I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
1. Vấn đề độc lập dân tộc
a. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay gắn liền
với truyền thống yêu nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Điều đó nói lên một khát
khao to lớn của dân tộc ta là, ln mong nuốn có được một nền độc lập cho dân tộc, tự do
cho nhân dân và đó cũng là một giá trị tinh thần thiêng liêng, bất hủ của dân tộc mà Hồ
Chí Minh là hiện thân cho tinh thần ấy. Người nói rằng, cái mà tôi cần nhất trên đời là
đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập.
Nhân cơ hội các nước đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất họp
Hội Nghị ở Vécxây (Pháp) năm 1919 mà ở đó Tổng thống Mỹ V.Wilson đã kêu gọi trao
quyền tự quyết cho các dân tộc trên thế giới, thay mặt nhóm những người yêu nước Việt
Nam tại Pháp, Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam, với
hai nội dung chính là địi quyền bình đẳng về mặt pháp lý và đòi các quyền tự do, dân
chủ. Bản yêu sách không được Hội nghị chấp nhận nhưng qua sự kiện trên cho thấy lần
đầu tiên, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền của các dân tộc thuộc địa mà trước hết là quyền
bình đẳng và tự do đã hình thành. Căn cứ vào những quyền tự do, bình đẳng và quyền
con người - “những quyền mà khơng ai có thể xâm phạm được” đã được ghi trong bản
Tuyên ngôn Độc lập của cách mạng Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
quyền của Cách mạng Pháp năm 1791, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định những giá trị
thiêng liêng, bất biến về quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Đó là những
lẽ phải khơng ai chối cãi được”1.
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh cũng đã xác định
mục tiêu chính trị của Đảng là:
“ a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến.
b) Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”2.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành cơng, trong Tun ngơn Độc lập, Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế
giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một
1Hồ Chí Minh: Tồn tập, NxbChính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.1.
2Hồ Chí Minh: Tồn tập, NxbChính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.1.
nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”3
Ý chí và quyết tâm trên cịn được thể hiện trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ. Trong thư gửi Liên hợp quốc năm 1946, một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng
định: “Nhân dân chúng tơi thành thật mong nuốn hồ bình. Nhưng nhân dân chúng tôi
cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn
lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước” 4. Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược
Việt Nam lần thứ hai, trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946, Người
ra lời hiệu triệu, thể hiện quyết tâm sắt đá, bảo vệ cho bằng được nền độc lập dân tộc giá trị thiêng liêng mà nhân dân Việt Nam mới giành được: “Không! Chúng ta thà hy sinh
tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”5.
Năm 1965, đế quốc Mỹ tăng cường mở rộng chiến tranh ở Việt Nam: ồ ạt đưa quân
viễn chinh Mỹ, chư hầu vào miền Nam tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và gây
chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trong hồn cảnh khó khăn, chiến tranh ác liệt đó, Hồ Chí
Minh đã nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên ngôn bất hủ của các dân tộc khao khát
nền độc lập, tự do trên thế giới “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”6. Với tư tưởng trên
của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã anh dũng chiến đấu, đánh thắng đế quốc Mỹ
xâm lược, buộc chúng phải ký kết Hiệp định Paris, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc
cơ bản của nhân dân Việt Nam, rút quân Mỹ về nước.
b. Độc lập dân tộc phải gắn liền tự do, cơm no, áo ấm và hạnh
phúc của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do của nhân dân. Người đánh
giá cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập và tự do: dân tộc độc lập,
dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc. Và bằng lý lẽ đầy thuyết phục, trong khi viện dẫn
bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 “Người ta
sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải ln được tự do và bình đẳng về quyền
lợi”7, Hồ Chí Minh khẳng định dân tộc Việt Nam đương nhiên cũng phải được tự do và
3Hồ Chí Minh: Tồn tập,NxbChính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.3.
4Hồ Chí Minh: Tồn tập, NxbChính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.522.
5Hồ Chí Minh: Tồn tập, NxbChính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.534.
6Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.131.
7Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.1.
bình đẳng về quyền lợi. “Đó là lẽ phải khơng ai chối cãi được” 8. Trong Chánh cương vắn
tắt của Đảng, Người cũng đã xác định rõ ràng mục tiêu của đấu tranh của cách mạng là
“Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập…dân chúng được tự do…thủ tiêu hết các
thứ quốc trái…thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày
nghèo. Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo…thi hành luật ngày làm 8 giờ” 9. Tổng khởi nghĩa
Tháng Tám năm 1945 thành công, nước nhà được độc lập và một lần nữa Hồ Chí Minh
khẳng định độc lập phải gắn với tự do. Người nói: “Nước độc lập mà dân khơng hưởng
hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”10.
Ngồi ra, độc lập cũng phải gắn với cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân.
Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trong hồn cảnh nhân dân đói
rét, mù chữ… , Hồ Chí Minh yêu cầu: “Chúng ta phải….
Làm cho dân có ăn.
Làm cho dân có mặc.
Làm cho dân có chỗ ở.
Làm cho dân có học hành”11.
Có thể thấy rằng, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh,
Người ln coi độc lập gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm cho nhân dân, như Người từng
bộc bạch đầy tâm huyết: “Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao
cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn
áo mặc, ai cũng được học hành”12.
c. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hồn tồn và triệt để
Trong q trình đi xâm lược các nước, bọn thực dân đế quốc hay dùng chiêu bài mị
dân, thành lập các chính phủ bù nhìn bản xứ, tuyên truyền cái gọi là “độc lập tự do” giả
hiệu cho nhân dân các nước thuộc địa nhưng thực chất là nhằm che đậy bản chất “ăn
cướp” và “giết người” của chúng.
8Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.1.
9Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.1,2.
10Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.64.
11Hồ Chí Minh: Tồn tập, NxbChính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.175.
12Hồ Chí Minh: Tồn tập, NxbChính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.187.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để trên
tất cả các lĩnh vực. Người nhấn mạnh: độc lập mà người dân khơng có quyền tự quyết về
ngoại giao, khơng có qn đội riêng, khơng có nền tài chính riêng…. , thì độc lập đó
chẳng có ý nghĩa gì. Trên tinh thần đó và trong hồn cảnh đất nước ta sau Cách mạng
Tháng Tám cịn gặp nhiều khó khăn, nhất là nạn thù trong giặc ngồi bao vây tứ phía, để
bảo vệ nền độc lập thật sự mới giành được, Người đã thay mặt Chính phủ ký với đại diện
Chính phủ Pháp Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946, theo đó: “Chính phủ Pháp cơng nhận
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ là một quốc gia tự do có Chính phủ của mình, Nghị
viện của mình, quân đội của mình, tài chính của mình”13.
d. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân tộc ta luôn đứng trước âm mưu
chia cắt đất nước của kẻ thù. Thực dân Pháp khi xâm lược nước ta đã chia đất nước ta ra
ba kỳ, mỗi kỳ có chế độ cai trị riêng. Sau Cách mạng Tháng Tám, miền Bắc nước ta thì bị
qn Tưởng Giới Thạch chiếm đóng, miền Nam thì thực dân Pháp xâm lược và sau khi
độc chiếm hoàn toàn Việt Nam, một lần nữa thực dân Pháp lại bày ra cái gọi là “Nam Kỳ
tự trị” hịng chia cắt nước ta một lần nữa. Trong hồn cảnh đó, trong bức Thư gửi đồng
bào Nam Bộ (1946), Hồ Chí Minh khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt
Nam. Sơng có thể cạn, núi có thể mịn, song chân lý đó khơng bao giờ thay đổi”. Hiệp
định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, đất nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai
miền, Hồ Chí Minh tiếp tục kiên trì đấu tranh để thống nhất Tổ quốc. Tháng 2 năm 1958,
Người khẳng định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”. Trong Di chúc,
Người cũng đã thể hiện niềm tin tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng, vào sự thống
nhất nước nhà: “Dù khó khan gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng
lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất.
Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”. Có thể khẳng định rằng tư tưởng độc
lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ là tư tưởng xuyên suốt
trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
2. Về cách mạng giải phóng dân tộc
Trước sự thất bại của những phong trào yêu nước chống thực dân Pháp vào cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, một vấn đề cấp bách đặt ra cho cách mạng Việt Nam là cách
mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi thì phải đi theo con đường nào, ai lãnh đạo, lực
lượng và phương pháp cách mạng ra sao…? Hồ Chí Minh đã có lời giải đáp và đã dẫn
dắt cách mạng Việt Nam đi đến thành cơng.
