Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.68 KB, 30 trang )

VẬN DỤNG QUY LUẬT QHSX PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN
CỦA LLSX VÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM

LỜI HAY Ý ĐẸP
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT
PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
VÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XHCN Ở VIỆT NAM
1.1.

Một số khái niệm

1.1.1. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của một xã hội
nhất định, ở một thời kỳ nhất định. LLSX biểu hiện mối quan hệ tác động giữa
con người với tự nhiên, biểu hiện trình độ sản xuất của con người và năng lực
thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
LLSX bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động với tri thức, phương
pháp sản xuất, kỹ năng, kỹ xảo và thói quen lao động của họ. Trong các yếu tố
hợp thành LLSX, người lao động là chủ thể và bao giờ cũng là LLSX cơ bản,
quyết định nhất của xã hội.
Ngày nay, khi khoa học trở thành LLSX trực tiếp thì nội dung khái niệm
LLSX được bổ sung, hồn thiện hơn. Các cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ đã làm xuất hiện những khu vực sản xuất mới và làm cho năng suất lao
động tăng lên gấp đôi. Năng suất lao động được xem như là tiêu chí quan trọng
nhất để đánh giá trình độ phát triển của LLSX và suy cho cùng cũng là yếu tố
quyết định sự chiến thắng của một trật tự xã hội này đối với một trật tự xã hội


khác.
1.1.2. Quan hệ sản xuất
QHSX là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất,
phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm xã hội (sản xuất và tái sản xuất xã hội).
1


Trong q trình sản xuất, con người khơng chỉ có quan hệ với tự nhiên, tác
động vào giới tự nhiên, mà cịn có quan hệ với nhau, tác động lẫn nhau. Hơn nữa,
chỉ có trong quan hệ tác động lẫn nhau thì con người mới có sự tác động vào tự
nhiên và mới có sản xuất.
QHSX là hình thức xã hội của sản xuất, biểu hiện mối quan hệ giữa con
người với con người trên ba mặt chủ yếu sau:
- Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất là qua hệ giữa con người với
con người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
- Quan hệ tổ chức và quản lý là quan hệ giữa con người với con người
trong việc tổ chức quản lý sản xuất xã hội và trong trao đổi hoạt động cho nhau.
- Quan hệ phân phối lưu thông là quan hệ giữa con người với con người
trong phân phối và lưu thông sản phẩm xã hội.
Các mặt nói trên của QHSX có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn
nhau, trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định.
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm hữu tư liệu sản xuất thì giai cấp đó
là giai cấp thống trị, giai cấp ấy đứng ra tổ chức, quản lý sản xuất và sẽ quyết
định tính chất, hình thức phân phối, cũng như quy mơ thu nhập. Ngược lại gia
cấp tầng lớp nào khơng có tư liệu sản xuất thì sẽ là giai cấp, tầng lớp bị thống trị,
bị bóc lột vì buộc phải làm th và bị bóc lột dưới nhiều hình thức khác nhau.
Tuy vậy, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối lưu thơng cũng có
tác động trở lại QHSX.
QHSX trong tính hiện thực của nó khơng phải là quan hệ ý chí, pháp lý
mà là quan hệ kinh tế được biểu diễn thành các phạm trù, quy luật kinh tế.

QHSX mang tính khách quan, khơng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của
con người. Sự thay đổi của các kiểu quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất.
1.1.3. Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người khai thác những của cải vật
chất( tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt) cần thiết cho hoạt động tồn tại và phát
triển của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định.
PTSX đóng vai trị quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống xã hội: Kinh tế,
2


chính trị, văn hóa, xã hội. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất
trong lịch sử quyết định sự phát triển của lịch sử loài người từ thấp đến cao.
PTSX chính là sự thống nhất và tác động qua lại giữa LLSX ở một trình
độ nhất định và QHSX tương ứng.
1.2. Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất
1.2.1. Tính chất của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản
xuất, chúng tồn tại không tách nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện
chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát
triển xã hội.
- Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là khơng ngừng phát triển.
Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực
lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực
lượng sản xuất.
- Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ

chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng
sản xuất biểu hiện ở trình độ của cơng cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ
năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân cơng lao động xã hội,
trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
- Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng
sản xuất. Trong lịch sử xã hội , lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính
chất cá nhân lên tính chất xã hội hố. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công,
phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá
nhân. Khi sản xuất tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân cơng lao động xã hội phát
triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá.
1.2.2. Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định làm thay đổi
quan hệ sản xuất
- Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay
đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra
đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
3


xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của
lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đề
“tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó
tạo điều kiện sử dụng và kế hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu
sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho
quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực
lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của
sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ
bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản

xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất
cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi,
phương thức sản xuất mới ra đời thay thế. C.Mác đã viết: “ Tới một giai đoạn
phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu
thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có…. trong đó từ trước đến nay các lực
lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng
sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản
xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”.
1.2.3. Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát
triển của lực lượng sản xuất.
- Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất
cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của
con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến
phát triển và ứng dụng khoa học, cơng nghệ… và do đó tác động đến sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại,
quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo so với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì theo
quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với
4


