Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Khủng hoảng tín dụng thứ cấp ở mỹ và bài học về sự quản trị rủi ro cho hệ thống ngân hàng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (631.03 KB, 55 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2008 là một năm đầy biến động và đáng nhớ đối với kinh tế thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng. Chúng ta đã trải qua năm 2008 với rất nhiều cung bậc
thăng trầm của nền Kinh kế. Hệ thống tài chính ngân hàng của Mỹ cuối năm 2007
và năm 2008 đột nhiên lâm vào một trong những cuộc khủng hoảng chưa từng có,
hàng trăm tỷ USD đã tiêu tan. Sự lây lan vẫn chưa chấm dứt, hậu quả vẫn chưa
lường hết. Trong bối cảnh chung ấy, Việt Nam cũng không nằm ngoài sự tác động
tiêu cực của suy thoái kinh tế toàn cầu. Vì thế, chúng ta cần phải chủ động trước
những diễn biến phức tạp của khủng hoảng tài chính và nguy cơ suy thoái kinh tế
toàn cầu để kịp thời ngăn chặn ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam nói
chung cũng như hệ thống ngân hàng Việt Nam nói riêng.
Trước tình hình đó, đã có rất nhiều nghiên cứu xung quanh sự xuất hiện của cuộc
khủng hoảng này trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Và, đề tài “
Khủng hoảng tín dụng thứ cấp ở Mỹ và bài học về sự quản trị rủi ro cho hệ thống
ngân hàng Việt nam” trở thành tiêu điểm mang tính thời sự được quan tâm hiện nay!
Trang 1
CHƯƠNG I. CUỘC KHỦNG HOẢNG TÍN DỤNG THỨ CẤP Ở MỸ
1.1 Tổng quan về cuộc khủng hoảng Tín Dụng thứ cấp ở Mỹ
1.1.1 Diễn biến và nguyên nhân
1.1.1.1 Những cột mốc chính trong cuộc khủng hoảng
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 tại Mỹ lần này thực chất là biểu hiện rõ
nét nhất của một quá trình “khủng hoảng” rất lâu trước đó. Điểm lại những mốc sự
kiện chính trong chuỗi này để thấy khủng hoảng đã diễn ra như thế nào:
• Năm 2002-2004: Giá cả ở các bang Arizona,California, Florida, Hawaii, và
Nevada tăng trên 25% một năm. Sự bùng nổ nhà đất ở Mỹ bắt đầu.
• Năm 2005: Bong bóng nhà đất ở Mỹ vỡ vào tháng 08/2005. Thị trường bất động
sản tạm gián đoạn trên một vài bang ở Mỹ vào cuối mùa hè năm 2005 khi tỷ lệ lãi
suất tăng từ 1% lên đến 5.35% do có nhiều nhà kinh doanh bất động sản đã đánh giá
thấp thị trường.
• Năm 2006: Thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm. Giá giảm, kinh doanh bất
động sản, dẫn đến một lượng nhà dư thừa đáng kể. Chỉ số Xây dựng Nhà ở tại Mỹ


hồi giữa tháng 08 giảm hơn 40% so với một năm trước đó.
• Năm 2007: Kinh doanh bất động sản tiếp tục thất bại. Số lượng nhà tồn ước tính
cao nhất từ năm 1989. Ngành kinh doanh bất động sản suy giảm với hơn 25 tổ chức
cho vay dưới chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1,3 triệu bất động sản nhà ở bị tịch thu để
thế chấp nợ, tăng 79% từ năm 2006.
Ngày 05/02: Công ty Mortage Lenders Network USA đứng thứ 15 trong số các
nhà cho vay dưới chuẩn nhiều nhất ở Mỹ, với tổng dư nợ 3.3 tỷ đô la thời điểm quý
3 năm 2006, tuyên bố phá sản.
Ngày 02/04: New Century Financial, nhà cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ, tuyên
bố phá sản.
Ngày 19/07: Chỉ số Dow Jones đóng cửa với mức 14.000 điểm, lần đầu tiên
trong lịch sử.
Trang 2
Tháng 8: Khủng hoảng tín dụng toàn cầu, mà chính xác là chứng khoán dựa trên
các khoản nợ thế chấp dưới chuẩn, được phát hiện trong các danh mục vốn đầu tư
và quỹ trên khắp thế giới từ BNP Paribas cho đến Ngân hàng Trung Quốc. Nhiều
nhà cho vay ngừng cho vay tín dụng mua nhà. Cục dữ trữ liên bang đã cho các ngân
hàng vay 100 tỷ đô la với lãi suất thấp.
Ngày 16/08: Tập đoàn tài chính Countrywide, đơn vị cho vay thế chấp lớn nhất
nước Mỹ, đã phải tránh phá sản bằng cách vay khẩn cấp 11 tỷ đô la từ một nhóm các
ngân hàng khác.
Ngày 17/08: Cục dự trữ liên bang đã phải hạ mức hệ số chiếu khấu 50 điểm cơ
bản từ mức 6.25% xuống 5.75% .
Ngày 14/09: Ngân hàng Northern Rock (Anh) đã gặp vấn đề nghiêm trọng về
khả năng thanh khoản liên quan đến khủng hoảng cho vay dưới chuẩn.
Ngày 15–17/10: Liên minh các ngân hàng Mỹ được hỗ trợ bởi chính phủ thông báo
lập một siêu quỹ trị giá 100 tỷ đô la để mua lại các chứng khoán được đảm bảo
bằng tài sản thế chấp mà giá trị thị trường đã bị sụt giảm do khủng hoảng vay dưới
chuẩn
Ngày 31/10: Cục dự trữ liên bang hạ lãi suất quỹ liên bang 25 điểm xuống 4.5%.

