Tải bản đầy đủ (.docx) (186 trang)

Nghiên cứu cảnh quan phục vụ mục đích sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và phát triển kinh tế xã hội tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (745.36 KB, 186 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------



--------

DỖN THẾ ANH

NGHI£N CøU C¶NH QUAN PHơC Vơ MơC ĐíCH Sử DụNG

HợP Lý NGUồN TàI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
Và PHáT TRIĨN KINH TÕ X· HéI TØNH VÜNH PHóC
CHUN NGÀNH: ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN
MÃ SỐ: 9 44 02 17

LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỊA LÝ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1.

GS. TSKH. PHẠM HOÀNG HẢI

2.

PGS. TS. ĐẶNG DUY LỢI

HÀ NỘI, 2021



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, việc sử dụng hợp lý các điều kiện tự nhiên (ĐKTN), tài nguyên
thiên nhiên (TNTN) cho mục đích phát triển sản xuất, kinh tế, xã hội một cách có
hiệu quả, bền vững là vấn đề quan trọng và cần thiết trong chiến lược phát triển kinh
tế xã hội (KTXH) của cả nước cũng như với từng vùng lãnh thổ, địa phương. Để
giải quyết những vấn đề này thì việc nghiên cứu, đánh giá một cách đầy đủ, đồng bộ
tiềm năng tự nhiên, đặc điểm các ĐKTN theo các đơn vị lãnh thổ cho các mục đích
ứng dụng thực tiễn cụ thể, cho phát triển sản xuất, kinh tế, sử dụng có hiệu quả nhất
các nguồn TNTN, đồng thời bảo vệ được các điều kiện môi trường, sinh thái của
lãnh thổ trở thành một nhiệm vụ quan trọng của khoa học địa lý.
Cảnh quan (CQ) của một lãnh thổ được cấu tạo bởi nhiều thành phần khác
nhau và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một hệ thống động lực. Một
thành phần nào đó của hệ thống thay đổi sẽ dẫn đến sự thay đổi của các thành phần
khác và phá vỡ hệ thống cũ để tạo nên một hệ thống mới. Cảnh quan của một lãnh
thổ ln có những thay đổi và phân hóa phức tạp do nhiều nhân tố khác nhau bao
gồm các nhân tố nội tại của CQ và nhân tố con người.
Con người tác động vào tự nhiên, khai thác TNTN nhằm mục đích sinh tồn
và phát triển dẫn tới sự thay đổi của CQ theo hai chiều hướng: nếu tác động phù hợp
với đặc điểm, quy luật phát triển thì nguồn tài ngun đó được bảo vệ, được tái tạo
và đảm bảo cho việc phát triển bền vững (PTBV); ngược lại nếu con người tác động
không phù hợp, không theo quy luật sẽ gây nên những hậu quả lâu dài và không
lường trước được.
Hiện nay nghiên cứu cảnh quan (NCCQ), đánh giá cảnh quan (ĐGCQ) đã
và đang đáp ứng được nhiều vấn đề thực tế đặt ra và là cơ sở khoa học cho việc lựa
chọn các mục tiêu sử dụng hợp lý (SDHL) lãnh thổ. Phân tích đánh giá CQ trên cơ
sở làm rõ cấu trúc, chức năng và động lực phát triển trong mối quan hệ của tổng hòa
nhiều nhân tố là những cơ sở khoa học tin cậy, đầy đủ để quy hoạch, định hướng

phát triển kinh tế của mỗi vùng lãnh thổ.


2

Vĩnh Phúc là một tỉnh thuộc miền tự nhiên Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ,
mang đặc điểm của vùng chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng, địa hình thấp dần
từ Đông Bắc xuống Tây Nam và chia làm ba khu vực: đồng bằng, đồi, vùng núi (núi
thấp và núi trung bình). Vĩnh Phúc có tiềm năng để phát triển kinh tế một cách tồn
diện gồm cơng nghiệp, nơng, lâm nghiệp và du lịch.
Kể từ khi tách tỉnh năm 1997 đến nay, tỉnh Vĩnh Phúc đã có những bước phát
triển mạnh mẽ về kinh tế xã hội, quá trình cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa diễn ra với
tốc độ nhanh, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch với tỷ trọng ngày càng tăng của
ngành công nghiệp- xây dựng và dịch vụ. Sự phát triển kinh tế xã hội và các q
trình cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa đã tác động mạnh mẽ tới việc khai thác TNTN và
làm thay đổi cảnh quan tỉnh Vĩnh Phúc theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực.
Bên cạnh đó các cơng trình nghiên cứu điều tra, đánh giá tổng hợp tiềm năng tự
nhiên cho sử dụng hợp lý nguồn TNTN và phát triển KTXH một cách toàn diện trên
toàn lãnh thổ của tỉnh theo hướng CQ còn hạn chế.
Do vậy, việc nghiên cứu tổng hợp, đầy đủ về đặc điểm tự nhiên và TNTN của
tỉnh, đánh giá lại thực trạng khai thác, sử dụng tài nguyên để qua đó đề xuất định
hướng và các giải pháp SDHL các nguồn TNTN, các nguồn lực KTXH vào mục đích
phát triển KTXH của địa phương một cách bền vững là vấn đề hết sức cần thiết.

Xuất phát từ những nhìn nhận trên tác giả đã chọn vấn đề: “Nghiên cứu
cảnh quan phục vụ mục đích sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và
phát triển kinh tế xã hội tỉnh Vĩnh Phúc ” làm đề tài nghiên cứu của luận án, với
mong muốn có được những đóng góp về phương pháp luận cho hướng NCCQ ứng
dụng với một lãnh thổ cụ thể đồng thời cho sự phát triển bền vững của tỉnh Vĩnh
Phúc.

2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ những nhân tố tác động đến cảnh quan, các quy luật tự
nhiên thành tạo cảnh quan và sự phân hóa cảnh quan tỉnh Vĩnh Phúc qua phân tích
cấu trúc, chức năng, động lực cảnh quan.


3

Phân loại cảnh quan, phân vùng cảnh quan và đánh giá cảnh quan cho việc
sử dụng hợp lý nguồn TNTN và phát triển KTXH của tỉnh Vĩnh Phúc từ đó đề xuất
các giải pháp sử dụng hợp lý tài nguyên, tổ chức không gian phát triển các ngành
sản xuất nông, lâm nghiệp và du lịch của tỉnh theo hướng phát triển bền vững.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
1. Nghiên cứu, áp dụng những vấn đề lý luận và phương pháp nghiên cứu

CQ cho mục đích định hướng sử dụng hợp lý TNTN và phát triển KTXH tỉnh Vĩnh
Phúc.
2. Phân tích đặc điểm, vai trò của các nhân tố và các quy luật tự nhiên thành

tạo CQ tỉnh Vĩnh Phúc.
3. Thành lập bản đồ CQ và bản đồ phân vùng CQ tỉnh Vĩnh Phúc tỉ lệ

1:100.000. Phân tích đặc điểm, động lực và chức năng CQ tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Đánh giá CQ nhằm xác định mức độ thích hợp của các đơn vị CQ với mục

đích phát triển các ngành kinh tế nơng nghiệp, lâm nghiệp và du lịch từ đó đề xuất
định hướng sử dụng hợp lý TNTN và phát triển bền vững KTXH tỉnh Vĩnh Phúc.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
3. 1. Lãnh thổ nghiên cứu

Lãnh thổ nghiên cứu là tỉnh Vĩnh Phúc được giới hạn theo lãnh thổ hành
2

chính hiện hành có diện tích tự nhiên 1.235,13 km (2018). Ranh giới của lãnh thổ
phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang với ranh giới tự nhiên là dãy Tam
Đảo; phía Tây giáp Phú Thọ, đường ranh giới tự nhiên là sơng Lơ, phía Đơng và
phía Nam giáp Thủ đô Hà Nội.
3.2. Phạm vi khoa học
Luận án tập trung nghiên cứu các nhân tố thành tạo CQ, quy luật phân hóa
CQ từ đó xác định được các đơn vị CQ, xây dựng bản đồ phân loại CQ và phân
vùng CQ của tỉnh Vĩnh Phúc với tỉ lệ 1:100.000.
Phân tích đánh giá tổng hợp mức độ thích hợp của từng đơn vị CQ cho mục
đích phát triển kinh tế nông-lâm nghiệp và du lịch, so sánh với hiện trạng sử dụng
tài nguyên của khu vực nghiên cứu, đề xuất các định hướng tổ chức sản xuất các
ngành nông, lâm nghiệp và du lịch theo hướng sử dụng hợp lý CQ.


