Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Van 10 HK2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 11 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Chúc các bạn thi tốt! © HP-2013 Trang 1

<i><b>1. </b></i>

<i><b>Phân tích đoạn trích “Trao duyên” (Truyện Kiều – Nguyễn Du) </b></i>



Đoạn trích Truyện Kiều có nhan đề "Trao dun" gồm 34 câu (từ câu 723 đến câu 756) là một trong
những đoạn thơ mở đầu cuộc đời lưu lạc đau khổ của Thúy Kiều. Khi Vương Ông và Vương Quan bị bắt do
có kẻ vu oan, Thúy Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền đút lót cho quan lại cứu cha và em.
Đêm cuối cùng trước ngày ra đi theo Mã Giám Sinh, Thuý Kiều nhờ cậy Thuý Vân thay mình trả nghĩa, lấy
Kim Trọng.


Nhan đề đoạn trích là Trao dun nhưng trớ trêu thay đây khơng phải là cảnh trao duyên thơ mộng
của những đôi nam nữ mà ta thường gặp trong ca dao xưa. Có đọc mới hiểu được, "Trao duyên", ở đây là
gửi duyên, gửi tình của mình cho người khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dang dở của mình. Thúy
Kiều trước phút dấn thân vào quãng đời lưu lạc, bán mình cứu cha, nghĩ mình khơng giữ trọn lời đính ước
với người yêu, đã nhờ cậy em là Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng Kim. Đoạn thơ khơng chỉ có chuyện
trao dun mà còn chất chứa bao tâm tư trĩu nặng của Thúy Kiều.


Mở đầu đoạn thơ là tám câu tâm sự của Thúy Kiều, về mối tình của mình với chàng Kim. Kể ra, với
người xưa, một mối tình thiêng liêng như Thúy Kiều – Kim Trọng thường được giấu kín trong lịng ít khi
người ta thổ lộ với người thứ ba. Vậy mà, ở đây, Thúy Kiều phải bộc lộ tất cả với Thúy Vân. Hơn thế nữa,
nàng phải lạy em như lạy một ân nhân, một bậc bề trên, phải nói với em bằng những lời lẽ nhún nhường gần
như van vỉ:


“Cậy em, em có chịu lời,
<i>Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.” </i>


Không phải nhờ mà là cậy, chị nhờ em giúp chị với tất cả lòng tin của chị. Nhờ em nhưng cũng là gửi
gắm vào em. Bao nhiêu tin tưởng bao nhiêu thiêng liêng đặt cả vào từ cậy ấy! Cũng khơng phải chỉ nói mà
là thưa, kèm với lạy. Phải thiêng liêng đến mức nào mới có sự "thay bậc đổi ngôi" giữa hai chị em như
thế.Nguyễn Du thật tài tình, như đọc thấu tất cả nỗi lịng nhân vật. Nỗi đau khổ vì khơng giữ trọn lời đính
ước với chàng Kim đã buộc Thúy Kiều phải nói thật, nói hết với em, phải giãi bày tất cả. Bởi vì khơng có
cách nào khác là phải nhờ em. Gánh tương tư đâu có nhẹ nhàng gì, thế mà vì mình giờ đây bỗng giữa đường


đứt gánh, ai mà không đau khổ. Nhưng, gánh nặng vật chất thì san sẻ được, nhờ người khác giúp đỡ được,
còn gánh tương tư mà nhờ người khác giúp đỡ cũng là điều hiếm thấy xưa nay. Vì vậy, Kiều mới phải cậy
em, mới phải lạy, phải thưa, vì nàng hiểu nỗi khó khăn, sự tế nhị của gánh nặng này. Rõ ràng, Thúy Vân
cũng phải hi sinh tình yêu của mình để giúp chị. Trong hồn cảnh bi thương của mình, Thúy Kiều khơng chỉ
trao dun mà cịn trao cả nỗi đau của mình cho em gái. Tuy nhiên, Thúy Vân vốn là cơ gái vơ tư, thơ ngây
trong gia đình họ Vương lúc vạ gió tai bay, Thúy Kiều phải giành cho mình phần hi sinh lớn hơn: khơng chỉ
hi sinh tình yêu mà hi sinh cả cuộc đời để cứu cha, cứu em.


Trao duyên cho em nhưng nào đã dễ trút đi gánh nặng? Bao nhiêu kỉ niệm ngày xưa của mối tình đầu,
kỉ niệm đẹp đẽ của một thời ào ạt trở về. Những kỉ vật thiêng liêng nàng vẫn giữ, minh chứng cho tình yêu
của nàng với chàng Kim, dễ gì trong phút chốc lại phải trao sang tay người khác, cho dù người đó chính là
em gái mình? Tình u đơi lứa vốn có chút ít ích kỉ bên trong, đó cũng là lẽ thường tình. Chiếc thoa với bức
tờ mây, phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa... vốn là kỉ vật riêng của Thúy Kiều, kỉ vật ấy có ý
nghĩa tượng trưng cho hạnh phúc của nàng. Bây giờ, những kỉ vật thiêng liêng ấy, nàng phải trao cho em,
khơng cịn là của riêng của nàng nữa mà đã trở thành của chung của cả ba người. Đau xót làm sao khi buộc
phải cắt đứt tình riêng của mình ra thành của chung! Biết vậy nhưng Thúy Kiều cũng đã trao cho em với tất
cả tấm lịng tin cậy của tình ruột thịt, với tất cả sự thiêng liêng của tình yêu với chàng Kim. Nàng thuyết
phục em mới khéo làm sao:


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Chúc các bạn thi tốt! © HP-2013 Trang 2
<i>Xót tình máu mủ, thay lời nước non. </i>


<i> Chị dù thịt nát xương mịn, </i>


<i>Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.” </i>


Trên hết giữa chị với em là tình máu mủ; vì tình máu mủ ai nỡ chối nhau? Vì vậy, suốt từ đầu đến cuối
đoạn thơ khơng hề thấy lời nói của Thúy Vân. Thúy Kiều như người đang dốc bầu tâm sự, nàng phải dốc
cạn với em mới có thể thanh thản ra đi. Nàng tưởng tượng đến lúc mình đã chết, oan hồn trở về lẩn quất bên
chàng Kim. Khi đó, âm dương cách biệt, chỉ có chén nước mới giải được mối oan tình. Lời tâm sự sao mà


thương!