Tháng 11: Cục dự trữ liên bang bơm thêm 41 tỷ đô la cho các ngân hàng vay với
lãi suất thấp. Đây là lần xuất tiền lớn nhất của cục dự trữ liên bang kể từ 19 tháng 9
năm 2001 (50.35 tỷ đô la).
• Năm 2008 với những mốc đáng nhớ sau :
Ngày 16/03: Bear Stearns bán lại cho JP Morgan Chase với giá 2 đôla một cổ
phiếu để tránh phá sản. Cục dự trữ liên bang phải cung cấp 30 tỷ đô la để trợ giúp
các khoản lỗ của Bear Stearn.
Ngày 17/07: Các ngân hàng lớn và các tổ chức tài chính trên thế giới đã báo cáo
thua lỗ lên đến 435 tỷ đôla.
Ngày 07/09: Cục dự trữ liên bang dành quyền kiểm soát hai tập đoàn Fannie
Mae và Freddie Mac
Ngày 14/09: Merrill Lynch được bán cho Bank of America với giá 50 tỷ đô la.
Trang 3
Ngày 15/09: Lehman Bothers tuyên bố phá sản. Ngay sau đó, 3 loại chỉ số ở Mỹ
bao gồm chỉ số Dow Jones, NASDAQ và S&P 500 sụt giảm mạnh nhất kể từ sau sự
kiện 11/09/2001.
Ngày 17/09: Cục dự trữ liên bang Mỹ cho AIG vay 85 tỷ đô la để giúp công ty
này tránh phá sản.
Ngày 19/09: Kế hoạch giải cứu tài chính của bộ trưởng tài chính Paulson trị giá
700 tỷ đô la được công bố sau một tuần bất ổn trên thị trường tài chính và nợ tín
dụng. Tuy nhiên, quốc hội Mỹ đã không thông qua bản dự thảo này.
Ngày 26/09: Ngân hàng Washington Mutual – ngân hàng tiết kiệm lớn nhất Mỹ
được chính phủ tiếp quản và sau đó được bán lại cho JP Morgan Chase& Co với giá
1.9 tỷ đôla
Ngày 29/09: Quốc hội Mỹ bác bỏ kế hoạch giải cứu thị trường tài chính Mỹ do
bộ Tài chính Mỹ đề xuất.
Ngày 30/09: Ngân hàng khổng lồ Wachovia của Mỹ, đồng thời là ngân hàng cho
vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ đồng ý bán lại bộ phận ngân hàng bán lẻ cho đối thủ
Citigroup.
1.1.1.2 Nguyên nhân

• Chính sách tiền tệ nới lỏng của Ngân hàng TW Mỹ từ năm 2001
Nguồn gốc sâu xa của khủng hoảng bắt nguồn từ chính sách tiền tệ nới lỏng của
Ngân hàng Trung ương Mỹ từ năm 2001 kèm với chính sách khuyến khích và giúp
đỡ dân chúng được sở hữu bất động sản mà không cần phải có tương đối đủ thu
nhập.
• Sự suy sụp của thị trường bất động sản.
Nguyên nhân trực tiếp và rõ ràng nhất của cuộc khủng hoảng tài chính lần này là
sự suy sụp của thị trường bất động sản.
Do có một sự liên hệ rất chặt chẽ giữa tình hình lãi suất và tình trạng của thị
trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì người ta đổ xô đi mua
nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao, khi lãi suất cao thì thị trường dậm chân, người bán
nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà xuống thấp.
Trang 4
Thị trường lúc nào cũng chịu tác động của quy luật cung cầu. Khi việc mua nhà
không phải vì nhu cầu chỗ ở mà sử dụng nó như một công cụ đầu tư thì chắc chắn
sau một thời gian xây thêm nhà để bán, thị trường sẽ thừa nhà (biểu đồ 1). Trong khi
đó, các ngân hàng của Mỹ vì chạy theo lợi nhuận đã cho vay mua nhà ngay cả với
những người có tiền sử tín dụng xấu để hưởng những khoản lãi suất cao.
Biểu đồ 1 dưới đây cho thấy lượng cung nhà ở Mỹ tăng vọt bắt đầu từ nửa cuối năm
2005 như là kết quả của quá trình cho vay mua nhà quá phóng khoáng của các ngân
hàng Mỹ.
Biểu đồ 1: Lượng cung nhà ở Mỹ giai đoạn 2000-2007
Nguồn:
Khi thị trường đĩa ốc Mỹ lại rơi vào thời kỳ đóng băng, người vay tiền để mua
nhà bán kiếm lời lại không thể bán được nhà (biểu đồ 2), trong khi nhu cầu nhà ở lại
giảm mạnh (biểu đồ 3), cứ như thế món nợ vay mua nhà bỗng tăng vọt. Đến lúc này
các ngân hàng bắt đầu nhận thấy nợ xấu, nợ khó đòi tăng vọt. Số lượng nợ xấu và
khách hàng vỡ nợ cứ thế tăng, đẩy các tổ chức cho vay vào cảnh thua lỗ đáng sợ.
Trang 5
Biểu đồ 2: Doanh số bán nhà ở Mỹ giai đoạn 1995-2007

Nguồn:
Biểu đồ 3: Nhu cầu nhà ở Mỹ giai đoạn 1995-2007
Nguồn:
Có ba yếu tố chính đã khởi tạo nên bong bóng trong thị trường bất động sản:
Thứ nhất, bắt đầu từ năm 2001, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ, Cục Dự trữ
liên bang Mỹ (Fed) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các ngân hàng cũng hạ
lãi suất cho vay tiền mua bất động sản. Vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của
Fed là trên 6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục được cắt giảm, cho đến giữa năm
2003 thì chỉ còn 1%.
Trang 6
Biểu đồ 4: Lãi suất USD của FED (Fed Fund Rate)
Nguồn : www.Federalreserve.org.gov
Thứ nhì, về phương diện sở hữu nhà cửa, chính sách chung của chính phủ lúc
bấy giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo và các nhóm dân da màu
được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn được thực hiện thông qua
hai công ty được bảo trợ bởi chính phủ là Fannie Mae và Freddie Mac.
Hai công ty này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản bằng cách mua lại các
khoản cho vay của các ngân hàng thương mại, biến chúng thành các loại chứng từ
được bảo đảm bằng các khoản vay thế chấp (mortgage-backed securities - MBS), rồi
bán lại cho các nhà đầu tư ở Phố Wall, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư khổng lồ
như Bear Stearns và Merrill Lynch.
Biểu đồ 5: Chứng khoán hoá tài sản cho vay thế chấp ở Mỹ ( 1975 – 2007)
Nguồn: www.cuna.org
Trang 7
Thứ ba, như đã trình bày ở trên, bởi vì có sự biến đổi các khoản cho vay thành
các công cụ đầu tư cho nên thị trường tín dụng để phục vụ cho thị trường bất động
sản không còn là sân chơi duy nhất của các ngân hàng thương mại hoặc các công ty
chuyên cho vay thế chấp bất động sản nữa. Nó đã trở nên một sân chơi mới cho các
nhà đầu tư, có khả năng huy động dòng vốn từ khắp nơi đổ vào, kể cả dòng vốn
ngoại quốc.