4
4. Các luận điểm bảo vệ

Luận điểm 1: Vĩnh Phúc có sự đa dạng về tự nhiên thể hiện thơng qua hệ
thống phân loại CQ gồm kiểu CQ, lớp CQ, phụ lớp CQ, hạng CQ và loại CQ. Tiếp
cận CQ học, phân tích đa dạng CQ, đánh giá cảnh quan không chỉ làm rõ những đặc
điểm khác biệt của tự nhiên mà còn là cơ sở khoa học và thực tiễn quan trọng nhằm
sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, định hướng các giải pháp tổ chức
lãnh thổ sản xuất nông, lâm nghiệp và du lịch đối với tỉnh Vĩnh Phúc.
Luận điểm 2: Vĩnh Phúc có điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp,
lâm nghiệp và du lịch. Đánh giá mức độ thích hợp của các loại CQ cho phát triển
nông, lâm nghiệp và du lịch là cơ sở cơ sở khoa học và thực tiễn tin cậy phục vụ
việc đề xuất các định hướng tổ chức không gian, kiến nghị các giải pháp phù hợp

cho phát triển các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và du lịch của tỉnh Vĩnh Phúc
theo hướng phát triển bền vững.
5. Những điểm mới của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận án đã góp phần củng cố những vấn đề về lý
luận, phương pháp luận của việc nghiên cứu theo hướng cảnh quan học, hướng địa
lí tổng hợp và cảnh quan ứng dụng trong việc phân tích, đánh giá cấu trúc, chức
năng cảnh quan của một lãnh thổ cụ thể nhằm phục vụ mục đích tổ chức lãnh thổ
sản xuất nông, lâm nghiệp và du lịch. Kết quả nghiên cứu chứng minh được sự phân
hoá đa dạng, phức tạp của tự nhiên, tính đặc trưng và tính quy luật của cảnh quan.
Đã phân tích đặc điểm, vai trị, các quy luật và sự phân hóa khơng gian của
các nhân tố thành tạo CQ tỉnh Vĩnh Phúc. Xây dựng được hệ thống phân loại CQ,
thành lập bản đồ CQ tỉnh Vĩnh Phúc tỉ lệ 1: 100.000.
Bước đầu phân tích cấu trúc chức năng và động lực CQ tỉnh Vĩnh Phúc.
Đã đánh giá, xác lập được mức độ thích nghi, xây dựng các bản đồ đánh giá
thích nghi sinh thái của các đơn vị CQ đối với nông, lâm nghiệp, du lịch làm cơ sở
đề xuất định hướng, các giải pháp cho phát triển bền vững nông, lâm nghiệp và du
lịch trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.


5

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Góp phần bổ sung những vấn đề lý luận và phương pháp nghiên cứu, đánh giá
CQ cho mục đích sử dụng hợp lý TNTN, phát triển KTXH của một lãnh thổ cụ thể.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài là những luận cứ khoa học có giá trị, là tài liệu
tham khảo trong định hướng sử dụng hợp lý TNTN, phát triển kinh tế, bảo vệ môi
trường của tỉnh Vĩnh Phúc theo hướng PTBV đồng thời cũng là tài liệu tham khảo

trong nghiên cứu và giảng dạy địa lý địa phương.
7. Cơ sở tài liệu của luận án
Nguồn tư liệu để thực hiện đề tài luận án gồm có:
Hệ thống bản đồ: Bản đồ địa hình, Bản đồ địa chất, Bản đồ hiện trạng, Bản
đồ thổ nhưỡng tỉnh Vĩnh Phúc tỷ lệ 1:50.000, Bản đồ hiện trạng sử dụng đất tỉnh
Vĩnh Phúc năm 2018 tỷ lệ 1:100.000. Bản đồ chuyên đề đã được tác giả xây dựng,
chỉnh hợp và biên tập.
Hệ thống tài liệu: Các tài liệu lý luận về CQ, phân tích và nghiên cứu, đánh
giá CQ. Các tài liệu về điều kiện tự nhiên, TNTN và các đề tài nghiên cứu về tỉnh
Vĩnh Phúc. Các tài liệu về quy hoạch phát triển KTXH, quy hoạch phát triển các
ngành của tỉnh Vĩnh Phúc. Các số liệu về dân cư, kinh tế, xã hội tỉnh Vĩnh Phúc qua
các năm. Niên giám thống kê Vĩnh Phúc.
Các tư liệu ghi chép, quan sát, phân tích, điều tra thực địa, các ảnh chụp của
tác giả qua các đợt thực địa.
8. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án
gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu cảnh quan phục vụ
mục đích sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và phát triển kinh tế xã hội.
Chương 2. Phân tích các nhân tố thành tạo và đặc điểm cảnh quan tỉnh Vĩnh Phúc.
Chương 3. Đánh giá cảnh quan cho mục đích phát triển kinh tế xã hội tỉnh

Vĩnh Phúc.


6

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHIÊN CỨU CQ PHỤC VỤ MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG

HỢP LÝ NGUỒN TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI
1.1. Tổng quan các cơng trình có liên quan
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu cảnh quan phục vụ mục đích sử dụng
hợp lý nguồn TNTN và phát triển KTXH trên thế giới
CQ học là một bộ môn khoa học về địa lý tự nhiên tổng hợp, những kiến
thức cơ sở của địa lý tự nhiên đại cương là điều kiện để nghiên cứu CQ học. Kể từ
khi ra đời đến nay, CQ học đã có nhiều đóng góp vào mục đích thực tiễn, có quan
hệ trực tiếp tới vấn đề khai thác, sử dụng hợp lý lãnh thổ và bảo vệ TNTN. CQ học
đã phát triển một cách nhanh chóng, ngày càng hồn thiện về cơ sở khoa học và trở
thành một ngành quan trọng của địa lý tự nhiên hiện đại nghiên cứu về các thể tổng
hợp địa lý tự nhiên đáp ứng được các yêu cầu, mục đích khai thác tối ưu lãnh thổ và
sử dụng hợp lý TNTN.
Tiền đề cơ bản của việc hình thành khoa học CQ là mối quan hệ tương hỗ,
phức tạp giữa giới vô sinh và giới hữu sinh và những đòi hỏi của hoạt động KTXH.
Đây là cơ sở để dẫn đến nghiên cứu tổng hợp của khoa học địa lý nhằm giải quyết
vấn đề muốn khai thác tự nhiên thì cần phải hiểu biết rõ ràng, đầy đủ các mối quan
hệ giữa các hợp phần tự nhiên và các tổng hợp thể địa lý tự nhiên lãnh thổ cụ thể.
Đối tượng nghiên cứu của CQ học là lớp vỏ địa lý bao gồm thạch quyển,
thủy quyển, thổ nhưỡng quyển, sinh quyển, khí quyển xâm nhập vào nhau và được
cấu tạo từ các khu vực lớn, nhỏ được phân hóa ra trong lịch sử phát triển của Trái
Đất. Các khu vực lớn nhỏ này là các địa tổng thể hay các tổng hợp thể lãnh thổ tự
nhiên.
Cảnh quan học có nhiệm vụ nghiên cứu các địa tổng thể, tìm hiểu mối quan
hệ biện chứng giữa các thành phần vật chất và năng lượng cấu tạo nên chúng và cả
những mối quan hệ biện chứng giữa các địa tổng thể với nhau.


7


Cảnh quan học được ra đời vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Châu Âu
và Bắc Mỹ với các cơng trình nghiên cứu về sự phân chia tự nhiên bề mặt đất của
nhiều nhà Địa lý Nga, Đức, Anh, Pháp, Mỹ như: V.V. Đôcusaev, L.S. Berg,
G.N.Vưxotxki, G.F.Môrôzov, Z.Passarge, A.Hettner,...
Cảnh quan học hiện đại bắt đầu phát triển mạnh mẽ từ những năm 60 của thế
kỷ XX với những nghiên cứu cấu trúc, xác định định tính các tính chất của CQ.
Trong q trình phát triển, cùng với việc sử dụng các biện pháp liên ngành, các
hướng tiếp cận khác nhau và với các yêu cầu mới của phát triển KTXH, CQ học đã
từng bước thay đổi từ nghiên cứu cấu trúc sang nghiên cứu chức năng, động lực
CQ. Trong những năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin
đã giúp cho địa lý CQ có những cơng cụ nghiên cứu hữu hiệu như công nghệ viễn
thám, công nghệ GIS,...
Hiện nay việc NCCQ đã được mở rộng về cả phương pháp nghiên cứu, cách
tiếp cận, vì vậy các kết quả nghiên cứu đã được ứng dụng rộng rãi trong phát triển
KTXH, tạo cơ sở khoa học cho việc sử dụng hợp lý TNTN và phát triển bền vững
KTXH.
1.1.1.1.Hướng nghiên cứu phân vùng cảnh quan, phân loại cảnh quan phục vụ mục
đích tổ chức lãnh thổ (nghiên cứu theo hướng cá thể hoặc kiểu loại cảnh quan)
Cảnh quan học được hình thành và phát triển từ các nhà CQ học Nga và một
số nước thuộc Liên Xô trước đây. Học thuyết về CQ được sáng lập ra bởi L.S. Berg
năm 1913 khi đưa ra quan niệm CQ dựa trên học thuyết của V.V. Docusaev về địa
tổng thể và các đới thiên nhiên: CQ thiên nhiên là một thể thống nhất gồm có địa
hình, khí hậu, thổ nhưỡng và lớp phủ thực vật và coi CQ chính là đối tượng nghiên
cứu của địa lý. Đến năm 1931, cơ sở để hồn thiện lí luận CQ đã được L.S. Berg
đưa ra trong tác phẩm “Các đới CQ địa lí Liên Xơ” (tập 1) trong đó đã trình bày
một cách có hệ thống cơ sở học thuyết CQ, chỉnh lý, bổ sung lại định nghĩa đầu tiên
của mình và đưa ra những ví dụ về CQ, nhận xét về sự tác động tương hỗ giữa các
CQ và giữa các thành phần của nó, đồng thời chỉ ra nguồn gốc của CQ học. Trong
những năm tiếp theo với các nghiên cứu của mình các tác giả G.N.Annhenxkaia



