Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Chất lượng nước và thành phần loài vi tảo ở hồ chứa nước bộc nguyên hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (952.2 KB, 70 trang )

MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Nước sạch, vệ sinh môi trường đã trở thành vấn đề toàn cầu liên quan đến
mọi nhà, mọi người, đến sư phát triển bền vững của mỗi quốc gia trước mắt cũng
như lâu dài. Chính vì vậy Liên hợp quốc đã nhấn mạnh đến sự "Liên kết tồn cầu
vì sự sống ", "Hãy cho trái đất một cơ hội", "Nước- hai tỷ người đang khao
khát", đã nói lên tất cả. Chúng ta khơng thể phủ nhận vai trị của nước đối với sự
sống. Vì vậy từ khi ra đời, con người đã biết sử dụng các hình thức để lấy nước
ăn uống và sinh hoạt. Xã hội loài người phát triển từ hoang dã đến văn minh, cho
đến nay chưa phải mọi người - đặc biệt là vùng nông thôn đã ý thức sâu sắc mối
liên hệ giữa chất lượng nước và sức khỏe con người.
Để đánh giá chất lượng nước khoa học ngày nay sử dụng hệ thống các chỉ tiêu
thủy lí thủy hóa, bên cạnh đó cịn sử dụng các lồi vi tảo. Trong hệ sinh thái
nước, vi tảo có vai trị cực kì quan trọng, đặc biệt là trong q trình tuần hồn vật
chất, là một trong những nguồn chính tạo năng suất sơ cấp, vì vậy tảo được xem
là "trái tim của thủy vực". Giữa chất lượng nước và vi tảo có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau.
Việc cung cấp nước sạch đầy đủ và có chất lượng tốt cho nhân dân là nhiệm vụ
quan trọng trong cơng tác chăm sóc sức khỏe ban đầu. Chương trình cung cấp
nước sạch, thanh khiết môi trường là một vấn đề lớn được Đảng, Nhà nước,
ngành Y tế và toàn thể nhân dân quan tâm. Công tác giám sát và kiểm tra chất
lượng nước sinh hoạt là một hoạt động tích cực nhằm bảo đảm sự hài hịa giữa
mơi trường và sức khỏe . Tuy nhiên việc khảo sát chất lượng nước và phát hiện
sự có mặt cũng như quy luật phát triển và đa dạng của các loài vi tảo của hồ chứa
nước Bộc Nguyên (nơi cung cấp nước cho cả thành phố Hà Tĩnh và các vùng
phụ cận, có tiềm năng du lịch) chưa được nghiên cứu nhiều, chính vì vậy chúng

-1-


tôi thực hiện đề tài: "Chất lƣợng nƣớc và thành phần loài vi tảo ở hồ chứa


nƣớc Bộc Nguyên - Hà Tĩnh "
1.2. Mục tiêu của đề tài
- Cung cấp những dẫn liệu về chất luợng nước.
- Nghiên cứu sự đa dạng về thành phần lồi vi tảo.
- Tìm hiểu mối liên quan giữa các yếu tố sinh thái với sự phân bố và thành phần
loài vi tảo.
1.3. Nội dung nghiên cứu
- Điều tra một số chỉ tiêu chất lượng nước của hồ Bộc Nguyên: Nhiệt độ nước,
độ trong, pH, hàm lượng DO, COD, NH 4 +, PO 4 3-.
- Xác định thành phần loài, số lượng tế bào vi tảo và sự biến động của chúng.
- Xem xét mối quan hệ giữa thành phần loài với một số yếu tố sinh thái.

-2-


Chƣơng 1:
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Chất lƣợng nƣớc trong các thủy vực trên thế giới và ở Việt Nam:
1.1.1 Các thông số đánh giá chất lượng nước:
Đánh giá chất lượng cũng như mức độ ô nhiễm nước cần phải dựa vào một số
thông số cơ bản so sánh với các chỉ tiêu cho phép về thành phần hóa học và sinh
học đối với từng loại nước sử dụng cho mục đích khác nhau.[12], [17]
Các thơng số cơ bản đánh giá chất lượng nước là: độ pH, màu sắc, độ đục,
hàm lượng chất rắn, các chất lơ lững, kim loại nặng, oxi hòa tan và đặc biệt là
hai chỉ số COD và BOD. Ngồi các chỉ số về hóa học trên, cần phải chú ý đến
các chỉ tiêu sinh học: vi tảo, E.coli…[17]
- Độ pH là một trong những chỉ tiêu xác định đối với nước cấp và nước thải. Chỉ
số này cho thấy cần phải trung hịa hay khơng và tính lượng hóa chất cần thiết
trong q trình xử lý đông keo tụ, làm tăng, giảm vận tốc các phản ứng hóa sinh
xảy ra trong nước.

- Hàm lượng chất rắn:
Các chất rắn có trong nước là:
+ Các chất vơ cơ: Muối hòa tan, đất đá dạng huyền phù,…
+ Các chất hữu cơ: Xác vi sinh vật, tảo, động vật nguyên sinh,…các chất hữu
cơ tổng hợp như : phân bón, chất thải công nhiệp,…
Chất rắn làm trở ngại cho việc sử dụng và lưu chuyển nước, làm giảm chất
lượng nước sinh hoạt và sản xuất, gây trở ngại cho nuôi trồng thủy sản.
- Độ cứng: Nước tự nhiên thường được phân thành nước cứng và nước mềm. Độ
cứng của nước thường khơng được coi là ơ nhiễm vì khơng gây hại cho sức khỏe
con người, nhưng độ cứng lại ảnh hưởng đến công nghệ. Nước thải không cần
quan tâm đến chỉ số này.[20]

