó Hồ Chí Minh thường xuyên chăm lo bồi dưỡng, tổ chức
giáo dục con người. Trong lãnh đạo cách mạng, Người vì con người và phát
huy con người, coi mọi việc đều phải lấy dân làm gốc, chăm lo bồi dưỡng sức
dân về đời sống vật chất và đời sống tinh thần, đồng thời quan tâm đến việc
quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng cho mọi tầng lớp nhân dân, qua đó
động viên nhân dân thực hiện, giáo dục, bồi dưỡng con người trong thực tiễn
cách mạng. Người dạy: Để giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ
này, cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực
lượng vĩ đại của toàn dân.
Trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò con người, về sức
mạnh con người không phải chủ yếu nói về từng con người riêng lẻ, mà theo
tư tưởng của C.Mác xuất phát từ những cá nhân ở trong khuôn khổ những
điều kiện và quan hệ lịch sử nhất định chứ không xuất phát từ những cá nhân
thuần túy. Khi Hồ Chí Minh nói “vô luận việc gì đều do con người làm ra, từ
nhỏ đến to, từ gần đến xa đều thế cả” là Người muốn nói đến cộng đồng
người, cộng đồng dân tộc, cộng đồng giai cấp. Niềm tin của Hồ Chí Minh
vào con người chủ yếu trước hết ở sức mạnh cộng đồng nhân dân, ở sự tập
hợp đông đảo mọi thành phần dân tộc, mọi tầng lớp xã hội, mọi giai cấp vào
thực hiện các mục tiêu cách mạng. Tuy Hồ Chí Minh rất coi trọng nhân tài,
nhưng đó phải là những người gắn bó với nhân dân chứ không theo quan
niệm tôn vinh các hiền nhân, quân tử biệt lập với nhân dân.

Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của con người, về sức
mạnh con người được chiết xuất từ tinh túy triết lý của dân tộc Việt Nam như
“lấy dân làm gốc” và thấu triệt luận điểm mácxít về vai trò quyết định của
quần chúng nhân dân trong lịch sử. Đó là cơ sở để Người khẳng định sức
mạnh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, sức mạnh đó trước hết là đoàn
kết. Hồ Chí Minh nói: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong
thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Triết lý ấy
Người tổng kết rằng: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết! Thành công, thành
công, đại thành công!”. Quán triệt triết lý về đoàn kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nói “thời đại của chúng ta là thời đại văn minh, thời đại cách mạng, mọi việc
phải dựa vào lực lượng của tập thể, của xã hội; cá nhân càng không thể đứng
riêng lẻ mà càng phải hòa mình trong tập thể, trong xã hội” [33;282].
Tóm lại, với tư duy quyết định luận duy vật của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh vì con người, phát huy con người nhưng không phải con người nhân
bản (C. Mác gọi là con người thuần túy) mà là con người lịch sử gắn bó với
cộng đồng trực tiếp là dân tộc mình, giai cấp mình và sự giải phóng cho con
người phụ thuộc vào sự giải phóng dân tộc và giai cấp. Chủ thể của sự giải
phóng là bản thân con người với tư cách là cộng đồng người giác ngộ lý
tưởng, mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng, đoàn kết chặt chẽ và nghiêm khắc tuân
thủ kỷ luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Mối quan hệ giữa con người trong cộng đồng dân tộc và cộng đồng giai
cấp là biểu hiện thứ nhất về quan niệm vai trò của nhân tố con người theo
quyết định luận duy vật mácxít của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Và với thắng lợi
của hai cuộc kháng chiến trường k‚ chống ngoại xâm của dân tộc ta cũng như
thành tựu trong sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong 55
năm qua của nước ta đã khẳng định cho tính đúng đắn của triết lý Hồ Chí
Minh về nhân tố con người với vai trò và sức mạnh của con người.
1.2 Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người.
1.2.1 Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng.
Vốn hun đúc từ nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa yêu nước truyền thống