Nguyên nhân cơ bản của sự lây lan khủng hỏang nhà đất tại Mỹ ra toàn thế giới
là do các ngân hàng đã chứng khóan hóa cho vay các khỏan thế chấp. Việc hình
thành, mua bán, và bảo hiểm MBS là vô cùng phức tạp cho nên nó diễn ra gần như
là ngoài tầm kiểm soát thông thường của chính phủ. Bởi vì thiếu sự kiểm soát cần
thiết cho nên lòng tham và tính mạo hiểm đã trở nên phổ biến ở các nhà đầu tư. Bên
cạnh đó, bởi vì có thể bán lại phần lớn các khoản vay để các công ty khác biến
chúng thành MBS, các ngân hàng thương mại đã trở nên mạo hiểm hơn trong việc
cho vay, bất chấp khả năng trả nợ của người vay.
Quy trình chứng hóa các khoản vay thế chấp
Với ba lý do trên, thị trường bất động sản trở nên rất nhộn nhịp, có rất nhiều
người thu nhập thấp hoặc không có tín dụng tốt nhưng vẫn đổ xô đi mua nhà. Để có
thể được vay, nhóm người này thường phải trả lãi suất cao hơn và thường được cho
mượn dưới hình thức lãi suất điều chỉnh theo thời gian (ví dụ, nếu thỏa thuận là
được vay với lãi suất 6% và điều chỉnh sau 3 năm thì đúng ba năm sau lãi suất mới
Trang 8
Ngân hàng
cho vay
Công ty
môi giới
Tổ chức phát hành
chứng khoán
T/c định
mức tín
nhiệm
T/c bảo
lãnh
phát
hành
Nhà đầu tư
trên thị trường

Người vay
sẽ được ấn định theo thời điểm đó). Tóm lại, nhóm người này thuộc vào thành phần
được cho vay với loại lãi suất dưới chuẩn .
1.1.2 Tổng quan về tình hình khủng hoảng tín dụng thứ cấp ở Mỹ
Những yếu kém của nền kinh tế Mỹ đã bộc lộ rõ từ trước năm 2000 nhưng đến
nay mới bùng nổ. Thâm hụt cán cân thanh toán đã lên tới trên 400 tỷ USD từ năm
2000 chiếm trên 4% GDP và tiếp tục tăng lên mức 811 tỷ USD năm 2006, chiếm 6%
GDP. Tiết kiệm của dân chúng Mỹ vào năm 2006 chỉ đạt 34 tỷ USD, gần như
0%/GDP, tỷ lệ tiết kiệm bình quân thấp khoảng 1-2%/ GDP đã kéo dài hàng chục
năm trở lại đây. Đầu tư của Mỹ bằng 19% GDP chủ yếu dựa vào lợi nhuận công ty
nhưng 30% số tiền đầu tư là do vay mượn nước ngoài.
Ngày 27/2, số liệu được điều chỉnh lại của Bộ Thương mại Mỹ cho thấy, GDP
của nước này đã tăng trưởng âm 6,2% trong quý 4/2008. Đây là mức sụt giảm mạnh
nhất của kinh tế Mỹ kể từ năm 1982. Như vậy, GDP năm 2008 của Mỹ chỉ tăng
1,1% - mức thấp nhất kể từ năm 2001.
Theo số liệu của Cục Phân tích kinh tế (Bộ Thương mại Mỹ), trong quý 1/2008,
GDP của Mỹ đã tăng trưởng 0,9%, sau đó tăng mạnh lên 2,8% vào quý 2. Tuy
nhiên, trước những khó khăn của nền kinh tế và cuộc khủng hoảng tài chính lan
rộng, GDP của Mỹ đã tăng trưởng âm 0,5% trong quý 3/2008.Với mức tăng trưởng
âm trong quý 3 và quý 4/2008, kinh tế Mỹ đã chính thức rơi vào suy thoái và đây
cũng là lần đầu GDP của nước này tăng trưởng âm trong hai quý liên tiếp kể từ lần
suy giảm trong quý 4/1990 và quý 1/1991.
Biểu đồ 6: Tăng trửởng GDP của Mỹ từ năm 2000- 2008(%)
Nguồn: Cục phân tích kinh tế ( Bộ Thương mại Mỹ)
Trang 9
Từ cuối năm 2007, đầu năm 2008, sự khủng hoảng của nền kinh tế Mỹ bắt đầu lộ
rõ. Gía bán sỉ hàng hoá tiêu dùng tại Mỹ tăng với tốc độ cao nhất trong vòng 25 năm
qua. Gía dầu tăng 17% và tài sản không ngừng bị mất giá, giá bất động sản suy giảm
mạnh sau 6 năm liên tục tăng. Tình trạng thắt chặt tín dụng đang diễn ra trên toàn
nước Mỹ do các tập đoàn tài chính thua lỗ chồng chất, giá dầu tăng kỷ lục. Chỉ số

lòng tin của người tiêu dùng Mỹ giảm xuống thấp nhất trong vòng mấy chục năm
qua. Theo số liệu thồng kê về nền kinh tế Mỹ được đăng trên thời báo kinh tế Mỹ,
chỉ số lòng tin của người tiêu dùng Mỹ trong tháng 3 là 69,5% ,giảm xuống 57,2%
trong tháng 5/2008 và hiện nay hiện nay đã gần chạm mức thấp kỷ lục 51,7% của
thời điểm tháng 5/1980.
Bảng 1: Chỉ số kinh tế Mỹ từ cuối 2007 đến đầu năm 2008
Chỉ tiêu 11-2007 12-2007 01-2008 02-2008 03-2008 04-2008
Tỷ lệ thất nghiệp(%) 4,7 5,0 4,9 4,8 5,1 5,0
Sự thay đổi số tiền
chi trả cho nhân viên
60 41 -76 -83 -81 -20
Thu nhập trung bình
1 giờ(USD)
17,64 17,7 17,75 17,81 17,87 17,88
Chỉ số giá tiêu dùng 0,9 0,4 0,4 0,0 0,3 0,2
Chỉ số giá sản xuất 2,6 -0,5 1,1 0,3 1,1 0,2
Chỉ số giá nhập khẩu 3,2 0,2 1,5 0,2 2,9 1,8
Chỉ số chi phí tuyển
dụng
0,8 0,7
Nguồn: CNBC, Thomson Reuters, Bloomberg
1.1.2.1 Thị trường chứng khoán
Trang 10
Thị trường chứng khoán Mỹ sụt giảm khá lớn. Bước vào đầu năm 2008, chỉ số S&P
500 sụt 44,18 điểm, chỉ số DowJones hạ 370,03 điểm, chỉ số Nasdaq giảm 73,28
điểm. Gần như tất cả các mã chứng khoán trên sàn giao dịch chứng khoán NewYork
đều sụt giảm.
Biểu đồ 7: Mức độ sụt giảm của của một số chỉ số chứng khoán Châu Âu 2008
Nguồn: CNBC, Thomson Reuters, Bloomberg
Bong bóng thị trường chứng khoán đã tự giải quyết bằng cách xuồng giá. Đến