8

(1963), F.N. Milkov (1967), D.L. Armand (1975) đã trình bày rõ cách phân chia các
đơn vị CQ hoặc đề cập đến CQ (các tổng thể thiên nhiên) với tên gọi các “tổng thể
cộng sinh” hay “địa hệ” [2], [26], [42], [43].
Cùng với sự phát triển của xã hội và đòi hỏi của thực tiễn sản xuất, hướng
nghiên cứu CQ ứng dụng đã ra đời và A.G. Ixatsenko là người đặt nền móng cho sự
phát triển hướng nghiên cứu này thơng quan nhiều nhiều cơng trình và tác phẩm
được cơng bố từ năm 1961 đến 1976 như: “Bản đồ CQ Liên Xô, tỉ lệ 1:4.000.000 và
vấn đề phương pháp nghiên cứu CQ”, “Cơ sở CQ học và phân vùng địa lí tự
nhiên”, “Về những nội dung của bản đồ CQ địa lí”.
Cùng với các cơng trình của A.G. Ixatsenko, thì các cơng trình phân loại CQ
của N.A.Xoltsev, A.A.Grigoriev, X.V.Kalexnik, N.A. Gvozdexki,... đã đề cập đến
vấn đề phương pháp nghiên cứu CQ, cơ sở lí thuyết và các nguyên tắc cơ bản trong
phân vùng địa lí tự nhiên, đưa ra nhiều hệ thống phân vị khác nhau [26].
Năm 1985, trong cơng trình “CQ học ứng dụng” A.G. Ixatsenko đã phân tích
những mối quan hệ tác động của con người lên CQ, làm cho các CQ bị biến đổi sâu sắc
đòi hỏi phải tìm cách tối ưu hóa trong khai thác tự nhiên (SDHL tài nguyên) [27], đây
là tiền đề cho các nghiên cứu các tác động của con người tới sự hình thành CQ. Sự
phân hóa lãnh thổ được xác lập dựa trên các hệ thống phân loại và phân vùng CQ.
Trong giai đoạn tiếp theo, hướng tiếp cận này được A.G.Ixatsenko và nhiều tác giả
củng cố về mặt lý luận và thực tiễn trong tổ chức định hướng không gian sản xuất cho
các ngành nông, lâm nghiệp, du lịch và thể hiện rõ quan điểm ứng dụng vào CQ học.

Kết quả NCCQ học ứng dụng của các tác giả V.N.Xonlsev, L.A.Tlephilov,
V.E.Menchenko, A.V.Drodov, Yu.V.Bonkov… trong tổ chức, quy hoạch lãnh thổ ở
nhiều nước khác nhau trên thế giới đã được công bố và đóng góp nhiều hơn các nội
dung về cơ sở lý luận và thực tiễn của hướng nghiên cứu này.
Như vậy, phân vùng CQ và phân loại CQ là hai cách tiếp cận để thể hiện sự

phân hóa khơng gian của lãnh thổ.
Phân vùng CQ với quan niệm CQ là đơn vị cá thể - các đơn vị phân chia
không được phép lặp lại trong không gian và mỗi đơn vị sẽ hoàn toàn độc lập với


9

nhau. Đây là cách phân vùng nhấn mạnh nhấn mạnh đến tương quan phân bố của
các đơn vị CQ và mối quan hệ của chúng.
Phân loại CQ với quan niệm CQ là đơn vị phân loại- các đơn vị phân chia
được phép lặp lại trong không gian và các đơn vị này sẽ thuộc cùng một kiểu loại.
Đây là cách phân vùng nhấn mạnh đến sự tương đồng về chất
Cả hai cách tiếp cận trên đều có nhiệm vụ phân chia ra các đơn vị lãnh thổ
nhỏ hơn nằm trong một địa tổng thể bất kì, và mỗi đơn vị lãnh thổ được phân chia
phải có những nét đặc trưng riêng phân biệt với các đơn vị lân cận và được nhận
biết theo những dấu hiệu nhất định làm cơ sở cho việc đánh giá CQ theo các mục
đích sử dụng khác nhau.
1.1.1.2. Hướng nghiên cứu sinh thái cảnh quan
Sinh thái CQ (STCQ) là một khoa học nghiên cứu về các đặc điểm sinh thái
CQ: thành phần, cấu trúc, chức năng của CQ, các mơ hình CQ, mối quan hệ tác
động giữa các yếu tố trong mơ hình CQ, sự thay đổi của mơ hình CQ theo thời gian
và việc áp dụng CQ trong thực tế.
Khái niệm sinh thái CQ (Landscape ecology) được Carl Troll đưa ra năm
1939. STCQ nhấn mạnh vai trò của các tác động của con người trong cấu trúc và
chức năng CQ và là một trong những những yếu tố gây ra sự thay đổi trong CQ
[92], [96]. Các nghiên cứu sinh thái CQ tập trung vào việc nghiên cứu cấu trúc và
chức năng CQ (Forman và Godron năm 1986) [100], quan hệ định lượng giữa các
yếu tố thành tạo CQ, nghiên cứu xây dựng các cách phân loại chức năng CQ (De
Groot, 1992)[89], tìm ra các mối liên hệ trong cấu trúc và chức năng CQ, phân tích
tính đa dạng và đánh giá giá trị sử dụng của các đơn vị CQ nhằm định hướng quy

hoạch lãnh thổ ở các quy mô khác nhau, đánh giá tác động môi trường và quản lý tài
nguyên.
Trong nghiên cứu cấu trúc CQ đã có sự thay đổi theo hướng từ tiếp cận định
tính sang tiếp cận định lượng về mặt cấu trúc hình thái như: S.Rodolphe và
H.Philipp (2003) “Định tính và định lượng trong trong phân tích cấu trúc CQ”, với
khu vực nghiên cứu là Monteverda thuộc Costa Rica [94]; Angela Lausch và nnk
(2015) nhấn mạnh vai trò của các chỉ số cấu trúc hình thái CQ trong phân tích cấu


10

trúc CQ [85]. Cách tiếp cận đánh giá vai trò của các nhân tố trong cấu trúc CQ đi
sâu vào mối quan hệ tác động, trao đổi vật chất giữa các thành phần. Việc ứng dụng
các phương pháp định lượng trong đánh giá CQ đã xây dựng được các dữ liệu chính
xác về địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng, thảm thực vật góp phần ứng dụng vào thực tế
[81], [98], [99].
Ngồi việc thay đổi từ nghiên cứu định tính sang nghiên cứu định lượng về
mặt cấu trúc CQ thì một nội dung quan trọng của việc nghiên cứu CQ là phân loại
chức năng CQ. Việc phân loại chức năng CQ đã được đề cập đến trong nhiều nghiên
cứu trước hết phải kể đến E.Niemann (1977) và R.de Groot (1992) đã đưa ra các
cách phân loại chức năng CQ; trong công trình “Sinh thái CQ” của R.Forman và
M.Godron (1986) đã coi cấu trúc và chức năng là các đặc trưng quan trọng của sinh
thái CQ, là “sự tương tác theo không gian giữa các dòng vật chất và năng lượng với
các thành phần của hệ sinh thái” [ 98]. Phân tích chức năng CQ, coi phân tích chức
năng CQ, đánh giá chức năng và tiềm năng CQ là cơ sở, công cụ trong việc đánh
giá vấn đề SDHL đất đai, quyết định sử dụng loại hình đất. R.de Groot (2006) coi
phân tích chức năng CQ là cơ sở để đánh giá vấn đề SDHL đất đai [88]. Ngoài ra,
nhiều tác giả cho rằng phân tích, đánh giá khơng gian chức năng CQ là cơ sở nắm
bắt thông tin để tham gia điều chỉnh sự phát triển CQ tiếp cận nghiên cứu chức năng
cho các mục đích thực tiễn khác nhau [87], [88], [91], [93].