Cuối đoạn thơ nàng tưởng như mình đang nói với người u. Nỗi lịng vẫn ngổn ngang tâm sự, vẫn cịn
trăm nghìn điều muốn nói với chàng, vẫn khơng làm sao kể cho xiết muôn vàn ái ân giữa nàng với chàng;
không giữ được trọn lời thề nguyền với chàng, nàng đành gửi chàng trăm nghìn lạy. Nàng gọi Kim Trọng là
tình qn, nàng xót xa cho dun phận của mình tơ duyên ngắn ngủi, nàng tự coi mình là người phụ bạc.
Thật đau khổ biết bao: trao duyên rồi, đã nhờ em trả nghĩa cho chàng Kim rồi mà nỗi buồn thương vẫn chất
chứa trong lòng nàng Kiều. Phải chăng, một lần nữa Nguyễn Du đã thể hiện đúng quy luật tâm lí của con
người: cái gì đong mà lắc thì vơi, nhưng: sầu đong càng lắc càng đầy là như thế! Tình duyên dẫu có cố tình
dứt bỏ vẫn cịn vương tơ lịng là như vậy. Cuối đoạn thơ, mặc dù Kiều đã giãi bày hết nỗi khổ tâm riêng của
mình với em, đã nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng những đau khổ vì tình duyên tan vỡ trong tâm trí
nàng vẫn khơng ngi. Vẫn cịn mang nặng nợ tình với Kim Trọng, vẫn biết mình phận bạc, Thúy Kiều vẫn
phải thốt lên đau đớn:


“Ơi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
<i>Thơi thơi thiếp dã phụ chàng từ đây!” </i>


Phải chăng đây là tiếng thơ kêu xé lòng mà sau này nhà thơ Tố Hữu đã nói thay bao người, bao thế hệ!
Đoạn thơ, trừ những câu đầu tâm sự với Thúy Vân, trao duyên cho Thúy Vân, còn thực chất là đoạn độc
thoại nội tâm của Thúy Kiều. Với nghệ thuật thể hiện tài tình, Nguyễn Du giúp người đọc nhìn thấu tâm
trạng đau khổ của Thúy Kiều. Càng hiểu nàng bao nhiêu, ta càng thương nàng bấy nhiêu, cảm phục nàng
bấy nhiêu. Bởi vì người ta có thể hi sinh mọi thứ vì tình u, cịn nàng thì lại hi sinh tình u vì chữ hiếu.
Điều đó chẳng đáng cảm phục lắm sao?


------


Cuộc đời của con người tài sắc Thuý Kiều từ khi gia đình có tai biến đã trải qua nhiều giai đoạn. Mỗi
giai đoạn được ghi dấu bằng một niềm đau. Trong Truyện Kiều, có thể nói “Trao duyên” là niềm đau lớn
nhất. Bởi với Thuý Kiều, trao duyên – dù cho chính em gái mình – cũng nghĩa là hết. Phải chọn tình hay
hiếu, Th Kiều có băn khoăn nhưng khơng ốn hờn bởi nàng biết và nàng hiểu “làm con trước phải đền ơn


sinh thành”. Nhưng khi phải từ bỏ lời thề vàng đá, Thuý Kiều đã day dứt và day dứt suốt đời.


Trong Truyện Kiều, đoạn Trao duyên có vai trị như một cái bản lề khép mở hai phần đời đối lập của
Kiều : hạnh phúc và đau khổ. Khơng những thương, Vân cịn rất hiểu lịng Kiều. Có lẽ vì vậy mà sau đó,
chuyện tình dun khó trao, khó nhận nhưng Vân đã bằng lịng với nỗi niềm cảm thơng mà chẳng nói thêm
gì (có ý kiến cho rằng : Th Vân chỉ biết bằng lịng vì lời nói rất đỗi thuyết phục của Thuý Kiều). Chỉ chờ
có vậy, Thuý Kiều đã mở đầu câu chuyện mà đáng lí ra chẳng ai nói đến bao giờ :


“Cậy em em có chịu lời,
<i>Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.” </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Chúc các bạn thi tốt! © HP-2013 Trang 3
chịu nhận nên nàng đã chủ động đưa Vân vào thế khó xử, tiến thối lưỡng nan. Lời xưng hô nghiêm cẩn và
trang trọng của Thuý Kiều lại càng có tác dụng gây áp lực đối với Thuý Vân.


“Chọn” và “đặt vấn đề” một cách nhanh chóng và kĩ càng, Thuý Kiều dường như ngay lập tức tiếp lời như
nếu để lâu sẽ không thể nào nói được :


“Giữa đường đứt gánh tương tư,
<i>Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.” </i>


Vậy là cái điều tưởng như khó nhất, Thuý Kiều đã nói. Thuý Vân hết sức ngỡ ngàng nhưng cũng nhanh
chóng hiểu nỗi niềm của chị. Đoạn thơ ngắn gọn, hướng vào những chuyện riêng tư. Tình yêu dở dang, tan
vỡ được thông tin ngắn gọn trong một thành ngữ nặng nề, chắc nịch (đứt gánh tương tư). Câu thơ thứ 4 lại
hay ở hai chữ tơ thừa. Với Thuý Kiều, tình yêu chưa thể coi là đã đủ mặn mà nhưng với em (Thuý Vân) nó
chỉ là sự nối tiếp. Lời Kiều sâu sắc và cũng thật xót xa.


Những câu thơ tiếp điểm qua những biến cố đời Kiều. Những biến cố ấy, Thuý Vân đều chứng kiến,
thấu hiểu và cảm thông “khi gặp gỡ chàng Kim” và cả “khi sóng gió bất kì”.