13Hồ Chí Minh: Tồn tập,NxbChính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.583
a. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng
vô sản
Từ khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược và đặt ách thống trị nước ta, vấn đề sống
còn của dân tộc được đặt ra là phải đấu tranh để giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân đế
quốc. Hàng loạt những phong trào yêu nước đã nổ ra nhưng không thành công, sự thất bại
của những phong trào yêu nước trong thời kỳ này đã nói lên sự khủng hoảng, bế tắc về
giai cấp lãnh đạo và đường lối cách mạng. Vượt qua tầm nhìn của các bậc tiền bối lúc bấy
giờ, Hồ Chí Minh có chí hướng là muốn tìm kiếm con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc ở phương Tây, như Người đã nói: “Tơi muốn đi ra nước ngồi, xem nước Pháp và các
nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta” 14.
Nhưng qua tìm hiểu thực tế sau đó, Người quyết định khơng chọn con đường cách mạng
tư sản vì cho rằng: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư
bản, cách mệnh khơng đến nơi, tiếng là cộng hồ và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước
lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay cơng nơng
Pháp hẵng cịn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hịng thốt khỏi vịng áp bức”15.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng sâu sắc tới Hồ Chí
Minh trong việc lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Người cho rằng:
“Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi,
nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, khơng phải tự do và
bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam…Nói tóm lại là
phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”16.
Năm 1920, sau khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy ở đó con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc: con đường cách mạng vô sản, như sau này Người khẳng định: “Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vơ
sản”17. Đây là con đường cách mạng triệt để nhất phù hợp với yêu cầu của cách mạng
Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. Trong bài Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa
Lênin, Người kể lại: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng
tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà
14Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, NxbVăn học, Hà Nội, 1970, tr.11.
15Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2, tr.296.
16Hồ Chí Minh: Tồn tập,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2, tr.304. “Mã Khắc Tư” là cách gọi trong tác
phẩm Đường cách mệnh (năm 1927) theo phiên âm Hán - Việt.
17Hồ Chí Minh: Tồn tập,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.12, tr.30.
tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau
khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Từ đó tơi
hồn tồn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba” 18. Học thuyết cách mạng vô sản của
chủ nghĩa Mác- Lê Nin được Người vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện cách
mạng Việt Nam.
Giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, trong đó giải phóng dân tộc là
trước hết, trên hết. Theo Mác và Ăngghen, con đường cách mạng vơ sản ở châu Âu là đi
từ giải phóng giai cấp - giải phóng dân tộc - giải phóng xã hội - giải phóng con người.
Cịn theo Hồ Chí Minh, thì ở Việt Nam và các nước thuộc địa do hồn cảnh lịch sử chính trị khác với châu Âu nên phải là: giải phóng dân tộc - giải phóng xã hội - giải
phóng giai cấp - giải phóng con người.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong Chánh cương vắn tắt của
Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh đã khẳng định phương hướng chiến lược cách mạng Việt
Nam: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Phương hướng này vừa phù hợp với xu thế phát triển của thời đại vừa hướng tới giải
quyết một cách triệt để những yêu cầu khách quan, cụ thể mà cách mạng Việt Nam đặt ra
vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Trong văn kiện Đại hội VI Quốc tế cộng sản, khái niệm“cách mạng tư sản dân
quyền” không bao hàm đầy đủ nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa. Cịn trong Chánh cương vắn tắt, Hồ Chí Minh nêu rõ: Cách mạng tư sản dân
quyền trước hết là phải đánh đổ đế quốc và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được
hồn tồn độc lập…Cũng theo Quốc tế cộng sản, thì hai nhiệm vụ chống đế quốc và
phong kiến phải được thực hiện đồng thời, khăng khít với nhau, nương tựa vào nhau,
nhưng xuất phát từ một nước thuộc địa, Hồ Chí Minh khơng coi hai nhiệm vụ đó nhất
loạt phải thực hiện ngang nhau, mà đặt lên hàng đầu nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng
dân tộc, cịn nhiệm vụ chống phong kiến, mang lại ruộng đất cho nông dân thì sẽ từng
bước thực hiện. Cho nên trong Chánh cương vắn tắt , Người chỉ nêu “thâu hết ruộng đất
của đế quốc chủ nghĩa làm của công, chia cho dân cày nghèo” mà chưa nêu ra chủ trương
“người cày có ruộng”. Đấy là nét độc đáo, sáng tạo của Hồ Chí Minh.