Trong thời gian gần đây, với việc ứng dụng các cơng nghệ hiện đại như viễn
thám, GIS thì việc nghiên cứu STCQ tập trung vào việc xác định mối quan hệ giữa
mơ hình khơng gian và q trình biến đổi CQ để thành lập bản đồ CQ, bản đồ
ĐGCQ; sử dụng các phương pháp nghiên cứu định lượng trong phân tích, ĐGCQ
mang lại các kết quả chính xác về các dữ liệu đất, các yếu tố khí hậu, thảm thực vật
và có giá trị thực tiễn lớn [98],[99]. Ngoài ra, các kết quả nghiên cứu ứng dụng của
STCQ còn giúp chúng ta quản lý các mối đe doạ đối với mơi trường và có biện
pháp bảo tồn, sử dụng CQ [86], [95].
Hướng nghiên cứu sinh thái CQ nghiên cứu cấu trúc, chức năng CQ nhằm làm
nổi bật các đặc điểm của CQ, tính quy luật phân hóa của CQ, phản ánh mối quan hệ


11

giữa cấu trúc CQ và các quá trình hệ sinh thái trong CQ. Trong quá trình phát triển,
hướng nghiên cứu sinh thái CQ từng bước có sự thay đổi từ mơ tả thuần túy đến
phân tích thành phần, từ phân tích định tính đến phân tích định lượng, từ các nghiên
cứu định hướng cấu trúc tới nghiên cứu định hướng chức năng, từ nghiên cứu định
hướng hình thái đến nghiên cứu định hướng hệ thống [66]. Điều này cho phép phát
triển các mơ hình phân tích khơng gian để nghiên cứu các CQ phức tạp nhằm phục
vụ các mục đích của thực tiễn là việc sử dụng hợp lý TNTN và phát triển KTXH
của mỗi đơn vị lãnh thổ.
1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu cảnh quan phục vụ mục đích sử dụng
hợp lý nguồn TNTN và phát triển KTXH ở Việt Nam và Vĩnh Phúc 1.1.2.1. Ở Việt
Nam
a) Hướng nghiên cứu phân vùng cảnh quan, phân loại cảnh quan phục vụ mục đích

tổ chức lãnh thổ
Nghiên cứu địa lí tự nhiên tổng hợp ở nước ta xuất hiện khá sớm. Các cơng
trình nghiên cứu đầu tiên là của các tác giả Pháp, tuy nhiên việc phân chia đó mang

tính chất tùy tiện, thiếu cơ sở khoa học, lẫn lộn giữa các yếu tố tự nhiên và yếu tố xã
hội nhằm mục đích phục vụ cho việc khai thác thuộc địa và quân sự [32].
Trong các giai đoạn tiếp theo, với các cơng trình nghiên cứu CQ của mình
các nhà địa lí Xơ Viết đầu tiên đã phân vùng địa lí tự nhiên Việt Nam một cách khoa
học hơn: T.N.Sêglova (1957) đã phân chia các khu vực địa lý tự nhiên Việt
Nam theo hệ thống phân vị gồm 2 cấp: vùng và á vùng; V.M.Fridland (1961) phân
chia miền Bắc Việt Nam thành 3 miền, 8 khu, 37 vùng và vành đai thẳng đứng [32].
Đối với các tác giả trong nước trước tiên phải kể đến là cơng trình “Địa lý tự
nhiên Việt Nam” của Nguyễn Đức Chính, Vũ Tự Lập (1963) đã đưa ra hệ thống
phân vị gồm 6 cấp và các nguyên tắc cơ bản của phân vùng CQ và áp dụng cho lãnh
thổ Việt Nam [8]. Năm 1970, Tổ phân vùng địa lý tự nhiên thuộc Uỷ ban Khoa học
và kĩ thuật Nhà nước đã nghiên cứu và tiến hành phân vùng địa lý tự nhiên lãnh thổ
Việt Nam với hệ thống gồm 7 cấp phân vị, ngắn gọn, tương đối hồn chỉnh, có chỉ
tiêu cho từng cấp phân vị trong cơng trình “Phân vùng địa lý tự nhiên lãnh thổ Việt
Nam”[56]. Trong cơng trình “CQ địa lý miền Bắc Việt


12

Nam” (1976) Vũ Tự Lập đã tìm ra những đặc điểm, quy luật phân hoá của địa lý tự
nhiên Việt Nam đồng thời đưa ra một hệ thống phân vị gồm 16 cấp với chỉ tiêu
riêng xác định và chứng minh được sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa quy luật phân
hoá địa đới và phi địa đới trong phân chia lãnh thổ Việt Nam – đây được xem là một
công trình tổng hợp có giá trị về mặt lý luận đối với khoa học địa lí Việt Nam hiện
đại [30].
Ngồi ra, việc phân vùng lãnh thổ Việt Nam còn được thực hiện bởi Nguyễn
Văn Nhưng và Nguyễn Văn Vinh trong tài liệu “Phân vùng địa lí tự nhiên đất liền,
đảo - biển Việt Nam và lân cận” (1988)[38]. Những kết quả nghiên cứu trên bước
đầu đã đáp ứng phần nhu cầu phát triển KTXH của đất nước theo từng thời điểm cụ
thể và là cơ sở lí luận và thực tiễn cho việc nghiên cứu CQ trên lãnh thổ Việt Nam

sau này.
Cùng với việc phân vùng lãnh thổ Việt Nam, có rất nhiều tác giả đi sâu
nghiên cứu CQ, phân loại CQ, phân kiểu CQ trên lãnh thổ Việt Nam: “Nghiên cứu
xây dựng bản đồ CQ lãnh thổ Việt Nam” của tập thể tác giả thuộc Trung tâm Địa lý
tự nhiên (1993); “Các đơn vị phân loại CQ Việt Nam” Nguyễn Cao Huần, Nguyễn
Ngọc Khánh, Phạm Hoàng Hải (1996); “Nghiên cứu về các nguyên tắc và hệ thống
phân vị CQ Việt Nam” Phạm Hoàng Hải (2000);“Cơ sở CQ học của việc sử dụng
hợp lý TNTN, bảo vệ lãnh thổ môi trường Việt Nam” Phạm Hoàng Hải, Nguyễn
Thượng Hùng, Nguyễn Ngọc Khánh (1997) [17];“Phân loại CQ nhân sinh Việt
Nam” Nguyễn Cao Huần, Trần Anh Tuấn (2000). Các cơng trình này đã đưa ra các
hệ thống phân loại với các cấp phân vị với các chỉ tiêu phân chia cụ thể và có nhiều
điểm chung phù hợp với mục đích nghiên cứu, phạm vi lãnh thổ và đã cung cấp
những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu CQ các vùng lãnh thổ Việt
Nam.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, phương pháp nghiên cứu, tìm hiểu sự phân
hóa lãnh thổ, các cơng trình NCCQ ứng dụng hiện nay ở nước ta có xu hướng vận
dụng cho từng vùng lãnh thổ cụ thể của các miền, khu, tỉnh nhằm phục vụ việc
SDHL TNTN, BVMT và phát triển KTXH một cách bền vững: “Vấn đề lí luận và
phương pháp đánh giá tổng hợp tự nhiên cho mục đích sử dụng lãnh thổ - ví dụ


13

vùng Đơng Nam Bộ”, Phạm Hồng Hải (1988); “Đánh giá tổng hợp điều kiện tự
nhiên, TNTN dải ven biển Việt Nam cho mục đích phát triển sản xuất nơng - lâm
nghiệp và bảo vệ mơi trường ” Phạm Hồng Hải (1990);“Nghiên cứu hoạch định tổ
chức không gian phát triển kinh tế và sử dụng hợp lý TN, bảo vệ môi trường cấp
tỉnh, huyện (nghiên cứu mẫu tỉnh Lào Cai)” Nguyễn Cao Huần (2004);“Tổ chức
không gian phục vụ sử dụng hợp lý đất đai và bảo vệ môi trường theo các tiểu vùng
chức năng thành phố ng Bí” Trương Quang Hải (2007); “Đánh giá CQ cho mục