nay thị trường chứng khoán và bất động sản đang dần trở về giá trị thực của nó sau
nhiều năm tăng trưởng nóng.
1.1.2.2 Thị trường bất động sản
Trong 5 năm 2001-2006, giá nhà trên toàn nước Mỹ tăng kỷ lục. Tuy nhiên, thị
trường nhà đất Mỹ thời gian gần đây trở nên ngày càng tồi tệ. Số lượng nhà bị tịch
thu do chủ nhà không còn khả năng trả nợ trong tháng 1 năm 2008 tăng tới 57%.
Cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan rộng đến khu vực đầu tư địa ốc văn phòng. Do sự
phát triển không kiểm soát của thị trường cho vay địa ốc dưới chuẩn. Cho vay tiêu
dùng qua thẻ tín dụng quá mức mà CityGroup là nạn nhân đầu tiên lỗ 18 tỷ USD.
Biểu đồ 8: Chỉ số nhà tại Mỹ từ 1988-2008
Trang 11
Nguồn: bloomberg, Reuters
1.1.2.3 Hoạt động của các doanh nghiệp
Cuộc khủng hoảng ảnh hưởng nặng nề đến các tổ chức tín dụng, làm cho giá trị thị
trường của hàng loạt các tập đoàn tài chính lớn bị co lại.
Biểu đồ 9: Giá trị thị trường của các NH Châu Âu năm 06/2007 và 11/2008
Nguồn: Bloomberg
Trang 12
Số lượng doanh nghiệp tuyên bố phá sản trong tháng 4/2008 cao nhất từ khi luật
phá sản Mỹ bắt đầu có hiệu lực (năm 2005). Tính đến tháng 4/2008 có hơn 5000
công ty phá sản.
Trong số khoảng 8.500 ngân hàng ở Mỹ được Công ty bảo hiểm tiền gửi liên
bang (FDIC) bảo hiểm, ở thời điểm cuối quý 2 năm 2008, có 117 ngân hàng bị liệt
vào danh sách có nguy cơ phá sản, cao nhất trong vòng 5 năm qua. Tính đến tháng
đầu tháng 5/2009 có 33 ngân hàng đã phá sản, nổi bật trong số đó là sự đổ vỡ của
các đại gia tài chính lớn như Bear Stearns, Lehman Brothers, Fannie Mae & Feddie
Mac, Merrill Lynch & Co, Golman Sachs, wachovia. ( xem phụ lục I)
Tình trạng phá sản của các doanh nghiệp Mỹ cho thấy những vấn đề liên quan
đến lĩnh vực thế chấp dưới chuẩn và công cụ tài chính trên phố Wall.
Bảng 2: Danh sách các tổ chức tài chính bị phá sản hoặc phải sáp nhập trong

cuộc khủng hoảng Mỹ 2008
Tên Quy mô Thiệt hại Giải pháp

1
Lehman
Brothers
Tổng tài sản: 639 tỷ
đôla
Tổng vốn góp cổ
phần: $22490 tỷ đôla
Số lượng nhân viên:
26200 người
Là một trong 4 ngân
hàng đầu tư lớn nhất
của Hoa Kỳ
Nợ ngân hàng:
613 tỷ đôla
Nợ trái phiếu:
155 tỷ đôla
Cổ phiếu mất giá
trên 90% vào
ngày 15/09/2008
15/09/2008: nộp đơn
phá sản theo chương 1
Luật Phá sản Mỹ
Là vụ phá sản lớn nhất
trong lịch sử Hoa Kỳ
2 Merrill Lynch Tổng tài sản: 1,02
nghìn tỷ đôla
Số lượng nhân viên:

60.000 người
Xếp thứ 32 trong
danh sách Global
Thua lỗ quý
IV/2007: 9,83 tỷ
đô
Thua lỗ ròng quý
I/2008: 1,97 tỷ
đôla
Bán cho ngân hàng Mỹ
(BoA) với giá 50 tỷ
đôla
Trang 13
2000 (các công ty
lớn nhất thế giới)
mất giá tài sản
(2007): 16,7 tỷ
đôla
3 AIG
Tổng tài sản: 1,05
nghìn tỷ đôla
Tổng vốn góp ổ
phần 78,09 tỷ đôla
Số lượng nhân viên:
116.000 người
Xếp thứ 6 trong danh
sách Global 2000
(các công ty lớn nhất
thế giới)
Cổ phiếu mất giá

60% vào ngày
16/09/2008
Thua lỗ 6 tháng
đầu năm 2008:
13,2 tỷ đôla
16/09/2008: Cục Dự trữ
Liên bang Mỹ (FED)
cấp tín dụng 80 tỷ tương
đương 79,9 % cổ phần
4
Countrywide
Financial
Tổng tài sản: 211 tỷ
đôla
Là tập đoàn chiếm
20% tổng thế chấp
của Mỹ, tương
đương 3,5 GDP
Tổ chức tiết kiệm và
cho vay lớn thứ 3,
đồng thời là ngân
hàng có tốc độ phát
triển nhanh nhất
trong lịch sử nước
Mỹ
Thua lỗ (2007):
2,5 tỷ đôla
Mất giá tài sản
(2007): 1 tỷ đôla
01/07/2008: Bán cho

ngân hàng Mỹ ( BOA)
với giá 4,1 tỷ đôla
5 Bear Stearns Tổng tài sản: 350,4
tỷ đôla
Tổng vốn góp cổ
phần: 66,7 tỷ đôla
Số lượng nhân viên:
Thiệt hại quý
IV/2007: 859
triệu đôla
Mất giá tài sản
(2007): 1,9 tỷ
30/05/2008: Bán cho JP
Morgan Chase với giá
1,1 tỷ đôla
Trang 14
15.500 người
Là công ty chứng
khoán lớn thứ 7 thế
giới
đôla
6 IndyMac
Tổng tài sản: 32 tỷ
đô
Là tổ chức cho vay
và gửi tiết kiệm lớn
nhất ở Los Angeles.
Đồng thời là tổ chức
thế chấp lớn thứ 7 ở
Hoa Kỳ

Tiền gửi khách
hàng: 19 tỷ đô
Chi phí 8,9 tỷ
đôla cho bảo
hiểm tiền gửi
Chi phí 541 triệu
đô cho các khoản
tiền gửi vượt
mức bảo hiểm
11/07/2008: Tập đoàn
Bảo hiểm Tiền gửi Liên
bang Mỹ FDIC tiếp
quản
7 Freddie Mac
Tổng tài sản: 794,4
tỷ đôla
Tổng vốn góp cổ
phần: 26,7 tỷ đôla
Số lượng nhân viên:
5.281 ngườich
Là công ty công lớn
thứ 20 trên thế giới
là công ty tài chính
lớn thứ 2 về thế chấp
tại Mỹ
Thua lỗ (2007):
4,6 tỷ đôla
Thua lỗ quý
II/2008: 821
triệu đôla

