Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Học thuyết kinh tế tư sản cổ điển sự vận dụng ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.62 KB, 31 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài tiểu luận “Học thuyết kinh tế tư sản cổ điển. Sự
vận dụng ở Việt Nam hiện nay” là cơng trình nghiên cứu của bản thân. Những
phần sử dụng tài liệu tham khảo trong bài tiểu luận đã được nêu rõ trong phần
tài liệu tham khảo. Những kết quả, số liệu trình bày trong bài tiểu luận là hồn
tồn trung thực. Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm trước bộ mơn, khoa và nhà
trường về sự cam đoan này.
Hải Dương, tháng 12 năm 2020
Sinh viên
Mai Phương Anh


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
PHẦN I: MỞ ĐẦU..............................................................................................1
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU...........................1
1.3. ĐỐI TƯỢNG CỦA CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU...................................1
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...............................................................2
1.5. KẾT CẤU CỦA CHUYÊN ĐỀ..................................................................2
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU..............................................................3
2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU...............................3
2.1.1. Khái niệm về học thuyết kinh tế...........................................................3
2.1.2. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của các học thuyết kinh tế tư sản cổ
điển..................................................................................................................3
2.2. CÁC ĐẠI BIỂU CỦA TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC CỔ
ĐIỂN..................................................................................................................4
2.2.1. William Petty (1623 – 1687).................................................................4
2.2.2. Adam Smith (1723 – 1790)...................................................................5


2.2.3. David Ricardo (1772 – 1823)................................................................6
2.3. NỘI DUNG CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA TRƯỜNG PHÁI
KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC CỔ ĐIỂN............................................................8
2.3.1. Học thuyết giá trị - lao động.................................................................8
2.3.2. Học thuyết tiền tệ................................................................................13
2.3.3. Học thuyết thu nhập............................................................................15
2.3.4. Học thuyết về tư bản...........................................................................20
2.4. SỰ VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY...........................................22
PHẦN III: KẾT LUẬN.....................................................................................26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT:
1. XHCN: Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ: Khơng có bảng biểu sơ đồ nào (Hồn
tồn giải thích bằng chữ viết).


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Xuyên suốt chiều dài phát triển của xã hội lồi người, q trình lao động
sản xuất, trao đổi hàng hóa ln diễn ra và đó là khởi đầu cho các quan hệ kinh
tế. Sự nhận thức của con người về các quan hệ kinh tế hình thành nên tư tưởng
kinh tế trước khi chúng được khái quát thành các học thuyết kinh tế. Mỗi học
thuyết kinh tế đều gắn với các giai cấp, các điều kiện kinh tế - xã hội nhất định
và là cơ sở để xây dựng đường lối, chính sách kinh tế phù hợp với từng thời kỳ.
Nền kinh tế việt nam sau công cuộc đổi mới năm 1986 cho đến nay đã có
sự thay đổi rõ nét. Sự nhận thức đúng đắn và chắt lọc những tư duy tiến bộ, phù
hợp với thời đại của các học thuyết kinh tế thế giới đã góp phần không nhỏ vào
sự phát triển kinh tế hiện nay. Từ một nền kinh tế hóa tập trung, chúng ta đã

chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thay
đổi này mang một ý nghĩa lịch sử hết sức quan trọng đối với một đất nước vừa
trải qua chiến tranh và có sự tụt hậu kinh tế khá xa so với thế giới.
Xuất phát từ mong muốn tìm hiểu kỹ hơn về đóng góp của các học thuyết
kinh tế đối với nền kinh tế Việt Nam, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Các học
thuyết tư sản cổ điển và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay”. Tơi sẽ tập trung vào
phân tích, nhận định từng học thuyết, thực trạng áp dụng các học thuyết và từ đó
có những đề xuất góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả việc vận dụng tại Việt
Nam.
Nắm bắt một cách khái quát về tư tưởng kinh tế trong từng học thuyết
kinh tế tư sản cổ điển, từ đó có những nhận xét đánh giá những thành tựu và hạn
chế khi vận dụng tại Việt Nam.
Từ thực trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay, tôi sẽ đưa ra những đề xuất,
đóng góp nhằm phát huy hơn nữa những thành tựu của các học thuyết khi áp
dụng tại Việt Nam.

1


1.3. ĐỐI TƯỢNG CỦA CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Kinh tế chính trị tư sản cổ điển chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực
lưu thông sang lĩnh vực sản xuất, nghiên cứu các quan hệ kinh tế trong quá trình
tái sản xuất, trình bày có hệ thống các phạm trù kinh tế trong nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa: hàng hóa, tiền tệ, giá cả, tiền lương, lợi tức, địa tô,… từ đó rút ra các
quy luật vận động của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Sự nhận thức và vận dụng các học thuyết kinh tế tại Việt Nam hiện nay.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tôi sử dụng các phương pháp như: so sánh, diễn giải, phân tích để nghiên
cứu đề tài.
Ngồi ra, tơi cịn tham khảo thêm những tài liệu có liên quan từ các báo

cáo hoạt động kinh tế, xã hội có liên quan, giáo trình và các bài viết trên mạng
internet,…
1.5. KẾT CẤU CỦA CHUYÊN ĐỀ
Ngoài phần mục lục, tài liệu tham khảo kết cấu của chuyên đề bao gồm
03 phần chính:
Phần I: Mở đầu
Phần II: Nội dung của chuyên đề
Phần III: Kết luận

2


PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1.1. Khái niệm về học thuyết kinh tế
2.1.1.1. Tư tưởng kinh tế
Học thuyết kinh tế là hệ thống tư tưởng kinh tế của các đại biểu tiêu biểu
cho các tầng lớp, giai cấp trong một chế độ xã hội nhất định đã đạt đến một trình
độ khái quát chung và vạch rõ được mối liên hệ bản chất bên trong của các hiện
tượng, quá trình kinh tế. Hệ thống quan điểm kinh tế là kết quả của việc phản
ánh quan hệ sản xuất vào ý thức con người qua những giai đoạn lịch sử nhất
định.
2.1.1.2. Học thuyết kinh tế
Học thuyết kinh tế là hệ thống tư tưởng kinh tế của các đại biểu tiêu biểu
cho các tầng lớp, giai cấp trong một chế độ xã hội nhất định đã đạt đến một trình
độ khái quát chung và vạch rõ được mối liên hệ bản chất bên trong của các hiện
tượng, quá trình kinh tế, Hệ thống quan điểm kinh tế là kết quả của việc phản
ánh quan hệ sản xuất vào ý thức con người qua những giai đoạn lịch sử nhất
định.
2.1.2. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của các học thuyết kinh tế tư sản cổ

điển
2.1.2.1. Hoàn cảnh ra đời
Các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển ra đời vào cuối thế kỉ XVII, phát
triển mạnh mẽ trong suốt thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX. Trường phái kinh
tế chính trị cổ điển xuất hiện và phát triển ở hai nước Anh và Pháp, trong đó chủ
yếu là nước Anh với ba nhà kinh tế tiêu biểu là: William Petty, Adam Smith,
David Ricardo.
Hoàn cảnh ra đời của các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển có thể khái
quát ở những điểm sau:
Cuối thế kỷ XVII, nhiệm vụ tích lũy nguyên thủy tư bản về cơ bản đã
hồn thành, vai trị của tư bản thương nghiệp giảm xuống, lý luận trọng thương
không còn đủ sức thuyết phục. Thực hiện đòi hỏi phải có lý luận mới thay thế
cho lý luận trọng thương.
3


Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, các công trường thủ công
tư bản chủ nghĩa ra đời ngày càng nhiều đã cho thấy nguồn gốc của cải không
phải từ lưu thông mà phải từ sản xuất. Thực tế đó đã giúp các nhà kinh tế tư sản
cổ điển đưa ra các học thuyết kinh tế khẳng định, lao động làm thuê của những
người nghèo là nguồn gốc làm giàu của các nhà tư bản.
Về mặt xã hội, một yêu cầu mới đặt ra là tiếp tục phê phán phương thức
sản xuất phong kiến lỗi thời, khẳng định tính ưu việt hơn của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa và tìm biện pháp bảo vệ và thúc đẩy chủ nghĩa tư bản phát
triển nhanh hơn. Trường phái kinh tế chính trị cổ điển ra đời đáp ứng được yêu
cầu đó.
2.1.2.2. Đặc điểm của các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển
- Thứ nhất: Kinh tế chính trị tư sản cổ điển đã chuyển đối tượng nghiên
cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Với việc chuyển đối tượng
nghiên cứu sang lĩnh vực sản xuất, đã giúp trường phái kinh tế này đi sâu nghiên

cứu và giải thích đúng nguồn gốc của cải.
- Thứ hai: Về phương pháp nghiên cứu, kinh tế chính trị tư sản cổ điển đã
sử dụng phương pháp trừu tượng hóa. Nhờ có phương pháp này, kinh tế chính
trị cổ điển đã đi sâu nghiên cứu và trình bày có hệ thống các phạm trù kinh tế
như giá trị, giá cả, tiền tệ, lợi nhuận,… Tuy vậy, do giới hạn về thế giới quan và
điều kiện lịch sử, các nhà kinh tế tư sản cổ điển đã có những kết luận khơng
khoa học, thậm chí mâu thuẫn với những quan điểm của họ. Đó chính là tính hai
mặt trong phương pháp luận của trường phái kinh tế này.
- Thứ ba: Các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển đề cao tư tưởng tự do kinh
tế, đề cao tính quy luật trong nền kinh tế, tư tưởng này hoàn toàn khác với chủ
nghĩa trọng thương – đề cao vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước.
2.2. CÁC ĐẠI BIỂU CỦA TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC
CỔ ĐIỂN
2.2.1. William Petty (1623 – 1687)
W.Petty sinh ra trong một gia đình làm nghề thủ cơng nhỏ. Ơng là người
có nhiều tài năng, học rộng biết nhiều lĩnh vực: năm 1647 phát minh ra máy
chữ, năm 1649 nhận học vị tiến sĩ vật lý, năm 1657 là giáo sư giải phẫu và âm
nhạc, năm 1658 làm bác sĩ trong quân đội Cromwell tham gia cướp bóc Ireland.
4


W.Petty đã viết nhiều tác phẩm như: Bàn về thuế khóa và lệ phí (1662),
Lời nói với những kẻ khơn (1664), Giải phẫu học chính trị ở Ireland (1672), Số
học chính trị (1676), Bàn về tiền tệ (1682).
Trong những tác phẩm đầu tiên, W.Petty còn mang nặng tư tưởng trọng
thương, nhưng trong tác phẩm cuối cùng của ơng khơng cịn dấu vết của trọng
thương.
Về phương pháp luận, W.Petty đã áp dụng phương pháp mới về nhận
thức. Tư tưởng trọng thương chỉ thỏa mãn với việc đơn thuần là đưa ra những
biện pháp kinh tế hay chỉ miêu tả lại những hiện tượng kinh tế theo kinh

nghiệm, cịn W.Petty tìm cách giải quyết những hiện tượng đó. Ơng đã tiếp cận
quy luật khách quan. Ơng cho rằng, trong chính sách kinh tế cũng như trong y
học cần phải tính đến những q trình tự nhiên, khơng nên dùng những hành
động cưỡng bức riêng của mình để chống lại những quá trình đó.
Tuy vậy, ơng đã nhầm lẫn coi các quy luật kinh tế cũng như quy luật tự
nhiên tồn tại vĩnh viễn.
Về thế giới quan triết học, ông chống lại siêu hình nhưng là người theo
chủ nghĩa duy vật tự phát, coi kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức (ông là người
theo triết học Bacon).
Phương pháp trình bày của ơng: xuất phát từ hiện tượn cụ thể, phức tạp, đi
đến hiện tượng trừu tượng. Đó cũng là phương pháp kinh tế học đặc trưng của
thế kỷ XVII.
2.2.2. Adam Smith (1723 – 1790)
A.Smith sinh 5-6-1723 tại Scotland trong một gia đình cơng chức ngành
thuế. Ơng là một người có tài năng và được đào tạo tại các trường đại học danh
tiếng của nước Anh.
Năm 1748, A.Smith tốt nghiệp đại học và ba năm sau ông tham gia giảng
dạy một số môn như logic học, triết học, đạo đức, thiên văn. Năm 1763, ông đi
du lịch nhiều nước Châu Âu. Tại Pháp, ông đã tiếp xúc với trường phái trọng
nông và chịu ảnh hưởng các quan điểm kinh tế của trường phái này.
Sau khi ở Pháp về, năm 1766, A.Smith xin thôi giảng dạy, trở về sống ở
thành phố quê hương Kieccandi và tập trung nghiên cứu kinh tế. Năm 1776, ông
5


xuất bản tác phẩm: “Của cải của dân tộc” (The wealth of nations). Tác phẩm này
đã làm cho ông nổi tiếng không chỉ ở nước Anh mà trên cả thế giới.
A.Smith là nhà tư tưởng tiên tiến của giai cấp tư sản, ơng muốn thủ tiêu
tàn tích phong kiến, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển, kêu gọi tích lũy
và phát triển lực lượng sản xuất theo ý nghĩa tư bản, xem chế độ tư bản chủ

nghĩa là hợp lý duy nhất. K.Marx coi A.Smith là nhà kinh tế học tổng hợp của
công trường thủ công.
Thế giới quan của A.Smith về cơ bản là duy vật. Ông tiến xa hơn những
người trước là tìm hiểu các quy luật kinh tế. Đó là đặc trưng trong phương pháp
luận của ông, Nhưng chủ nghĩa duy vật ở ông còn tự phát, máy móc. Ơng cịn xa
lạ với phép biện chứng.
Phương pháp luận của A.Smith là, một mặt đi sâu vào mối liên hệ bên
trong của nền kinh tế; mặt khác, chỉ là mô tả, liệt kê, thuật lại những biểu hiện
bên ngoài đời sống kinh tế. Phương pháp luận này mâu thuẫn với nhau và có ảnh
hưởng tới các tư tưởng kinh tế sau này.
2.2.3. David Ricardo (1772 – 1823)
D.Ricardo sinh năm 1772 tại London trong một gia đình Do Thái giàu có.
Ơng được đào tạo chu đáo theo hướng kế nghiệp cha trong thế giới tài chính và
thương mại. Khi 14 tuổi ông vào làm trong công ty mô giới của cha, ơng nhanh
chóng làm quen với hoạt động kinh doanh. Ông được xem là một nhà đàm phán
cực kỳ tài năng, và nhanh chóng thành thạo trong các hoạt động đầy khó khăn
và bí ẩn như kinh doanh trên thị trường chứng khốn.
D.Ricardo bị cha từ bỏ vì ông cưới một cô gái thuộc giáo phái Quaker và
cải sang đạo Thiên chúa. Khơng một xu dính túi và phải đảm bảo cho cuộc sống
gia đình, D.Ricardo chạy vạy khắp nơi để vay tiền và mở một công ty mơ giới
của chính ơng. Dù những năm đầu đầy gian khó, nhưng sau đó khơng lâu ơng
nhanh chóng kiếm được một tài sản lớn và trở nên độc lập về tài chính vào tuổi
26. Điều này cho phép ơng giành thời gian theo đuổi những sở thích của ơng
trong lĩnh vực khoa học và tri thức. Ông thành lập một phịng thí nghiệm, bắt
đầu thu thập khống vật, văn hóa tham gia hội địa chất học Anh.

