Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và liên hệ với việc thực thi dân chủ ở Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.22 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Học phần: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐỀ TÀI (SỐ 2 ): Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa và liên hệ với việc thực thi dân chủ ở Việt Nam hiện
nay.
........................................................

Giảng viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện
:
Lớp
:
Mã sinh viên

:


MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
Phần 1: Phần lý luận.
Chương I: Khái quát lý luận: bản chất của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa
Chương II: Phân tích nội dung của bản chất nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa
Chương III: Phần liên hệ việc thực thi dân chủ ở Việt Nam hiện nay
C: LỜI KẾT.


A. MỞ ĐẦU
-Lý do chọn đề tài :đề tài “Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và liên
hệ với việc thực thi dân chủ ở Việt Nam hiện nay.” cho tiểu luận của mình. Với
những kiến thức đã có cộng với tinh thần ham học hỏi em hy vọng bài viết sẽ
đưa ra các câu trả lời cho đề tài đã nêu.
Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng, không xây dựng và phát triển nền dân
chủ, hệ thống chính trị trong đó có nhà nước xã hội chủ nghĩa thì khơng thực
hiện quyền lực , quyền dân chủ, quyền làm chủ và mọi lợi ích của nhân dân lao
động trên thực tế thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội trong lao động xã hội
chủ nghĩa.
Trong bài tiểu luận này sẽ trình bày về vấn đề bản chất của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa . Chúng ta sẽ luận giải từng vấn đề nhỏ, từng khía cạnh nhỏ để hiểu
rõ bản chất, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ,… của các vấn đề nêu trên
Vấn đề dầu tiên cần nghiên cứu đó là về bản chất của xã hội chủ nghĩa.

ChươngI: KHÁI QUÁT LÝ LUẬN


1. Khái niệm dân chủ
Từ trước công nguyên, cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết hợp lựcvới
nhau để sản xuất, để chống thiên tai, thú dữ và đã tự tổ chức ra những hoạtđộng
chung mang tính xã hội, trong đó có việc cử ra những người đứng đầu cáccộng
đồng người để thực thi những quy định chung và phế bỏ những người đó nếuhọ
khơng thực hiện những quy định chung theo ý nguyện, lợi ích chung của
cộngđồng. Từ thời Hy Lạp cổ đại, khi có ngơn ngữ, chữ viết, con người đã biết
diễn đạtnội dung dân chủ: trong xã hội nguyên thuỷ, việc “cử ra và phế bỏ
người đứngđầu” là do quyền và sức lực của dân.Khi xã hội có chế độ tư hữu, có
giai cấp – chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời,giai cấp chủ nô đã lập ra nhà nước, lấy
tên là nhà nước dân chủ (ở Aten, Hy Lạp cổđại, từ thế kỷ thứ VIII đến thứ VI
trước công nguyên) – tức nhà nước dân chủ chủnô thống trị đại đa số người lao

động là giai cấp nơ lệ. Khi đó nhà nước chủ nơ mớichính thức sử dụng danh từ
“dân chủ”, tiếng Hy Lạp cổ gọi là “demos” (đề mô) là“dân” và “kratos” (cratơ)
là “quyền lực”. Có nghĩa là nhà nước dân chủ chủ nơ có“quyền lực của dân”.
Nhưng “dân” lúc này là dân theo quy định của luật pháp dogiai cấp chủ nô quy
định gồm giai cấp chủ nô, tăng lữ, thương gia, một số trí thứcvà người tự do,
cịn đại đa số nhân dân trở thành nơ lệ thì khơng được coi là dân.Về thực chất,
đây là giai cấp tư hữu, áp bức bóc lột đầu tiên lập ra nhà nước đãdùng pháp luật
và nhà nước của nó lạm dụng khái niệm dân chủ để chiếm mấtquyền lực thực sự
của nhân dân lao động. Sau hàng ngàn năm nay, các giai cấp tưhữu, áp bức bóc
lột thống trị xã hội (như phong kiến, tư sản) vẫn là những giai cấpchiếm mất
quyền lực của nhân dân lao động. Trong chế độ dân chủ tư sản, dù chếđộ này có
nhiều thành tựu to lớn dù chế độ đó có mang tên chế độ dân chủ, nhà nước dân
chủ, nhưng về thực chấtvẫn không phải là nhà nước thực hiện quyền lực thực sự
của nhân dân, mà chỉ lànhà nước của giai cấp tư sản.Chỉ đến khi Cách mạng xã
hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga (1917) thắng lợi,mới bắt đầu một thời đại mới,
khi đó nhân dân lao động đã giành lại chính quyền,tư liệu sản xuất... giành lại
quyền lực thực sự của dân - tức là dân chủ thực sự và lập ra Nhà nước dân chủ
xã hội chủ nghĩa, thiết lập nền dân chủ xã hội chủ nghĩađể thực hiện quyền lực
của nhân dân.Tóm lại, nhân loại từ lâu đời đã có nhu cầu và bước đầu thực hiện
dânchủ và có quan niệm về dân chủ, đó là việc thực thi quyền lực của dân. (Đây
là mộtkhái niệm lịch sử, dân là những ai, còn do bản chất của chế độ xã hội quy
định,nhất là từ khi xã hội phân chia thành giai cấp, thì dân cịn do bản chất giai
cấpthống trị xã hội quy định cụ thể trong từng xã hội nhất định). Theo tiếng Hy