đích phát triển nơng lâm nghiệp và du lịch tại khu vực có núi đá vơi tỉnh Ninh Bình”
Trương Quang Hải (2010); luận án “Nghiên cứu CQ phục vụ sử dụng hợp lí TNTN
và bảo vệ mơi trường tỉnh Quảng Bình” Trương Thị Tư (2011); luận án “Nghiên
cứu đánh giá CQ cho mục đích sử dụng hợp lí tài ngun và bảo vệ mơi trường tỉnh
Quảng Ngãi” Dương Thị Nguyên Hà (2013); luận án “Cơ sở CQ học cho việc sử
dụng hợp lí tài nguyên và bảo vệ môi trường trong phát triển nông lâm nghiệp tỉnh
Hà Tĩnh” Nguyễn Minh Nguyệt (2014).
Có thể thấy rằng các cơng trình NCCQ ứng dụng hiện nay ở nước ta có xu
hướng vận dụng cho từng vùng lãnh thổ cụ thể, vì vậy cần phải xây dựng nhiều hệ
thống phân loại CQ khác nhau. Tuy nhiên, các cơng trình này chủ yếu tiến hành
theo hướng phân loại CQ không dựa vào cá thể. Hệ thống phân vị của hầu hết các
cơng trình này đều sử dụng các cấp phân vị chung như: Hệ, Phụ hệ, Lớp, Phụ lớp,
Kiểu, Phụ kiểu, Hạng, Loại CQ và có những điểm chung trong việc lựa chọn các chỉ
tiêu phân chia, đây cũng là những cấp phân vị phù hợp trong quá trình nghiên cứu
lãnh thổ cụ thể ở Việt Nam như một vùng, miền, khu vực hoặc phạm vi lãnh thổ một
tỉnh.
Trong quá trình thực hiện luận án của mình tác giả đồng thời thực hiện phân
loại và phân vùng CQ tỉnh Vĩnh Phúc, vận dụng các cấp phân vị phù hợp cho việc
nghiên cứu CQ phục vụ mục đích sử dụng hợp lý nguồn TNTN và phát triển KTXH
tỉnh Vĩnh Phúc.
b) Hướng nghiên cứu sinh thái cảnh quan

Trong thời gian gần đây hướng nghiên cứu sinh thái CQ được quan tâm
nghiên cứu và có những bước phát triển mạnh mẽ, những nghiên cứu này đã cung


14

cấp những cơ sở lý luận và thực tiễn về việc nghiên cứu STCQ (quan điểm, phương
pháp luận, đánh giá CQ,...) gắn nghiên cứu CQ cơ bản với CQ ứng dụng, nghiên

cứu CQ với đánh giá CQ nhằm mục đích sử dụng hợp lý TNTN, phát triển KTXH
cho từng đơn vị lãnh thổ: “Bàn về Sinh thái CQ và CQ sinh thái” Nguyễn Thế Thơn
(1993);“Tổng luận phân tích những vấn đề CQ sinh thái ứng dụng trong quy hoạch
và quản lí mơi trường” Nguyễn Thế Thơn (1995); CQ học- Sinh thái học và việc
nghiên cứu thành lập bản đồ CQ sinh thái” Nguyễn Trần Cầu (1992);“Nghiên cứu
STCQ vùng gò đồi Quảng Bình” Nguyễn Văn Vinh (1996); “Về lý thuyết CQ sinh
thái” Nguyễn Thế Thôn (2000); “Nguyên tắc và phương pháp thiết kế mơ hình kinh
tế - mơi trường trên cơ sở lý thuyết CQ sinh thái và CQ sinh thái ứng dụng” Nguyễn
Thế Thôn (2001); “Nghiên cứu CQ sinh thái dải ven biển đồng bằng sông Hồng”
Phạm Thế Vĩnh (2002); “Nghiên cứu, đánh giá STCQ Sa Pa tỉnh Lào Cai” Nguyễn
Cao Huần, Nguyễn An Thịnh (2004); “Sinh thái CQ: lý luận và ứng dụng trong mơi
trường nhiệt đới gió mùa” Nguyễn An Thịnh (2014).
Trong quá trình nghiên cứu và đánh giá CQ một trong những nhiệm vụ quan
trọng là phân tích cấu trúc, chức năng CQ. Việc phân tích cấu trúc, chức năng CQ là
cơ sở để làm nổi bật các quy luật phân hóa, tính đa dạng và sự phân hóa chức năng
CQ. Hướng nghiên cứu này được thể hiện qua một số cơng trình tiêu biểu: “Cơ sở
phân tích chức năng và động lực phát triển CQ sinh thái Việt Nam” Phạm Hồng
Hải (1992) [17]; “Phân tích cấu trúc sinh thái CQ ứng dụng định hướng tổ chức du
lịch xanh ở Việt Nam” Phạm Quang Anh (1996); “Nghiên cứu chức năng và cấu
trúc CQ sinh thái (lấy ví dụ ở tỉnh Quảng Trị)” Nguyễn Văn Vinh (2005); “Đánh giá
CQ (theo hướng tiếp cận kinh tế sinh thái” Nguyên Cao Huần (2005)[23];“Nghiên
cứu đa dạng CQ Việt Nam - phương pháp luận và một số kết quả thực tiễn nghiên
cứu” Phạm Hồng Hải (2006)[19]; “Phân tích cấu trúc, chức năng và đánh giá CQ
khối Karst Tràng An - Bích Động, tỉnh Ninh Bình” Trương Quang Hải, Giang Văn
Trọng (2010); luận án “Phân tích cấu trúc sinh thái CQ phục vụ mục đích phát triển
bền vững nơng lâm nghiệp và du lịch huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai” Nguyễn An Thịnh
(2007), luận án “Đánh giá tổng hợp môi trường sinh thái phục vụ quy hoạch sử


15


dụng đất theo hướng phát triển bền vững tỉnh Bắc Giang” Đỗ Văn Thanh (2011)
[61],...
Các nghiên cứu này đã đề cập nhiều đến những vấn đề lý luận, phương pháp
luận NCCQ ứng dụng, những vấn đề lý luận đánh giá CQ cả định tính và bán định
lượng, chỉ ra các nhân tố tác động đến sự phân hóa trong cấu trúc CQ, phát hiện ra
cấu trúc, chức năng là cơ sở để SDHL CQ vào các mục đích KT-XH.
Trong luận án của mình, tác giả cũng tiến hành nghiên cứu CQ Vĩnh Phúc
theo hướng STCQ để xác định các nhân tố tác động đến sự phân hóa trong cấu trúc
CQ Vĩnh Phúc, đánh giá CQ Vĩnh Phúc theo các cấp phân vị phù hợp nhằm mục
đích SDHL tài nguyên thiên nhiên và phát triển bền vững KTXH.
1.1.2.2. Ở Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc là tỉnh có điều kiện tự nhiên khá đa dạng. Cũng như nhiều tỉnh
khác ở trong khu vực, Vĩnh Phúc cũng đã có các cơng trình nghiên cứu cụ thể về
đặc điểm tự nhiên và đặc điểm kinh tế - xã hội. Việc nghiên cứu về tự nhiên Vĩnh
Phúc được thể hiện qua một số hướng nghiên cứu sau:
Nghiên cứu các hợp phần địa lý tự nhiên, TNTN của tỉnh Vĩnh Phúc đã được
đề cập đến trong nhiều công trình nghiên cứu địa lý tự nhiên Việt Nam, nhưng với
tư cách là một lãnh thổ của vùng Bắc Bộ- một bộ phận lãnh thổ quốc gia [3], [30],
[31],[38],[57], [62], [63], [64],[68].
Theo hướng nghiên cứu các hợp phần tự nhiên của tỉnh có cơng trình: “Địa
chí Vĩnh Phúc” Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh Vĩnh Phúc (2012); “Tăng
cường năng lực nghiên cứu, đào tạo về viễn thám và Hệ thông tin địa lý trong việc
nghiên cứu, quản lý tai biến lũ lụt, lũ quét và trượt lở đất, nghiên cứu điển hình tại
Vĩnh Phúc và Bắc Cạn” Nguyễn Ngọc Thạch (2012); luận án “Phân tích, đánh giá
điều kiện địa lý và tài nguyên phục vụ tổ chức lãnh thổ du lịch tỉnh Vĩnh Phúc”
Lương Chi Lan (2016); “Báo cáo phúc tra, chỉnh lý, tổng hợp, xây dựng bản đồ đất
tỉnh Vĩnh Phúc tỷ lệ 1/50.000 theo tiêu chuẩn ngành 10TCN 68-84 và Bản đồ đất
tỉnh Vĩnh Phúc tỷ lệ 1/50.000” Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp (2003);
“Thuyết minh báo cáo dự án quy hoạch thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng sản