-3-


- Độ đục: Độ đục do các hạt lơ lững các chất hữu cơ phân hủy hoặc giới thủy
sinh phân hủy gây ra. Độ đục làm giảm khả năng truyền ánh sáng và quang hợp
các loài thủy sinh, giảm thẩm mĩ và chất lượng nước khi sử dụng.
- Oxi hòa tan (DO - Dissolved oxigen):
Oxi hòa tan trong nước rất cần thiết cho sinh vật hiếu khí. Bình thường oxi
hồ tan trong nước khoảng 8-10 mg/l, chiếm 70- 85% khi oxi bảo hòa. Mức oxi
hòa tan trong nước tự nhiên và nước thải phụ thuộc vào mức độ ô nhiễm chất
hữu cơ, vào hoạt động của giới thủy sinh, các hoạt động sinh hóa, hóa học và vật
lý của nước. Trong môi trường nước bị ô nhiễm nặng, oxi được dùng nhiều cho
các q trình sinh hóa và xuất hiện tượng thiếu oxi trầm trọng.
Phân tích chỉ số oxi hịa tan là một trong những chỉ tiêu quan trọng đánh giá
sự ô nhiễm của nước và giúp ta đề ra các biện pháp xử lý thích hợp.
- Chỉ số nhu cầu oxi sinh hóa (BOD - Biochemical oxygn Demand).
Nhu cầu oxy sinh hóa hay là nhu cầu oxi sinh học là lượng oxi cần thiết để oxi
hóa các hợp chất hữu cơ có trong nước bằng vi sinh vật ( chủ yếu là vi khuẩn

hoại sinh, hiếu khí. Q trình này gọi là q trình oxi hóa sinh học, địi hỏi nhiều
thời gian, vì phải phụ thuộc vào bản chất của hợp chất hữu cơ, loại vi sinh vật,
nhiệt độ,…
Xác định BOD được dùng rộng rãi trong kỷ thuật môi trường để:
+ Tính gần đúng lượng oxy cần thiết oxy hóa các chất hữu cơ dễ phân hủy
có trong nước thải.
+ Làm cơ sở tính tốn kích thước các cơng trình xử lý.
+ Xác định hiệu suất xử lý của một số quá trình.
+ Đánh giá chất lượng nước sau khi xử lý được phép thải vào các nguồn
nước. Trong thực tế, người ta không thể xác định lượng oxy cần thiết để phân
hủy hoàn toàn chất hữu cơ bằng phương pháp sinh học, mà chỉ xác định trong 5

-4-


ngày đầu tiên ở nhiệt độ 200C trong bóng tối (để tránh hiện tượng quang hợp
trong nước). Chỉ số này gọi là BOD5. [17]
- Chỉ số COD (Nhu cầu oxy hóa học - Chemical oxygen Demand):
Chỉ số này được dùng rộng rãi để đặc trưng cho hàm lượng chất hữu cơ của
nước thải và sự ô nhiễm của nước tự nhiên.
COD là lượng oxi cần thiết cho quá trình oxi hóa tồn bộ các chất hữu cơ có
trong mẫu nước thành CO2 và nước.
- Hàm lượng nitơ (N): Hợp chất nitơ có trong nước thải là các hợp chất
prơtêin và các sản phẩm phân hủy: amôn, nitrat, nitrit,…
- Hàm lượng phospho (P):
Phospho tồn tại trong thủy vực với các dạng H2PO4- , HPO4-2 , PO4-3 , các
polyphosphat, phosphat hữu cơ. Đây là một nguồn dinh dưỡng cho thực vật dưới
nước, gây ơ nhiễm và góp phần thúc đẩy hiện tượng phú dưỡng ở các thủy vực.
Hàm lượng phospho có thể thừa trong nước thủy vực làm cho các loài tảo, các
loài thực vật lớn phát triển mạnh gây tắc thủy vực. Hiện tượng tảo sinh trưởng

mạnh( hiện tượng nước nở hoa) do dư thừa dinh dưỡng, thực chất là hàm lượng
P quá cao. Sau đó tảo và các loại vi sinh vật bị phân hủy, thối rữa làm nước bị ô
nhiễm thứ cấp, thiếu oxi hòa tan và làm cho tôm cá bị chết.
- Chỉ số LC50 ( Nồng độ thấp nhất gây ức chế 50% sinh vật thí nghiệm).
- Chỉ thị về sinh học:
Sinh vật và môi trường tồn tại trong một mối cân bằng động. Trong những điều
kiện cụ thể khác nhau có những lồi hay những nhóm lồi sinh vật đặc trưng có
thể sử dụng làm làm chỉ thị sinh học để đánh giá chất lượng môi trường, đặc biệt
là thủy vực.
Những chỉ thị sinh vật được quan tâm là vi khuẩn, động vật không xương
sống, Phytoplankton…[12],[17]

-5-


Sự có mặt của vi khuẩn Coliform thể hiện nguồn nước bị nhiễm phân, được
đặc trưng bởi chỉ thị Total Coliform và Faecal coliforms.[15]
Nhiều nhà khoa học cho rằng sự ô nhiễm môi trường nước về bản chất là một
hiện tượng sinh học. Nhiều quốc gia châu Âu đã sử dụng hệ thống BMWP
(Biological Monitoring Working Party) để đánh giá mức độ ô nhiễm nước qua
quan trắc động vật đáy không xương sống lớn.[12]
Căn cứ vào thông số vật lý, hóa học, sinh học người ta đưa ra các mức phân
loại ô nhiễm khác nhau. Hệ thống phân loại này không giống nhau ở các quốc
gia. Đánh giá chất lượng nước mặt người ta có thể dựa vào bảng sau:
Bảng 1.1: Hệ thống đánh giá tổng hợp nguồn nước mặt
TT

Trạng thái

PH


NH4+

NO-3

PO3-4

DO%

COD

BOD5

1

Nước rất sạch

7-8

< 0,05

<0,1

<0,01

100

<6

<2


2

Nước sạch

6,5-8,5

0,06-0,4

0,1-0,3

0,01-0,05

100

6-20

2-4

3

Nước hơi bẩn

6-9

0,4-1,5

0,3-1

0,05-0,1


50-90

20-80

4-6

4

Nước bẩn

5-9

1,5-3

1-4

0,10,15

20-50

50-70

6-8

5

Nước bẩn nặng

4-9,5


3-5

4-8

0,15

5-20

70-100

8-10

6

Nước rất bẩn

3-10

>5

>8

>0,3

<5

>100

>10


(Trích Kỹ thuật mơi trường, NXB Giáo Dục, 2002, trang 143) [4]
Để đánh giá tổng hợp lâu dài nguồn ô nhiễm đối với nguồn nước người ta sử
dụng phương pháp sinh thái học. Theo phương pháp này Hynes (1971) đã phân
vùng nước bị nhiễm bẩn thành 4 nhóm theo sự phân bố của hệ thống sinh vật
cùng với một số chỉ tiêu lý hóa:
Vùng Oligosaprobic: vùng khơng nhiễm bẩn
Vùng Beta - mesosaprobic: vùng ô nhiễm nhẹ.
Vùng Alfa - mesosaprobic: vùng ô nhiễm
Vùng Poly - saprobic: vùng ô nhiễm nặng.