Lạp từ thời cổ đại, dân chủ (demokatos) là quyền lực thuộcvề nhân dân, nhân
dân có quyền làm chủ những vấn đề có liên quan đến cuộc sốngcủa mình.Dân
chủ là 1 hình thái Nhà nước, một chế độ xã hội, trong đó, thừa nhận vềmặt pháp
luật những quyền tự do, quyền dân chủ, quyền bình đẳng của nhân dân(Tự do
báo chí, tự do ngơn luận, tự do bầu cử, ứng cử…). Dân chủ được cụ thể

hóathành cơ chế để thực thi trong cuộc sống.Dân chủ được quy định thành
nghĩa vụcủa công dân với nhà nước và trách nhiệm của nhà nước đối với cơng
dân.Dân chủ cịn được hiểu là một nguyên tắc sinh hoạt của các tổ chức chính
trị- xã hội, cộng đồng dân cư, theo nguyên tắc số ít phục tùng số đông, thiểu số
phụctùng đa số.Dân chủ là một phạm trù chính trị, bởi vì nó gắn liền với bản
chất giai cấpthống trị xã hội, bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị (dân chủ chủ
nô, dân chủ tưsản, dân chủ vơ sản hay cịn gọi là dân chủ xã hội chủ nghĩa).
Theo nghĩa này, dânchủ sẽ mất đi khi nào trong xã hội khơng cịn giai cấp.Mặt
khác, dân chủ còn là một phạm trù lịch sử, khi gắn với chê độ nhà nước.Dân
chủ còn là thành quả đấu tranh của nhân dân lao động chống áp bức, bóc lột,địi
quyền tự do, quyền làm chủ của mình. Quyền lực thuộc về nhân dân là giá
trịcao nhất của dân chủ và theo nghĩa này thì dân chủ sẽ tồn tại lâu dài khi xã
hội còn giai cấp và Nhà nước
2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác Lê Nin về dân chủ
Quan niệm của CN Mác – Lenin về dân chủ thể hiện ở những quan điểm sau:
+ CN Mác – Lenin kế thừa những nhân tố hợp lý, những hoạt động thực tiễn và
nhận thức của nhân loại về dân chủ. Đặc biệt tán thành quan điểm: Dân chủ là
một nhu cầu khác quan của nhân dân lao động, dân chủ là quyền lực thuộc về
nhân dân.
+ Khi XH có giai cấp và nhà nước – tức là một chế độ dân chủ thể hiện chủ yếu
qua nhà nước thì khi đó khơng có dân chủ chung chung, phi giai cấp, siêu giai
cấp, “ dân chủ thuần túy”. Trái lại, mỗi chế độ dân chủ gắn liền với nhà nước
đều mang bản chất giai cấp thống trị XH. Nên dân chủ trong XH có giai cấp nó
mang tính giai cấp, gắn liền với các giai cấp đã thiết lập nên nền dân chủ đó,
như: Dân chủ nơ lệ, dân chủ TS, dân chủ VS ( dân chủ XHCN ). Do đó, từ khi
có chế độ dân chủ thì dân chủ luôn luôn tồn tại với tư cách một phạm trù lịch
sử, phạm trù chính trị.
+Từ khi có nhà nước dân chủ, thì dân chủ cịn với ý nghĩa là một hình thức nhà
nước, trong đó chế độ bầu cử, bãi miễn các thành viên của nhà nước, có quản lý



XH theo pháp luật nhà nước và thừa nhận ở nước đó “quyền lực thuộc về nhân
dân” (cịn dân là ai thì do giai cấp thống trị quy định) gắn liền với một hệ thống
chuyên chính của giai cấp thống trị xã hội.
+ Với một chế độ dân chủ và nhà nước tương ứng đều do một giai cấp thống trị
cầm quyền chi phối tất cả các lĩnh vực của tồn XH, do vậy, tính giai cấp thống
trị cũng gắn liền và chi phối tính dân tộc, tính chính trị, kinh tế, văn hóa, XH…ở
mỗi quốc gia, dân tộc cụ thể.