b. Cách mạng giải phóng dân tộc, trong điều kiện của Việt Nam, muốn thắng lợi phải
do đảng cộng sản lãnh đạo
Về tầm quan trọng của tổ chức Đảng đối với cách mạng, chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ
rõ: Đảng cộng sản là nhân tố chủ quan để giai cấp cơng nhân hồn thành sứ mệnh lịch sử
18Hồ Chí Minh: Tồn tập,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.12, tr.562.
của mình. Giai cấp cơng nhân phải tổ chức ra chính đảng, đảng đó phải thuyết phục, giác
ngộ và tập hợp đông đảo quần chúng, huấn luyện quần chúng và đưa quần chúng ra đấu
tranh. Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và rất chú trọng đến việc
thành lập đảng cộng sản, khẳng định vai trò to lớn của Đảng đối với cách mạng giải
phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Trong tác phẩm Đường cách mệnh
(1927), Người đặt vấn đề: Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng
cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với các dân tộc
bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng….
Trong hồn cảnh Việt Nam là một nước thuộc địa - phong kiến, theo Hồ Chí Minh,
Đảng Cộng sản vừa là đội tiên phong của giai cấp công nhân vừa là đội tiên phong của
nhân dân lao động kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng
sự Tổ quốc. Đó cịn là Đảng của cả dân tộc Việt Nam. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội
II của Đảng (1951), Người viết: chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam.
Đây là một luận điểm quan trọng của Hồ Chí Minh có ý nghĩa bổ sung, phát triển lý
luận mácxít về đảng cộng sản.
c. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết toàn dân tộc,
lấy liên minh công - nông làm nền tảng
Các nhà lý luận kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng: cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng nhân dân; quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử.
V.I.Lênin viết: “Khơng có sự đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với
đội tiền phong của mình tức là đối với giai cấp vơ sản, thì cách mạng vơ sản không thể
thực hiện được”19.
Kế thừa tư tưởng các nhà lý luận nói trên, Hồ Chí Minh quan niệm: có dân là có tất
cả, trên đời này khơng gì q bằng dân, được lịng dân thì được tất cả, mất lịng dân thì
mất tất cả. Người khẳng định: “cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải
việc một hai người”20. Người lý giải rằng, dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp,
nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền. Vậy nên phải tập hợp
và đồn kết tồn dân thì cách mạng mới thành công.
Năm 1930, trong Sách lược vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh xác định lực lượng
cách mạng bao gồm tồn dân: Đảng phải thu phục đại bộ phận giai cấp cơng nhân, tập
19V.I.Lênin: Tồn tập, NxbTiến bộ ,Maxcơva, 1979, t.39, tr.251.
20Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2, tr.283.
hợp đại bộ phận dân cày và phải dựa vào dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng; liên lạc
với tiểu tư sản, trí thức, trung nơng …để lơi kéo họ về phía vơ sản giai cấp; cịn đối với
phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì
phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho họ trung lập.
Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam lần thứ hai, Hồ Chí Minh thiết tha
kêu gọi mọi người khơng phân biệt giai, tầng, dân tộc, tơn giáo, đảng phái …đồn kết đấu
tranh chống kẻ thù chung của dân tộc. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (121946), Người viết: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để
cứu Tổ quốc”21.