của dân tộc về vai trò của con người trong sự nghiệp cứu quốc, với xuất phát
trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng và cá
nhân trong lịch sử, cho nên trong khi khẳng định mục tiêu của cách mạng là
giải phóng con người mang lại tự do, hạnh phúc cho con người, Hồ Chí Minh
cũng đồng thời khẳng định sự nghiệp giải phóng là do chính bản thân con
người thực hiện. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn coi con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của cách mạng. Tư tưởng đó được thể hiện rõ trong lý luận
của người về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Người nói: “tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [21;161]. Từ nhận thức “tất
cả những người lao động trên thế giới đều có một mục đích chung là thoát
khỏi ách áp bức, bóc lột, được sống sung sướng tự do ” [31;209]. Hồ Chí
Minh quan niệm cuộc sống của nhân dân là mục tiêu của mọi hành động cách
mạng. Người làm hết sức để xây dựng, rèn luyện con người, quyết tâm đấu
tranh để đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho mọi người. Người xác định
con người là mục tiêu trong điều kiện cụ thể của từng giai đoạn cách mạng.
Khi đất nước còn bị nộ lê, lầm than thì mục tiêu trước hết là giải phóng dân
tộc, giành độc lập dân tộc. Sau khi chính quyền đã về tay nhân dân thì mục
tiêu ăn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh lại được ưu tiên hơn bởi vì “nếu nước
có độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì” [21;56]. “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết
đói, chết rét thì tự do độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự
do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ” [21;152]. Vì vậy, “chúng ta
phải thực hiện ngay: Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có
chỗ ở, làm cho dân có học hành” [21;152]. Người luôn căn dặn “chính sách
của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân
dân” nên dân đói, dân dốt là Đảng có lỗi. Ngay trong Di chúc Người cũng
căn dặn “đầu tiên là công việc đối với con người”.
Theo Hồ Chí Minh con người là mục tiêu của cách mạng, nên mọi chủ

trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng
của con người, có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích trước mắt; lợi ích của cả dân
tộc và lợi ích bộ phận, giai cấp, tầng lớp và cá nhân. Với hoạt động thực tiễn
thì việc gì lợi cho dân, dù nhỏ mấy - ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân,
dù nhỏ mấy - ta phải hết sức tránh.
Người còn thể hiện quan điểm con người là mục tiêu của cách mạng
trong lý luận xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa với mục tiêu là giải phóng
con người, vì một chế độ xã hội dân chủ, công bằng, văn minh của con người.
Người chủ trương xây dựng một nhà nước pháp quyền, xây dựng chế độ dân
chủ. “Người định nghĩa *+,+(,+-. Đây là định
nghĩa ngắn gọn nhưng bao quát đầy đủ nhất, sâu sắc nhất bản chất của dân
chủ”[37;17]. Định nghĩa này khẳng định rõ ràng địa vị người chủ và khẳng
định năng lực thực thi dân chủ của người dân. “địa vị và năng lực đó biểu
hiện ra trong sự vận động của chính trị, đó là: Bao nhiêu quyền hạn đều của
dân, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [37;18]. Quan điểm Hồ Chí
Minh cho thấy độc lập, tự do chưa đủ mà còn phải xây dựng một xã hội, một
nhà nước của dân, do dân và vì dân. Người giải thích: “nước ta là một nước
dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của dân mà làm ( ). Khi ai có điều gì
oan ức, thì có thể do các đoàn thể tố cáo lên cấp trên. Đó là quyền dân chủ
của tất cả công dân Việt Nam” [16;439]. Người thường căn dặn như vậy, xác
định nhân dân lao động là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng và hướng toàn
bộ hoạt động cách mạng của mình nhằm đạt đến mục tiêu, đó là tiêu chuẩn
hàng đầu để đánh giá vừa ở góc độ chính trị, tư tưởng, vừa ở góc độ đạo đức
đối với đời sống của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức, xã hội và toàn cộng đồng
người.
Trong khi khẳng định con người là mục tiêu của cách mạng, Hồ Chí
Minh đồng thời cũng nhấn mạnh sự nghiệp cách mạng là do chính bản thân
của con người thực hiện, nghĩa là con người là động lực của cách mạng. Điều
này thể hiện niềm tin mãnh liệt của Hồ Chí Minh vào sức mạnh của nhân
dân.