Chương II: Phân tích nội dung của bản chất nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa
1. Bản chất chính trị
Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một đảng của giai cấp công nhân – đảng MácLênin mà trên mọi lĩnh vực xã hội đều thực hiện quyền lực của nhân dân, thể
hiện qua các quyền dân chủ, làm chủ
quyền con người, thoả mãn ngày càng cao hơn các nhu cầu và các lợi ích của
nhân dân. Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ: Bản chất chính trị của nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp cơng nhân thơng qua đảng
của nó đối với tồn xã hội, nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi
ích riêng cho giai cấp cơng nhân, mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi
ích của tồn thể nhân dân, trong đó có giai cấp cơng nhân. Hồ Chí Minh cũng đã
chỉ rõ: Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa thì bao nhiêu quyền lực đều là
của dân, bao nhiêu sức mạnh đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều là vì dân…
Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa… do đó về thực
chất là của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân. Cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa, khác với các cuộc cách mạng trước đây là ở chỗ nó là cuộc cách mạng
của số đơng, vì lợi ích của số đơng nhân dân. V.I. Lênin còn nhấn mạnh
rằng: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ mà nhân dân ngày càng tham gia
nhiều vào cơng việc nhà nước. Với ý nghĩa đó, V.I. Lênin đã diễn đạt một cách
khái quát về bản chất và mục tiêu của dân chủ xã hội chủ nghĩa rằng: đó là nền
dân chủ “gấp triệu lần dân chủ tư sản”. Do vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có



bản chất giai cấp cơng nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu
sắc.

2. bản chất kinh tế
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về những tư liệu sản
xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực lượng
sản xuất dựa trên cơ sở khoa học –
công nghệ hiện đại nhằm thoả mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất và
tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.
Bản chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một quá trình ổn định chính trị,
phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo của
đảng Mác-Lênin và quản lý, hướng dẫn, giúp đỡ… của nhà nước xã hội chủ
nghĩa.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dù khác về bản chất kinh tế
của các chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, bất cơng, nhưng cũng như tồn bộ nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa, nó khơng hình thành từ “hư vô” theo mong muốn của
bất kỳ ai. Kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng là sự kế thừa và phát triển mọi thành
tựu nhân loại đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời lọc bỏ những nhân tố lạc hậu,
tiêu cực, kìm hãm… của các chế độ kinh tế trước đó, nhất là bản chất tư hữu, áp
bức bóc lột, bất cơng… đối với đa số nhân dân.
3. Bản chất tư tưởng – văn hóa
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác-Lênin – hệ tư tưởng của giai
cấp công nhân làm nền tảng, chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác
trong xã hội mới (như văn học nghệ thuật, giáo dục, đạo đức, lối sống, văn hố,
xã hội, tơn giáo v.v.). Đồng thời, dân chủ xã hội chủ nghĩa kế thừa, phát huy
những tinh hoa văn hoá truyền thống các dân tộc; tiếp thu những giá trị tư tưởng
– văn hoá, văn minh, tiến bộ xã hội… mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc
gia, dân tộc…

Do đó, đời sống tư tưởng – văn hố của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa rất phong
phú, đa dạng, toàn diện và ngày càng trở thành một nhân tố quan trọng hàng
đầu, thành mục tiêu và động lực cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.


Chương III: liên hệ với việc thực thi dân chủ ở Việt Nam hiện
nay.
1. Kết quả của việc thực thi dân chủ xã hội
Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã nêu lên bốn bài học lớn, trong đó có bài
học: “Trong tồn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân
làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”(1).
Văn kiện Đại hội nhấn mạnh “xóa bỏ nhận thức sai lầm coi công tác quần
chúng chỉ là biện pháp để tổ chức, động viên nhân dân thực hiện các chủ
trương, chính sách. Đối với những chủ trương có quan hệ trực tiếp tới đời sống
nhân dân trên phạm vi cả nước cũng như ở các địa phương phải trưng cầu ý kiến
nhân dân trước khi quyết định”. Nội dung phát huy dân chủ tiếp tục được Đại
hội đại biểu toàn quốc của Đảng từ khóa VII đến khóa X đề cập rõ nét.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 1-2011) chỉ rõ: “Tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, cơng chức phải
hồn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục
vụ nhân dân... Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm
chủ trực tiếp... Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ
cương xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ
của nhân dân...”(2). Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (tháng
1-2016), vấn đề phát huy dân chủ được khẳng định trong đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng: “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm
quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm
quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng

duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần phải phòng ngừa đối với đảng cầm
quyền”(3).
Về phát huy dân chủ trong Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) xác định: Xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho
Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao
trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất
trong Đảng, bảo đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt đảng.
Đảng ta và Bác Hồ luôn xác định thực hành dân chủ trong Đảng có ý nghĩa
quyết định đối với phát triển dân chủ trong tổ chức và hoạt động của cả hệ
thống chính trị gắn với dân chủ hóa tồn bộ đời sống xã hội, có dân chủ mới có
đồng thuận xã hội, có đồng thuận xã hội mới tạo ra sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc. Nội dung phát huy dân chủ được Đảng ta quy định rất rõ, bảo đảm thật
sự tự do tư tưởng trong sinh hoạt đảng, khuyến khích và tơn trọng sự suy nghĩ