07/09/2008: FED kí hợp
đồng bỏ ra 1 tỷ đô hỗ
trợ cho Freddie Mac,
đổi lại giành quyền
kiểm soát các cổ phiếu
ưu đãi đặc biệt của công
ty này.
8 Fannie Mae Tổng tài sản: 882,5
tỷ đôla
Tổng vốn góp cổ
phần: 44 tỷ đôla
Là tổ chức hàng đầu
trong thị trường thế
chấp dưới chuẩn của
Thua lỗ (2007):
2 tỷ đôla
Thua lỗ quý
II/2008: 2,3 tỷ
đôla
07/09/2008: cùng với
Freddie Mac bị FED
tiếp quản
Trang 15
Mỹ
9
New Century
Financial
Corp
Tổng thu nhập (năm
2006): 417 triệu đôla

Giá bán trên thị
trường: 1,75 tỷ đôla
Số lượng ngân viên:
7.200 người
Là tập đoàn cho vay
dưới chuẩn lớn nhất
của Mỹ
Cổ phiếu mất
90% giá trị
(tháng 03/2007)
Giá trị thị trường
giảm xuống còn
55 triệu đôla
Nộp đơn phá sản theo
chương 11 Luật Phá sản
Mỹ
10 Ameri Bank
Tổng tài sản: 115
triệu đôla
Tiền gửi khách
hàng: 102 triệu
đôla
Chi phí 42 triệu
đôla cho quỹ bảo
hiểm tiền gửi
19/09/2008: Tập đoàn
Bảo hiểm Tiền gửi Liên
Bang Mỹ FDIC tiếp
quản
11

Washington
Mututal Inc
Tổng tài sản: 307 tỷ
đôla
Washington Mutual
là ngân hàng tiết
kiệm lớn nhất Mỹ
Thua lỗ 53 tỷ
đôla để từ tháng
6 và 17 tỷ đôla
trong 2 tuần gần
đây
26/09/2008: Chính phủ
tiếp quản và sau đó bán
lại cho JP Morgan
Chase & Co với giá 1,9
tỷ đôla
12 Wachovia
Là ngân hàng lớn
thứ 6 ở Mỹ
Tổng tài sản: 327,9
tỷ đôla
Giá cổ phiếu của
Wachovia đã sụt
giảm tới 81,6%,
còn 1,84 USD/
cổ phiếu
Thua lỗ 9,7 tỷ
đôla trong nửa
đầu năm nay

30/09/2008: bị bán lại
hco CitiGroup với giá
2,16 tỷ đôla
Trang 16
2 Thị trường lao động
Theo số liệu của Bộ lao động Mỹ trong tháng 3 có khoảng 80.000 người mất
việc, con số cao nhất trong vòng 5 năm trở lại đây. Tỷ lệ thất nghiệp đã lên mức
5,1% trong tháng 3 và tháng 4 năm 2008. Đến cuối năm 2008, Tỷ lệ thất nghiệp Mỹ
hiện đã lên mức 8,9%, con số cao nhất trong vòng 16 năm. Nước Mỹ đã đến lúc đối
mặt với sự thật nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng.
Biểu đồ 10: Tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ qua các năm
Source: US Department of Labor
1.2 Các ngân hàng Mỹ đối phó trước khủng hoảng
Sau hàng loạt vụ đổ vỡ của các đại gia tài chính lớn như Freddie Mac và Fannie
Mae hay Lehman Brother rồi cả AIG, hệ thống ngân hàng Mỹ vốn được hình thành
từ sau sự sụp đổ của hệ thống Bretton Wood trở nên dễ vỡ hơn bao giờ hết. Người ta
không chỉ hoài nghi vào khả năng kinh doanh lời, lỗ của các ngân hàng trong thời
khắc khó khăn khủng hoảng này, mà hơn thế người ta còn hoài nghi cả về sự tồn tại
của các quy định trong hệ thống. Chính vì thế nên việc cứu đỡ ngành tài chính ngân
hàng đang trong cơ suy sụp này không thể chỉ dựa vào những khoảng viện trợ cả gói
lên tới cả nghìn tỷ USD của Chính Phủ mà quan trọng hơn nữa, đó là phải tìm
những giải pháp từ chính ngân hàng, những cải tổ mà người gửi, khách hàng nhìn
vào đó thấy sự minh bạch và thấy yên tâm cho đồng vốn của mình.
Hiện nay các ngân hàng Mỹ đã rất thận trọng và dè dặt trong việc mua bán các
chứng khoán phái sinh có nguồn gốc từ bất động sản.
1.2.1 Khả năng thanh khoản
Trang 17
Theo số liệu của FED công bố ngày 18/12/2008, lượng thanh khoản dự trữ vượt
mức cần thiết trong các tổ chức nhận gửi tiết kiệm ở Mỹ đã tăng từ mức dưới 2 tỷ
USD trong tháng 8 lên mức kỷ lục 774 tỷ USD vào giữa tháng 12. Mặc dù vậy, các

ngân hàng của nước này đã không tận dụng nguồn tiền thừa này để tăng cường hoạt
động cho vay.
Các ngân hàng Mỹ hiện nay không có động lực để cho vay với lãi suất thấp, khi
mà bảo toàn vốn vẫn là ưu tiên hàng đầu của họ. Dù đưa lãi suất USD về 0 - 0,25%,
FED vẫn không thể đảm bảo rằng, các ngân hàng sẽ cho doanh nghiệp vay.
Vì nước Mỹ đang đối mặt một cuộc khủng hoảng niềm tin, thay vì khủng hoảng
thanh khoản. Với lượng tiền dự trữ dư thừa khổng lồ như trên, rõ ràng, lý do khiến
các ngân hàng ngại cho vay không phải vì họ không có tiền cho vay. Điều mà các
ngân hàng lo ngại ở đây là đối tượng vay tiền của họ, trong đó bao gồm cả các ngân
hàng khác, sẽ không trả nợ.
Lượng dư thừa thanh khoản trong các tổ chức tín dụng như đã nêu trên là bằng
chứng cho thấy, năng lực cho vay của các ngân hàng còn ở mức cách xa so với
lượng cung tiền
1.2.2 Tái cấu trúc
Sau khi tuyên bố cho phép tái cơ cấu được đưa ra, giới đầu tư tài chính Mỹ cũng
như thế giới hiểu rằng lượng tiền 700 tỷ USD trong chương trình cứu nguy hệ thống
tài chính được công bố xem ra vẫn chưa đủ mạnh, nên chính phủ phải tìm cả giải
pháp từ chính ngân hàng.
Việc chuyển đổi từ ngân hàng đầu tư sang mô hình ngân hàng thương mại, trước
mắt sẽ giúp các ngân hàng Mỹ huy động được nguồn vốn qua đó giải quyết phần
nào những khó khăn trước mắt. Một sô ngân hàng đã tiến hành tái cơ cấu như là
Goldman sachs, Morgan Stanley, Citigroup.
 Goldman Sachs và Morgan Stanley
Quyết định của Goldman Sachs và Morgan Stanley nộp đơn lên Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ (FED) xin chuyển đổi mô hình là diễn biến đầy kịch tính của một trong
những giai đoạn biến động nhất trong lịch sử Phố Wall. Có lẽ sự thay đổi này là lần
tái cấu trúc lớn nhất trong lịch sử trên Phố Wall kể từ Đại khủng hoảng 1929 tới
nay, làm thay đổi cơ bản bộ mặt của trung tâm tài chính.
Trang 18
Tháng 9/2008 FED đã cho phép hai ngân hàng đầu tư Goldman Sachs và