Tám câu thơ đầu, ngoài lời trao duyên, Thuý Kiều chủ yếu nói về những bất hạnh của mình. Nhưng để
trao duyên, Thuý Kiều còn phải chọn những lời lẽ thuyết phục :


“Ngày xuân em hãy cịn dài,
<i>Xót tình máu mủ thay lời nước non. </i>
<i> Chị dù thịt nát xương mịn, </i>


<i>Ngậm cười chín suối hãy cịn thơm lây.” </i>


Đoạn thơ sử dụng nhiều thành ngữ, lời lẽ ý vị, kín đáo, vẹn tình. Người “nhận” có ba lí do để không thể
khước từ. Trước hết, không cách nhau nhiều về tuổi tác nhưng phải nhắc đến hai chữ ngày xuân với Kiều
sao giờ quá nặng nề. Rõ ràng xét về ngày xuân (hiểu là sự trong trắng tinh khơi) thì giờ đây Th Kiều đâu
thể xứng đáng với Kim Trọng bằng Thuý Vân. Kiều dù sao cũng mang danh là đã có chồng. Lí do thứ hai lại
càng thuyết phục hơn. Kiều đang nhờ Vân một điều mà chẳng ai nhờ vả bao giờ. Đã khó nhờ, khó nhận thì
vả chăng chỉ có là tình chị em máu mủ mới dễ đồng cảm, để rồi “chấp nhận” cho nhau. Lí do thứ ba nghe
sao như một lời khẩn cầu đầy chua xót :


“Chị dù thịt nát xuơng mịn,


<i>Ngậm cười chín suối hãy cịn thơm lây.” </i>


Không hẳn là lí do nhưng lại hồn tồn hợp lí. Câu thơ khẩn cầu như một lời trăng trối. Và có ai lại
đang tâm từ chối ước nguyện của người thân sắp phải thuộc về hồn cảnh bấp bênh, khơn lường bất trắc?
Người ta nói Nguyễn Du là người sâu sắc nước đời là ở những chỗ như vậy.
Duyên đã được trao, người “nhận” cũng khơng có lí do gì để từ chối. Th Kiều trao kỉ vật cho em :


“Chiếc vành với bức tờ mây,
<i>Duyên này thì giữ, vật này của chung.” </i>


Thuý Kiều mất bao công sức để thuyết phục Thuý Vân nhưng chính lúc Thuý Vân chấp nhận thì cũng là


lúc Thuý Kiều bắt đầu chới với để cố níu mình lại với tình u. Dun đã khó trao, tình làm sao trao được?
Tìm về với những kỉ vật thiêng liêng (chiếc vành, bức tờ mây, mảnh hương nguyền) cũng là để được về với
tình u của nàng. Những kỉ vật đẹp đẽ đó gắn liền với những ngày đẹp nhất đời Kiều. Nó thiêng liêng khi
nó chỉ là của riêng nàng và Kim Trọng. Tình u khơng có người thứ ba, khi có người thứ ba, sự thiêng
liêng bắt đầu đổ vỡ. Câu thơ “Duyên này thì giữ vật này của chung” thể hiện tâm trạng của Kiều xiết bao
đau đớn. Tình yêu và niềm tin đối với Thuý Kiều giờ đây đã hoàn toàn trượt mất.


Cố níu kéo tình yêu bằng kỉ vật (dù chỉ trong tâm tưởng), Thuý Kiều đành ngậm ngùi đau xót nghĩ về
tương lai :


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Chúc các bạn thi tốt! © HP-2013 Trang 4
<i> Trông ra ngọn cỏ lá cây, </i>


<i>Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.” </i>


Thuý Kiều như chìm trong tê dại, mê man trong cảm giác xót xa. Nhưng ngay trong lúc tưởng chừng
như đã hồn tồn cách biệt âm dương thì lời thề vàng đá của Kiều vẫn không hề thay đổi :


“Hồn còn mang nặng lời thề,
<i>Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.” </i>


Tìm về tình yêu bằng cảm giác từ cõi tâm linh, Thuý Kiều vẫn không quên nghĩ về sự tủi hổ, bất hạnh
của mình :


“Dạ đài cách mặt khuất lời,


<i>Rưới xin giọt nước cho người thác oan.” </i>


Đoạn thơ cuối là cảm giác trở về của Thuý Kiều từ cõi hư khơng. Thời gian khơng cịn là thời gian tâm
trạng, nó là thời gian khách thể. Trở về với hiện thực, Thuý Kiều xót xa chấp nhận sự phũ phàng của định


mệnh, chấp nhận “trâm gãy bình tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”. Đoạn thơ dùng nhiều
thành ngữ để nói tới cái “nhất thành bất biến” không thể thay đổi, chuyển dời. ý thức về hiện tại, Kiều chỉ
cịn biết thương mình, ốn hờn số phận. Ngay trong lúc tưởng chừng Kiều sẽ buông xi, thì suy nghĩ của
nhân vật lại rẽ sang hướng khác :


“Ôi Kim Lang ! Hỡi Kim Lang
<i>Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!” </i>


Câu thơ thực chất là tiếng kêu thảng thốt, là tiếng nấc nghẹn ngào của người con gái đã hoàn toàn tuyệt
vọng.


Thuý Kiều sau đó xa cách Kim Trọng mười lăm năm nhưng trong mười lăm năm ấy không lúc nào nàng
ngi nhớ đến mối tình đầu. Song có lẽ khơng cần phải đợi đến mười lăm năm. Ngay trong ngày phải đau
đớn “trao duyên”, người đọc có thể thấy tình u trong lịng người con gái ấy khơng gì có thể chia cắt nổi.
Đoạn trích bộc lộ nỗi đau, tình u và số phận bi kịch của Kiều. Qua nghệ thuật miêu tả nội tâm tài tình
của Nguyễn Du, nỗi đau và vẻ đẹp tâm hồn của nàng Kiều – người con gái tài sắc, tình nghĩa vẹn tồn – đã
được thể hiện một cách tinh tế và toả sáng lấp lánh.