16

nhóm nguyên liệu kaolin, felspat, sét kaolin trên địa bàn tỉnh vĩnh phúc giai đoạn
2014 - 2020 tầm nhìn 2030” Sở Công Thương Vĩnh Phúc (2013); “Kế hoạch hành
động ứng phó với biến đổi khí hậu của tỉnh Vĩnh Phúc” Sở Tài Nguyên Môi trường
Vĩnh Phúc (2011); “Quy hoạch phân bổ và bảo vệ tài nguyên nước dưới đất trên
địa bàn 7 huyện, thành phố: Yên Lạc, Vĩnh Tường, Tam Đảo, Tam Dương, Lập
Thạch, Sông Lô và thành phố Vĩnh Yên đến năm 2020 và định hướng đến năm
2030” Sở Tài Nguyên Môi trường Vĩnh Phúc (2014); “Báo cáo hiện trạng môi
trường tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2011-2015” Sở Tài Nguyên Môi trường Vĩnh Phúc
(2015),... Trong các tài liệu trên đã nêu ra một số đặc điểm cơ bản về địa chất, địa
hình, địa mạo, thủy văn, khí hậu, thổ nhưỡng, sinh vật của tỉnh Vĩnh Phúc.
Đối với khu vực núi Tam Đảo nói chung và VQG Tam Đảo nói riêng đã có
nhiều nghiên cứu về các hợp phần tự nhiên, lãnh thổ [3], [37], [40], [83], nghiên cứu
về đặc điểm thủy văn [45], đặc điểm địa chất [36], đặc điểm địa hình, địa mạo [5],
nghiên cứu về đa dạng sinh học của vùng núi Vĩnh Phúc, đặc biệt là các hệ sinh thái
động, thực vật tại VQG Tam Đảo [11], [12], [37], [51].
Những hợp phần tự nhiên tỉnh Vĩnh Phúc còn được đề cập trong Quy hoạch
tổng thể phát triển KTXH của tỉnh [73], quy hoạch phát triển các ngành nông
nghiệp-lâm nghiệp; thủy sản [74], du lịch [75], nhằm khai thác những lợi thế về tự
nhiên và KT-XH phục vụ mục đích phát triển lâu dài, bền vững [76],[77].
Ngồi các nghiên cứu về hợp phần tự nhiên Vĩnh Phúc còn được nghiên cứu
theo phân vùng lãnh thổ. Lãnh thổ tỉnh Vĩnh Phúc được chia thành ba vùng địa lý tự
nhiên theo địa giới hành chính: vùng núi Tam Đảo, Sơng Lơ, Lập Thạch; vùng đồi
Bình Xun, Vĩnh n, Phúc Yên, Tam Dương; vùng đồng bằng Vĩnh Tường, Yên
Lạc [52].
Nguyễn Ngọc Thạch (2012) xác định Vĩnh Phúc là nơi chuyển tiếp giữa miền
núi và đồng bằng, là nơi có nền địa chất phức tạp nên đã chia tỉnh Vĩnh Phúc thành

bốn vùng trên cơ sở phân hóa tự nhiên về địa hình, địa mạo, bao gồm: vùng núi thấp
Bắc Lập Thạch, vùng núi thấp - trung bình Tam Đảo, vùng đồi Vĩnh Yên - Tam
Dương -Yên Lạc, vùng đồng bằng Mê Linh - Vĩnh Tường. Ranh giới giữa các vùng
là ranh giới phân hóa tự nhiên [62].


17

Khu vực VQG Tam Đảo được chia thành 4 vùng sinh thái, bao gồm: vùng
núi trung bình Tam Đảo, vùng núi thấp và đồi cao sườn Tây Tam Đảo, vùng núi thấp
và đồi cao sườn Đông Tam Đảo, thung lũng và đồng bằng chân Tam Đảo dựa trên
sự phân hóa về địa hình, độ cao, thảm thực vật và khí hậu [81].
Đây là những cơ sở tài liệu cần thiết có giá trị để tác giả sử dụng cho việc
phân tích và ĐGCQ phục vụ các mục đích phát triển thực tiễn của địa phương.
Những tài liệu trên là cơ sở tài liệu khoa học có giá trị cả về lý luận và ứng dụng
thực tiễn được tác giả tham khảo trong quá trình thực hiện luận án.
Tuy nhiên, các nghiên cứu về đánh giá điều kiện địa lý và tài nguyên thường
ở mức mô tả, kiểm kê hiện trạng và phần lớn được lồng ghép trong các quy hoạch

của tỉnh, chưa thể hiện được mối quan hệ giữa các hợp phần tự nhiên trong việc
hình thành CQ, chưa chỉ ra được các quy luật phân hóa CQ, chưa thực hiện việc
đánh giá đánh giá CQ nhằm mục đích sử dụng hợp lý nguồn TNTN và phát triển
bền vững KTXH của tỉnh.
Vì vậy, việc nghiên cứu theo hướng CQ tỉnh Vĩnh Phúc của luận án đáp ứng
được nhu cầu cả về lý luận, thực tiễn của địa phương và là một trong những nội
dung quan trọng, phù hợp và có ý nghĩa với định hướng sử dụng hợp lý nguồn
TNTN và phát triển bền vững KTXH của tỉnh trong xu thế hiện nay.
1.2. Những vấn đề lý luận về cảnh quan trong luận án
1.2.1. Khái niệm về cảnh quan
Cảnh quan bắt nguồn từ ngôn ngữ Đức (tiếng Đức - Landschaft) có nghĩa là

phong cảnh. Trong q trình phát triển của khoa học CQ, đã có rất nhiều quan điểm,
học thuyết được đưa ra bởi các tác giả khác nhau với nội dung và cách diễn đạt khác
nhau và được thể hiện qua hàng loạt các định nghĩa về CQ. Các cách hiểu về CQ
được thể hiện qua 3 quan điểm sau [17]:
Quan điểm coi CQ là khái niệm chung: Đây là quan điểm đầu tiên về CQ với
các đại diện tiêu biểu như F.N. Milkov, D.L.Armand, P.V.Prokaev,.... D.L.Armand
“CQ là từ đồng nghĩa với tổng thể lãnh thổ (hoặc khu vực). Từ “cảnh quan” khơng
những có thể dùng cho bất kỳ một đơn vị phân loại nào mà cịn có thể dùng theo ý


18

nghĩa chung” [2]. Theo quan điểm này thì CQ đồng nghĩa với tổng thể địa lý ở các
cấp phân vị khác nhau và phân vùng khác nhau.
Quan điểm coi CQ là những cá thể địa lý: CQ là những cá thể địa lý không
lặp lại trong không gian, là đơn vị cơ bản trong hệ thống phân vùng địa lý tự nhiên,
có nội dung xác định và chỉ tiêu rõ ràng, thể hiện sự quan hệ tương hỗ của các hợp
phần tự nhiên trong một lãnh thổ nhất định. Đại diện cho quan niệm này là L.X.
Berg, X.V. Kalexnik,A.G. Ixatsenko, N.A. Xolxev, Vũ Tự Lập:
N.A. Xolsev (1948) đưa ra định nghĩa: “CQ địa lý được gọi là một lãnh thổ
đồng nhất về mặt phát sinh, trong đó có sự lặp lại một cách điển hình và có quy luật
của một và chỉ một tập hợp liên kết tương hỗ gồm: cấu trúc địa chất, dạng địa hình,
nước mặt và nước ngầm, vi khí hậu, các biến chứng đất, các quần xã thực vật –
động vật” [17], [26].
A.G. Ixatsenko (1965) định nghĩa: “CQ là một phần riêng biệt về mặt phát
sinh của một phần CQ, một đới CQ hay nói chung của một đơn vị phân vùng lớn bất
kỳ, đặc trưng bằng sự đồng nhất cả tương quan địa đới lẫn phi địa đới, có một cấu
trúc riêng và có một cấu tạo hình thái riêng” [26], [27].
Vũ Tự Lập (1975) định nghĩa: "CQ địa lý là một địa tổng thể, được phân hoá
ra trong phạm vi một đới ngang ở đồng bằng, và một đai cao ở miền núi, có một cấu

trúc thẳng đứng đồng nhất về nền địa chất, về kiểu địa hình, kiểu khí hậu, kiểu thuỷ
văn, về đại tổ hợp thổ nhưỡng và đại tổ hợp thực vật và bao gồm một tập hợp có
quy luật của những dạng địa lý và những đơn vị cấu tạo nhỏ khác theo một cấu trúc
ngang đồng nhất” [30].
Năm 1991, A.G. Ixatsenko đưa ra một định nghĩa ngắn gọn hơn: “CQ là một
địa hệ thống nhất về mặt phát sinh, đồng nhất về các dấu hiệu địa đới và phi địa đới,
gồm một tập hợp đặc trưng của các địa hệ liên kết bậc thấp”[17].
Quan điểm coi CQ mang tính kiểu loại: Đại diện cho quan điểm này là B.B.
Polưnov, A.I. Perelman, N.A. Gvozdetxki,... A.I. Perelman “Đặc trưng cho mỗi cá
thể CQ là tính liên tục trong khơng gian. Một trong những tiêu chuẩn để biểu hiện
cá thể CQ của các CQ khác nhau là sự gần nhau về lãnh thổ. Song sự gần nhau như