Morgan Stanley chuyển đổi sang mô hình ngân hàng tổng hợp (bank holding
company). Sự chuyển đổi này sẽ cho phép Goldman Sachs và Morgan Stanley thành
lập các chi nhánh là ngân hàng thương mại để thu hút tiền gửi tiết kiệm của khách
hàng.
Việc chuyển đổi từ ngân hàng đầu tư sang mô hình ngân hàng thương mại, trước
mắt sẽ giúp các ngân hàng Mỹ huy động được nguồn vốn qua đó giải quyết phần
nào những khó khăn trước mắt.
Sau vụ Bear Stearns bị bán lại cho JP Morgan Chase hồi tháng 03/2008, FED đã
mở rộng chương trình cho vay khẩn cấp cho các ngân hàng thương mại sang cho cả
các ngân hàng đầu tư, tuy nhiên chỉ là sự mở rộng tạm thời. Nhưng với mô hình hoạt
động mới, Goldman Sachs và Morgan Stanley sẽ có quyền tiếp cận vĩnh viễn với
các khoản vay khẩn cấp này.
Ngoài ra, với việc chuyển đổi mô hình này, Goldman Sachs và Morgan Stanley
có thể tiến hành mua lại các ngân hàng thương mại phá sản với số lượng đang tăng
mạnh ở Mỹ. Trước đây, theo quy định pháp luật, nếu là ngân hàng đầu tư thì
Goldman Sachs và Morgan Stanley không thể tiến hành những vụ mua lại như vậy.
 Citigroup
Tháng 02/2009 Citigroup đã được tổ chức lại bao gồm hai bộ phận là Citicorp và
Citigroup Holdings. Cấu trúc này sẽ giúp Citigroup tập trung thúc đẩy việc thực hiện
các hoạt động kinh doanh chủ chốt.
Citigroup Holdings bao gồm các mảng môi giới và quản lý tài sản, tài chính tiêu
dùng địa phương và một quỹ tài sản đặc biệt. Citigroup Holdings sẽ được quản lý
chặt chẽ nhằm phòng ngừa rủi ro và thiệt hại, qua đó nâng cao giá trị của các tài sản
này.
Việc tái cơ cấu này không gây ảnh hưởng đến khách hàng, họ vẫn tiếp tục sử
dụng dịch vụ và giao dịch với chất lượng cao.
Việc tổ chức lại các mảng hoạt động kinh doanh này sẽ cho phép citigroup tập
trung hơn nữa vào những hoạt động kinh doanh chủ chốt, nhằm đơn giản hóa bộ
máy và có thể phục vụ khách hàng tốt hơn trong cả hai bộ phận kinh doanh. Đồng
thời cũng tập trung đặc biệt vào việc quản lý, bán bớt, ngừng các tài sản hoặc ngừng

Trang 19
kinh doanh không nằm trong chiến lược chủ chốt của Citigroup. Cơ cấu mới được
tạo ra để nhanh chóng biến đổi Citigroup thành một công ty có lợi nhuận cao hơn,
rủi ro thấp hơn và tăng trưởng cao hơn nhiều so với trước đây.
1.2.3 Phòng ngừa rủi ro lãi suất
Bắt đầu xuất hiện tại các thị trường phát triển từ những năm 80 của thế kỷ trước,
hiện các công cụ tài chính phái sinh đã được các ngân hàng thương mại trên thế giới
sử dụng rộng rãi như những công cụ bảo hiểm rủi ro cho khách hàng.
Sau đợt biến động mạnh của thị trường tiền tệ trong thời gian qua, các ngân hàng
Mỹ đã đặc biệt quan tâm hơn đến các công cụ phòng ngừa rủi ro lãi suất để nhằm
hạn chế và phòng ngừa rủi ro khi lãi suất thị trường biến động.
Để phòng ngừa rủi ro lãi suất và tránh được những biến động trên thị trường tiền
tệ, hiện nay các ngân hàng Mỹ sử dụng các công cụ phái sinh như là giao dịch kỳ
hạn (Forward), giao dịch quyền chọn (Options) và giao dịch tương lai (Futures), đặc
biệt là giao dịch hoán đổi lãi suất (IR Swaps), sử dụng giao dịch hoán đổi này có thể
tránh được thiệt hại không nhỏ với những biến động khó lường của thị trường tiền
tệ.
1.2.4 Thắt chặt Tín Dụng
Mặc dù đã nhận được viện trợ của chính phủ, nhưng các ngân hàng Mỹ vẫn nâng
cao tiêu chuẩn cho vay, tiếp tục thu hẹp các hoạt động tín dụng, thực hiện chính sách
thắt chặt tín dụng đối với thẻ tín dụng, cho vay tiêu dùng và thế chấp mua nhà
Bất chấp nỗ lực của chính phủ trong việc bơm 250 tỉ USD và giảm lãi suất cho
các ngân hàng để đẩy mạnh hoạt động cho vay, các nhà băng vẫn tỏ ra rất dè dặt và
có tư tưởng giữ chặt hầu bao. 65% ngân hàng trong nước vẫn chặt chẽ trong việc thi
hành triển khai các lĩnh vực kinh doanh và các tiêu chuẩn cho vay, 80% ngân hàng
nội địa giám sát kỹ càng hoạt động cho vay thương mại bất động sản.
Hiện vẫn chưa có ngân hành nào nới lỏng tiêu chuẩn cho vay thế chấp.
Việc thắt chặt tín dụng này chủ yếu là do các ngân hàng lo lắng về viễn cảnh không
tươi sáng của nền kinh tế. Đồng thời, chịu ảnh hưởng xấu từ cuộc khủng hoảng tín
dụng của kinh tế, các ngân hàng rất mẫn cảm với các vấn đề mà các doanh nghiệp