------


<i><b>2. </b></i>

<i><b>Phân tích đoạn trích “Chí khí anh hùng” (Truyện Kiều – Nguyễn Du) </b></i>



Sống với Kiều được nửa năm, cuộc sống đang lúc đằm thắm, nồng nàn nhất thì Từ Hải muốn ra đi
thực hiện nghiệp lớn. Tâm trí Từ Hải luôn suy nghĩ về những việc lớn lao. Vì thế, việc “động lịng bốn
phương” là hợp lí. Từ “bốn phương” chỉ cơng việc và chí lớn của người nam nhi thời xưa. “Động lòng”
nhấn mạnh việc Từ Hải nung nấu những ý chí lớn lao. ý chí đó đã có sẵn trong con người chàng, nó chỉ tạm
lui đi trong thời gian sống cùng Kiều, giờ là lúc chàng thể hiện. Từ “thoắt” diễn tả sự mau chóng trong việc
thay đổi tâm trạng, dáng vẻ của Từ Hải. ở đây, Nguyễn Du đã gọi Từ Hải là “trượng phu”. Đó là cách nói vơ
cùng trân trọng với các vị anh hùng. Nó dựng lên dáng vẻ bệ vệ, oai nghiêm, đĩnh đạc của một vị tướng võ.



Song dẫu đa tình, Từ khơng quên mình là một tráng sĩ. Trong xã hội phong kiến, đã làm thân nam
nhi phải có chí vẫy vùng giữa đất trời cao rộng. Từ Hải là một bậc anh hùng có chí lớn và có nghị lực để đạt
được mục đích cao đẹp của bản thân. Chính vì thế, tuy khi đang sống với Kiều những ngày tháng thực sự êm
đềm, hạnh phúc nhưng Từ khơng qn chí hướng của bản thân. Đương nồng nàn hạnh phúc, chợt "động
lòng bốn phương", thế là tồn bộ tâm trí hướng về "trời bể mênh mang", với "thanh gươm yên ngựa" lên
đường đi thẳng.


Không gian trong hai câu thứ ba và thứ tư (trời bể mênh mang, con đường thẳng) đã thể hiện rõ chí khí
anh hùng của Từ Hải.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Chúc các bạn thi tốt! © HP-2013 Trang 5
là "vội lời", chứ không phải lên đường đi thẳng rồi mới nói thì vơ lí. Vậy có thể hình dung, Từ Hải lên n
ngựa rồi mới nói những lời chia biệt với Thuý Kiều. Và, có thể khẳng định cuộc chia biệt này khác hẳn hai
lần trước khi Kiều từ biệt Kim Trọng và Thúc Sinh. Kiều tiễn biệt Kim Trọng là tiễn biệt người yêu về quê
hộ tang chú, có sự nhớ nhung của một người đang yêu mối tình đầu say đắm mà phải xa cách. Khi chia tay
Thúc Sinh để chàng về quê xin phép Hoạn Thư cho Kiều được làm vợ lẽ, hi vọng gặp lại rất mong manh vì
cả hai đều biết tính Hoạn Thư, do đó gặp lại được là rất khó khăn. Chia tay Từ Hải là chia tay người anh
hùng để chàng thoả chí vẫy vùng bốn biển. Do vậy, tính chất ba cuộc chia biệt là khác hẳn nhau.
Lời Từ Hải nói với Kiều lúc chia tay thể hiện rõ nét tính cách nhân vật. Thứ nhất, Từ Hải là người có
chí khí phi thường. Khi chia tay, thấy Kiều nói :


“Nàng rằng : "Phận gái chữ tòng,
<i>Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".” </i>
Từ Hải đã đáp lại rằng :


<i> “Từ rằng : "Tâm phúc tương tri, </i>


<i>Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình".” </i>


Trong lời đáp ấy bao hàm lời dặn dò và niềm tin mà Từ Hải gửi gắm nơi Thuý Kiều. Chàng vừa mong


Kiều hiểu mình, đã là tri kỉ thì chia sẻ mọi điều trong cuộc sống, vừa động viên, tin tưởng Kiều sẽ vượt qua
sự bịn rịn của một nữ nhi thường tình để làm vợ một người anh hùng. Chàng muốn lập cơng, có được sự
nghiệp vẻ vang rồi đón Kiều về nhà chồng trong danh dự :


“Bao giờ mười vạn tinh binh,


<i>Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường. </i>
<i> Làm cho rõ mặt phi thường, </i>


<i>Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.” </i>


Quả là lời chia biệt của một người anh hùng có chí lớn, khơng bịn rịn một cách yếu đuối như Thúc Sinh
khi chia tay Kiều. Sự nghiệp anh hùng đối với Từ Hải là ý nghĩa của sự sống. Thêm nữa, chàng nghĩ có làm
được như vậy mới xứng đáng với sự gửi gắm niềm tin, với sự trông cậy của người đẹp.


Thứ hai, Từ Hải là người rất tự tin trong cuộc sống :
“Đành lịng chờ đó ít lâu,
<i>Chầy chăng là một năm sau vội gì!” </i>


Từ ý nghĩ, đến dáng vẻ, hành động và lời nói của Từ Hải trong lúc chia biệt đều thể hiện Từ là người rất
tự tin trong cuộc sống. Chàng tin rằng chỉ trong khoảng một năm chàng sẽ lập công trở về với cả một cơ đồ
lớn.


Trong đoạn trích, tác giả đã sử dụng kết hợp nhuần nhuyễn từ Hán Việt và ngơn ngữ bình dân, dùng
nhiều hình ảnh ước lệ và sử dụng điển cố, điển tích. Đặc biệt, nhân vật Từ Hải được Nguyễn Du tái tạo theo
khuynh hướng lí tưởng hố. Mọi ngơn từ, hình ảnh và cách miêu tả, Nguyễn Du đều sử dụng rất phù hợp với
khuynh hướng này.


Về từ ngữ, tác giả dùng từ trượng phu, đây là lần duy nhất tác giả dùng từ này và chỉ dùng cho nhân vật
Từ Hải. Trượng phu nghĩa là người đàn ơng có chí khí lớn. Thứ hai là từ thoắt trong cặp câu :



<i> “Nửa năm hương lửa đương nồng, </i>


<i>Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.” </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Chúc các bạn thi tốt! © HP-2013 Trang 6
áo trong Quyết lời dứt áo ra đi thể hiện được phong cách mạnh mẽ, phi thường của đấng trượng phu trong


lúc chia biệt.