-6-


1.1.2. Vài nét về chất lƣợng nƣớc trong các thủy vực thế giới và ở Việt Nam :
1.1.2.1. Chất lượng nước trong các thủy vực thế giới:
Nước không chỉ quan trong đối với mỗi cá nhân mà là cả xã hội, khơng chỉ là
yếu tố sống cịn trong q khứ, hiện tại mà cả tương lai. Nhà triết học cổ đại Hy
Lạp Emepedocles đã cho rằng có 4 yếu tố khởi nguyên cấu tạo nên mọi vật là :
khí, nước, lửa, đất. Các nền văn minh lớn đều bắt nguồn từ lưu vực các dịng
sơng lớn trên thế giới. [7]
Theo các nhà khoa học ước tính có khoảng 1,4 tỷ km3 nước bao phủ bề mặt
trái đất, lượng nước này nếu bao phủ trên bề mặt trái đất sẻ có độ dày khoảng
0,3-0,4m. Nhà bác học Retet Colia đã nêu một hình ảnh so sánh: nếu coi trái đất
là một quả cầu đường kính 10m thì nước ở đại dương chứa hết trong cái bể 225l,
nước băng hai cực chứa hết trong một xô 5l, nước ngọt trên mặt đất đổ đầy một
chai, lượng nước ngầm mà loài người sử dụng trong một năm chỉ vừa một ly.[7]
Nhu cầu nước ngày càng tăng lên, thời trung cổ trung bình mỗi người sử dụng
25l nước/ngày, ngày nay trung bình mỗi người tiêu thụ 200-300l nước/ngày.
Theo thống kê về tình hình ơ nhiễm nước trên thế giới cho thấy phần lớn các

sông hồ ở Châu Âu đều bị nhiễm bẩn, điển hình là dịn sơng Rein đang bị biến
thành "cống nước cơng cộng", mỗi năm nước đục thêm và đen dần. Sông Volga
ở Nga cũng chịu cảnh tương tự. Sơng Hồng Phố ở Thượng Hải hàng năm có
299 ngày nước sơng đều thối và đen. Ở Trung Quốc trong số 532 con sơng được
khảo sát thì có 436 dịng sơng bị ơ nhiễm ở mức độ khác nhau. Tại các con sông
ở ngồi Châu Âu trung bình hàm lượng muối nitrat vượt mức cho phép là 2,5
lần, còn ở khu vực Châu Âu thì vượt quá 45 lần so với nước tự nhiên và nồng độ
photphat gấp 3,5 lần mức cho phép. Hàng trăm dặm trên các con sông ở thành
phố New York đã khơng có sự sống do chất thải của nhiều nhà máy đổ vào. Ở
Malaixia có 10 con sơng ô nhiễm đến mức cá không thể sống được. Ở Peru các
chất thải đã làm ơ nhiễm dịng sơng Rimac (nguồn cung cấp nước cho thủ đô)
-7-


nên hàm lượng Pb, Cr, As, Zn,… rất cao, nhiều con sông khác cũng nhiễm kim
loại nặng. Đáng chú ý là các mẫu tơm, cua, cá, sị ở vịnh Giacacta ( Inđonexia)
theo WHO thì lượng chì vượt quá 4%, thủy ngân vượt quá 38%, cadini vượt quá
76%. Ở Mỹ La Tinh lượng chất độc từ các bãi thải xâm nhập vào nước ngầm cứ
15 năm lại tăng gấp đôi.[7], [18]
1.1.2.2. Chất lượng nước trong các thủy vực Việt Nam:
Việt Nam là nước đang phát triển nhưng tình trạng ơ nhiễm đã đến mức báo
động, đặc biệt là các khu công nghiệp, khu đơ thị lớn. Việt Nam có nguồn tài
ngun nước tương đối dồi dào. Đạt trung bình đầu người tới 17000m3/năm. Với
tốc độ đơ thị hóa, cơng nghiệp hóa, sự gia tăng dân số nhanh chóng thì áp lực lên
tài ngun nước ngày càng gia tăng. Theo tính tốn năm 2000 nhu cầu nước của
Việt Nam là 100 tỷ m3/năm, dự báo năm 2010 là 103 tỷ m3/năm. [20]
Kết quả khảo sát 12 hồ (Nghĩa Tân, Đống Đa, Hào Nam, Văn Chương, Thành
Công, Giảng Võ, Thiền Quang, Thủ Lệ, Trung Tự, Bảy Mẫu) nằm trong khu vực
Hà Nội chất lượng nước đều ô nhiễm với mức độ khác nhau. Trong đó hồ Thủ
Lệ, Thiền Quang, Nghĩa Tân ít ơ nhiễm hơn về hàm lượng NH4+, PO43- so với

các hồ khác. Tại các hồ ô nhiễm, BOD5 , vượt quá mức cho phép 10mg/l
Theo kết quả nghiên cứu môi trường nước ở nông thôn của sở khoa học và
công nghệ Ninh Thuận trên địa bàn 8 thôn thuộc 5 huyện các chỉ số cao hơn vài
chục lần số với mức cho phép.
Ở các khu công nghiệp, đô thị tập trung đơng dân cư như ở thành phố Hồ Chí
Minh, khu cơng nghiệp Việt Trì, Biên Hịa...nước ao hồ, sơng bị ô nhiễm nghiêm
trọng. Ở Hà Nội cứ mỗi ngày đêm thãi ra 300.000m3 nước thãi nên làm cho các
dịng sơng Kim Ngưu, Tơ Lịch, sơng Nhuệ…có màu sẫm, mùi hơi thối và tanh,
DO thấp (có khi bằng 0), BOD5 trên 50mg/l, NH+4 trên 10mg/l, NO2 tăng vọt,
H2S gần 30 mg/l. Ước tính tổng lượng chất thải sinh hoạt thành phố Hà Nội là:
16.500 tấn / năm đối với BOD5; COD: 3680 tấn/năm; SS: 20.000 tấn/năm ; nitơ:
-8-