độc lập, sáng tạo, thảo luận, tranh luận dân chủ nhằm phát huy trí tuệ của tồn
Đảng, của từng cán bộ, đảng viên trong việc chuẩn bị các nghị quyết và tổ chức
thực hiện nghị quyết. Trong đại hội đảng các cấp, trong các hội nghị của Đảng,
mỗi đảng viên đều có quyền thảo luận, bàn bạc, tham gia các cơng việc của
Đảng, phê bình, chất vấn các cán bộ, đảng viên khác, được trình bày hết ý kiến
của mình, có quyền bảo lưu ý kiến hoặc đề xuất ý kiến lên các cơ quan cấp trên
cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng. Các nghị quyết, quyết định của tổ
chức đảng được thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số. Việc bầu cử trong
Đảng đều được tiến hành dân chủ theo nguyên tắc bỏ phiếu kín, khơng gị ép, áp
đặt... Đặc biệt, trong các nhiệm kỳ gần đây, việc thực hành dân chủ trong Đảng
tiếp tục được bổ sung bằng những quy chế, quy định chặt chẽ hơn, như quy định
Bộ Chính trị báo cáo cơng việc và hoạt động của mình trước mỗi kỳ họp của
Ban Chấp hành Trung ương, ban thường vụ báo cáo cơng việc và hoạt động của

mình trước mỗi kỳ họp cấp ủy, cấp ủy báo cáo trước tổ chức đảng hoặc cơ quan
bầu ra mình; quy định thời gian tiến hành tự phê bình và phê bình, tổ chức quần
chúng phê bình và bỏ phiếu tín nhiệm cán bộ, đảng viên từ cơ quan cao nhất đến
tổ chức cơ sở.
Việc phát huy dân chủ trong các tổ chức nhà nước có nhiều chuyển biến, tiến
bộ. Quốc hội có những đổi mới quan trọng, từ bầu cử đại biểu Quốc hội đến
hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động, làm tốt hơn chức năng
lập pháp, công tác giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
Quốc hội hoạt động ngày càng dân chủ, hiệu quả. Để nâng cao chất lượng các
văn bản pháp luật, Quốc hội đã có nhiều hình thức để lấy ý kiến góp ý, như tổ
chức hội thảo, tọa đàm, phát phiếu...
Trước và sau mỗi kỳ họp Quốc hội đều tổ chức tiếp xúc cử tri để nắm bắt tâm
tư, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri cả nước. Sau tiếp xúc đều tổng hợp, phân
tích những kiến nghị xác đáng để yêu cầu Chính phủ chỉ đạo giải quyết theo
thẩm quyền. Nhiều khóa gần đây, hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại các
kỳ họp của Quốc hội, hội đồng nhân dân thật sự sôi nổi, dân chủ, phát huy được
trách nhiệm của đại biểu, được nhân dân cả nước ghi nhận. Định kỳ, Quốc hội,
hội đồng nhân dân tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc
hội, hội đồng nhân dân bầu bằng hình thức bỏ phiếu kín. Phát huy dân chủ của
Chính phủ tiếp tục có những đổi mới trong hoạch định chính sách, quản lý vĩ
mơ, chỉ đạo điều hành tổ chức thực hiện. Ý thức, trách nhiệm thể chế hóa, cụ
thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng thành các văn bản pháp luật được
đề cao. Đặc biệt, chính quyền các cấp đã có nhiều tiến bộ trong tổ chức tiếp dân,
đối thoại với công dân và giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân.
Đối với công tác tổ chức cán bộ diện quản lý theo phân cấp của Đảng đều được
tập thể ban cán sự đảng thảo luận dân chủ, bỏ phiếu kín và quyết định theo đa
số. Các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp đều tạo điều kiện và phát huy
chức năng tuyên truyền, định hướng dư luận của các phương tiện truyền thơng,
như báo viết, báo nói, báo hình, báo mạng...