Về hình ảnh, "Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi" là một hình ảnh so sánh thật đẹp đẽ và đầy ý nghĩa. Tác
giả muốn ví Từ Hải như chim bằng cưỡi gió bay cao, bay xa ngồi biển lớn. Khơng chỉ thế, trong câu thơ
cịn diễn tả được tâm trạng của con người khi được thoả chí tung hồnh "diễn tả một cách khối trá giây lát
con người phi thường rời khỏi nơi tiễn biệt". Nói thế khơng có nghĩa là Từ Hải khơng buồn khi xa Thuý
Kiều mà chỉ khẳng định rõ hơn chí khí của nhân vật. Hình ảnh : "Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng
dong" cho thấy chàng lên ngựa rồi mới nói lời tiễn biệt, điều đó diễn tả được cái cốt cách phi thường của
chàng, của một đấng trượng phu trong xã hội phong kiến.


Về lời miêu tả và ngơn ngữ đối thoại cũng có những nét đặc biệt. Kiều biết Từ Hải ra đi trong tình cảnh
"bốn bể khơng nhà" nhưng vẫn nguyện đi theo. Chữ "tịng" không chỉ giản đơn như trong sách vở của Nho
giáo rằng phận nữ nhi phải "xuất giá tòng phu" mà còn bao hàm ý thức sẻ chia nhiệm vụ, đồng lịng tiếp sức
cho Từ khi Từ gặp khó khăn trong cuộc sống. Từ Hải nói rằng sao Kiều chưa thốt khỏi thói nữ nhi thường
tình khơng có ý chê Kiều nặng nề mà chỉ là mong mỏi Kiều cứng rắn hơn để làm vợ một người anh hùng.
Từ nói ngày về sẽ có 10 vạn tinh binh, Kiều tin tưởng Từ Hải. Điều đó càng chứng tỏ hai người quả là tâm


đầu ý hợp, tri kỉ, tri âm.


Đoạn trích ngợi ca chí khí anh hùng của nhân vật Từ Hải và khẳng định lại một lần nữa tình cảm của
Thuý Kiều và Từ Hải là tình tri kỉ, tri âm chứ khơng chỉ đơn thuần là tình nghĩa vợ chồng.



Trong đời Kiều có nhiều cuộc chia tay, chia tay đột ngột với Kim Trọng khi mối tình đầu chớm hé;
chia tay Thúc Sinh trong tâm trạng cô đơn, đầy dự cảm không lành. Trong đoạn trích này tác giả tái hiện
cảnh Kiều chia tay Từ Hải để chàng ra đi thực hiện nghiệp lớn. Nhưng tại sao người soạn sách lại đặt tên
cho đoạn trích này là “Chí khí anh hùng” mà khơng phải “Từ Hải chia tay Th Kiều”? Đó là vì đoạn trích
này khơng tập trung khắc hoạ cảnh chia tay mà muốn khắc hoạ Từ Hải ở vẻ đẹp, tầm vóc và quyết tâm đạt
đến khát vọng.


------


<i><b>3. </b></i>

<i><b>Phân tích bài “Bạch Đằng giang phú” (Trương Hán Siêu) </b></i>



Trương Hán Siêu là một danh sĩ đời Trần, sau lúc qua đời được vua Trần truy phong là Thiếu Bảo.
Ơng cịn để lại bốn bài thơ và ba bài văn “Dục Thuý sơn khắc thạch”, “Linh Tế Tháp ký”, “Khai Nghiêm tự
bi”, “Bạch Đằng giang phú”,… Trong thơ văn cỗ Việt Nam có một số tác phẩm lấy đề tài sơng Bạch Đằng
nhưng “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu được xếp vào hạng kiệt tác. Chưa rõ Trương Hán Siêu
viết “Bạch Đằng giang phú” vào năm nào, nhưng qua giọng văn cảm hoài “Thương nỗi anh hùng đâu vắng
tá – Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”, ta có thể đốn định được, bài phú này chỉ có thể ra đời sau khi Trần
Quốc Tuấn đã mất, tức là vào khoảng 1301-1354.


“Bạch Đằng giang phú” được viết bằng chữ Hán. Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đổng Chi,
Bùi Văn Nguyên… đã dịch khá thành công áng văn này. Bài cảm nhận về “Bạch Đằng giang phú” dựa trên
văn bản dịch của giáo sư Bùi Văn Nguyên.


Phú là một thể văn cổ dùng để tả cảnh vật, phong tục hoặc tính tình. Chất trữ tình và yếu tố khoa trương
đậm đặc trong phú. Có phú cổ thể và phú Đường luật. Phú cổ thể như một bài văn xi dài, có vần mà
khơng nhất thiết có đối, cịn gọi là phú lưu thuỷ. Phú Đường luật được đặt ra từ đời Đường, có vần, có đối,
có luật bằng trắc chặt chữ, có những kiểu câu được quy pạm rõ rang. “Bạch Đằng giang phú” của Trương
Hán Siêu viết theo lối phú cổ thể, có vần sử dụng phép đối rất sáng tạo:


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Chúc các bạn thi tốt! © HP-2013 Trang 7


Qua bài phú này, Trương Hán Siêu ca ngợi sông Bạch Đằng hùng vĩ, dịng sơng lịch sử đã gán liền với
tên tuổi bao anh hùng, với bao chiến công oanh liệt của nhân dân ta trong sự nghiệp chống xâm lăng. Nhà
thơ khẳng định: Núi sông hiểm trở, nhiều nhân tài hào kiệt đã tạo nên truyền thống anh hùng của dân tộc, sự
bền vững của Tổ quốc mn đời. Lịng u nước, niềm tự hào dân tộc là cảm hứng chủ đạo của “Bạch Đằng
giang phú”.


<i>“Giương buồm giong gió chơi vơi”. </i>


“Khách có kẻ” trong “Bạch Đằng giang phú” là nhân vật trữ tình khơng ai khác mà chính là Trương
Hán Siêu. Trong các bài phú cổ, nhân vật “khách” không mấy xa lạ. “Ngọc tỉnh liên phú” (bài phú Sen giếng
ngọc) của Mạc Đĩnh Chi (?-1346) cũng có nhân vật “khách”: … “Khách có kẻ: nơi nhà cao tựa ghế, trưa
mùa hạ nắng nồng. Ao trong ngắm làn nước biếc, Nhạc phủ vịnh khúc Phù Dung”. “Khách” ở đây là Mạc
Đĩnh Chi biểu lộ tấmlòng thanh cao, chí khí, tài năng và hồi bão của kẻ sĩ ở đời.