3.300 tấn/ năm và phốtphát 400 tấn/năm. Ở Hồ Chí Minh mức độ ơ nhiễm cịn
trầm trọng hơn rất nhiều: 33.000 tấn/năm đối với BOD5; COD: 106.000
tấn/năm; SS: 58.000 tấn/năm; nitơ: 9.570 tấn/năm và phốtphát 1.160 tấn/năm.
Khu cơng nghiệp hóa chất Việt Trì, Lâm Thao thải ra sơng Hồng 35 triệu m3
nước thải hàng năm.[18]
Ngoài ra việc sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật cũng gây ảnh hưởng
khơng nhỏ đến chất lượng nước và sinh vật thủy sinh. Hiện nay chúng ta sử dụng
khoảng 15.000- 25.000 tấn thuốc trừ sâu, khoảng 200 loại thuốc diệt cỏ, diệt
chuột sự tồn tại các chất này trong đất gây nguy cơ tiềm tàng ơ nhiễm nước mà
chưa đánh giá hết được.[7]
Tóm lại nước uống, sinh họat…được cung cấp đầy đủ, không bị ô nhiễm là
nhu cầu cơ bản của cuộc sống, là yếu tố thiết thực cho việc chăm sóc sức khỏe
ban đầu. Nó góp phần kiểm sốt bệnh tật đặc biệt là thương hàn, tả lị,..theo
WHO thì 1/3 dân số thiếu nước uống, hậu quả là 80% bệnh tật trên thế giới là
liên quan đến thiếu nước, vệ sinh kém, đã làm 2500 người chết mỗi ngày vì các
bệnh đó, ở các nước đang phát triễn có trên 6 triệu trẻ em dưới 5 tuổi chết mỗi

ngày vì tiêu chảy, 18 triệu người lớn chết mỗi ngày về các bệnh liên quan đến vệ
sinh nước.
2.3. Tình hình nghiên cứu vi tảo trong thủy vực dạng hồ và hồ chứa ở Việt
Nam:
2.3.1. Đặc điểm của các thủy vực dạng hồ và hồ chứa:
Hồ và hồ chứa là dạng thủy vực nước đứng hoặc vận động khơng đáng kể,
có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo.
- Đặc tính lý hóa của các thủy vực nước đứng nói chung và dạng hồ nói riêng
khác nhau tùy thuộc vào nhiều yếu tố tự nhiên và nhân tạo:

-9-


+ Các yếu tố tự nhiên bao gồm các yếu tố tự nhiên ban đầu như khí hậu, địa
hình, thành tạo địa chất, sau đó tạo nên những yếu tố hệ quả là hình thái hồ, chế
độ thủy học, đặc điểm vùng lưu vực, độ sâu, nguồn các chất ngoại lai…
+ Các yếu tố nhân tạo như phương thức sử dụng đất, các hoạt động kinh tế - xã
hội ở vùng lưu vực từ đó dẫn đến nguồn gây ơ nhiễm (point source) và khuếch
tán (diffuse source). [19]
Trong các thủy vực dạng hồ, hồ chứa là các dạng thủy vực cịn trẻ. Bên cạnh
ngun nhân tạo thành hồ, có sự sai khác căn bản giữa hồ tự nhiên miền núi và
hồ tự nhiên đồng bằng, giữa hồ và hồ chứa, sự khác nhau này như sau:

- 10 -


Bảng 1.2: Một số sai khác giữu hồ tự nhiên và hồ nhân tạo:
Các yếu tố

Hồ chứa nhân tạo


Hồ tự nhiên

- Vùng lưu vực

Thường hẹp, kéo dài

Thường tròn, hồ là trung
tâm

- Tỷ lệ diện tích vùng lưu

Từ 100/1 đến 300/1

10/1

Lớn, được điều chỉnh chủ

Nhỏ, bền

vực và diện tích mặt
nước
- Dao động mực nước

động
- Độ sâu trung bình

Lớn, tới 50m

Thường nhỏ hơn(ở vùng

núi), đồng bằng dưới 2m

- Độ sâu lớn nhất

Hàng trăm mét

Các hồ ở đồng bằng
thường dưới 20m

- Phân tầng nhiệt

Thường phân tầng

Ít hoặc khơng phân tầng

- Dịng chảy vào (inflow)

Hầu hết các sông suối

Từ các nguồn khuếch tán

thượng lưu và chi lưu

xung quanh

Theo yêu cầu sử dụng

Theo dòng tự nhiên hoặc

nước


nhân tạo

- Thời gian tồn lưu nước

Ngắn, biến động từ vài

Dài lâu, ít biến đổi từ

(residence time)

ngày đến vài tháng

một đến và năm

- Luợng dinh dưỡng P,N

Cao hơn

Thấp hơn

- Lượng bồi lắng trầm

Cao, do vùng lưu vực

Thấp

tích

rộng, lớn


- Chlorophyll a

Thấp hơn

- Dịng chảy ra (outfow)

theo đơn vị diện tích

Cao hơn

( Trích: Thủy sinh học các thủy vực nước ngọt nội địa Việt Nam) [19]

- 11 -


1.2.2. Tình hình nghiên cứu tảo trong thủy vực dạng hồ và hồ chứa ở Việt Nam:
Trong hệ sinh thái nước, vi tảo có vai trị cực kì quan trọng, đặc biệt là trong
q trình tuần hồn vật chất, là một trong những nguồn chính tạo năng suất sơ
cấp, vì vậy tảo được xem là "trái tim của thủy vực", tảo có khả năng quang hợp
tạo chất hữu cơ. Đối với con người vi tảo còn là nguồn thực phẩm có giá trị và
có vai trị rất lớn trong bảo vệ mơi trường, trên thế giới có khoảng 15000 lồi tảo
liên quan đến ô nhiễm môi trường. Vi tảo sử dụng là nguồn phân bón sinh học có
giá trị để thay thế phân một phần phân hóa học nhằm giảm thiểu ơ nhiễm mơi
trường đất và nước. Vi tảo cịn được ứng dụng để chiết xuất các chất Biotin,
vitamin(C, B12, B6, E, K, …), các axit béo có hàm lượng dầu tương đương thành
phần dầu thực vật, các loại sắc tố( carotenoit, chlorophyll, phycobiliprotein,..)
được ứng dụng trong nghiên cứu miễn dịch, nâng cao sức khỏe, chất màu thực
phẩm. Ngoài ra vi tảo cịn được ứng dụng trong sản xuất khí metan, sản xuất
hydrocacbon…đây chính là những hướng nghiên cứu mới nhằm hạn chế sử dụng