6


Trong một kỳ nghỉ với vợ vào năm 1799, D.Ricardo ngẫu nhiên đọc được

cuốn “Của cải của các dân tộc” của A.Smith, D.Ricardo quyết định dành thời
gian rảnh rỗi cho nghiên cứu kinh tế.
Năm 1819, D.Ricardo có được một ghế trong hạ viện Anh. Đây là một
ghế đại biểu cho hạt Portarlington xứ Ailen – một địa điểm ông chưa bao giờ đặt
chân đến. D.Ricardo đã nhanh chóng trở thành một chuyên gia có tiếng trong
nghị viện về các vấn đề tài chính và ơng thường phát biểu sơi nổi về các vấn đề
kinh tế cấp bách đương thời như tiền tệ văn hóa ngân hàng, thuế quan, thuế khóa
và suy thối trong nơng nghiệp.
Trong cuộc đời khoa học của mình, D.Ricardo chịu ảnh hưởng nhiều nhất
của A.Smith và Malthus – nhà kinh tế học tư sản tầm thường nổi tiếng. Người ta
cũng khơng thể khơng nói đến J.Mill, một nhà văn và nhà chính luận có cơng lao
to lớn trong việc dẫn dắt D.Ricardo đến với khoa học, giúp ông xuất bản những
công trình đầu tiên, một người bạn trung thành đến tận cuối đời nhưng luôn luôn
tự nhận là học trị và người kế tục của ơng.
Cơng trình nổi tiếng nhất của D.Ricardo là cuốn sách “Những nguyên lý
của kinh tế chính trị và thuế khóa” (1817). Trong tác phẩm này ông không chỉ
phát triển học thuyết của Adam Smith mà còn chỉ ra những mâu thuẫn của nó.
Thời gian này, trung tâm của kinh tế chính trị không phải là vấn đề sản xuất ra
của cải vật chất mà là sự phân phối nó giữa các giai cấp cơ bản trong xã hội.
D.Ricardo xác định đúng đối tượng của kinh tế chính trị “Nhiệm vụ chính sách
của kinh tế chính trị là xác định các quy luật điều khiển của sự phân phối đó”.
Ơng đã cố gắng xây dựng và phân tích quy luật phân phối trong nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa: tiền lương cho công nhân, lợi nhuận cho tư bản và tô tức cho chủ
đất. Và ông nhấn mạnh rằng, phần phân phối cho giai cấp này giảm xuống thì
phần phân phối cho giai cấp kia tăng lên.
D.Ricardo có một tài sản vơ giá là kiến thức kinh tế thực tế đặc biệt là
trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Nhờ vậy trong hệ thống lý luận của mình, ơng
đã thể hiện được một cơ sở vững chắc cho phương pháp nghiên cứu kinh tế học.
Đối với những người đương thời hệ thống kinh tế của D.Ricardo là một hệ thống
kinh tế kiểu mới.


7


2.3. NỘI DUNG CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA TRƯỜNG PHÁI
KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC CỔ ĐIỂN
William Petty “cha đẻ của Kinh tế chính trị học cổ điển Anh”, tạo tiền đề
lý luận cho sự phát triển hệ thống các học thuyết kinh tế của Trường pháo Kinh
tế chính trị học cổ điển Anh (thế kỷ XVII – XIX). Trên cơ sở hệ thống quan
điểm kinh tế của W.Petty, các đại biểu của Trường phái Kinh tế chính trị học cổ
điển Anh đã kế thừa phát triển học thuyết của ông trong các giai đoạn phát triển
của chủ nghĩa tư bản. Nếu A.Smith là nhà kinh tế học trong giai đoạn của cơng
trường thủ cơng thì D.Ricardo là đại biểu của thời kỳ cách mạng công nghiệp.
Với tư cách là sự phản ánh có tính lịch sử hiện thực vận động kinh tế, hệ thống
quan điểm kinh tế của các đại biểu trong mỗi thời kỳ là hết sức đa dạng, phong
phú và thậm chí cịn có sự khác biệt. Ví dụ, trong giai đoạn phát triển của cơng
trường thủ cơng, A.Smith tìm nguồn gốc của của cải từ phân công lao động và
trong hệ thống lý luận của ông được bắt đầu từ phân công lao động, hay
D.Ricardo do lại tiếp cận nghiên cứu sự phân phối của của cải giữa các giai cấp.
Những học thuyết cơ bản của Trường phái Kinh tế chính trị học cổ điển Anh là
học thuyết học thuyết giá trị - lao động, học thuyết tiền tệ, học thuyết về thu
nhập, học thuyết về tư bản, trong đó học thuyết giá trị - lao động là cơ sở lý luận
của học thuyết kinh tế Trường phái Kinh tế chính trị học cổ điển Anh.
2.3.1. Học thuyết giá trị - lao động
- Học thuyết giá trị - lao động của William Petty.
W.Petty là người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho lý luận giá trị lao động. Bởi vì ơng là người đầu tiên xác định đúng đắn vai trò của lao động
trong việc tạo ra giá trị, là nguồn gốc thực sự của của cải.
Trong tác phẩm “Bàn về thuế khóa và lệ phí”, Petty cho rằng có ba loại
giá cả. Đó là giá cả tự nhiên, giá cả nhân tạo, giá cả chính trị.
Về giá cả tự nhiên, ơng viết: “Một người nào đó, trong thời gian lao động

khai thác được 1 ounce bạc và cùng thời gian đó sản xuất được 1 barrel lúa mì,
thì 1 ounce là giá cả tự nhiên của barrel lúa mì. Nếu nhờ những mỏ mới giàu
quặng hơn, nên cùng một thời gian lao động đó, bây giờ khai thác được 2 ounce
bạc thì 2 ounce bạc, là giá cả tự nhiên của 1 barrel lúa mì”. Như vậy, giá cả tự
nhiên là giá trị hàng hóa, do lao động sản xuất tạo ra. Lượng của giá cả tự nhiên,
hay giá trị, tỷ lệ nghịch với năng suất lao động khai thác bạc.
8


Về giá cả nhân tạo, ông viết: “ Tỷ lệ giữa lúa mì và bạc chỉ là giá cả nhân
tạo chứ không phải là giá cả tự nhiên”. Như vậy theo ông giá cả nhân tạo là giá
cả thị trường của hàng hóa. Ơng cho rằng, giá cả nhân tạo thay đổi phụ thuộc
vào giá cả tự nhiên và quan hệ cung – cầu hàng hóa trên thị trường.
Về giá cả chính trị, W.Petty cho rằng, nó là một loại đặc biệt của giá cả tự
nhiên. Nó cũng là chi phí lao động để sản xuất hàng hóa, nhưng trong điều kiện
chính trị khơng thuận lợi. Vì vậy, giá cả thị trường thường cao hơn giá cả tự
nhiên.
Đối với W.Petty, người đương thời của cách mạng tư sản và chiến tranh
vệ quốc, thì việc phân biệt giá cả tự nhiên, tức là chi phí lao động trong điều
kiện bình thường, với giá cả chính trị - là chi phí lao đơng trong điều kiện chính
trị khơng thuận lợi, là điều có ý nghĩa to lớn.
W.Petty đặt vấn đề nghiên cứu lao động giản đơn và lao động phức tạp, so
sánh lao động trong thời gian dài, lấy năng suất lao động trung bình trong nhiều
năm để loại trừ tình trạng ngẫu nhiên.
Tuy nhiên, học thuyết giá trị lao động của W.Petty cịn chịu ảnh hưởng từ
tư tưởng trọng thương. Ơng chỉ thừa nhận lao động khai thác vàng bạc là nguồn
gốc của giá trị, còn giá trị của các hàng hóa khác chỉ được xác định nhờ q
trình trao đổi với vàng bạc, là sự phản ánh giá trị tiền tệ cũng như ánh sáng của
mặt trăng là sự phản chiếu ánh sáng mặt trời.
W.Petty có luận điểm nổi tiếng: Lao động là cha còn đất là mẹ của mọi

của cải. Về phương diện của cải vật chất, đó là công lao to lớn của ông. Nhưng
ông lại xa rời tư tưởng giá trị - lao động khi kết luận, lao động và đất đai là cơ sở
tự nhiên của giá cả mọi vật phẩm, tức là cả lao động và đất đai là nguồn gốc của
giá trị. Điều này là mầm mống của học thuyết các nhân tố sản xuất tạo ra giá trị
sau này.
- Học thuyết giá trị của Adam Smith.
A.Smith phân biệt rõ sự khác nhau giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi
và khẳng định, giá trị sử dụng không quyết định giá trị trao đổi. Ơng bác bỏ
quan điểm cho rằng tính lợi ích quyết định giá trị trao đổi mà A.R.J.Turgo ủng
hộ.