Ta đã từng biết, Trương Hán Siêu là danh sĩ nổi tiếng đời Trần, tính tình cương trực, tâm hồn phóng
khống. Chín câu đầu cho thấy “khách” là một tao nhân với rượu túi thơ “chơi vơi” theo cánh buồm, làm
bạn với gió trăng qua mọi miền sơng biển. Sống hết mình với thiên nhiên, du ngạon thăm thú mọi cảnh đẹp
xa gần. Đêm thì “chơi trăng mải miết”, ngày thì: “Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương; Chiều lần thăm chừ
Vũ Huyệt”,...


Khách đã đi nhiều và biết nhiều. Các danh lam thắng cảnh như Nguyên Tương, Cửu Giang, Ngũ Hồ,
Tam Ngô, Bách Việt,… đều ở trên đất nước Trung Hoa mênh mông, ở đây chỉ mang ý nghĩa tượng trưng
nói lên một cá tính, một tâm hồn: u thiên nhiên tha thiết, lấy việc du ngoạn làm niềm lạc thú ở đời, tự hào
về thói “giang hồ” của mình:


<i>“Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết”. </i>


Các địa danh xa lạ không chỉ là cảnh đẹp mà còn gợi ra một không gian bao la, chỉ có những người
mang hồi bão và “tráng chí bốn phương” mới có thể “giương buồm…lướt bể” đi tới. Đầm Vân Mộng là
một thắng cảnh tiêu biểu cho mọi thắng cảnh. Thế mà “Khách” đã “chứa vài trăm trong dạ”, đã thăm thú


nhiều lần đã từng thưởng ngoạn bao cảnh đẹp tương tự. Vẫn chưa thoả lòng, vẫn còn “tha thiết” với bốn
phương trời.


<i>“Đầm Văn Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều </i>
<i>Mà tráng chí bốn phương vẫn cịn tha thiết”. </i>


Phần đầu bài phú nói lên cốt cách kẻ sĩ: chan hồ với thiên nhiên, lấy chữ “nhàn” làm trọng, gián tiếp
phủ định lợi danh tầm thường.


<i>“Qua cửa Đại Than… đến sông Bạch Đằng” </i>


Đoạn văn tiếp theo nói lên niềm vui thú của nhà thơ khi đến chơi sông Bạch Đằng. Trương Hán Siêu đã
theo cái chí của người xưa “học Tử Trương” đi về phía Đơng Bắc “bng chèo” cho thỏa chí “tiêu diêu”.
Người xưa nói: “Muốn học cái văn của Tư Mã Tử Trường thì trước tiên phải học cái chơi của Tử Trường”.
Tử Trường là Tư Mã Thiên, tác giả bộ “Sử ký” bất hủ, là nhà văn, nhà sử học tài ba đời Hán. Con người ấy
vẫn được xem là nhà du lịch có một không hai thời xưa. Trương Hán Siêu với cánh buồm thơ lần theo sông
núi:


<i>“Qua cửa Đại than, ngược bến Đông triều, </i>
<i>Đến sông Bạch Đằng, bồng bềnh mái chèo” </i>
<i>“Bát ngát sóng kình mn dặm” </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Chúc các bạn thi tốt! © HP-2013 Trang 8
sóng bạc… Trơng thấy nước dịng sơng rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối- Lầm tưởng rằg máu người chết
vẫn chưa khô”( Bạch Đằng giang -Dịch nghĩa ) Cảnh núi non, bờ bãi được miêu tả, đã tái hiện cảnh chiến
trường rùng rợn một thời:


<i>“Bờ lau san sát. </i>
<i>Bến lách đìu hiu </i>
<i>Sơng chìm giáo gãy </i>


<i>Gị đầy xương khơ" </i>


Bờ lau, bến lách gợi tả khơng khí hoang vu. hiu hắt. Núi gò, bờ bãi trập trùng như gươm giáo, xương cốt
lũ giặc phương Bắc chất đống. Nét vẽ hoành tráng ấy, một thế kỷ sau Ức Trai cũng viết: “Ngạc chặt kình
băm non lởm chởm - Giáo chìm gươm gãy bãi dăng dăng” (“Cửa Biển Bạch Đằng”).


Trương Hán Siêu miêu tả dịn sơng Bạch Đằng bằng những đường nét, máu sắc gợi cảm.Nhũng ẩn dụ
và liên tưởng mói về dịng sông lịch sử hùng vĩ được miêu tả qua những cặp câu song quan và tứ tự tuyệt
đẹp. Mấy chục năm sau trận đại thắng trên sông Bạch Đằng(1288) nhà thơ đến thăm dịng sơng cảm thương
xúc động:


<i>“Buồn vì cảnh thảm </i>
<i>Đứng lặng giờ lâu </i>


<i>Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá </i>
<i>Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”. </i>


Một tâm trạng: “buồn, thương tiếc”, một cảm xúc “ đứng lặng giờ lâu” của “khách” đều biểu lộ sự xúc
động, lịng tiếc thương và biết ơn sâu sắc, vơ hạn đối với anh hùng liệt sĩ đã đem xương máu bảo vệ dịng
sơng vá sự tồn vong của dân tộc. Đó là tình nghĩa thuỷ chung “uống nước nhớ nguồn”


<i>“Mà nhục quân thù khôn rửa nổi” </i>


Các bô lão - nhân vật thứ hai xuất hiện trong bài phú. Từ miêu tả và trữ tình, nhà thơ chuyển sang tự sự,
ngơn ngữ sống đọng biến hố hẳn lên, Cảm hứng lịch sử mang âm điệu anh hùng ca dâng lên dào dạt như
những lớp sóng trên sơng Bạch Đằng vỗ. Khách và bơ lão ngắm dịng sơng, nhìn con sóng nhấp nhơ như
sống lại những năm tháng hào hùng oanh liệt của tổ tiên:


<i>“Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã, </i>
<i>Cũng là bãi đát xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoàng Thao”. </i>



Sau và trước, gần và xa, ta và giặc, người chiến thắng và kẻ thảm bại được đặt trong thế tương phản đối
lập đã khắc sâu và tô đậm niềm tự hào sông núi. “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” vì nó là mồ chơn lũ xâm
lược phương Bắc.