xăng dầu, hạn chế ô nhiễm môi trường.[7], [18]
Tùy thuộc vào mức độ phát triển của nền khoa học kỷ thuật, đặc biệt là liên
quan đến kính hiển vi và các thiết bị phân tích hợp chất trong cơ thể sống mà
việc phân loại thực vật nổi nói chung và vi tảo nói riêng cũng như việc sắp xếp
chúng vào hệ thống phân loại sinh giới có sự khác nhau đáng kể. Cho đến nay
chưa có một quan điểm nhất quán về hệ thống phân loại tảo ví dụ: hệ thống phân
loại của Gollerbaleck M.M. (Nga) chia tảo thành 10 ngành [24], hệ thống Van
den Hoek C. và cộng sự (1995) chia tảo thành 11 ngành [36], ...Ngồi ra cịn
được nhiều tác giả khác đề cập tới [30], [32], [33]
Nghiên cứu tảo ở các thủy vực biển, sơng, suối, hồ, hồ chứa được nhiều cơng
trình nghiên cứu đề cập đến trong đó thủy vực dạng hồ và hồ chứa có thành phần
lồi tảo đặc trưng. Những nghiên cứu về tảo đầu tiên ở Việt Nam được các nhà
khoa học nước ngoài tiến hành. Nhà thực vật người Pháp Loureiro.J (1793) đã
- 12 -


mô tả về tảo lục Ulva pisum [theo 18]. Bois M. và Petit. P(1904) đã mơ tả 38 lồi
tảo silíc tìm thấy trong ao hồ Sài Gịn [theo 19]. Năm 1933, Fiere đã xác định 43
loài tảo ở Thảo Cầm Viên Sài Gòn [theo 18]. Nguyễn Văn Tuyên là người có
đóng góp quan trọng trong nghiên cứu tảo nước ngọt nói chung và thủy vực dạng
hồ và hồ chứa nói riêng. Năm 1980 với cơng trình nghiên cứu tảo nước ngọt
miền bắc Việt Nam đã cơng bố 979 lồi và dưới loài (gồm 136 tảo mắt, 18 loài
lam, 388 loài tảo lục, 2 lồi tảo vịng, 10 lồi tảo giáp, 260 lồi tảo silic trong đó
có 766 lồi mới đối với Việt Nam) [26]. Năm 2003, tác giả đã công bố 259 loài
và dưới loài ở hồ chứa Trị An và Dầu Tiếng trong đó : 29 lồi tảo mắt, 114 loài
tảo lục, 42 loài lam, 4 loài tảo vàng ánh, 4 loài tảo giáp, 64 loài tảo silic [27].
Shirota A.(1966) đã khảo sát 21 vực nước từ Huế đến Rạch Giá đã cơng bố 388
lồi vi tảo (gồm: 57 loài tảo mắt, 29 loài lam, 43 loài tảo vàng, 10 loài tảo giáp,
103 loài tảo silic, 4 loài tảo roi lệch) [35]. Năm 1978-1980 nghiên cứu về tảo ở
Đà Lạt trong các thủy vực khác nhau (trong đó có hồ Xn Hương) Nguyễn

Thanh Tùng đã cơng bố 86 lồi và dưới loài và 55 loài phát hiện ở Tây Nguyên
[theo 19].
Hortabagyi T.(1966- 1969) nghiên cứu tảo ở hồ Hoàn Kiếm và một số hồ khác
ở Hà Nội đã công bố 128 loài và dưới loài gồm : 103 loài tảo lục, 24 lồi tảo
lam, 1 lồi tảo mắt, có 33 loài mới đối với khoa học, riêng chi Scenedesmus có
30 lồi [theo 18].
Năm 1979 Dương Đức Tiến đã nghiên cứu thực vật nổi ở hồ Tây - Hà Nội và
cơng bố nhiều lồi vi tảo bổ sung vào hệ thống tảo Việt Nam. Dương Đức Tiến
(1982) trong luận án Tiến sỹ Khoa học:"Khu hệ tảo các thủy vực nước ngọt Việt
Nam" đã cơng bố 1402 lồi, trong đó đã nghiên cứu các thủy vực dạng hồ khác
như Ba Bể, Biển Hồ, hồ Lăk, Hồ Hoàn Kiếm, hồ Khe Lang, hồ Xuân
Hương….Tổng số loài tảo gặp ở thủy vực dạng hồ là: 339 loài và dưới loài
(gồm: 71 loài tảo lam, 1 loài tảo đỏ, 11 loài tảo giáp, 3 loài tảo vàng ánh, 114
- 13 -


loài tảo silic, 1 loài tảo vàng, 12 loài tảo mắt, 124 lồi tảo lục, 2 lồi tảo vịng)
[41].
Ở khu vực miền Trung, Võ Hành (1983) khi nghiên cứu hồ Kẽ Gỗ (Hà Tĩnh)
đã cơng bố 191 taxon bậc lồi và dưới lồi [38]. Năm 1994, ơng lại cơng bố 45
loài tảo lục (thuộc bộ Chlorococcales) sống trong khu vực Bình Trị Thiên và bổ
sung 19 taxon mới đối với khu vực này[theo 18]. Năm 1995, khi nghiên cứu 121
thủy vực nước ngọt thuộc 5 tỉnh Bắc Trường Sơn, tác giả đã công bố 65 taxon
thuộc bộ Chlorococcales [theo 18]. Gần đây, năm 2003 Võ Hành và Trần Mộng
Lai công bố 48 loài và dưới loài tảo lục bộ Chlorococcales ở hồ chứa Bến En Thanh Hóa. Các chi chủ đạo thuộc về Scenedesmus, Pediastrum và Tetraedron.
Mặt khác sự phân bố của tảo phụ thuộc vào đặc tính của lồi và chế độ thủy văn
của hồ chứa [10]. Năm 2001, Nguyễn Đình San đã cơng bố 196 lồi và dưới loài
(thuộc 60 chi, 31 họ, 11 bộ tập trung trong 5 ngành, có 16 lồi bổ sung cho khu
hệ tảo Việt Nam) ở 20 thủy vực thuộc các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh (
trong đó có 6 thủy vực dạng hồ) [18]. Lê Thị Thúy Hà và cộng sự (2007 - 2008)