Phát huy dân chủ trong các tổ chức chính trị - xã hội cũng có nhiều tiến bộ rõ,
thể chế thực thi các quyền dân chủ của nhân dân từng bước được xác lập và cụ
thể hóa. Nhiều văn bản tạo cơ sở pháp lý phát huy quyền làm chủ của các tầng
lớp nhân dân được Quốc hội thông qua, như Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Luật Cơng đồn, Luật Thanh niên, Luật Trưng cầu ý dân... Những bảo đảm dân
chủ về quyền và nghĩa vụ, lợi ích, trách nhiệm của các chủ thể trong xã hội
được luật hóa cụ thể hơn và từng bước thực hiện có kết quả; nhiều chủ trương,
biện pháp đã phát huy vai trò tích cực, chủ động của nhân dân, đẩy mạnh q
trình dân chủ hóa xã hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh số
34/PT/UBTVQH, ngày 20-4-2007, “Về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn”, Nghị định số 04/NĐ/CP, ngày 24-1-2013, “Về thực hiện dân chủ trong
hoạt động cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập”, Nghị
định số 60/NĐ-CP, ngày 19-6-2013, “Quy định chi tiết khoản 3 Điều 63 của Bộ
luật Lao động về thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc” đã góp
phần tích cực vào q trình phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Hiện nay,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội đang tích cực thực
hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội và góp ý xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền trong sạch, vững mạnh. Trước các kỳ họp Quốc hội và hội đồng
nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tập hợp khá đầy đủ các kiến
nghị của các tổ chức thành viên, ý kiến của cử tri cả nước để phản ánh đến Quốc
hội; hội đồng nhân dân các cấp đã thường xuyên giám sát chính quyền trong
việc tiếp thu và giải quyết các kiến nghị chính đáng của đồn viên, hội viên, cử
tri.

2. Những hạn chế, bất cập cần khắc phúc
Bên cạnh những ưu điểm, việc thực hiện phát huy dân chủ cũng còn nhiều hạn
chế, bất cập. Nhận thức về dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
còn hạn chế, chưa đầy đủ và hệ thống, chưa lý giải và làm sáng tỏ kịp thời nhiều
vấn đề do thực tiễn đặt ra, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ

luật, kỷ cương; chưa coi trọng đúng mức phát triển các hình thức dân chủ trực
tiếp. Hiện nay, vẫn có một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức về
dân chủ còn phiến diện, nhất là thực hành dân chủ trong Đảng. Có người cho
rằng dân chủ trong Đảng thì đảng viên được tự do phát ngơn và tuyên truyền
trên các phương tiện thông tin đại chúng quan điểm riêng của mình. Cá biệt, có
người cịn muốn tổ chức đảng chỉ như “câu lạc bộ”, được tranh luận, bàn cãi bất
kỳ vấn đề gì, khơng tơn trọng ngun tắc tập trung dân chủ. Ngược lại, có một
bộ phận đảng viên lại hiểu dân chủ trong Đảng một cách cứng nhắc, coi dân chủ
như là phương tiện để đạt đến sự tập trung, không muốn đảng viên và tổ chức
đảng cấp dưới độc lập suy nghĩ, tìm tịi khoa học, đồng nhất khoa học với chính
trị, đồng nhất ý kiến nghiên cứu, trao đổi với quan điểm, đường lối của Đảng.
Một số người đối lập dân chủ với tập trung, tách rời việc phát huy sáng kiến,


sáng tạo của đảng viên với việc thực hiện kỷ luật, giữ gìn sự đồn kết thống
nhất trong Đảng.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế, để phát huy sáng kiến và tư duy độc lập của cán bộ, đảng
viên cần có quy định về chế độ cung cấp, cập nhật thông tin thường xuyên cho
cán bộ, đảng viên, bảo đảm quyền được thông tin của đảng viên. Là Đảng duy
nhất cầm quyền, một số cán bộ, đảng viên không nhận thức đầy đủ nguyên tắc
tập trung dân chủ đã dẫn đến lạm quyền, bao biện, làm thay, độc đốn, gia
trưởng, làm giảm sút lịng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Đã có
nhiều hình thức, phương pháp tổ chức lấy ý kiến nhân dân, nhất là ý kiến của
đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học khi xây dựng văn bản pháp luật và một số
đề án quan trọng khác, nhưng có một số đề án chưa làm tốt việc đó dẫn đến chất
lượng văn bản pháp luật không cao, chưa được Quốc hội thông qua, như Đề án
xây dựng đường sắt cao tốc Bắc - Nam, ba đặc khu kinh tế... Một số văn bản
pháp luật tạo cơ sở pháp lý phát huy tốt hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân
chưa được xây dựng kịp thời, như Luật Giám sát và phản biện xã hội. Một số