19

vây khơng có ý nghĩa về việc hệ thống hóa CQ. Vì thế CQ rất khác nhau về mặt hệ
thống nhưng nằm cạnh nhau có thể được ghép vào một vùng địa lý tự nhiên. Trái
lại, có thể xếp những bộ phận lãnh thổ rất xa nhau nhưng lại giống nhau về điều
kiện tự nhiên, có nghĩa giống nhau về mặt hệ thống vào một kiểu CQ nhất
định”[42]. CQ mang tính kiểu loại là khái niệm được khái qt hóa để chỉ các tổng
thể loại hình, CQ là một đơn vị phân loại trong hệ thống phân chia các thể tổng hợp
lãnh thổ tự nhiên.
Các thể tổng hợp tự nhiên có thể được phát hiện bằng cách phân loại CQ
theo các cấp phân loại dựa vào hệ thống chỉ tiêu đặc trưng, tính chất chung, tính
chất riêng biệt của tổ hợp các thành phần cấu tạo nên chúng theo trật tự logic từ trên
xuống dưới như hệ CQ - phụ hệ CQ - kiểu CQ - phụ kiểu CQ - loại CQ - hạng
CQ,... mà không phụ thuộc vào phạm vi lãnh thổ. Những đơn vị CQ cấp thấp được
coi là những đơn vị cơ sở và phải thể hiện rõ và tập trung nhất các biểu hiện phân
hóa mang tính địa đới và phi địa đới, ảnh hưởng của các hoạt động của con người và
biểu hiện sự phân dị của lãnh thổ. Quan điểm này đã được vận dụng nhiều trong các

nghiên cứu CQ phục vụ các mục đích ứng dụng thực tiễn của các tác giả trong
nước: Phạm Hoàng Hải, Nguyễn Thượng Hùng, Nguyễn Ngọc Khánh (1997)[17];
Nguyễn Cao Huần (2005) [23]; Trương Quang Hải (2008) [20]; Đỗ Văn Thanh
(2011) [61]; Nguyễn An Thịnh (2014) [65],... và một số luận án trong thời gian gần
đây.
Trong luận án của mình, tác giả đã kế thừa và vận dụng quan điểm CQ vừa là
đơn vị mang tính kiểu loại, vừa mang tính cá thể (là một thể tổng hợp tự nhiên)
trong phân tích đặc điểm CQ, thành lập bản đồ CQ, phân vùng CQ, đánh giá CQ
cho việc sử dụng hợp lý TNTN và phát triển KTXH tỉnh Vĩnh Phúc.
1.2.2. Nhân tố thành tạo cảnh quan
Nhân tố thành tạo CQ là những nhân tố không gian, thời gian trong nội tại và
bên ngồi CQ có vai trị hình thành cấu trúc, chức năng và chế độ động lực trong
CQ. Như vậy, các nhân tố thành tạo CQ bao gồm: Các hợp phần CQ (các thực thể
địa lí) độc lập tương đối nhưng tác động lẫn nhau thành tạo môi trường địa phương
trong CQ, bao gồm mẫu chất (hệ tầng, đá mẹ, trầm tích), địa hình, khí hậu, thủy


20

văn, thổ nhưỡng, lớp phủ thực vật (đối với CQ tự nhiên và bán tự nhiên) hoặc lớp
phủ sử dụng đất (đối với CQ văn hóa).
Nhóm nhân tố địa chất- kiến tạo, khí hậu, khu hệ sinh vật có ảnh hưởng trực
tiếp đến đặc điểm, cơ chế hình thành các hợp phần CQ. Các thành phần cứng (nền
khống. địa hình,...) là cơ sở của CQ, các thành phần động (không khí, các khối khí,
thủy văn,....) thực hiện các chức năng trao đổi và vận chuyển vật chất trong CQ. Các
thành phần tích cực (sinh vật) là nhân tố quan trọng trong điều chỉnh, phục hồi và
chuyển hóa của CQ [17].
Nhân tố con người tham gia vào thành tạo CQ thể hiện ở các dạng hoạt động
phát triển của con người ảnh hưởng đến cấu trúc và các quá trình hệ sinh thái trong
CQ và là một yếu tố chủ đạo gây biến đổi CQ. Nhân tố thời gian là thời gian thành

tạo CQ liên quan đến động lực biến đổi CQ [65].
Trong một nhóm nhân tố thành tạo CQ và giữa các nhóm nhân tố thành tạo
CQ ln có mối quan hệ tương tác với nhau và là những yếu tố động lực hình thành
cấu trúc, chức năng và động lực CQ. Các nhân tố thành tạo CQ tương tác với nhau,
có vai trị trực tiếp và gián tiếp hình thành các hợp phần khác cũng như các đơn vị
CQ. Mối liên hệ giữa các nhân tố thông qua các quá trình hệ sinh thái trong cấu trúc
đứng, cấu trúc ngang và cấu trúc thời gian của CQ.
1.2.3. Cấu trúc, chức năng và động lực cảnh quan
1.2.3.1. Cấu trúc cảnh quan
Đặc trưng của CQ được thể hiện rõ nhất qua cấu trúc CQ. Mỗi đơn vị CQ
đều được cấu tạo bởi các nhân tố CQ - hợp phần CQ (địa chất, địa hình, khí hậu,
thủy văn, đất, sinh vật, hoạt động của con người), giữa chúng có quan hệ chặt chẽ,
tác động qua lại với nhau và có sự thay đổi theo thời gian.
Cấu trúc CQ được xem xét ở: cấu trúc đứng (thể hiện mối liên hệ giữa các
hợp phần CQ), cấu trúc ngang (thể hiện mối liên hệ về không gian giữa các đơn vị
CQ đồng cấp) và cấu trúc thời gian (thể hiện nhịp điệu CQ). Cấu trúc đứng và cấu
trúc ngang của một CQ đều bị chi phối bởi cấu trúc thời gian trong cấu trúc và sự
phát triển của CQ [17],[19].


21

Cấu trúc đứng của CQ là sự kết hợp giữa các nhân tố CQ theo tầng. Cấu trúc
đứng được thể hiện từ dưới lên trên bao gồm tập hợp một cách có quy luật, có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau của các nhân tố CQ: địa chất - địa hình - khí hậu - thủy
văn - thổ nhưỡng - sinh vật. Vì vậy khi nghiên cứu cấu trúc thẳng đứng của CQ thì
phải xem xét đồng thời tất cả các hợp phần thành tạo trong mối quan hệ giữa chúng.
Phân tích cấu trúc đứng được sử dụng trong luận án là phân tích đặc điểm và mối
quan hệ phát sinh giữa các hợp phần CQ của khu vực nghiên cứu.
Cấu trúc ngang của CQ là đặc điểm kết hợp các hợp phần CQ thể hiện quy

luật sắp xếp và mối quan hệ giữa chúng trong khơng gian. Vì vậy, việc xác định hệ
thống phân loại CQ và phân vùng CQ là các nội dung quan trọng trong nghiên cứu
cấu trúc CQ.
Cấu trúc thời gian của CQ thể hiện sự của biến đổi trạng thái của CQ. Phân
tích cấu trúc thời gian thực chất là phân tích biến đổi CQ theo thời gian. Phân tích
cấu trúc thời gian của CQ khu vực nghiên cứu là phân tích sự biến đổi CQ theo mùa
và sự biến đổi CQ dưới sự tác động của con người.
1.2.3.2. Chức năng cảnh quan
Cảnh quan có hai chức năng cơ bản: chức năng tự nhiên và chức năng kinh tế
- xã hội [30].

Chức năng tự nhiên là tập hợp các q trình trao đổi, chuyển hóa vật chất và
năng lượng trong CQ. Các q trình đó giúp CQ có khả năng chống đỡ với những
tác động bên ngoài, tạo nên trạng thái cân bằng trong hệ thống tự nhiên của CQ.
Chức năng kinh tế - xã hội là khả năng sử dụng của CQ vào mục đích phát
triển kinh tế - xã hội (chức năng phịng hộ - bảo vệ mơi trường, phịng hộ bảo vệ bờ
biển, phục hồi, bảo tồn tự nhiên, khai thác kinh tế, định cư, thủy điện, thủy lợi, nuôi
trồng thủy sản,... ). Nếu con người sử dụng CQ phù hợp với chức năng CQ thì
hướng sử dụng đó là hợp lý và CQ có khả năng phát triển bền vững, lâu dài; nếu con
người sử dụng CQ không phù hợp với khả năng đáp ứng của CQ thì CQ bị suy giảm
và thường là không bền vững. Con người sử dụng CQ nếu vượt quá khả năng đảm
bảo của CQ ở một số bộ phận hoặc thành phần cấu trúc nào đó của CQ thì hệ


22

thống này sẽ có những biến đổi về cấu trúc, phá vỡ cấu trúc cũ hình thành nên cấu
trúc CQ mới và khi đó chức năng của CQ cũng sẽ thay đổi theo [40]
Chính vì vậy nghiên cứu chức năng của CQ, đánh giá tiềm năng vốn có của nó
là cơ sở để định hướng sử dụng hợp lý CQ, bảo vệ TNTN và môi trường lãnh thổ.