Năm 938, Ngô Quyền dùng mưu đại phá quân Nam Hán:
<i>“Bạch Đằng một trận giao phong </i>


<i>Hoằng Thao lạc vía, Kiều cơng nộp đầu” </i>


Năm 1288, Trần Quốc Tuấn mở một trận quyết chiến - chiến lược bắt sống Ô Mã Nhi và tiêu diệt hàng
vạn quân xâm lược Nguyên - Mông:


<i>“Bạch Đằng một cõi chiến tràng, </i>


<i>Xương bay trắng đất, máu màng đỏ sông”. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Chúc các bạn thi tốt! © HP-2013 Trang 9
bút, khoa trương rất thần tình. Âm thanh và màu sắc, trực cảm và tưởng tượng được tác giả phối hợp vận
dụng, góp phần tơ đậm trang sử vàng chói lọi:


<i>“Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ </i>
<i>Bầu trời đất chừ sắp đổi”. </i>


“Đại Việt sử ký” ghi rõ: Các tướng như Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ… đều bị bắt sống, hàng vạn
giặc bị tiêu diệt. Quân ta thu hơn 400 chiến thuyền. Giặc đã lần lượt nếm mùi thất bại, nhục nhã. Dịng sơng
Bạch Đằng như một chứng nhận lịch sử:


<i>“Đến nay sơng nước tuy chảy hồi </i>
<i>Mà nhục qn thù khôn rửa nổi”. </i>



Trận thủy chiến sông Bạch Đằng của tổ tiên mang tầm vóc và quy mơ hồnh tráng, kỳ vĩ. Cũng như trận
Xích Bích, trận Hợp Phì “qn Tào Tháo tan tác tro bay”… “quân Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi”, trận Bạch
Đằng giang đã đập tan âm mưu bành trướng xâm lược của Lưu cung, của Tất Liệt: “Trời cũng chiều người -
Hung đồ hết lối”. Hung đồ là một cách nói khinh bỉ đối với lũ giặc phương Bắc.


Nhà thơ từ miêu tả, tự sự đến suy ngẫm về vinh, nhục, về thắng, bại trong lịch sử. Tổ quốc mãi mãi
vững bền và nhờ có hai nhân tố quan trọng: đất hiểm và nhân tài. Tính tư tưởng của áng văn này rất sâu sắc.
Tác giả đã neu lên bài học lịch sử vô giá:


<i>“Quả là trời đất cho nơi hiểm trở </i>
<i>Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an”. </i>


Bạch Đằng, Chi Lăng… là đất hiểm trở. Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Quang Trung… là nhân
tài. “Cuộc điện an” là sự nghiệp bảo vệ nền độc lập, hồ bình, yên vui cho đất nước.
Bằng lối so sánh, Trương Hán Siêu nhắc lại vai trò to lớn của Lã Vọng, Hàn Tín bên Trung Quốc đã để
lại võ cơng lừng lẫy một thời, qua đó tác giả tự hào ngợi ca Hưng Đạo Vương, người anh hùng vĩ đại thuở
“bình Nguyên” oanh liệt”


<i>“Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng </i>
<i>Bởi Đại Vương coi thế giặc nhàn”. </i>


“Thế giặc nhàn” là thế giặc dễ đánh thắng. Quả đúng như vậy lần thứ ba giặc Nguyên - Mông sang xâm
lược nước ta đã bị đại bại. Con người anh hùng “coi thế giặc nhàn”, tên tuổi sống mãi với Bạch Đằng giang,
với đất nước Đại Việt: “Tiếng thơm đồn mãi - Bia miệng khơng mịn”.


Đoạn văn miêu tả dòng sông, đoạn kể lại trận thủy chiến là đặc sắc nhất. Màu sắc tráng lệ. Hình ảnh kỳ
vĩ. Phép đối được vận dụng rất tài tình để biểu lộ niềm tự hào dân tộc và sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam.
Trương Hán Siêu đã bày tỏ một quan niệm về đất hiểm và nhân tài về vinh và nhục, cái tiêu vong và cái vĩnh
hằng… trong cuộc đời và trong lịch sử. Tư tưởng cao đẹp ấy được diễn tả một cách tráng lệ, nên thơ, tạo nên



vẻ đẹp văn chương của “Bạch Đằng giang phú”.


“Cốt minh đức cao”


Phần cuối bài phú là bài ca của lão về dòng sông, về đất nước và con người Việt Nam. Sông Bạch Đằng
hùng vĩ “một dải dài ghê” là mồ chơn lũ xâm lăng. “Sóng hồng cuồn cuộn trơi về biển Đơng”. Máu giặc như
mãi mãi nhuộm đỏ dịng sơng. Một cách nói hào hùng. Giặc bất nghĩa nhất định bị tiêu vong. Các anh hùng
để lại tiếng thơm muôn đời, lưu danh sử sách. Nhà thơ dành cho hai vua Trần những lời đẹp đẽ nhất”


<i>“Anh minh hai vị thánh quân </i>


<i>Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh” </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Chúc các bạn thi tốt! © HP-2013 Trang 10
Một nét đặc sắc trong thơ văn đời Trần là ngồi “hào khí Đơng A” cịn nêu cao bài học xây dựng bảo vệ đất
nước: “Thái bình nên gắng sức - Non nước ấy ngàn thu” (Trần Quang Khải). “Đức cao” là nguyên nhân
thắng lợi, như Trần Quốc Tuấn đã nói: “Vua tôi đồng long, anh em hịa thuận, cả nước góp sức” - đó là
nguồn sức mạnh Việt Nam.