Từ những bài viết đầu tiên sau khi trở thành người Cộng sản, Hồ Chí
Minh đã khẳng định chính sự áp bức của đế quốc, thực dân sẽ thúc đẩy và
buộc nhân dân các thuộc địa và nhân dân Việt Nam nổi dậy giành quyền
sống. Sự đầu độc về tinh thần không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể
làm tê liệt khát vọng giải phóng của họ. Từ rất sớm Hồ Chí Minh đã thấy ở
nhân dân bị áp bức, bóc lột, gầy còm xơ xác ấy cái sức mạnh lấp biển, vá trời,
đã thấy ở những người bị đầu độc, bị thất học ấy cái trí tuệ lớn lao. Người đã
chỉ ra rằng “đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái
gì đó đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ
đến”[18;28].
Lòng tin của Hồ Chí Minh đối với con người, đối với nhân dân ta dựa
trên sự hiểu biết sâu sắc truyền thống lịch sử của dân tộc và con người Việt
Nam: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu
của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi
nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự
nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”
[23;171]. Và trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, phát huy vai trò và sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân nước ta, Hồ Chí Minh đã bổ sung và tạo thành
nền tảng vững chắc cho lòng tin của Người đối với vai trò và sức mạnh to lớn
của nhân dân.
Từ những năm đầu thập kỉ 20 của thế kỉ XX, giai cấp công nhân Việt
Nam vừa “thoát thai” từ đồng ruộng, đang còn ở giai đoạn phát triển “tự nó”
đang còn rất non yếu. Nhưng khi nghe được tin 600 thợ nhuộm Chợ Lớn
quyết định bãi công, Người đã coi đó là dấu hiệu chứng tỏ “giai cấp công
nhân Việt Nam cũng bắt đầu giác ngộ về lực lượng và giá trị của mình”
[19;114], và tin tưởng rằng, cùng với dân tộc, giai cấp công nhân Việt Nam
sẽ đào huyệt chôn chủ nghĩa đế quốc tại Việt Nam. Đây là một sáng tạo hết
sức quan trọng của Hồ Chí Minh.
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh nhận rõ “muốn xây
chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”, “có dân thì

có tất cả”.
Niềm tin vào sức mạnh của dân còn được nhận thức từ mối quan hệ giữa
nhân dân với Đảng và Chính phủ. “Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nếu không có nhân
dân thì Chính phủ không đủ lực lượng; nếu không có Chính phủ thì nhân dân
không có ai dẫn đường. Đảng lãnh đạo nhưng nhân dân là chủ. Dân như
nước, bộ đội như cá. Lực lượng bao nhiêu là ở dân hết. Tin dân, học dân, tôn
trọng dân, dựa vào dân theo đúng đường lối quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh
vô địch. Bởi vì sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội chỉ có thể thực hiện được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động
sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân dân” [2;279].
Hồ Chí Minh tin ở dân còn xuất phát từ niềm tin vào tình người. Đã là
người Cộng sản thì phải tin nhân dân và niềm tin quần chúng sẽ tạo nên sức
mạnh cho người Cộng sản. Người nói: dân tộc ta là một dân tộc anh hùng.
Trong khi giữ vững niềm tin ở dân, thì nét đặc sắc trong tư tưởng của Người
còn thể hiện ở việc Người còn quán triệt quan điểm là phải thường xuyên loại
bỏ các căn bệnh nguy hiểm làm ảnh hưởng đến sức mạnh của nhân dân, phải
chống các bệnh: Xa nhân dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân, không tin cậy
nhân dân, không hiểu biết nhân dân, không yêu thương nhân dân đó là
nguyên nhân của các bệnh nguy hiểm: Bệnh quan liêu, mệnh lệnh Các bệnh
này sẽ dẫn đến kết quả là “hỏng việc”.
Lòng tin của Hồ Chí Minh đối với nhân dân vừa bắt rễ sâu và vững chắc
trong truyền thống yêu nước của dân tộc, lại vừa đặt lên tầm cao của sự phát
hiện và khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Chính nhờ vậy
mà Hồ Chí Minh tin tưởng một cách có cơ sở khoa học rằng: Nhân dân ta
chẳng những có khả năng cứu nước mà còn có khả năng tiến lên con đường
cách mạng xã hội chủ nghĩa, sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân. Không chỉ khẳng định vai trò của công nhân, nông dân, Hồ Chí Minh
còn rất coi trọng tầng lớp trí thức. Những nhà trí thức tiêu biểu của dân tộc kể
cả lớp cũ và lớp mới đáp ứng lời kêu gọi tham gia cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc đều được Người quan tâm, tin cậy trao cho những trách nhiệm quan