đã nghiên cứu thành phần vi tảo ở một số hồ ở thành phố Vinh như hồ cửa Nam,
hồ Công Viên Trung và hồ Vị Xuyên Nam Định [6], [7], [8]
Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ 3 (Hà Nội ngày 22/10/2009) trong báo cáo
khoa học về sinh thái và tài nguyên sinh vật đã công bố nhiều cơng trình về
nghiên cứu vi tảo trong thủy vực dạng hồ và hồ chứa tiêu biểu là :
- Tơ Nguyệt Nga (Đại học An Giang) với cơng trình: "Thực vật nổi và chất
lượng sinh học của nước vùng cửa xã hồ Dầu Tiếng". Cơng trình đã cơng bố 163
loài thuộc 5 ngành 6 lớp, 11 bộ, 22 họ thực vật nổi (ngành tảo lục chiếm ưu thế
với 123 loài, tảo vàng ánh với 12 loài, tảo lam với 16 loài, tảo mắt với 8 loài, tảo
giáp 4 loài, có 5 lồi tảo độc, nhóm gây mùi vị có 51 loài) [16].
- Đặng Thị Thơm, Hoàng Trung Kiên, Vũ Thị Nguyệt, Đặng Đình Kim (Viện
Cơng nghệ mơi trường) với đề tài: "Nghiên cứu một số yếu tố môi trường và hệ
- 14 -


vi tảo tại hồ Hoàn Kiếm trước khi ứng dụng cơng nghệ hút bùn" đã cơng bố 61
lồi với 4 ngành nghiên cứu: tảo lam 19 loài, tảo lục 37 loài, tảo silic 2 loài, tảo
mắt 3 loài [21]
-

Lê Hương (Đại Học Tây Ngun) với cơng trình: "Thực vật nổi ở hồ

EANHÁI- Tỉnh Đắk Lắk" đã định loại được 237 loài thuộc 7 ngành phổ biến của
thực vật nỗi nước ngọt ( 91 loài tảo lục, 88 loài tảo mắt, 27 loài tảo silic 18 loài
tảo lam, 7 loài tảo 2 roi, 3 loài tảo vàng ánh, bổ sung 5 loài cho thực vật Việt
Nam), số lượng tế bào mùa mưa: 1.358.000 - 1.486.000 tế bào/lit, mùa khô
khoảng 872.000 - 908.000 tế bào/lit [11].
- Thái Ngọc Trí, Hồng Đức Đạt, Nguyễn Xuân Đồng, Nguyễn Văn Sinh và
cộng sự (Viện Sinh học nhiệt đới) với cơng trình: "Nghiên cứu đa dạng sinh học
khu hệ thủy sinh vật và thủy sản ở Búng Bình Thiên - tỉnh An Giang phục vụ

cho việc đề xuất xây dựng khu bảo tồn thủy sản nội địa quốc gia" đã cơng bố 66
lồi thực vật nổi [25]
Ngồi ra cịn phải kể đến một số cơng trình của các tác giả khác như: Trần Dự
Chi và cộng sự (2001) [3], Nguyễn Công Minh, Dương Đức Tiến (1998) [13],
[14] ở hồ Ba Bể
Tóm lại thủy vực dạng hồ và hồ chứa ở Việt Nam đã có nhiều thành tựu, đã
đánh giá được sự đa dạng của vi tảo, cũng như mối quan hệ giữa yếu tố sinh thái
sự phân bố vi tảo..Hầu hết các thủy vực thì ngành tảo chiếm ưu thế là tảo lục và
tảo lam.

- 15 -


Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng, phạm vi và thời gian nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Một số chỉ tiêu thủy lí, thủy hóa (nhiệt độ nước, độ trong, pH, hàm lượng DO,
COD, NH4+, PO 4 3-) và thành phần loài, số lượng tế bào vi tảo ở hồ chứa nước
Bộc Nguyên - Hà Tĩnh.
2.1.2. Thời gian nghiên cứu:
+ Ngày 25/12/2008 tiến hành thu mẫu đợt 1.
+ Ngày 2/03/2009 tiến hành thu mẫu đợt 2.
+ Ngày 16/06/2009 tiến hành thu mẫu đợt 3
2.2. Phương pháp nghiên cứu:
2.2.1. Phuơng pháp điều tra và thu mẫu tại hiện truờng:
- Khảo sát địa hình hồ.
- Chia hồ nghiên cứu theo ba mặt cắt, mỗi mặt cắt thu tại 3 điểm. Tổng số
điểm thu mẫu là 9 điểm.

- 16 -



7
8
6

9
5
4

1
2

3

Hình 2.1. Sơ đồ địa điểm thu mẫu.
2.2.2.Thu mẫu nước và mẫu tảo:
- Thu mẫu nước:
Mẫu nước dùng để phân tích một số chỉ tiêu thủy lí, hủy hóa được thu vào
chai nhựa PE 2 lít cho vào 2ml clorofoorm/1l nước mẫu, bảo quản ở 40C, phân
tích trong 24h. Mẫu nước để phân tích oxi hịa tan (DO) được cố định tại hiện
trường theo phương pháp Winkler.

- 17 -


- Mẫu tảo được thu trùng với các điểm của mẫu nước
+ Thu mẫu định tính:
Dùng lưới vớt thực vật nổi N075 vớt qua vớt lại nhiều lần (ít nhất 100 lần) sau
đó lấy 50 ml cho vào bình tam giác.

+ Thu mẫu định lượng:
Đong 10 lít nước lọc qua lướt vợt thức vật nổi N075 để thu vào bình tam giác
được 50ml.
Tất cả các mẫu định tính và định lượng được cố định bằng dung dịch
foocmol 4% và lưu giữ tại phịng thí nghiệm Thực vật - Khoa Sinh học Đại học
Vinh. Tất cả các lọ đều ghi nhãn đầy đủ.
2.3. Phương pháp phân tích các chỉ tiêu thủy lí, thủy hóa:
Để xác định chỉ tiêu thủy lí, thủy hóa tơi sử dụngầtì liệu của tổ chức y tế Hoa
Kỳ 1985 [28]
- Đo nhiệt độ và pH nước tại hiện trường bằng máy đo pH meter ( Đức)
- Đo độ trong bằng đĩa Secchi
- Oxi hòa tan được xác định bằng phương pháp Winkler
- Xác định COD bằng phương pháp kali permanganat.
- Xác định hàm lượng NH 4 + bằng phưong pháp so màu với thuốc thử Nessler ở
bước sóng bằng 410 nm.
- Xác định hàm lượng PO 4 3- bằng phương pháp so màu với axit sunfomlipdic và
thuốc thử SnCl2 ở bước sóng bằng 630nm.
2.4. Phương pháp xác định thành phần loài vi tảo:
Mẫu tảo được quan sát dưới kính hiẻn vi quang học có độ phóng đại 400-600
lần, đo kích thước, quan sát chi tiết, mơ tả, vẽ hình và chụp ảnh. Riêng mẫu tảo
Silic được đốt trên bếp điện 4-6h và cố định bằng baume Canada.
Để xác định lồi chúng tơi sử dụng các tài liệu sau:
 Đối với ngành Cynophyta:
- 18 -