Tóm lại, “Bạch Đằng giang phú” là một bài ca yêu nước tự hào dân tộc. Tên tuổi Ngơ Quyền, Trần
Quốc Tuấn trường tồn với dịng sơng lịch sử. Lời văn hoa lệ, tư tưởng tình cảm sâu sắc, tiến bộ. Chất trữ
tình sau lắng. Âm điệu anh hùng ca, khơng khí trang trọng cổ kính. Tài hoa trong miêu tả, hùng hồn trong tự
sự, u hoài trong cảm xúc, sáng suốt lúc bình luận… là những thành cơng của Trương Hán Siêu. Đẹp vậy
thay tiếng hát dòng sơng:


<i>“Sơng Đằng một dải dài ghê, </i>


<i>Sóng hồng cuồn cuộn trơi về biển Đơng” </i>
------


<i><b>4. </b></i>

<i><b>Phân tích bài “Bình Ngơ đại cáo” (Nguyễn Trãi) </b></i>



Có thể nói, Nguyễn Trãi đã tổng kết tư tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta thành một truyền thống,
một nguyên lý cao đẹp bằng những lý luận và dẫn chứng đanh thép cùng những hình tượng nghệ thuật giàu
sức gợi tả. Lí tưởng nhân nghĩa ấy sẽ cịn mãi trường tồn cùng sự vững bền vĩnh cửu của dân tộc, đất nước.
Bình Ngơ đại cáo là hiện tượng có một khơng hai trong lịch sử văn học Việt Nam. Với ngòi bút của


người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi - nhân vật toàn tài số một của thời phong kiến - bài cáo không chỉ là sự
tuyên bố về thắng lợi của sự nghiệp “Bình Ngơ” như mệnh lệnh mà Lê Lợi giao phó. Hơn thế, tác phẩm đã
trở thành áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập
và vị thế dân tộc. Và điểm cốt lõi mà “Bình Ngơ đại cáo” thể hiện ở cả hai tư cách ấy chính là lý tưởng
“nhân nghĩa” mà nhân dân ta mãi mãi ngợi ca và hướng tới.


Lý tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta là điểm cốt lõi đã được Nguyễn Trãi khẳng định một cách mạnh
mẽ ngay từ câu đầu tiên của tác phẩm :


“Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân”


Nhân nghĩa trước hết và hơn đâu hết được thể hiện ở mục tiêu an dân. Đem lại cuộc sống ấm no, yên ổn
cho dân vốn là tư tưởng cả đời Nguyễn Trãi theo đuổi. Trong thơ văn của mình, ơng khơng ít lần nhắc đến
điều đó :


“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng.
Dân giàu đủ khắp đòi phương”


Cũng luôn cánh cánh “làm cho khắp thơn cùng xóm vắng khơng cịn tiếng hờn giận ốn sầu”. Điều quan
trọng là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí, một lý tưởng. Mặt khác, ngay
ở những câu đầu tiên Nguyễn Trãi khơng nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà chỉ bằng một hai
câu ngắn gọn ông đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất. Đó là trừ bạo, an dân. Muốn
theo đuổi và thi hành tư tưởng nhân nghĩa khơng có cách nào hơn là hướng tới cuộc sống nhân dân.



Vấn đề cốt lõi đó của tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở cả hai mặt thống nhất : quan tâm đến sự yên
ổn, no ấm cho dân cũng đồng nghĩa với việc phải chiến đấu đánh đuổi kẻ thù của nhân dân, diệt trừ những
kẻ tham tàn bạo ngược. Kẻ thù của nhân dân ở đây được Nguyễn Trãi xác định cụ thể là kẻ thù xâm lược, là
bọn “cuồng Minh” giày xéo lên cuộc sống nhân dân gây ra bao tai hoạ, đến mức:


“Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội.


Dơ bẩn thay thay nước Đông Hải khôn rửa sạch mùi”


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Chúc các bạn thi tốt! © HP-2013 Trang 11


Nhân nghĩa trước hết thể hiện ở lòng thương dân, chăm lo cho nhân dân. Cao hơn thế, trong quan hệ với
kẻ thù xâm lược, tư tưởng ấy vẫn thể hiện một cách sáng ngời: chúng ta đánh giặc bằng mưu kế và đánh vào
lòng người: “mưu phạt, tâm công”. Với tư cách là vị quân sư lỗi lạc của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn
Trãi đã khơng ít lần dùng những áng văn chính luận “có sức mạnh hơn 10 vạn binh” của mình để cơng phạt,
khuất phục kẻ thù khiến cho bọn chúng “chẳng đánh mà chịu khuất”. Không những thế, khi bọn chúng đã
khuất phục, đã đầu hàng nhân dân ta luôn mở cho chúng con đường sống:


“Thần vũ chẳng giết hại,


Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh”
Cấp cho phương tiện trở về:


“Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền…
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa...”


Dùng nhân nghĩa để đối xử với kẻ bại trận, xoa dịu hận thù để không gây hậu họa về sau cũng chính là
đại nghĩa với nhân dân vậy. Bởi lẽ, như bài cáo đã khẳng định "Họ đã ham sống sợ chết, mà hòa hiếu thực
lịng / Ta lấy tồn qn là hơn, để nhân dân nghỉ sức".



Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta được Nguyễn Trãi thể hiện trong bài cáo vừa toàn diện,
vừa cụ thể ; vừa chỉ ra điểm cốt lõi, cơ bản vừa bổ sung những khía cạnh mới mẽ. Bởi thế nó trở thành điểm
ngời sáng trong tư tưởng nhân dân, là tiền đề cho mọi hành động. Soi chiếu vào thực tiễn cuộc kháng chiến
tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp ấy còn là căn nguyên tạo nên sức mạnh cho nghĩa quân Lam Sơn :


“Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo”


Với lí tưởng nhân nghĩa ấy, quân dân ta có thể khắc phục và vượt qua những khó khăn tưởng chừng
không thể :


“Khi Linh Sơn lương het mấy tuần.
Khi Khôi Huyện quân không một đội”


Để rồi từ đó có thể lấy ít địch nhiều, dùng yếu chống mạnh mà làm nên thắng lợi vang dội, giúp cho :
“Xã tắc từ đây bền vững


Giang sơn từ đây đổi mới


...Mn thuở nền thái bình vững chắc
Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu”


Có thể nói, Nguyễn Trãi đã tổng kết tư tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta thành một truyền thống, một
nguyên lý cao đẹp bằng những lý luận và dẫn chứng đanh thép cùng những hình tượng nghệ thuật giàu sức
gợi tả. Lí tưởng nhân nghĩa ấy sẽ còn mãi trường tồn cùng sự vững bền vĩnh cửu của dân tộc, đất nước.


------


</div>


<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×