trọng.
Hồ Chí Minh suốt đời tự mình tiến hành và tổ chức một sự nghiệp tuyên
truyền, giáo dục sâu rộng thường xuyên giúp cho con người phát huy bản
chất tốt đẹp, khắc phục khuyết điểm, nhược điểm, không ngừng hoàn thiện,
tự nâng cao xứng đáng là thành viên của nhân dân vĩ đại, đủ sức hoàn thành
tốt các nhiệm vụ mà thực tiễn cách mạng giải phóng dân tộc đòi hỏi. Hồ Chí
Minh hiểu sâu sắc và tin tưởng vững chắc rằng, sức mạnh của nhân dân được
thức tỉnh và được tổ chức là vô địch.
Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả
nước, toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân.
Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Nhà nước mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh lấy công - nông
- trí làm nền tảng. Từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, phải nhìn
nhận và đánh giá đúng giai cấp đứng ở trung tâm của thời đại mới đó là giai
cấp công nhân, chỉ có giai cấp công nhân với những đặc điểm chung và riêng
của mình mới lãnh đạo được dân tộc đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản. Muốn
vậy, giai cấp công nhân phải liên minh với giai cấp nông dân và gắn bó với
dân tộc mới trở thành lực lượng hùng mạnh.
Hồ Chí Minh nhận thấy sức mạnh to lớn tự vươn lên giải phóng cho
mình của mỗi con người. Nhưng với Người không phải ai cũng là động lực
mà chỉ có những con người được giác ngộ, được tổ chức, những con người có
trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống
lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam Mới là động lực
làm nên thành công của cách mạng.
Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong con người động
lực. Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ
chức, có lãnh đạo. Vì vậy phải tăng cường giáo dục nhân dân, tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng.
Theo Hồ Chí Minh giữa con người - mục tiêu và con người - động lực có
mối quan hệ biện chứng với nhau. Càng chăm lo cho con người - mục tiêu tốt

bao nhiêu thì sẽ tạo thành con người - động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng
cường được sức mạnh của con người - động lực thì sẽ nhanh chóng đạt được
con người - mục tiêu. Đồng thời với việc chăm lo con người - mục tiêu, phát
huy con người - động lực, thì Người cũng kiên quyết ngăn chặn, khắc phục
và triệt tiêu các phản động lực trong con người. Đó là chủ nghĩa cá nhân, đây
là thứ vi trùng rất độc nó đẻ ra hàng trăm thứ bệnh như: thói quen lạc hậu, tàn
tích xã hội cũ để lại, bảo thủ, rụt rè Tóm lại không dám đổi mới và sáng tạo.
Con người chỉ là động lực, khi động lực ấy gắn liền với mục tiêu, góp phần
thực hiện mục tiêu.
Trên cơ sở các giá trị tinh hoa văn hoá của nhân loại và truyền thống của
dân tộc, Hồ Chí Minh đã thể hiện tư duy độc lập tự chủ sáng tạo đổi mới của
mình, một trong những tư tưởng thể hiện sự thấm nhuần và tư duy tự chủ
sáng tạo của Người đó là tư tưởng về: Quần chúng nhân dân là chủ thể của
cách mạng.
1.2.2 Quần chúng nhân dân là chủ thể của cách mạng.
Hồ Chí Minh bằng trí tuệ thiên tài và do hoàn cảnh lịch sử quy định,
Người vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn dân
tộc Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh cốt lõi là vấn đề độc lập dân tộc
gắn với chủ nghĩa xã hội. Trong lý luận chứa đựng tư tưởng giải phóng xã
hội, giải phóng con người một cách toàn diện nhất, triệt để nhất, và nói lên vị
trí và vai trò quan trọng của con người mà với Hồ Chí Minh đó là vị trí và vai
trò quan trọng của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng, quần
chúng nhân dân là chủ thể cách mạng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc. Người
vạch ra mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc là nhằm đánh đổ ách
thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính
quyền của nhân dân. Mục tiêu của cách mạng ở thuộc địa là giành quyền lợi
chung của toàn dân tộc.
Trong tư tưởng về khởi nghĩa vũ trang toàn dân. Cách mạng là sự nghiệp
của dân chúng bị áp bức. Năm 1924 Hồ Chí Minh, Người viết: “Để có cơ

thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương: 1. Phải có tính chất
cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi
nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng” [26;468, 469]. Người khẳng
định “Cách mệnh là việc chung của dân chúng chứ không phải việc một hai
người”[27;261, 262].
Trong Cách mạng Tháng Tám 1945 cũng như trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức
mạnh. Quan điểm “Lấy dân làm gốc” xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến
tranh của người. “Có dân là có tất cả”, “Dễ trăm lần không dân cũng chịu,
khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của quần chúng nhân dân trong khởi
nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của
quần chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi. Người khẳng định: “Phải dựa vào
dân, dựa chắc vào dân thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt được”, “Chúng ta
tin chắc vào tinh thần và lực lượng của quần chúng, của dân tộc”.
Mục đích cách mạng và chiến tranh chính nghĩa - vì độc lập tự do làm
cho khả năng tiến hành chiến tranh nhân dân trở thành hiện thực, làm cho
toàn dân tự giác tham gia kháng chiến.
Người chủ trương phát huy nỗ lực chủ quan của dân tộc, tránh tư tưởng
bị động trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài. Tháng 8/1945, khi thời cơ cách
mạng xuất hiện, Người kêu gọi: “Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức
ta mà tự giải phóng cho ta” [28;554]. Người nói: Kháng chiến trường k‚ gian
khổ đồng thời phải tự lực cánh sinh. Trông vào sức mình, không được ỷ lại
ngồi mong chờ người khác. Tự lực cánh sinh cũng là một phương châm chiến
lược rất quan trọng, nhằm phát huy cao độ nguồn sức mạnh chủ quan, tránh
tư tưởng bị động trong chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài. Mặc dù coi trọng sự
giúp đỡ của Quốc tế nhưng Hồ Chí Minh luôn đề cao sức mạnh bên trong,
phát huy đến mức cao nhất mọi nỗ lực của dân tộc, đề cao tinh thần tự chủ.
Hồ Chí Minh đã xây dựng nên lý luận về phương pháp khởi nghĩa toàn
dân và chiến tranh nhân dân. Phát huy và sử dụng sức mạnh toàn dân tộc, dựa

vào sức mạnh toàn dân tộc để tiến hành khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh
cách mạng.
Trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội ở nước Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
Mục tiêu, vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, là “làm sao cho dân giàu
nước mạnh”, là “làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”, “là
nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân” [34;556], là làm
cho mọi người được ăn no, mặc ấm, được sung sướng, tự do. Hồ Chí Minh
nêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong ý thức, động lực của toàn dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Xây dựng một xã hội như thế là trách
nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi, động lực của toàn dân tộc. Cho nên với động
lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, sức mạnh tổng hợp được sử dụng và
phát huy, đó là sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.
Đặc trưng cụ thể của chủ nghĩa xã hội được Hồ Chí Minh nhấn mạnh
trong đó có đặc trưng về chính trị: Đó là một chế độ chính trị do nhân dân
làm chủ, chủ nghĩa xã hội có chế độ chính trị dân chủ, nhân dân lao động là
chủ và nhân dân lao động làm chủ. Nhà nước là của dân do dân và vì dân,
dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh công - nông -
trí, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân làm chủ. Nhà nước phải
phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng
tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội
là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh

×