- Gollerbakh M.M và cộng sự (1953). [39]
- Desikchary T.V (1959) [31]
- Dương Đức Tiến (1996) [22]
 Đối với ngành Euglenophyta

- Popova T.T(1955) [43]
 Đối với ngành Chlorophyta:
- Philipose M.T (1967) [34]
- Ergashev A.E (1979) [45]
- Dương Tiến Đức, Võ Hành (1997) [23]
- Lindau G. và cộng sự (1930) [37]
 Đối với lớp Bacillariophyceae (ngành Heterokontophyta)
- Zabelina M.M(1951) [40]
 Ngành Dinophyta:
- Kisselev I.A. (1954) [42]
Ngồi ra cịn tham khảo thêm tài liệu của Shirota A. (1966) [35]
Hệ thống danh lục các loài vi tảo thuộc các ngành nghiên cứu sau khi đã
định danh được sắp xếp theo Van den Hoek C. và cộng sự (1995) [36],
[47]
2.5 Phương pháp xác định số lượng loài vi tảo:
 Xác dịnh mức độ gặp các loại vi tảo thuộc các ngành theo quy ước
Mỗi mẫu tảo ở mỗi địa điểm thu mẫu được quan sát trên 15 tiêu bản, nếu
mỗi loài tảo xuất hiện trong số tiêu bản chiếm :
- Từ 70-100%: loài gặp nhiều :+++
- Từ 40% đến dưới 70% loài thường gặp :++
- Dưới 40%: lồi gặp ít :+


Xác định số lượng tế bào tảo bằng phương pháp đếm trong buồng

đếm Goriaev. Đếm số tế bào vi tảo có trong 25 ơ lớn của buồng đếm là m,
- 19 -


thể tích của 25 ơ lớn là : m.10-4 cm3. Vậy số tế bào có trong 1ml là m.104,

từ đó suy ra trong 1lít là m.104.103 = m.107 hay m.107 tb/l). Khi ta lọc 10
lít nước hồ qua lưới để lấy 50 ml về phân tích nghĩa là đã cơ đặc thể tích
200 lần (2.102) vì vậy khi tính số tế bào trong 1 lít nước của thủy vực thì
phải chia cho 2.102 lần. Vậy số lượng tế bào tảo trong 1 lít nước thủy vực
là:
X=

m
.105 tb/l
2

Trong đó : m: là số tế bào đếm được trong 25 ô vuông lớn của buồng đếm
X: là số tế bào đếm được trong 1 lít nước trong hồ chứa.

- 20 -


Chƣơng 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN:
3.1. Một số đặc điểm về hồ chứa nước Bộc Nguyên:
- Hồ chứa nước Bộc Nguyên thuộc xã Cẩm Thạch - huyện Cẩm Xuyên - Tĩnh Hà
Tĩnh có tọa độ: 18014'14" N và 105053'45" E, là nơi tiếp giáp giữa huyện Thạch
Hà và Cẩm Xuyên.
Hồ chứa nước Bộc Nguyên cách trung tâm thành phố Hà Tĩnh 12 km, cách hồ
chứa Kẻ Gỗ 7 km. Hồ Bộc Nguyên nằm trong khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ
được thành lập theo QĐ số 970/TTg ngày 28/12/1996 của Chính phủ (khu bảo
tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ có tổng diện tích tự nhiên hơn 35.000ha, trong đó khu bảo
tồn gần 25.000ha, rừng phịng hộ 10.358ha, có tác dụng tạo nguồn sinh thủy cho
hệ thống thủy lợi, điều tiết dòng chảy của các hồ đập như hồ Kẻ Gỗ, hồ Bộc
Nguyên và sông Rác để tưới cho hơn 22.000ha đất canh tác). Hà tĩnh có tổng
lượng mưa bình qn biến động từ 2.000 đến 3.000mm/năm, có vùng trên

3.500mm.
3.2. Kết quả phân tích một số chỉ tiêu về thuỷ lý, thuỷ hố ở hồ chứa nƣớc
Bộc Ngun:
3.2.1. Nhiệt độ:
Mỗi lồi sinh vật có một giới hạn chịu đựng về nhiệt độ, trong giới hạn đó có
điểm cực thuận. Tại điểm cực thuận sinh vật sẽ phát triển tốt nhất. Nhiệt độ là
yếu tố sinh thái ảnh hưởng lớn đến sự phân bố, thành phân lồi sinh vật nói
chung và vi tảo nói riêng. Kết quả quan trắc nhiệt độ nước ở hồ Bộc Nguyên Hà Tĩnh được trình bày ở bảng 3.1. Nhìn vào bảng kết quả ta thấy rằng nhiệt độ
nước tại đợt 1 thấp nhất và cao nhất ở đợt 3. Trong mỗi đợt thu mẫu ở các điểm
khác nhau ít chênh lệch về nhiệt độ. Nhiệt độ nước phụ thuộc nhiều vào nhiệt độ
khơng khí . Ở đây nhiệt độ nước ít chênh lệch với nhiệt độ khơng khí (0 - 10C)

- 21 -


Bảng 3.1: Nhiệt độ nước ở hồ Bộc Nguyên-Hà Tĩnh qua các đợt nghiên cứu (0t):
Thời gian thu mẫu

Đợt 1 (12/2008)

Đợt 2 (3/2009)

Đợt 3 (6/2009)

Đ1

19,8

29,6


35,5

Đ2

19,6

29,8

35,3

Đ3

19,3

29,5

35,3

Vị trí

Đ4

19,4

29,7

35,4

Thu mẫu


Đ5

19,1

30,0

35,1

Đ6

19,7

29,9

35,0

Đ7

19,6

29,6

35,1

Đ8

19,3

29,8


35,2

Đ9

19,5

29,6

35,1

Trung bình

19,5

29,7

35,2

t0 khơng khí (oC)