9


Khi phân tích giá trị hàng hóa, ơng cịn cho rằng, giá trị được biểu hiện ở
giá trị trao đổi của hàng hóa, trong quan hệ số lượng với hàng hóa khác, cịn
trong nền sản xuất hàng hóa phát triển, nó được biểu hiện ở tiền.
A.Smith có hai quan điểm về giá trị:
Thứ nhất, giá trị do lao động hao phí để sản xuất hàng hóa quyết định.
Lao động là thước đo thực tế của mọi giá trị. Với quan điểm này ông cho rằng,
tất cả các loại lao động sản xuất đều tạo ra giá trị. Lao động là thước đo thực tế
của mọi giá trị.
Ông chỉ ra lượng giá trị hàng hóa là do hao phí lao động trung bình cần
thiết quyết định. Lao động giản đơn và lao động phức tạp ảnh hưởng khác nhau
đến giá trị hàng hóa. Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp sẽ tạo ra một
lượng giá trị nhiều hơn lao động giản đơn.
Thứ hai, giá trị hàng hóa bằng số lượng lao động mà người ta có thể mua
được nhờ hàng hóa đó.
Sở dĩ A.Smith có hai quan điểm về giá trị vì, theo ơng, quan điểm thứ
nhất để xác định giá trị trong điều kiện sản xuất hàng hóa nhỏ; quan điểm thứ

hai để xác định giá trị trong điều kiện sản xuất hàng hóa phát triển, tức sản xuất
hàng hóa lớn. Quan điểm thứ hai sau này được sử dụng để xác định GDP, GNP.
Về giá cả thị trường, A.Smith đã phân biệt được giá cả thị trường với giá
cả tự nhiên (giá trị). Ông khẳng định hàng hóa được bán theo giá cả tự nhiên,
nếu giá cả đó ngang với mức cần thiết để trả cho tiền lương, lợi nhuận và địa tô.
A.Smith cho rằng, giá cả tự nhiên là trung tâm, giá cả thị trường là giá bán
thực tế của hàng hóa. Giá cả thị trường nhất trí với giá cả tự nhiên khi hàng hóa
được đưa ra thị trường với số lượng đủ thỏa mãn nhu cầu thực tế. Nhưng do sự
biến động của cung cầu làm cho giá cả thị trường chênh lệch với giá cả tự nhiên.
Bản than giá cả tự nhiên cũng thay đổi cùng với tỷ suất tự nhiên của mỗi bộ
phận cấu thành nó.
Ơng đã nhận thấy giá cả trong chủ nghĩa tư bản được hình thành khác với
trước đây nhưng khơng giải thích được do ơng chưa biết tới phạm trù giá cả sản
xuất.
Về cấu thành giá trị hàng hóa, ơng cho rằng “tiền lương, lợi nhuận, địa tơ
là ba nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập, cũng như là của bất lỳ giá trị trao đổi
10


nào”. Như vậy, ông coi tiền lương, lợi nhuận, địa tô là nguồn gốc đầu tiên của
mọi thu nhập. Đây là quan điểm đúng. Song ông sai lầm ở chỗ, coi tiền lương,
lợi nhuận, địa tô cũng là ba nguồn gốc của giá trị trao đổi. Ở đây ông đã nhầm
lẫn giữa tạo ra giá trị và phân phối giá trị. Mặt khác, ông cho rằng trong cấu
thành lượng giá trị hàng hóa chỉ có lượng giá trị mới tạo ra (v + m).
- Học thuyết giá trị của David Ricardo.
Học thuyết của ông được xây dựng trên cơ sở kế thừa có phê phán và phát
triển lý thuyết giá trị của A.Smith.
Học thuyết giá trị chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống quan ddieemer
của D.Ricardo. Theo ông, giá trị của hàng hóa hay số lượng của một hàng hóa
nào khác mà sản xuất đó trao đổi, là do số lượng lao động tương đối, cần thiết

để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định, chứ khơng phải do khoản thưởng lớn
hay nhỏ trả cho người lao động quyết định.
Cũng như A.Smith, D.Ricardo đã phân biệt rõ hai thuộc tính của hàng hóa
là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Ông cho rằng, giá trị sử dụng khơng quyết
định giá trị hàng hóa. Ơng đã chứng minh rằng, các nhân tố tự nhiên giúp con
người tạo nên giá trị sử dụng nhưng không thêm một phần tử gì vào giá trị hàng
hóa cả. Ơng có ý kiến kiệt xuất khi cho rằng, tính hữu ích khơng phải là thước
đo giá trị trao đổi, mặc dù hàng hóa rất cần thiết giá trị này. Theo ông, giá trị
khác xa với của cải, mà tùy thuộc vào điều kiện sản xuất khó khăn hay thuận lợi.
Ơng cho rằng, sở dĩ có nhiều nhầm lẫn trong khoa học kinh tế chính trị là do
người ta coi sự tăng của cải và tăng giá trị là một; là do người ta quên rằng
thước đo giá trị chưa phải là thước đo của cải vì của cải khơng phụ thuộc vào giá
trị. Theo ơng, giá trị trao đổi hàng hóa được quy định bởi lượng lao động chứa
trong hàng hóa, lượng lao động đó tỷ lệ thuận với lao động tạo ra hàng hóa.
D.Ricardo cho rằng hàng hóa sở dĩ có giá trị trao đổi là do hai nguyên
nhân:
- Tính chất khan hiếm;
- Lượng lao động cần thiết để sản xuất ra chúng.
Như vậy là ông đã nhận thức được giá trị trao đổi được quyết định bởi
lượng lao động đồng nhất của con người, chứ không phải là lượng lao động hao
phí cá biệt. Về điểm này, ơng là người đầu tiên đã phân biệt được lao động cá
11


biệt và lao động xã hội. Nhưng nhầm lẫn của ông là cho rằng giá trị hàng hóa
được điều tiết bởi lượng lao động lớn nhất hao phí trong điều kiện xấu.
D.Ricardo đã chứng minh giá trị hàng hóa giảm khi năng suất lao động
tăng lên (dự đoán của W.Petty được ơng luận chứng). Ơng gạt bỏ quan điểm của
A.Smith cho rằng lao động trong nơng nghiệp có năng suất cao hơn công nghiệp
và cho rằng sự tăng lên của của cải đi kèm với giá trị của nó giảm.

D.Ricardo phân biệt giá cả tự nhiên và giá cả thị trường. Ơng cho rằng,
khơng có một loại hàng hóa nào mà giá cả của nó khơng bị ảnh hưởng của
những biến động ngẫu nhiên hay tạm thời. Nhưng nguyện vọng của mỗi nhà tư
bản muốn rút vốn mình ra khỏi một cơng việc kinh doanh lãi ít và đầu tư vào
một cơng việc kinh doanh lãi hơn, nguyện vọng đó khơng cho phép giá cả thị
trường của các hàng hóa dừng lâu ở một mức nào đó cao hơn nhiều hay thấp
hơn nhiều so với giá cả tự nhiên của chúng.
D.Ricardo đã cố gắng tìm hiểu sự vận động của giá cả. Theo ông, quyết
định giá cả ở người sản xuất, cung cầu chỉ ảnh hưởng đến giá cả. Ông cho rằng,
quyết định giá trị là hao phí lao động sản xuất, không phải quan hệ cung cầu và
tâm trạng người mua.
Đề cập vấn đề tăng giá cả D.Ricardo cho rằng, việc tăng giá cả có thể là
một nhân tố điều tiết một lượng cung không đủ so với một lượng cầu đang phát
triển; điều tiết việc tiền tệ sụt giá; việc đánh thuế vào những sản phẩm thiết yếu.
Về cấu thành giá trị hàng hóa, D.Ricardo cho rằng, giá trị hàng hóa khơng
phải chỉ do lao động trực tiếp tạo ra mà còn do lao động cần thiết trước đó như
máy móc, nhà xưởng. Như vậy, theo D.Ricardo, giá trị hàng hóa = c 1 + v + m
Mặt hạn chế trong học thuyết giá trị của D.Ricardo là ở chỗ, ơng chưa biết
được tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Mặc dù ơng và A.Smith biết
rằng lao động tạo ra giá trị là lao động khơng kể hình thái của nó.
D.Ricardo cho rằng, quy luật giá trị vẫn hoạt động trong chủ nghĩa tư bản
(đúng), nhưng hoạt động như thế nào, ông không chứng minh được, vì ơng
khơng thể giải quyết được vấn đề giá cả sản xuất. Ơng đã đồng nhất hóa giá trị
và giá cả sản xuất. Ông cũng chưa hiểu được giá trị trao đổi là hình thức biểu
hiện của giá trị.
12