Trong khi xác định lực lượng cách mạng là tồn dân, Hồ Chí Minh lưu ý rằng,
không được quên “công nông là chủ cách mệnh…là gốc cách mệnh” 22. Trong tác phẩm
Đường cách mệnh, Người giải thích: giai cấp cơng nhân và nơng dân là hai giai cấp
đơng đảo và cách mạng nhất, bị bóc lột nặng nề nhất, vì thế “lịng cách mệnh càng bền,
chí cách mệnh càng quyết…công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một
cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc”.
d. Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành thắng lợi
trước cách mạng vơ sản ở chính quốc
Do chưa đánh giá hết tiềm lực và khả năng to lớn của cách mạng thuộc địa nên
Quốc tế cộng sản có lúc xem nhẹ vai trị của cách mạng thuộc địa, coi cách mạng thuộc
địa phụ thuộc vào cách mạng vơ sản ở chính quốc. Đại hội VI Quốc tế cộng sản năm
1928 đã thông qua Những luận cương về phong trào cách mạng trong các nước thuộc địa
và nữa thuộc địa, trong đó có đoạn viết rằng: chỉ có thể thực hiện hồn tồn cơng cuộc
giải phóng các nước thuộc địa khi giai cấp vơ sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản
tiên tiến. Quan điểm này có tác động khơng tốt, làm giảm đi tính chủ động, sáng tạo của
nhân dân các nước thuộc địa trong công cuộc đấu tranh chống thực dân, đế quốc, giành
độc lập cho dân tộc.
Quán triệt tư tưởng của V.I.Lênin về mối quan hệ chặt chẽ giữa cách mạng vơ sản ở
chính quốc với phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa, từ rất sớm Hồ Chí Minh chỉ rõ
mối quan hệ khắng khít, tác động qua lại lẫn nhau giữa cách mạng thuộc địa và cách
21Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.534.
222Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2, tr.288.
mạng vơ sản ở chính quốc - mối quan hệ bình đẳng, khơng lệ thuộc, phụ thuộc vào nhau.
Năm1924, tại Đại hội V của Quốc tế cộng sản, Người nói: “Vận mệnh của giai cấp vô
sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa
gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa” 23. Trong tác phẩm Bản án
chế độ thực dân Pháp (1925) , Người cũng viết: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một
cái vịi bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc và một cái vịi khác bám vào giai cấp vô sản
ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người
ta chỉ cắt một vòi thơi, thì cái vịi cịn lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con
vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”24.
Là một người dân thuộc địa, là người cộng sản và là người nghiên cứu rất kỹ về chủ
nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh cho rằng: cách mạng thuộc địa không những không phụ
thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước. Người viết:
“Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự
bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lịng tham khơng đáy, họ sẽ hình thành một lực
lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư
bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây
trong nhiệm vụ giải phóng hồn tồn”25. Luận điểm sáng tạo trên của Hồ Chí Minh dựa
trên các cơ sở sau:
- Thuộc địa có một vị trí, vai trị, tầm quan trọng đặc biệt đối với chủ nghĩa đế quốc,
là nơi duy trì sự tồn tại, phát triển, là món mồi “béo bở” cho chủ nghĩa đế quốc. Tại Đại
hội V Quốc tế Cộng sản, trong Phiên họp thứ Tám, ngày 23-6-1924, Hồ Chí Minh đã phát
biểu để “thức tỉnh…về vấn đề thuộc địa” 26. Người cho rằng: “nọc độc và sức sống của
con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc” 27; nếu
thờ ơ về vấn đề cách mạng ở thuộc địa thì như “đánh chết rắn đằng đuôi” 28. Cho nên,
cách mạng ở thuộc địa có vai trị rất lớn trong việc cùng với cách mạng vơ sản ở chính
quốc tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc.
23Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.1, tr.295.
24Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2, tr.130.
25Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.1, tr.48.
26 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.1, tr.295.
27 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.1, tr.296.
28 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.1, tr.296.
- Tinh thần đấu tranh cách mạng hết sức quyết liệt của các dân tộc thuộc địa, mà
theo Người nó sẽ bùng lên mạnh mẽ, hình thành một “lực lượng khổng lồ” khi được tập
hợp, hướng dẫn và giác ngộ cách mạng.
Căn cứ vào luận điểm của C.Mác về khả năng tự giải phóng của giai cấp cơng nhân,
trong Tun ngôn của Hội liên hiệp thuộc địa, khi kêu gọi các dân tộc thuộc địa đứng lên
đấu tranh giành quyền độc lập dân tộc, Người viết: “Hỡi anh em ở các thuộc địa…Anh
em phải làm thế nào để được giải phóng? Vận dụng cơng thức của Các Mác, chúng tơi
xin nói với anh em rằng, cơng cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự
nổ lực của bản thân anh em”29.