có thể gặp phải.
Trang 20
1.2.5 Các hoạt động khác
Để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính tín dụng, nhiều tập đoàn tài chính dã
phải cắt bỏ nhiều bộ phận, cắt giảm nhân viên, bán cổ phần…để tồn tại.
Tháng 1/2009 Citigroup đã cắt bỏ nhiều bộ phận, Citigroup đã và có thể tiếp tục
bán lại một số bộ phận quan trọng trong tập đoàn để vượt qua giai đoạn khó khăn
hiện nay.
Ngày 13/1/2009, Tập đoàn dịch vụ tài chính khổng lồ của Mỹ Citigroup Inc đã
ký thỏa thuận bán lại 51% cổ phần của bộ phận môi giới mang tên Smith Barney
cho Morgan Stanley với giá 2,7 tỷ USD. Tháng 2/2009, tập đoàn này thông báo kế
hoạch bán 17% cổ phần trong công ty thẻ tín dụng Redecard của Braxin, nhằm thu
về khoản tiền trị giá 1,27 tỷ USD để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính-tín
dụng.
Ngoài ra, ngày 17/11/2008 Citigroup tuyên bố cắt giảm 52.000 việc làm trên
toàn cầu, tương đương với 15% lực lượng lao động của tập đoàn này đồng thời giảm
chi tiêu để tiết kiệm tiền mặt với hy vọng sống sót được qua đợt khủng hoảng sâu
rộng lần này.
Ngày 26/2, tập đoàn ngân hàng khổng lồ của Mỹ JPMorgan Chase cho biết cắt
giảm 12.000 việc làm, như một phần của kế hoạch tiết kiệm khoảng 2 tỷ USD, trong
đó có 1,35 tỷ USD chi phí nhân công vào cuối năm 2009, đồng thời là một phần của
kế hoạch thâu tóm ngân hàng Washington Mutual Bank.
CHƯƠNG II. TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÍN DỤNG
THỨ CẤP Ở MỸ
2.1 Tác động của cuộc khủng hoảng tín dụng thứ cấp ở Mỹ đến Châu Á
2.1.1 Tác động của khủng hoảng Mỹ đến Châu Á
Mỹ là nền kinh tế lớn nhất thế giới, chiếm tới 25% GDP của toàn thế giới và giữ
vai trò quan trọng trong các giao dịch tài chính quốc tế. Hoạt động của các công ty
đa quốc gia Mỹ lan rộng đến tất cả các châu lục nên cuộc khủng hoảng ở Mỹ chắc
chắn sẽ tác động đến kinh tế thế giới, kể cả Châu Á.

Trang 21
Tuy nhiên tác động này có lẽ không quá trầm trọng. Hơn nữa, từ cái nhìn trung
và dài hạn về kinh tế Mỹ tương đối lạc quan nên Châu Á cũng chỉ bị ảnh hưởng
trong thời gian 1-2 năm trước mắt. Mặt khác, với lượng dự trữ ngoại tệ rất lớn, nhiều
nước châu Á sẽ có tiếng nói mạnh hơn trong quan hệ với Mỹ và trong các diễn đàn
quốc tế bàn về ổn định kinh tế thế giới.
2.1.1.1 Thị trường tài chính
Trước hết, châu Á chịu ảnh hưởng lớn nhất có lẽ là thị trường chứng khoán.
Chứng khoán ở Mỹ tụt dốc gây nên tâm lý bất an giữa những nhà đầu tư tại Châu Á
và thị trường chứng khoán của những nước này cũng suy sụp theo.
Biểu đồ 11: Mức độ sụt giảm của một số chỉ số chứng khoán Châu Á 2008
Nguồn : Bloomberg, BVSC
Tuy nhiên tác động này chỉ mạnh trong các nền kinh tế tiên tiến, thị trường
chứng khoán đã phát triển đáng kể như Nhật, Hàn Quốc và Đài Loan. Một số ngân
hàng, một số các công ty chứng khoán, bảo hiểm ở các nước châu Á đang nắm giữ
những chứng khoán do Fannie Mae và Freddie Mac phát hành nên phải chịu tổn thất
trong cuộc khủng hoảng ở Mỹ. AIG cũng là công ty hoạt động toàn cầu, có mặt tại
các thị trường lớn ở châu Á nên cũng gây những ảnh hưởng tương tự ở nhiều mức
độ khác nhau đến các ngân hàng hoặc công ty tài chính châu Á. Nhưng ảnh hưởng
này chỉ giới hạn trong một số công ty, một số ngân hàng chứ không lớn đến nỗi ảnh
hưởng tới cả nền kinh tế các nước châu Á, nhất là những nước chưa phát triển ở
trình độ cao.
Trang 22
Theo tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đối với các ngân hàng châu Á
không lớn như với các ngân hàng Mỹ và châu Âu. Châu Á chỉ bị ảnh hưởng tương
đối bởi các ngân hàng châu Á không có nhiều khoản nợ nguy hiểm với các tập đoàn
tài chính Mỹ, đồng thời thị trường tài chính châu Á chưa có mức độ toàn cầu hóa
như châu Âu, nên những khoản thế chấp tại thị trường Mỹ rất nhỏ. Mặc dù vậy,vẫn
không thể phủ nhận tác động của cuộc khủng hoảng từ Mỹ tới các nền kinh tế khác
và chúng ta không được chủ quan trước diễn biến của nó. Song châu Á vẫn là khu

vực tăng trưởng nhanh nhất của thế giới, đặc biệt là thương mại. Lúc này, phải phát
huy thương mại nội khối, khi nhu cầu bên ngoài giảm mạnh.
2.1.1.2 Bong Bóng bất động sản
Cuối tháng 4/2008, Tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Úc, Trung Quốc,
New Zealand và Singapore đều đã xảy ra những vụ nổ bong bóng nhà đất tại một số
khu vực. Cả Ấn Độ cũng xảy ra tình trạng bong bóng địa ốc.
Tuy nhiên, nền kinh tế châu Á ít bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ hơn
trước đây do đã tái cấu trúc hệ thống tài chính sau cuộc khủng hoảng tài chính châu
Á 1997.
Sau những hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng 2007, ngành bất động sản
được tái cấu trúc một cách mạnh mẽ. Hiện nay, các quỹ đầu tư bất động sản được
niêm yết chiếm tỷ lệ nhỏ hơn so với tổng quỹ đầu tư chứng khoán.
Sự xuất hiện của các quỹ tín thác đầu tư bất động sản (REIT) châu Á với tài sản
chủ yếu được đầu tư tài chính bởi nợ có bảo đảm.
2.1.1.3 Xuất khẩu
Do Mỹ còn chiếm vị trí khá cao nên xuất khẩu và sản xuất của những nước châu
Á bị đình trệ, đồng đôla xuống giá so với nhiều đồng tiền Châu Á, làm cho sản
phẩm xuất khẩu vào Mỹ trở nên đắt đỏ hơn.
Đầu năm 2008, trên khắp Châu Á khối lượng hàng hóa xuất khẩu sang Mỹ tuy
có giảm so với các năm trước nhưng nhìn chung không bị ảnh hường nhiều,chẳng
hạn Singapore và Thái Lan duy trì được mức tăng trường xuất khẩu 6%, mặc dù
xuất khẩu vào Mỹ của Singapore giảm 11%, Malaysia giảm 16% trong năm
2007, Nhật năm 2007 chỉ còn độ 20%. Đối với Trung Quốc từ năm 2007 thị trường
xuất khẩu lớn nhất cũng đã chuyển từ Mỹ sang EU. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
Trang 23
của Trung Quốc sang thị trường Mỹ cũng sụt xuống còn có 1% trong tháng 12/2007,
so với mức 20% vào cuối năm 2006.
2.1.1.4 Vị thế của Châu Á
Cuộc khủng hoảng ở Mỹ sẽ làm tăng tiếng nói và vị trí của các nước châu Á
trong quan hệ với Mỹ và trong các nỗ lực quốc tế nhằm ổn định thị trường tiền tệ và