Cũng như các nhà kinh tế học cổ điển, D.Ricardo chỉ chú ý phân tích mặt
lượng giá trị, ít chú ý đến mặt chất và hồn tồn khơng phân tích hình thái giá

trị.
Tóm lại, D.Ricardo đã đứng vững trên cơ sở lý luận giá trị lao động .
K.Marx cho rằng, nếu A.Smith đã đưa ra khoa học kinh tế chính trị vào hệ
thống, thì D.Ricardo đã kết cấu tồn bộ khoa học kinh tế chính trị bằng một
nguyên lý thống nhất, nguyên lý chủ yếu quyết định của ông là thời gian lao
động quyết định giá trị.
2.3.2. Học thuyết tiền tệ
- Học thuyết tiền tệ của William Petty.
Quan điểm về tiền tệ của W.Petty chuyển dần từ tư tưởng trọng thương
sang kinh tế chính trị cổ điển. Trong tác phẩm “Bàn về tiền tệ”, W.Petty cho
rằng, tiền tệ không phải lúc nào cũng là tiêu chuẩn của sự giàu có, vì thế đánh
giá tiền tệ quá cao là một sai lầm (chống tư tưởng trọng thương).
Ông nghiên cứu hai loại kim loại giữ vai trò của tiền là vàng và bạc. Giá
trị của chúng dựa trên lao động khai thác ra chúng quyết định. Ông phê phán chế
độ song bản vị lấy vàng và bạc làm đơn vị tiền tệ và ủng hộ chế độ đơn bản vị.
Ông phê phán việc phát hành tiền tệ không đủ giá và cho rằng làm như vậy
chính phủ khơng có lợi lộc gì, vì khi đó, giá trị của tiền tệ đã giảm xuống.
Ông là người đầu tiên đưa ra quy luật lưu thơng tiền tệ, mà nội dung của
nó là: số lượng tiền cần thiết cho lưu thông được xác định trên cơ sở số lượng
hàng hóa và tốc độ chu chuyển của tiền tệ. Ông chỉ ra ảnh hưởng của thời gian
thanh toán với số lượng tiền tệ cần thiết trong lưu thơng. Theo ơng, thời hạn
thanh tốn càng dài thì số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông càng nhiều.
W.Petty chống lại tư tưởng trọng thương về tích trữ tiền tệ khơng có hạn
độ. Theo W.Petty, khơng cần phải tăng số lượng tiền tệ đến mức vơ tận. Ơng
nhận xét một cách mỉa mai rằng, nếu có thể dùng những mệnh lệnh của chính
phủ để tăng gấp đơi của cải trong nước, thì tại sao từ lâu chính phủ Anh lại
không ra những mệnh lệnh như thế. Như vậy, W.Petty đã bác bỏ tất cả mọi sự
thao túng tiền tệ.
Nhìn chung, quan điểm tiền tệ của ơng có nhiều điểm mà sau này các nhà
kinh tế học theo quan điểm giá trị - lao động tiếp tục phát triển.

13


- Học thuyết tiền tệ của Adam Smith.
A.Smith coi trao đổi là dấu hiệu quan trọng nhất nói lên bản chất của nền
sản xuất, còn xã hội trở thành liên mình của sự trao đổi. Do đó, ơng tiến tới phân
tích tiền tệ.
A.Smith cho rằng, tiền chỉ là phương tiện kỹ thuật làm cho trao đổi được
thuận tiện. Ông so sánh tiền với cịn đường rộng lớn, trên đó người ta chở cỏ
khơ và lúa mì. Con đường làm cho vận chuyển cỏ khơ và lúa mì thuận lợi,
nhưng khơng làm tăng thêm cỏ khơ và lúa mì. Ơng coi tiền là bánh xe vĩ đại của
lưu thông,là công cụ đặc biệt của trao đổi và thương mại. Như vậy, A.Smith cho
rằng tiền chỉ có chức năng là phương tiện lưu thơng.
Với chức năng là phương tiện lưu thơng thì A.Smith cho rằng, tiền giấy
có nhiều ưu điểm, tiền giấy rẻ hơn, cịn lợi ích thì cũng như tiền vàng.
A.Smith đã hiểu được tiền là một thứ hàng hóa tách ra, tức là đã hiểu
được bản chất hàng hóa của tiền và cũng chỉ hiểu đến đó thơi.
Về quy luật lưu thông tiền tệ, A.Smith cho rằng không phải số lượng tiền
tệ quyết định giá cả mà là giá cả quyết định số lượng tiền tệ. Ông đã phát biểu
một cách chính xác rằng, số lượng tiền tệ được quyết định bởi giá trị của khối
lượng hàng hóa mà nó phải lưu thơng. Giá trị các hàng hóa mua vào bán ra hàng
năm trong một nước đòi hỏi một số lượng tiền tệ nhất định lưu thông và phân
phối các hàng hóa đó vào tay những người tiêu dùng và khơng thể dùng q số
lượng đó được. Cịn kênh lưu thông chỉ thu hút một cách tất yếu số lượng thích
đáng cho đầy đủ và khơng thể chứa đựng hơn nữa.
Tuy nhiên, ở A.Smith cịn nhiều hạn chế, ơng đã đơn giản hóa nhiều chức
năng của tiền, đưa chức năng phương tiện lưu thông lên hàng đầu; ông cũng
không hiểu vấn đề hình thái của giá trị và lịch sử phát triển của những hình thái
đó.
- Học thuyết tiền tệ của David Ricardo.

Đặc trưng nổi bật trong lý thuyết tiền tệ của D.Ricardo là mang tính hai
mặt. Một mặt, dựa trên cơ sở học thuyết giá trị - lao động ông đưa ra các nguyên
lý về tiền. Ông coi giá trị của tiền là do giá trị vật liệu làm ra tiền quyết định, nó
bằng số lượng lao động hao phí để khai thác vàng bạc. Ơng nêu lên khái niệm
14


giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị. Ông ủng hộ quy luật lưu thông tiền tệ
mà W.Petty, A.Smith đề xướng.
Song mặt khác, ông lại đi theo lập trường của thuyết ‘số lượng tiền tệ”.
Theo thuyết này, giá trị của tiền phụ thuộc vào số lượng của nó. Nếu số lượng
tiền càng nhiều, thì giá trị của tiền tệ càng ít và ngược lại. Cịn bản thân tiền tệ
khơng có giá trị nội tại.
Thực tế đây là hai quy luật lưu thông tiền tệ vận dụng cho các loại tiền
khác nhau. Một loại là ứng với lưu thông tiền vàng, một loại ứng với lưu thông
tiền giấy. Song D.Ricardo muốn sử dụng thuyết số lượng tiền tệ để giải thích
cho sự thay đổi trong quan hệ quốc tế và điều tiết bảng cân đối thanh tốn. Theo
ơng, nếu trong một nước nào đó thừa vàng, thì ở đó, giá cả hàng hóa tăng và như
vậy, hàng hóa nhập khẩu vào đây trở nên có lợi.
Nhưng thiếu hụt trong bảng cân đối thương nghiệp sẽ trả bằng vàng. Vàng
đi ra khỏi nước, số lượng giảm xuống làm giá cả hàng hóa giảm, hàng hóa nhập
khẩu từ nước ngồi sẽ giảm xuống và dừng lại. Tất cả lại trở lại trạng thái cân
bằng. Từ đó, ơng đi đến kết luận, tự do thương nghiệp giữa các nước là có lợi.
Ơng cho rằng, khơng có gì đáng sợ hãi khi nhập khẩu hàng hóa vượt q xuất
khẩu hàng hóa. Vì điều đó là cơ sở để hạn chế việc nhập khẩu hàng hóa. Đơn
giản là, trong nước thừa vàng thì giá cả cao. Tự do nhập khẩu sẽ làm giảm giá cả
và tất cả sẽ cân bằng.
2.3.3. Học thuyết thu nhập
Các đại biểu của Trường phái Kinh tế chính trị học cổ điển Anh giải thích
thu nhập đều dựa trên cơ sở lý thuyết giá trị dưới các hình thức tiền công, lợi

nhuận, lợi tức và địa tô.
- Học thuyết thu nhập của William Petty.
 Họ thuyết tiền công
W.Petty lấy lý luận giá trị làm cơ sở cho lý luận tiền cơng. Ơng xác định
tiền cơng là khoản giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết tối thiểu. Nếu tiền công
nhiều thì cơng nhân khơng muốn làm việc, họ thích uống rượu say. Nói một
cách khác, muốn cho cơng nhân làm việc thì hạ thấp tiền cơng xuống mức tối
tiểu. Ơng kịch liệt phản đối những trường hợp tăng tiền công quá cao. Sở dĩ như
vậy vì trong thời đại W.Petty – giai đoạn hợp tác giản đơn, công nhân chưa lệ
thuộc nhiều vào tư bản, tư bản phải dựa vào sự ủng hộ của nhà nước, đề ra
những đạo luật cấm tăng tiền công.
15