luật đã được ban hành, như Luật Trưng cầu ý dân là văn bản pháp luật quan
trọng để nhân dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình trong việc quyết định những
vấn đề quan trọng của đất nước, tăng cường đoàn kết và đồng thuận xã hội có
hiệu lực từ ngày 1-7-2016, nhưng đến nay vẫn chưa được tổ chức triển khai
thực hiện rộng rãi. Một số cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp tổ
chức thực hiện các văn bản pháp luật chưa tốt, như trên các lĩnh vực quy hoạch,
quản lý quy hoạch, quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản, đền bù, giải phóng
mặt bằng, tổ chức tái định cư...
Việc phát huy dân chủ ngồi xã hội cịn nhiều hạn chế, một bộ phận nhân dân
còn bức xúc, khiếu kiện phức tạp. Số lượng đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công
dân gửi đến các cơ quan chức năng, như Ban Dân nguyện của Quốc hội, Thanh
tra Chính phủ cịn rất cao, nhưng tỷ lệ đơn, thư được giải quyết chưa được như
mong muốn. Theo số liệu của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, tỷ lệ chính quyền
khơng đối thoại với cơng dân và khơng dự các phiên tịa đều tăng qua từng năm.
Từ năm 2015 đến 2017, kể từ khi Luật Tố tụng hành chính có hiệu lực, cả nước
có 11.180 quyết định hành chính và hành vi hành chính bị tịa án hủy tồn bộ
hoặc một phần. Các nghị định và pháp lệnh về thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ
sở tại một số nơi chưa được tổ chức thực hiện tốt. Những hạn chế, bất cập trên
đây có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan
là chủ yếu. Về khách quan: Đổi mới là sự nghiệp to lớn, toàn diện, lâu dài và
khó khăn, phức tạp, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Tình hình thế giới, khu vực và
sự chống phá của các thế lực thù địch tác động khá lớn vào quá trình phát huy
dân chủ. Về chủ quan: Công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về thực
hiện dân chủ trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và ngoài xã hội chưa
được quan tâm đúng mức, chậm được lý giải và thể chế hóa đầy đủ về mặt nhà
nước.


Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” để phát huy tốt
hơn quyền làm chủ của nhân dân. Việc nghiên cứu, dự báo sự biến động về số

lượng, chất lượng, về tư tưởng các giai tầng xã hội để có các chủ trương, đường
lối lãnh đạo phát huy dân chủ sát, đúng, hiệu quả hơn chưa chủ động. Nhận
thức, phương pháp và cách thức chỉ đạo tổ chức thực hiện các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong phát huy quyền
làm chủ về chính trị, kinh tế, xã hội, quyền dân sự còn những mặt hạn chế. Việc
quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý
chủ chốt các cấp về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chưa thường xuyên,
đúng mức nên còn một bộ phận vi phạm Quy chế Dân chủ ở cơ sở, không tôn
trọng quyền làm chủ của nhân dân.
3. Giải pháp về việc thực thi và phát huy dân chủ xã hội ở Việt Nam
Một là, tiếp tục phát huy dân chủ rộng rãi trong Đảng.
Để phát huy dân chủ trong Đảng đòi hỏi các cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất
là người đứng đầu phải quán triệt sâu sắc, nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn
nữa các quan điểm, đường lối của Đảng về phát huy dân chủ; đồng thời, đẩy
mạnh công tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận về phát huy quyền làm
chủ; giải quyết tốt mối quan hệ hữu cơ giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ”; tạo điều kiện cần và đủ để nhân dân làm chủ thực chất, hiệu
quả. Tiếp tục bổ sung các quy chế, quy định về dân chủ để thực hiện thống nhất
trong toàn Đảng. Trước hết, quy định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự
giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định
của mình. Bổ sung quy định về phát huy dân chủ trong công tác cán bộ đi đơi
với kiểm sốt quyền lực trong cơng tác cán bộ. Đảng thống nhất lãnh đạo công
tác cán bộ và quản lý cán bộ. Bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, mọi quyết
định về công tác cán bộ phải được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số.
Công khai, minh bạch về chỉ tiêu, về kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng,
quy hoạch cán bộ, thi nâng ngạch, nâng bậc, xét danh hiệu thi đua, xét nâng
hạng; tiêu chuẩn, điều kiện, số lượng, cơ cấu, quy trình luân chuyển, điều động,
bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử. Thực hiện bỏ phiếu kín đối với những nội
dung cần biểu quyết trong cơng tác cán bộ, có quy chế cạnh tranh lành mạnh
trong công tác cán bộ. Mỗi cán bộ đủ điều kiện, tiêu chuẩn trong diện quy hoạch