Với thực tiễn thắng lợi năm 1945 ở Việt Nam cũng như phong trào giải phóng dân
tộc trên thế giới đã thành công vào những năm 60, trong khi cách mạng vơ sản ở chính
quốc chưa nổ ra và thắng lợi, càng chứng minh luận điểm trên của Hồ Chí Minh là độc
đáo, sáng tạo, có giá trị lí luận và thực tiễn to lớn.
e. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo lực cách
mạng
Trong bộ Tư bản, quyển I, tập thứ nhất, xuất bản lần đầu tiên năm 1867, C.Mác
viết: “Bạo lực là bà đỡ của một chế độ xã hội cũ đang thai nghén một chế độ mới” 30. Năm
1878, trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen nhắc lại: “Bạo lực cịn đóng một vai
trị khác trong lịch sử, vai trị cách mạng; nói theo C.Mác, bạo lực cịn là bà đỡ cho mọi
xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới; bạo lực là công cụ mà sự vận động xã hội
dùng để tự mở đường cho mình và đập tan tành những hình thức chính trị đã hóa đá và
chết cứng”31. Trên cơ sở tiếp thu quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, với kinh nghiệm
Cách mạng Tháng Mười Nga và cách mạng thế giới, V.I.Lênin khẳng định tính tất yếu
của bạo lực cách mạng, làm sáng tỏ hơn vấn đề bạo lực cách mạng trong học thuyết về
cách mạng vơ sản: khơng có bạo lực cách mạng thì khơng thể thay thế nhà nước tư sản
bằng nhà nước vô sản được.
Dựa trên cơ sở quan điểm về bạo lực cách mạng của các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo phù hợp với thực tiễn cách mạng
Việt Nam.
29Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2, tr.137-138.
30 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, t.23, tr.1043.
31 Ph.Ăngghen: “Chống Đuyrinh”, trong C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội, 1994, t.20, tr.259.
Dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng. Hồ Chí Minh đã
thấy rõ sự cần thiết phải sử dụng bạo lực cách mạng: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ
chống kẻ thù của giai cấp và dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản
cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền” 32. Tất yếu là vậy, vì ngay như
hành động mang quân đi xâm lược của thực dân đế quốc đối với các nước thuộc địa và
phụ thuộc, thì như Người vạch rõ: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động
bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”33.
Và sau khi xâm chiếm các nước thuộc địa, bọn thực dân đế quốc đã thực hiện chế
độ cai trị vô cùng tàn bạo: dùng bạo lực để đàn áp dã man các phong trào yêu nước, thủ
tiêu mọi quyền tự do, dân chủ cơ bản của nhân dân, bóc lột và đẩy người dân thuộc địa
vào bước đường cùng…Vậy nên, muốn đánh đổ thực dân - phong kiến giành độc lập dân
tộc thì tất yếu phải sử dụng phương pháp bạo lực cách mạng, dùng bạo lực cách mạng để
chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù.
Về hình thức bạo lực cách mạng, theo Hồ Chí Minh, bạo lực cách mạng ở đây là
bạo lực của quần chúng được với hai lực lượng chính trị và qn sự, hai hình thức đấu
tranh: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang; chính trị và đấu tranh chính trị của quần
chúng là cơ sở, nền tảng cho việc xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang;
đấu tranh vũ trang có ý nghĩa quyết định đối với việc tiêu diệt lực lượng qn sự và âm
mưu thơn tính của thực dân đế quốc, đi đến kết thúc chiến tranh. Việc xác định hình
thức đấu tranh phải căn cứ vào hồn cảnh lịch sử cụ thể mà áp dụng cho thích hợp, như
Người đã chỉ rõ: “Tuỳ tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách
mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu
tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng” 34. Trong Cách mạng Tháng Tám năm
1945, với hình thức tổng khởi nghĩa của quần chúng nhân dân trong cả nước, chủ yếu
dựa vào lực lượng chính trị, kết hợp với lực lượng vũ trang, nhân dân ta đã thắng lợi,
giành chính quyền về tay nhân dân.
32Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.391.
33Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.1, tr.114.
34Hồ Chí Minh: Tồn tập,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.391.