W.Petty cũng đã đi sâu vào phân tích mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau
giữa tiền công và giá cả lúa mì (giá trị tư liệu sinh hoạt). Ơng rút ra kết luận: tiền
công tỉ lệ nghịch với giá cả lúa mì (giá cả tư liệu sinh hoạt). Kết luận này hoàn
toàn trái ngược với kết luận của K.Marx, tiền công tỉ lệ thuận với giá trị sức lao
động.
Như vậy, mặc dù có sai lầm, song W.Petty đã nêu được cơ sở khoa học
của tiền công là giá trị của các tư liệu sinh hoạt.
 Học thuyết địa tô
W.Petty đã tìm thấy nguồn gốc của địa tơ ở trong lĩnh vực sản xuất. Ơng
định nghĩa, địa tơ là số chênh lệch giữa giá trị của sản phẩm và chi phí sản xuất
(bao gồm chi phí tiền lương, chi phí giống má). Thực ra ông không rút ra được
lợi nhuận của kinh doanh ruộng đất, không trực tiếp đề cập đến vấn đề bóc lột.
Nhưng theo logic phân tích của ơng chúng ta cũng có thể dễ dàng rút ra được kết
luận rằng, công nhân chỉ nhận được tiền lương tối thiểu, số còn lại là lợi nhuận
của địa chủ. K.Marx nhận xét, W.Petty là người nêu ra mầm mống của lý luận
về chế độ bóc lột, dự đốn đúng đắn bản chất của giá trị thặng dư.

 Học thuyết lợi tức
Ơng coi lợi tức là địa tơ của tiền và cho rằng nó lệ thuộc vào mức địa tơ
(trên đất mà người ra có thể dùng tiền vay để mua). Trong cuốn Bàn về tiền tệ,
ông coi lợi tức là số tiền thưởng, trả cho sự nhịn ăn tiêu, coi lợi tức cũng như
tiền thuê ruông. Mức lợi tức phụ thuộc vào những điều kiện tự phát và những
điều kiện này quyết định vận mệnh của sản xuất nông nghiệp. W.Petty nói:
người thầy thuốc giỏi sẽ khơng dùng thuốc q liều để chữa cho bệnh nhân.
 Học thuyết giá cả ruộng đất
Vấn đề giá cả ruộng đất, một vấn đề khó đối với việc những lý luận giá trị
lao động. Nếu khơng tính đến những chi phí cơ bản thì ruộng đất khơng có giá
trị, nhưng ruộng đất lại có giá cả nhất định. Công lao to lớn của W.Petty là ông
đã dùng lý luận giá trị lao động để giải thích giá cả ruộng đất. Ơng đã khẳng
định một cách đúng đắn rằng, giá cả ruộng đất phải được quy định một cách đặc
biệt, vì người ta khơng sản xuất ra được đất đai.
Để giải quyết vấn đề giá cả ruộng đất, Petty đã đưa vào lý luận địa tơ và
lý luận lợi tức.
Theo ơng, người có tiền có thể sử dụng nó bằng hai cách để có thu nhập:
thứ nhất là dùng tiền mua đất đai, nhờ đó có địa tơ; thứ hai là gửi vào ngân hàng
để thu lợi tức. Như vậy, lợi tức là thu nhập phát sinh của địa tô. Muốn xác định
lợi tức phải dựa vào địa tơ, do đó mức lợi tức cao hay thấp của lợi tức phụ thuộc
vào điều kiện sản xuất nơng nghiệp quyết định.
Ơng cho rằng bán ruộng đất là bán quyền thu địa tơ. Vì vậy, giá cả ruộng
đất do địa tơ quyết định. Ơng đưa ra cơng thức tính giá cả ruộng đất là: giá cả
ruộng đất = địa tô x 20. Con số 20 là do ông dựa vào tài liệu thống kê dân số ở
16


Mỹ. Ơng thấy ở Mỹ, trong một gia đình con 7 tuổi, cha 27 tuổi, ông 47 tuổi. Họ
cách nhau 20 tuổi và còn sống với nhau 20 năm nữa. Do vậy, ơng đã lấy số 20
để tính giá cả ruộng đất. Đây là điều không đúng.

- Học thuyết thu nhập của Adam Smith.
A.Smith đã chia xã hội tư bản thành 3 giai cấp:
1. Những người chiếm hữu ruộng đất.
2. Các nhà tư bản công nghiệp, thương nghiệp và nông nghiệp.
3. Công nhân.
Công lao của ông là ở chỗ đã gắn ba giai cấp đó với ba hình thức thu thập,
địa tô, lợi nhuận và tiền công.
 Học thuyết tiền công
Theo A.Smith, khi làm việc bằng tư liệu sản xuất và ruộng đất của mình, người
sản xuất nhận được tồn bộ sản phẩm lao động của họ. Song khi sở hữu tư bản
chủ nghĩa xuất hiện, người công nhân trở thành lao động làm th, thì tiền cơng
của họ khơng phải là toàn bộ giá trị sản phẩm lao động của họ sản xuất ra nữa,
mà chỉ là một bộ phận giá trị đó.
Cơ sở tiền cơng là giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người
công nhân và con cái anh ta để được tiếp tục đưa ra thay thế trên thị trường lao
động. Ông nghiên cứu mức bình thường của tiền cơng và chỉ ra giới hạn tối
thiểu của nó. Theo ơng, nếu tiền cơng thấp hơn mức tối thiểu này, là thảm họa
cho sự tồn tại của dân tộc.
A.Smith đã chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng tới tiền cơng. Ơng cho rằng, tiền
cơng phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và phản ánh trình độ phát triển
kinh tế của mỗi nước. Tiền cơng thấp hơn mức tối thiểu chỉ có ở những nước
đang diễn ra sự suy thoái về kinh tế. Chẳng hạn, ở Ấn Độ lúc bấy giờ có tiền
cơng thấp hơn mức tối thiểu; ở Trung Quốc tiền công chỉ cao hơn mức tối thiểu
khơng đáng kể, vì ở đó, nền kinh tế đang bị đình trệ. Cịn ở các nước có nền
kinh tế phát triển mạnh thì tiền công lớn hơn mức tối thiểu. Phần lớn hơn này do
định mức tiêu dùng, truyền thống văn hóa, tập quán dân tộc,…quy định. Từ đó
ơng cho rằng, cơng đồn khơng có tác dụng trong việc đấu tranh địi tăng tiền
cơng.
A.Smith cho rằng, trong một nước, nhân tố ảnh hưởng tới tiền công phụ
thuộc vào đặc điểm lao động, điều kiện làm việc, tính chất cơng việc, trình độ

chun mơn, nghề nghiệp.
Một đặc điểm khác trong học thuyết tiền công của A.Smith là ông nghiên
cứu tiền công trong cơ chế thị trường tự do. Theo ơng, có một cơ chế chi phối sự
vận động của tiền công: tiền công tăng dẫn đến tỉ số sinh tăng, do đó cung lao
động tăng, nên cạnh tranh giữa công nhân để bán lao động tăng. Điều này dẫn
đến tiền công giảm. Khi tiền công giảm dẫn đến tỉ số sinh giảm, cung lao động
17