đều có cơ hội như nhau để thể hiện phẩm chất, năng lực của mình trong tuyển
dụng, tuyển chọn vào các chức danh lãnh đạo, quản lý. Thực hiện bầu cử có số
dư, bổ nhiệm cán bộ có cạnh tranh, thơng qua thi tuyển hoặc bảo vệ chương
trình hành động. Đi đôi với phát huy dân chủ trong công tác cán bộ phải có quy
định về kiểm sốt, giám sát quan hệ lợi ích trong cơng tác cán bộ để công tác
cán bộ thực sự khách quan, công tâm. Tiếp tục thực hiện tốt chế độ Bộ Chính trị
báo cáo cơng việc và hoạt động của mình trước mỗi kỳ họp của Ban Chấp hành
Trung ương; ban thường vụ báo cáo cơng việc và hoạt động của mình trước mỗi
kỳ họp cấp ủy; cấp ủy báo cáo trước tổ chức đảng hoặc cơ quan bầu ra mình.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả quy định hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn


trong sinh hoạt đảng, đưa hoạt động này thành chế độ nền nếp. Để thực hành
dân chủ trong Đảng đòi hỏi mỗi đảng viên phải thực hiện nghiêm Quy định số
08-Qđi/TW, ngày 25-10-2018, của Bộ Chính trị, “Về trách nhiệm nêu gương
của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư,
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng”. Trong nhiều nội dung về nêu
gương phải coi trọng nêu gương về thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở.
Hai là, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa các quan điểm, đường lối của
Đảng về phát huy dân chủ thành chính sách, pháp luật và tăng cường xây dựng,
củng cố, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Trên cơ sở cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, thể chế hóa Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII “Về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” để thực
hiện đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chính phủ. Bộ máy phải được
tổ chức gọn nhẹ, rõ về chức năng, quyền hạn và trách nhiệm, tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương phải tạo điều kiện để
người dân tiếp cận, dễ đối thoại, dễ kiểm tra, giám sát; huy động được tài năng,
trí tuệ, sáng tạo của người dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Nhà nước

phải bảo đảm và phát huy được quyền làm chủ thực sự của người dân, nhất là
quyền tham gia xây dựng chính quyền, lựa chọn người đại diện cho mình và
quyền sở hữu tài sản hợp pháp. Mở rộng đối thoại giữa Nhà nước với người dân
và doanh nghiệp bằng nhiều hình thức, tăng cường trách nhiệm giải trình và
lắng nghe nhân dân. Tăng cường dân chủ ở cơ sở, mở rộng các hình thức dân
chủ trực tiếp để người dân tham gia công việc của Nhà nước một cách thiết
thực, phù hợp. Các cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp tiếp tục
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm chính sách, pháp luật
được thực thi có hiệu quả. Tập trung chỉ đạo, điều hành thực hiện các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của các tầng lớp nhân dân, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội. Đẩy mạnh
cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân thực hiện các thủ tục
hành chính.
Ba là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội phát huy
vai trị, vị trí của mình theo quy định của Đảng và các văn bản pháp luật để
thực hiện tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội, nhất là những vấn đề liên
quan đến phát huy dân chủ, đến quyền và lợi ích của các thành viên, đồn viên,
hội viên.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội thực hiện quyền
giám sát và phản biện xã hội của mình trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực
phát huy dân chủ; vừa vận động, tập hợp, động viên các tầng lớp nhân dân, các
đoàn viên, hội viên của mình thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
quốc phòng - an ninh, vừa tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền
trong sạch, vững mạnh. Động viên đội ngũ nhân sĩ, trí thức, các chun gia, nhà
khoa học tham gia góp ý xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, các đề án


phát triển kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước. Tập hợp kịp thời các đề xuất,
kiến nghị, nguyện vọng chính đáng của đồn viên, hội viên, của cử tri để phản
ánh cho Đảng, Nhà nước xem xét lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết. Tham gia việc

phát hiện, lựa chọn, giới thiệu những người đủ đức, đủ tài, thật sự xứng đáng
làm đại biểu nhân dân trong Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Dưới sự
lãnh đạo của các cấp ủy đảng, tăng cường chức năng giám sát có trọng tâm,
trọng điểm đối với các cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp
và đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Trong tình hình hiện nay
cần tăng cường giám sát việc lãnh đạo và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở,
việc tổ chức tiếp công dân, đối thoại với công dân và giải quyết đơn, thư khiếu
nại, tố cáo của cơng dân đối với chính quyền các cấp. Tăng cường công tác giáo
dục, nâng cao đạo đức công vụ và tinh thần trách nhiệm của công chức, viên
chức với nhân dân.
Bốn là, phát huy vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy; chính
quyền các cấp và các cơ quan, đơn vị của cả hệ thống chính trị về phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh đẩy mạnh việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, một trong những yếu tố
quyết định đến chất lượng, hiệu quả của việc phát huy dân chủ, chính là vai trị
của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, các cơ quan, đơn vị trong cả hệ thống
chính trị. Ở đâu người đứng đầu có nhận thức sâu sắc, đầy đủ về quyền làm chủ
của nhân dân, về thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở và luôn luôn nêu gương về
đạo đức, lối sống, về thượng tơn pháp luật thì ở đó dân chủ được thực hiện tốt.
Từng đồng chí bí thư cấp ủy từ Trung ương đến cơ sở, lãnh đạo chủ chốt các cơ
quan nhà nước, chính quyền các cấp, các cơ quan, đơn vị phải thật sự phát huy
dân chủ trong Đảng, cơng khai, minh bạch trong điều hành của chính quyền, đề
cao vai trị, tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, chống quan liêu,
cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các hành vi xâm phạm quyền làm chủ của
nhân dân. Trong thực tiễn việc lựa chọn và bố trí người đứng đầu có đức, có tài,
biết vận dụng một cách sáng tạo những thành tựu của khoa học - công nghệ vào
lãnh đạo, quản lý, biết tạo ra mơi trường dân chủ để phát huy trí tuệ, sáng tạo,
đóng góp của đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức là hết sức quan trọng gắn
với kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị. Theo quy định của Đảng, người đứng