1.2.3.3. Động lực cảnh quan
Động lực phát triển CQ phụ thuộc các yếu tố của TN (năng lượng bức xạ
Mặt Trời, chế độ nhiệt, cơ chế hoạt động của gió mùa,...) và hoạt động khai thác
lãnh thổ của con người. Sự tác động luân phiên của chế độ mùa vào lãnh thổ làm
thay đổi nhịp điệu và xu thế biến đổi của CQ. Tác động này làm gia tăng các q
trình tích tụ và trao đổi vật chất - năng lượng trong CQ.
Tuy nhiên, yếu tố động lực có tính chất quyết định nhất đến biến đổi CQ là
các hoạt động khai thác lãnh thổ của con người. Tác động của con người nếu theo
hướng tích cực (trồng và bảo vệ rừng, xây hồ chứa...) tạo ra cân bằng TN, tăng sinh
khối CQ, cải thiện tốt môi trường khu vực. Nếu là những tác động tiêu cực (phá
rừng, làm thoái hoá đất, hoạt động kinh tế quá mức...) làm biến đổi, suy thoái CQ
theo chiều hướng xấu. Vì vậy nghiên cứu động lực CQ có ý nghĩa rất quan trọng,
một mặt làm rõ sự thay đổi, phân hóa của CQ do các tác động tự nhiên, mặt khác
cịn giúp chúng ta phân tích, dự báo xu hướng phát triển CQ nhân sinh và từ đó đề
ra các phương án sử dụng hợp lý các TNTN và BVMT.
1.2.4. Hệ thống phân loại cảnh quan
Phân loại CQ: Phân loại CQ nhằm xác định sự phân hóa khơng gian về tiềm
năng sinh thái CQ cho các dạng sử dụng khác nhau. Hệ thống phân loại CQ có
nhiều cấp tương ứng mức độ phân loại các thành phần CQ theo các yếu tố cùng tỷ lệ
bản đồ. Đơn vị phân loại CQ ở cấp càng thấp thì sự tham gia của các yếu tố của các
thành phần CQ càng nhiều.
Các hệ thống phân loại CQ
Trên thế giới có khá nhiều hệ thống phân loại CQ đặc biệt là của các nhà địa
lý Liên Xô (cũ). Các hệ thống này có giá trị cao về lý luận và thực tiễn, điển hình là
một số hệ thống phân loại sau [dẫn theo 25, 61]:


23


Hệ thống phân loại của A.G. Ixatsenko (1961) gồm 8 cấp: Nhóm kiểu - Kiểu
- Phụ kiểu - Lớp - Phụ lớp - Loại - Phụ loại - Thể loại. Hệ thống phân loại CQ của

N.A. Gvozdetxky (1961) có 5 cấp phân loại: Lớp - Kiểu - Phụ kiểu - Nhóm - Loại.
Hệ thống phân loại của V.A. Nhikolaiev (1966) gồm 12 bậc, áp dụng cho nghiên
cứu CQ đồng bằng: Thống - Hệ - Phụ hệ - Lớp - Phụ lớp - Nhóm - Kiểu - Phụ kiểu Hạng - Phụ hạng - Loại - Phụ loại.
Kế thừa và vận dụng các hệ thống phân loại CQ của các nhà địa lý Liên Xô
(cũ), các nhà địa lý, CQ học Việt Nam cũng đã xây dựng hệ thống phân loại phù
hợp với đặc điểm tự nhiên của nước ta.
Hệ thống phân loại CQ Việt Nam của Vũ Tự Lập (1976): Hệ (đồng nhất về
nền tảng nhiệt ẩm) - Lớp (đồng nhất về nền tảng nhiệt ẩm và nhóm kiểu địa hình) Lớp phụ (đồng nhất về nền tảng nhiệt ẩm nhóm kiểu địa hình và kiểu địa hình)Nhóm (đồng nhất về nền tảng nhiệt ẩm nhóm kiểu địa hình, kiểu địa hình và nhóm
kiểu khí hậu) - Kiểu (đồng nhất về nền tảng nhiệt ẩm nhóm kiểu địa hình, kiểu địa
hình, nhóm kiểu khí hậu đại tổ hợp đất) - Chủng (đồng nhất tồn bộ mơi trường vơ
cơ) - Loại (đồng nhất về tồn bộ hồn cảnh tự nhiên-mơi trường vơ cơ trạng thái
thực bì và đại tổ hợp thực vật) - Thứ (đồng nhất về biện pháp sử dụng, bảo vệ và cải
tạo)[30].
Hệ thống phân loại CQ Việt Nam của tập thể tác giả Phòng địa lý tự nhiên
thuộc Trung tâm Địa lý Tài nguyên - Viện Khoa học Việt Nam (1983) gồm 8 bậc:
Hệ CQ - Phụ hệ CQ - Lớp CQ - Phụ lớp CQ - Kiểu CQ - Phụ kiểu CQ - Hạng CQ Loại CQ [dẫn theo 62].
Trương Quang Hải (1991), khi nghiên cứu “Phân vùng CQ miền Nam Việt
Nam” đã xây dựng hệ thống phân loại CQ miền Nam Việt Nam cho bản đồ tỷ lệ
1/1.000.000 gồm 6 cấp phân vị: Hệ CQ - Lớp CQ - Nhóm CQ - Kiểu CQ - Hạng
CQ - Loại CQ [dẫn theo 61].
Hệ thống phân loại CQ Việt Nam của Phạm Hoàng Hải, Nguyễn Thượng
Hùng, Nguyễn Ngọc Khánh (1997) gồm 7 cấp: Hệ thống CQ - Phụ hệ thống CQ Lớp CQ - Phụ lớp CQ - Kiểu CQ - Phụ kiểu CQ - Loại CQ [17].


24

Hệ thống phân loại CQ Việt Nam của tác giả Nguyễn Cao Huần (2003) gồm

6 cấp phân vị: Hệ CQ - Phụ hệ CQ - Lớp CQ - Kiểu CQ - Hạng CQ - Loại CQ [21].
Như vậy, tùy thuộc vào quan điểm, đặc điểm lãnh thổ nghiên cứu và tỷ lệ bản
đồ mà mỗi tác giả xây dựng hệ thống phân loại CQ khác nhau. Tuy nhiên, trong các
hệ thống phân loại trên có một số cấp phân loại được các tác giả thống nhất cùng sử
dụng: Lớp, Kiểu, Phụ kiểu, Nhóm, Loại. Kết quả phân loại CQ sẽ là những căn cứ
quan trọng để thành lập Bản đồ CQ cho một vùng lãnh thổ được xác định.
Kế thừa và vận dụng các hệ thống phân loại CQ lãnh thổ Việt Nam của các tác
giả trên, trong luận án của mình tác giả vận dụng hệ thống phân loại CQ Việt Nam của
Phạm Hoàng Hải, Nguyễn Thượng Hùng, Nguyễn Ngọc Khánh (1997) làm cơ sở để đề
xuất hệ thống phân loại CQ, thành lập bản đồ CQ tỉnh Vĩnh Phúc tỷ lệ 1:100.000.

1.2.5. Hệ thống phân vùng cảnh quan
Phân vùng CQ: Theo Ixatsenko (1976), “Phân vùng CQ được xem như là
một phương pháp toàn năng, nhằm sắp xếp và hệ thống lại các lãnh thổ đã được sử
dụng rộng rãi trong các khoa học địa lí, kể cả phân vùng tự nhiên bộ phận cũng như
phân vùng địa lí tự nhiên tổng hợp” [27].
Như vậy, phân vùng CQ có thể được xem như là một kết quả tổng hợp
nghiên cứu CQ, phản ánh một cách có hệ thống, có qui luật các đặc điểm các điều
kiện tự nhiên, TNTN của mỗi vùng được phân chia. Mỗi vùng CQ có đặc tính tồn
vẹn lãnh thổ và thống nhất nội tại tạo bởi khái quát chung như vị trí địa lý và lịch sử
phát sinh, phát triển, bởi sự thống nhất của các quá trình địa lý cũng như tập hợp các
phần cấu tạo- các CQ. Phân vùng CQ vừa là cơ sở khoa học, vừa là cơ sở thực tiễn
cho mỗi mục đích ứng dụng.
Các hệ thống phân vùng CQ
Nhóm quan điểm thứ nhất coi chỉ có nhân tố phi địa đới (địa chất- địa mạo)
là nhân tố chủ đạo phân hoá các địa tổng thể (I.A. Xontxev, 1958, 1960; G. D.
Rikhter, 1964). Tiêu biểu cho nhóm quan điểm này có N.A.Xontxev (1958, 1960)
chia thành: Xứ - Miền - Quận - Khối - Cảnh [30].
Nhóm quan điểm thứ hai coi nhân tố địa đới và phi địa đới có giá trị ngang
nhau trong sự hình thành hệ thống phân vị, nhưng có một số khác biệt cơ bản dẫn

tới sự hình thành 3 nhóm phụ.


×