kinh tế thế giới.
Với lượng dự trữ ngoại tệ rất lớn (tính tới cuối tháng 01/2009 Trung Quốc là
1.950 tỉ USD đứng đầu thế giới; Nhật xếp thứ hai với 1004,66 tỉ USD (06/2008),
Hàn Quốc khoảng 202 tỉ USD-tính đến cuối tháng 01/2009), các nước châu Á này
sẽ có thể dễ dàng mua nhiều trái phiếu chính phủ Mỹ, tham gia sở hữu nhiều công ty
tài chính của Mỹ và tích cực xuất vốn cho các dự án giúp những nước gặp khó khăn
về ngoại tệ.
Hiện nay Nhật đã bắt đầu cho thấy vai trò đó. Tập đoàn tài chính Mitsubishi
UFG của Nhật đã mua 21% cổ phiếu của Morgan Stanley, Tập đoàn Nomura đã
mua một số cổ phiếu của các cơ sở hoạt động của Lehman Brothers tại châu Á, châu
Âu và Trung Đông. Bộ trưởng Tài chính Nhật vừa đưa đề án yêu cầu IMF đứng ra
lập quỹ hỗ trợ các nền kinh tế gặp khó khăn và hứa sẽ đóng góp tích cực.
Sự thất thế của Mỹ trên thị trường tài chính quốc tế sẽ tạo cơ hội cho Trung
Quốc xác lập vị thế của mình trên thị trường tài chính toàn cầu. Chẳng hạn, thu hút
các nhà quản lý cấp cao người Hoa từ trong giới tài chính, ngân hàng Mỹ. Một lợi
thế nữa với Trung Quốc là do nước này có lượng dự trữ lớn, trong khi Mỹ đang cần
tiền mặt. Điều này có thể khiến Mỹ phải nhượng bộ Trung Quốc trong các vấn đề
chính trị - quân sự.
2.1.2 Nguy cơ tái diễn cuộc khủng hoảng tài chính châu Á lần thứ 2 có xảy
ra không ?
2.1.2.1 Nguy cơ thấp
Tình hình kinh tế, tài chính của châu Á đã thay đổi so với trước, đồng thời có
nhiều dấu hiệu cho thấy khủng hoảng tài chính châu Á khó tái diễn, chủ yếu thể hiện
trên ba phương diện sau:
Trang 24
Thứ nhất, chính sách tiền tệ của các nước Đông Á đã thay đổi. Hiện nay, đồng
nội tệ của các nước Đông Á không còn gắn đơn nhất với đồng USD, mà hầu hết các
nước Đông Á đều đã áp dụng chính sách "rổ tiền tệ" có tính linh hoạt cao, tức là gắn
kết đồng nội tệ với một "rổ" gồm nhiều đồng tiền khác nhau.
Do đó, nếu chỉ có đồng USD mất giá sẽ chưa đủ tạo ra mối đe dọa lớn đối với

đồng tiền của các nước Đông Á, vì còn có các đồng tiền khác, như euro, đang lên
giá. Thực tế là gần đây mặc dù USD liên tiếp mất giá nhưng không ảnh hưởng nhiều
đến đồng tiền của các nước Đông Á.
Thứ hai, ảnh hưởng của luồng vốn ngắn hạn không lớn. Hầu hết các chuyên gia
kinh tế khu vực thừa nhận rằng cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 là do
luồng vốn ngắn hạn chảy vào quá nhiều, gây biến động tài chính khu vực và khiến
tình hình khủng hoảng trở nên nghiêm trọng hơn. Tuy nhiên, tư bản ngắn hạn cũng
có vai trò thúc đẩy hành vi hoạt động sáp nhập và mua lại trong cộng đồng doanh
nghiệp, từ đó có lợi cho sự phát triển kinh tế các nước châu Á.
Thêm vào đó, tỷ giá hối đoái của các nước Đông Á đang tăng cao, không hẳn là
do sự xâm nhập của tư bản ngắn hạn, mà còn do những ảnh hưởng trực tiếp từ sự
phát triển của thị trường chứng khoán quốc tế và thị trường chứng khoán Mỹ. Thực
tế là các nước châu Á, nhất là khu vực Đông Á, vẫn duy trì phát triển kinh tế ổn
định, cho thấy ảnh hưởng của tư bản ngắn hạn đối với các nước châu Á đã không
còn như trước đây, càng không thể làm đảo lộn chính sách tài chính tiền tệ của các
nước trong khu vực.
Thứ ba, chưa xuất hiện tình trạng luồng vốn chảy ra nước ngoài. Các chuyên gia
kinh tế cho rằng trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á lần trước, hiện tượng vốn
chảy ra bên ngoài đã có ảnh hưởng nhất định. Tuy nhiên, cần phải nhận thức được
nguyên nhân khiến tư bản chạy ra nước ngoài, ngoài môi trường đầu tư xấu ra, còn
có các nguyên nhân khác như xu thế phát triển kinh tế chậm lại.
Châu Á, nhất là khu vực Đông Á, đang duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế khá
nhanh, môi trường phát triển kinh tế tốt. Đà phát triển của một số nước thị trường
mới nổi như Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc và cả Việt Nam được đánh giá khá
cao. Từ đó, các chuyên gia kinh tế dự đoán rằng trong thời gian tới châu Á, nhất là
khu vực Đông Á sẽ tiếp tục là điểm đến đầu tư lý tưởng, chứ không phải là tư bản sẽ
Trang 25

×