đầu các cấp, các ngành phải định kỳ trực tiếp tiếp cơng dân, đối thoại với cơng
dân; có như vậy mới nắm được và đủ thẩm quyền chỉ đạo giải quyết kịp thời
những kiến nghị, đề xuất hợp pháp, chính đáng của nhân dân; đồng thời, chỉ đạo
giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân, khơng để phát sinh các
“điểm nóng”, vụ, việc phức tạp kéo dài.
Năm là, lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan truyền thông làm tốt công tác tuyên
truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước về phát huy dân chủ, tạo sự chuyển biến về nhận thức trong các
tầng lớp nhân dân.


Báo chí và các phương tiện truyền thơng đại chúng giữ vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc phổ biến, truyên truyền sâu rộng các chủ trương, đường lối,
nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhân dân rất quan
tâm đến việc công khai các chế độ, chính sách liên quan trực tiếp đến nhân dân,
như các chính sách an sinh xã hội (việc làm, lao động, tiền lương, trợ cấp, bảo
hiểm...). Chính quyền các cấp phải công khai rộng rãi cho nhân dân biết các đề
án quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch đô thị, kết cấu hạ tầng, quy
hoạch sử dụng đất đai... Cơng khai để nhân dân biết, góp ý và giám sát việc tổ
chức thực hiện khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Các cấp ủy đảng, chính
quyền phát huy vai trị của báo chí, các phương tiện truyền thông đại chúng để
phát động nhân dân đấu tranh mạnh mẽ chống tham nhũng, tiêu cực. Trong điều
kiện Đảng cầm quyền, đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực của những cán
bộ, đảng viên có chức, có quyền mà khơng sử dụng vũ khí cơng luận, khơng
phát huy được vai trị làm chủ của quần chúng thì khó có kết quả, hiệu quả. Từ
đó, đấu tranh thực hiện dân chủ, kịp thời phê phán những biểu hiện cực đoan,
lợi dụng dân chủ để xun tạc, kích động, lơi kéo quần chúng phục vụ cho “lợi
ích nhóm”, lợi ích cá nhân vị kỷ...; đồng thời, phải khắc phục, chấm dứt những
việc làm mang tính dân chủ hình thức trên các lĩnh vực của đời sống xã hội
4. Liên hệ bản than

Là một người dân Việt Nam, là thế hệ đi sau nối bước cha ông , bản than em
đang đứng trong ghế nhà trường và là sinh viên của trường đại học Đại Nam
khoa Xây Dựng- Kiến trúc , em nhận thấy bản than cần phải : học hỏi, tìm hiểu
về dân chủ, đường lối cách mạng Việt Nam, học tập , noi gương theo thế hệ đi
trước . Bên cạnh học tập chúng ta cần phải tuyên truyền tại địa phương, trường
lớp để phát huy nền dân chủ xã hội nước nhà. Bản than em hứa sẽ trở thành 1
cơng dân tốt, có ích cho đất nước

C. Phần kết
Bản chất của một nền dân chủ không phụ thuộc vào việc có một đảng hay nhiều
đảng mà phụ thuộc vào việc đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của ai, quyền
lực nhà nước được sử dụng vào mục đích gì, nhưng nguy cơ độc đốn, chun
quyền của một đảng duy nhất cầm quyền là có thật. Muốn khắc phục nguy cơ
đó thì Đảng phải cầm quyền theo Hiến pháp và pháp luật, phải đẩy mạnh dân


chủ trong Đảng, phải gắn bó thực sự với nhân dân. Khi lợi ích của dân là thước
đo chân lý thì xây dựng và vận hành đầy đủ các thiết chế, thể chế, chế tài đảm
bảo mọi quyền lực thuộc về nhân dân, đảm bảo lợi ích của dân và tạo điều kiện
để mỗi chủ thể phát huy năng lực sáng tạo của mình, chính là sự thực hành dân
chủ, chống quan liêu, tham nhũng một cách thiết thực nhất.



×