giảm, nên cạnh tranh giữa các nhà tư bản để mua lao động tăng làm cho tiền
công tăng.
A.Smith là người ủng hộ trả tiền công cao, Theo ông, tiền công cao sẽ tạo
ra khả năng tăng trưởng kinh tế vì tiền cơng cao là nhân tố kích thích cơng nhân
tăng năng suất lao động. Điều đó tạo ra điều kiện tăng tích lũy tư bản và tăng
nhu cầu về lao động. Ông phê phán quan điểm cho rằng trả tiền công cao làm
cho công nhân lười biếng và không khuyến khích lao động. Ơng vạch rõ rằng,
nhà tư bản khơng sợ gì việc trả tiền cơng cao cho cơng nhân, vì cơ chế của thị
trường lao động sẽ điều chỉnh mức tiền cơng thích ứng.
Tuy nhiên, trong học thuyết tiền công của A.Smith cũng như các nhà kinh
tế học trước đều cho rằng, tiền công là giá cả của lao động.
 Học thuyết lợi nhuận
Theo A.Smith, lợi nhuận là “khoản khấu trừ thứ hai” vào sản phẩm của
lao động. Theo giải thích của A.Smith thì lợi nhuận, địa tơ và lợi tức chỉ là
những hình thái khác nhau của giá trị thặng dư.
K.Marx đánh giá cao A.Smith vì đã nêu được nguồn gốc thật sự của giá
trị thặng dư để ra từ lao động…
A.Smith cho rằng khơng chỉ có lao động nông nghiệp mà cả lao động
công nghiệp cũng tạo ra lợi nhuận.
A.Smith cho rằng lợi nhuận tăng hay giảm tùy thuộc vào sự giàu có tăng
hay giảm của xã hội. Ơng thừa nhận sự đối lập giữa tiền cơng và lợi nhuận. Ơng

đã nhìn thấy “khuynh hướng thường xun đi đến chỗ ngang nhau” của tỉ suất
lợi nhuận trên cơ sở cạnh tranh giữa các ngành và khuynh hướng tỉ suất lợi
nhuận giảm sút. Theo ông, tư bản đầu tư càng nhiều thì tỉ suất lợi nhuận càng
thấp.
Tuy nhiên, A.Smith cịn có những hạn chế về lý luận lợi nhuận như:
không thấy được sự khác nhau giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận, và ông cho
rằng lợi nhuận là do tồn bộ tư bản đẻ ra; do khơng phân biệt được sản xuất và
lưu thông, nên ông cho rằng tư bản trong lĩnh vực sản xuất cũng như trong lĩnh
vực lưu thông đều đẻ ra lợi nhuận như nhau; ông coi lợi nhuận trong phần lớn
trường hợp chỉ là món tiền thưởng cho việc mạo hiểm và cho lao động khi đầu
tư tư bản; lợi nhuận là một trong những nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập
cũng như của mọi giá trị trao đổi.
 Học thuyết địa tô
Theo ông, địa tô là khoản khấu trừ đầu tiên vào sản phẩm lao động. Về
mặt lượng, nó là số dơi ra ngồi tiền lương cơng nhân và lợi nhuận của tư bản.
Về mặt chất, nó phản ánh quan hệ bóc lột. Ơng đã phân biệt địa tơ và tiền tô.
Theo ông, tiền tô bằng địa tô cộng với lợi tức tư bản đầu tư cải tạo đất đai. Điều
này tiến bộ hơn phái Trọng nơng, vì phái Trọng nơng cho rằng, toàn bộ sản
phẩm thuần túy là do tự nhiên mang lại. Theo A.Smith, mức địa tô thu nhập của
các mảnh ruộng quyết định sản phẩm thuần túy. Tuy nhiên, ơng cịn cho rằng, sở
18


dĩ nơng nghiệp có địa tơ, vì lao động nơng nghiệp có năng suất cao hơn lao động
cơng nghiệp và ông phủ nhận địa tô tuyệt đối. Theo ông, nếu thừa nhận địa tô
tuyệt đối là vi phạm quy luật giá trị.
Theo A.Smith khi ruộng đất trở thành sở hữu tư nhân thì địa tơ chỉ là khoản
khấu trừ thứ nhất vào sản phẩm. Như vậy, ông coi địa tô là kết quả của giá cả
độc quyền.
Ông đã phân biệt địa tô và tiền tô. Theo ông, tiền tô bằng địa tô cộng với

lợi tức tư bản đầu tư cải tạo đất đai.
Ơng đã phân biệt được địa tơ chênh lệnh do màu mỡ đất đai và vị trí của
đất đai đưa lại, nhưng không đi sâu nghiên cứu địa tô chênh lệch (II).
Một trong những công lao lớn của A.Smith là đã chỉ ra mức tô trên mảnh
đất ruộng là do thu nhập của mảnh ruộng đó đưa lại, và chỉ ra một cách tài tình
rằng địa tơ trên những ruộng canh tác cây chủ yếu (cây lương thức và thức ăn
cho súc vật) quyết định địa tô trên những ruộng trồng cây khác. Theo cách giải
thích của ơng thì địa tơ là hình thái của giá trị thặng dư.
Ở A.Smith cịn có những hạn chế về lý luận địa tơ. Ơng coi địa tơ là phạm
trù vĩnh viễn và cịn chứng minh lợi ích của chủ đất phù hợp với lợi ích của xã
hội; ơng chưa hiểu được sự chuyển hóa lợi nhuận siêu ngạch thành địa tơ.
A.Smith chưa hiểu được địa tô chênh lệch II và phủ nhận địa tơ tuyệt đối. Do
cịn ảnh hưởng của tư tưởng trọng nông, A.Smith cho rằng, năng suất lao động
nông nghiệp cao hơn năng suất lao động cơng nghiệp, vì trong nơng nghiệp cịn
có sự giúp đỡ của tự nhiên.
- Học thuyết thu nhập của David Ricardo.
Ông đã kế thừa, phát triển những hạt nhân hợp lý trong học thuyết thu
nhập của William Petty và Adam Smith.
D.Ricardo cho rằng giá trị được tạo ra gồm hai phần: tiền công và lợi
nhuận. Và ông đã đi đến kết luận quan trọng về sự đối kháng giữa tiền công và
lợi nhuận (ông nhận thấy quy luật của tư bản: năng suất lao động tăng lên, tiền
công giảm và lợi nhuận tăng).
 Học thuyết tiền cơng
Ơng định giải quyết việc xác định tiền cơng theo quy luật giá trị. Nhưng
vì ơng vẫn theo quan điểm của A.Smith cho rằng tiền công là giá cả của lao
động, nên ông thấy xác định giá trị của lao động bằng lao động là phi lý. Do đó,
ơng khơng bàn đến giá lao động mà nói đến giá trị của tiền công, đến những giá
trị tư liệu sinh hoạt cần thiết cho công nhân. Như vậy là còn lẫn lộn hai khái
niệm lao động và sức lao động, nhưng ông vẫn xác định đúng tiền công của
công nhân.

Chịu ảnh hưởng của quy luật về nhân khẩu của Thomas Robert Malthus
nên D.Ricardo cho rằng, tiền công cao sẽ làm cho nhân khẩu tăng nhanh, dẫn
đến cung về lao động lớn hơn cầu về lao động, vì thế tiền công phải giảm xuống.
19