19

30

35,5

3.2.2. Độ trong:
Độ trong của thuỷ vực phản ánh các chất lơ lững trong thuỷ vực, nó ảnh
hưởng đến ánh sáng xuyên vào các tầng nước vì vậy ảnh hưởng đến quang hợp
của vi tảo...Ngược lại sự phát triển quá mức của thực vật nổi (sự nở hoa) và các

nhóm thủy sinh vật khác cũng ảnh hưởng đến độ trong. Trong các thủy vực nước
đứng độ trong của hồ chứa thường cao dao động từ 20 - 120 cm. Độ trong của hồ
có sự thay đổi theo mùa.
Qua bảng 3.2 và biểu đồ 3.1 ta thấy hồ Bộc Nguyên có độ trong cao trung bình
là 92,7 cm. Đợt thu mẫu 2 có độ trong thấp nhất là do hàm lượng chất hồ tan
nhiều, có thể do mưa đem theo chất hoà tan từ thượng nguồn của hồ. Các điểm
nghiên cứu độ trong cũng thay đổi, các điểm có độ trong cao nhất là: điểm 5 (do
điểm 5 nằm ở giữa hồ). Như vậy so với các hồ lớn như hồ Ba Bể (có độ trong là:

- 22 -


290 cm), hồ chứa Yaly ở Gia Lai, Tây Nguyên (tại thời điểm mới tích nước một
năm có độ trong là 340 cm) thì độ trong hồ Bộc Nguyên thấp hơn.
Bảng 3.2: Độ trong hồ Bộc Nguyên - Hà Tĩnh (đơn vị: cm)
Thời gian thu mẫu

Đợt 1

Đợt 2

Đợt 3

(12/2008)

(3/2009)

(6/2009)

Đ1


90

88

94

Đ2

95

91

97

Đ3

93

90

93

Đ4

92

91

94


Vị trí

Đ5

96

92

98

Thu mẫu

Đ6

91

89

92

Đ7

91

89

94

Đ8


94

93

97

Đ9

93

90

95

92,8

90,3

94,9

Tổng
Trung bình

92,7

100
98
96
94

92
90
88

Đợt 1
Đợt 2
Đợt 3

86
84
82
Đ1

Đ2

Đ3

Đ4

Đ5

Đ6

Đ7

Đ8

Đ9

Biểu đồ 3.1: Biến động độ trong qua các đợt nghiên cứu và các điểm thu mẫu


- 23 -


3.1.3. pH :
Nước kiềm hay axit, có ảnh hưởng rất lớn đến đánh giá chất lượng nước, bởi
vì các phản ứng thủy hóa liên quan đến nồng độ ion trong nước. pH phản ánh
nồng độ các ion H+ và OH- có trong thuỷ vực, pH ảnh hưởng quan trọng đến vi
tảo. Mỗi lồi sinh vật thường thích nghi với một pH nhất định. Qua phân tích pH
tại địa điểm nghiên cứu có kết quả sau:
Bảng 3.3 : Trị số pH ở hồ Bộc Nguyên qua các đợt nghiên cứu:
Thời gian thu

Đợt

mẫu

Đợt

Đợt3

1(12/2008) 2(3/2009)

(6/2009)

Đ1

6,7

6,9


6,8

Đ2

7,0

7,1

7,1

Đ3

6,7

6,9

6,8

Vị trí

Đ4

6,8

6,8

6,8

Thu mẫu


Đ5

7,0

7,0

7,1

Đ6

6,8

6,9

6,8

Đ7

6,8

6,9

6,9

Đ8

6,9

7,1


7,0

Đ9

6,8

6,9

6,9

6,83

6,95

6,91

Tổng
Trung bình

TCVN 5942-1995
A

B

6,0 - 8,5

5,5 - 9

6,90

7,2
7,1
7
Đợt 1

6,9

Đợt 2
Đợt 3

6,8
6,7
6,6
6,5
Đ1

Đ2

Đ3

Đ4

Đ5

Đ6

Đ7

Đ8


Đ9

Biểu đồ 3.2: Biến động pH qua các đợt nghiên cứu và các điểm thu mẫu
- 24 -


Qua bảng 3.3 và biểu đồ 3.2 cho thấy trung bình cả 3 đợt thu mẫu là 6,9 điều
đó cho thấy pH ở đây gần trung tính, nằm trong giới hạn nước loại A (theo
TCVN 5942 - 1995) [1]. So với hồ Kẻ Gỗ ( pH = 6,65) thì hồ Bộc Nguyên cao
hơn. Trong 3 đợt thì pH cao nhất là ở đợt 2, các điểm thu mẫu ít chênh lệch về
pH, đạt cao nhất ở điểm 2 và đợt thu mẫu lần 2 và lần 3.
3.2.4. Oxy hòa tan (Dissolved Oxygen - DO):
Hàm lượng các chất khí trong nước bao gồm khí oxi và các chất khí khác, một
mặt được hấp thụ từ khí quyển, mặt khác được là những sản phẩm tạo thành từ
quang hợp của vi tảo, từ chu trình sinh - địa - hóa trong khối nước và trầm tích.
Vai trị của của khí hịa tan trong nước rất có ý nghĩa, chúng tác động trực tiếp
lên đời sống của thủy sinh vật trong thủy vực trong đó DO là chỉ tiêu quan trọng
dùng để đánh giá chất lượng nước. Khi hàm lượng oxi thấp chứng tỏ rằng thuỷ
vực đã bị ô nhiễm hữu cơ cao vì oxi cần cho q trình oxi hố các chất trong
thuỷ vực. Chỉ tiêu này phụ thuộc vào nhiệt độ, ánh sáng, hàm lượng chất hồ tan,
gió, thuỷ sinh vật...
Nghiên cứu chỉ tiêu này ở hồ Bộc Nguyên ta thấy DO trung bình là 7,72 nằm
trong giới hạn nước loại A (TCVN 5942 - 1995). Trong 3 đợt thu mẫu thì đợt 1
(cao nhất DO: 7,8 mg/l) và điểm 2 (DO là: 8 mg/l ) cao nhất (bảng 4.4 và biểu đồ
3.3)
8,1
8
7,9
7,8
7,7

7,6
7,5
7,4
7,3
7,2

Đợt 1
Đợt 2
Đợt 3

Đ1

Đ2

Đ3

Đ4

Đ5

Đ6

Đ7

Đ8

Đ9

Biểu đồ 3.3: Biến động DO qua các đợt nghiên cứu và các điểm thu mẫu
- 25 -



×