Từ đó ơng kết luận, tiền cơng phải giảm xuống và do đó đời sống cơng nhân xấu
đi là kết quả tất yếu của việc tăng nhân khẩu.
Một trong những cơng lao to lớn của ơng là đã phân tích được tiền cơng
thực tế và xác định nó như một phạm trù kinh tế. Ơng nhấn mạnh rằng lượng
hàng hóa người công nhân mua được bằng tiền công, chưa quyết định địa vị xã
hội của người đó, sự quyết định tình cảm của cơng nhân phụ thuộc vào mối
tương quan giữa tiền công và lợi nhuận.
 Học thuyết lợi nhuận
D.Ricardo xem lợi nhuận là phần giá trị dơi ra ngồi tiền cơng. Ơng chưa
biết đến phạm trù giá trị thặng dư nhưng trước sau nhất quán quan điểm cho
rằng, giá trị là do công nhân tạo ra lớn hơn số tiền cơng mà họ nhận được. Ơng
coi lợi nhuậ là lao động không được trả công của công nhân.
D.Ricardo đã có những nhận xét tiến gần đến lợi nhuận bình qn, ơng
cho rằng những tư bản có đại lượng bằng nhau thì đem lại lợi nhuận như nhau.
Nhưng oong khơng chứng minh được, vì ơng khơng hiểu được giá cả sản xuất.
Theo ông, sự chênh lệch giữa giá trị và giá cả chỉ là ngoại lệ, trên thực tế chỉ có
giá trị chứ khơng có giá cả sản xuất.
 Học thuyết địa tơ
Ơng bác bỏ quan điểm cho rằng địa tô là sản vật của những lực lượng tự
nhiên hoặc do năng suất đặc biệt trong nông nghiệp mang lại. Ông hoàn toàn
dựa vào quy luật giá trị để giải thích địa tơ, nhấn mạnh rằng địa tơ hình thành
khơng ngược với quy luật giá trị mà theo quy luật giá trị.
D.Ricardo cho rằng, giá trị nơng sản phẩm hình thành trên điều kiện
ruộng đất xấu nhất vì ruộng đất là yếu tố có giới hạn nên xã hội phải canh tác

trên cả ruộng đất xấu. Do đó tư bản kinh doanh trên ruộng đất tốt và trung bình
thu được lợi nhuận siêu ngạch, lợi nhuận siêu ngạch này phải nộp cho địa chủ.
Ơng phê phán tính chất ăn bám của địa churkhoong tham gia sản xuất nhưng
nhân danh quyền sở hữu ruộng đất lại thu địa tô. D.Ricardo cũng đã phân biệt
được địa tô với tiền tô.
Cái sai của D.Ricardo là do ông đã gắn lý luận địa tô cới quy luật ruộng
đất sinh lời ngày càng giamt đã từng bị phê phán trong kinh tế chính trị học
(Turgot, Multhus). Ơng chưa đề cập đến địa tơ chênh lệch II và phủ định địa tô
tuyệt đối. D.Ricardo cho rằng, nếu thừa nhận địa tơ tuyệt đối thì sẽ phủ nhận
quy
luật giá trị. Sở dĩ như vậy là do ông khơng biết đến cấu tạo hữu cơ (c/v), khơng
thấy tính quy luật cấu tạo hữu cơ trong công nghiệp cao hơn cấu tạo hữu cơ
trong nông nghiệp.
2.3.4. Học thuyết về tư bản
Học thuyết về tư bản cũng là một bộ phận cấu thành học thuyết kinh tế
cảu Trường phái Kinh tế chính trị học cổ điển Anh. Tuy nhiên, trong các công
20


trình nghiên cứu của W.Petty hầu như ơng khơng đề cập đến vấn đề về tư bản.
Đến A.Smith lý luận về tư bản mới được hình thành và được D.Ricardo tiếp tục
phát triển trở thành nội dung trong học thuyết kinh tế của trường phái cổ điển
Anh.
- Học thuyết tư bản của A.Smith.
A.Smith cho rằng bộ phận tài sản mang lại lợi nhuận mới là tư bản.Ông
khẳng định, vật phẩm tiêu dùng không thể là tư bản và cũng không phải mọi tư
liệu sản xuất đều là tư bản.
Theo A.Smith, tư bản lưu động là tư bản mang lại thu nhập cho người chủ
của nó do kết quả của việc thực hiện, tiêu thụ hàng hóa. Tư bản lưu động bao
gồm: tiền, dự trữ lượng thực, nguyên liệu, hàng hóa ở trong kho. Theo ông, tư

bản của thương nhân thuộc về tư bản lao động. Tư bản cố định là tư bản đem lại
lợi nhuận không chuyển từ tay kẻ sở hữu này qua tay kẻ sở hữu khác, không lưu
thơng. Nó bao gồm: máy móc, cơng cụ, cơng trình xây dựng đem lại thu nhập,
việc cải tạo đất đai và những năng lực có lợi ích của dân cư.
Theo K.Marx. A.Smith có một bước tiến, nhưng cũng có một bước lùi so
với Trường phái Trọng nông. Bước tiến của A.Smith là ở chỗ xem xét tư bản
trong hình thái cảu tư bản sản xuất, trong mọi ngành đều có tư bản cố định và tư
bản lưu động. Còn bước lùi của A.Smith là ở chỗ, Trường phái Trọng nông đã
nêu ra khoản ứng trước đầu tiên và khoản ứng trước hàng năm, cịn A.Smith đã
khơng phân biệt được tư bản lưu thông và tư bản lưu động. Qua các yếu tố của
lưu bản lưu động, cho thấy tư bản lưu động đã mất tính chất sản xuất. Ơng
khơng xếp sức lao động vào tư bản lưu động. Phương pháp phân chia tư bản lưu
động và tư bản cố định cũng không đúng đắn và không nhất quán, ông gọi hai
phạm trù này là cách đầu tư mang lại lợi nhuận; khi thì dựa vào đặc tính của vật
thể (đứng im là cố định, chạy như tàu biển là lưu động,…)
- Học thuyết tư bản của D.Ricardo.
Cũng như A.Smith, D.Ricardo đã coi tư bản là một vật nhất định chứ
không phải là một quan hệ xã hội. Theo ông, tư bản là bộ phận của cải trong
nước,được dự vào việc sản xuất và vào thức ăn, đồ mặc, nhà xưởng, máy móc,
… K.Marx nhận xét, D.Ricardo đã xem xét khái niệm tư bản một cách hết sức
phi lịch sử.
21


D.Ricardo tiến bộ hơn A.Smith là đã phân chia tư bản thành tư bản cố
định và tư bản lưu động. Ông coi bộ phận tư bản đài thọ cho lao động là tư bản
lưu động, coi bộ phận tư bản ứng trước mua công cụ, tồn tại vĩnh viễn, hao mịn
dần là tư bản cố định.
K.Marx đánh giá, cơng lao của ông là đã phân biệt sự khác nhau giữa tư
bản lưu động và tư bản cố định và sự khác nhau trong thời gian chu chuyển của

tư bản và D.Ricardo khẳng định đúng phần tư bản cố định của tư bản khơng tạo
ra giá trị hàng hóa chỉ chuyển giá trị hàng hóa, mặc dù ơng khơng hiểu tới ngọn
nguồn về tính chất hai mặt của q trình lao động sản xuất.
Tóm lại, học thuyết kinh tế của Trường phái Kinh tế chính trị tư sản cổ
điển Anh ra đời đánh dấu sự phát triển trong lịch sử phát triển của các học
thuyết kinh tế, tạo tiền đề lý luận cho sự phát triển các trường phái kinh tế học
hiện đại và là nguồn gốc lý luận hình thành học thuyết kinh tế của chủ nghĩa
Mác.
2.4. SỰ VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, phát triển theo định hướng XHCN nhưng vẫn còn nhiều
yếu tố sơ khai. Xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu chuyển sang
nền kinh tế thị trường nền chúng ta không tránh khỏi những bỡ ngỡ và nhiều sai
lầm. Chính vì vậy, chúng ta phải thừa nhận và vận dụng tốt các quy luật mang
tính khách quan vốn có của nền kinh tế hàng hóa đó là: quy luật cạnh tranh, quy
luật cung – cầu, quy luật giá trị,… Và để vận hành tốt, hiệu quả nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN trong điều kiện
ngày nay của chúng ta thì việc nghiên cứu các khái niệm, các phạm trù, các quy
luật, các lý luận về giá cả, giá trị, lợi nhuận, lợi tức, tiền công, tiền lương,…và
xem xét các mối liên hệ giữa cung – cầu, lưu thơng hàng hóa với lưu thơng tiền
tệ hết sức cần thiết và quan trọng. Từ sự hiểu biết đúng đắn đó ta mới có thể vận
dụng một cách có hiệu quả nhất vào việc phát triển kinh tế thị trường ở Việt
Nam.
Trong nền kinh tế thị trường thì thị trường giữ một vai trị vơ cùng quan
trọng đó là điều tiết nền kinh tế. Từ đó, nó thúc đẩy tính năng động, sáng tạo của
các chủ thể kinh tế, khắc phục được tình trạng thụ động trong việc sản xuất lẫn
kinh doanh theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp – nơi mà ở đó người sản xuất
22



×