quan hệ sản xt khơng phải đơn giản. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt động
cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh
giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
- Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng

sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong tồn bộ tiến trình lịch sử nhân loại.
Sự thay thế, phát triển lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thuỷ, qua chế
độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa đến xã hội cộng
sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
quy luật cơ bản nhất.
1.3. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.3.1. Khái niệm về nền kinh tế thị trường
Theo quan điểm của Samuelson trích trong kinh tế học thì: “ Một nền kinh
tế thị trường là một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách không tự giác nhân dân
và doanh nghiệp thơng qua giá cả thị trường. Nó là một phương tiện giao thông
để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá nhân khác, không có bộ não
trung tâm nó vẫn giải được bài tốn khó mà máy tính lớn nhất hiện nay cũng
khơng thể giải nổi. Khơng ai thiết kế ra nó. Nó tự xuất hiện và nó đang thay đổi
cũng như xã hội loài người.”
Theo C. Mác, kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của lịch
sử mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao hơn trên
con đường phát triển và nền kinh tế TBCN chính là nền kinh tế thị trường phát
triển đến trình độ phổ biến và hồn chỉnh. Nấc thang cao hơn chính là nền kinh tế
cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là nền kinh tế XHCN. Để chuyển lên nấc
thang này, nền kinh tế thị trường phải phát triển hết mức, phải trở thành phổ biến
trong đời sống kinh tế - xã hội. Đây là một kết luận lý luận quan trọng. Nó khái
quát quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, trong đó, kinh tế thị trường được
xác định là một nấc thang tất yếu, mang tính phổ biến. Tính phổ biến của kinh tế
thị trường thể hiện ở cấu trúc khung chung cho mọi nền kinh tế thị trường.
Theo quan điểm của Đảng ta, một nền kinh tế mà trong đó những vấn đề
cơ bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường. Nói
cách khác nền kinh tế thị trường chính là nền kinh tế hàng hóa chịu sự điều khiển
của cơ chế thị trường. Nền kinh tế này khác với nền kinh tế tập trung ở chỗ chủ
thể xác định các vấn đề cơ bản của nền kinh tế mà nền kinh tế tập trung chủ thể

5


này là nhà nước thông qua các mệnh lệnh hành chính. Chính sự khác biệt này tạo
ra sức mạnh và là động lực cho nền kinh tế phát triển.
Kinh tế thị trường là mơ hình kinh tế mà ở đó các quan hệ kinh tế đều
được thực hiện trên thị trường, thơng qua q trình trao đổi mua bán. Quan hệ
hàng hóa - tiền tệ phát triển đến một trình độ nhất định sẽ đạt đến kinh tế thị
trường. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển của kinh tế hàng hóa dựa trên cơ
sở phát triển của lực lượng sản xuất. Trong những điều kiện kinh tế - xã hội khác
nhau, sự phát triển của kinh tế hàng hóa, tất nhiên, chịu sự tác động của những
quan hệ xã hội nhất định hình thành nên các chế độ kinh tế - xã hội khác nhau. Vì
vậy, khơng thể nói kinh tế hàng hóa là sản phẩm của một chế độ kinh tế - xã hội
nào mà phải hiểu rằng nó là một sản phẩm của q trình phát triển của lực lượng
sản xuất xã hội lồi người, nó xuất hiện và tồn tại trong nhiều phương thức sản
xuất xã hội và đến trình độ cao hơn đó là kinh tế thị trường.
Tóm lại, kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người
bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số
lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
1.3.2. Mơ hình kinh tế thị trường XHCN (hay định hướng XHCN)
Loại mơ hình kinh tế thị trường này hiện đang được thực thi chỉ ở hai
nước (Việt Nam - kinh tế thị trường định hướng XHCN; và Trung Quốc - kinh tế
thị trường XHCN). Thời gian tồn tại của nó cũng chỉ mới hơn 1/4 thế kỷ thử
nghiệm. Tuy vậy, các kết quả thực tế đã chứng tỏ đây là mơ hình có sức sống
mạnh mẽ và có triển vọng lịch sử to lớn.
Sự ra đời của mơ hình này gắn liền với sự sụp đổ của CNXH hiện thực,
vốn phủ nhận vai trò của kinh tế thị trường trong quá trình phát triển ở các nước
nghèo, lạc hậu tiến lên CNXH. Sự xuất hiện của mơ hình này chứng minh sức
sống mãnh liệt của xu hướng tiến lên CNCS như một tất yếu khách quan của thời
đại; đồng thời, khẳng định tính tất yếu và phổ biến của kinh tế thị trường với tư

cách là một giai đoạn bắt buộc trong lịch sử phát triển của mọi nền kinh tế.
 Nền kinh tế thị trường XHCN của Trung quốc
Quá trình phát triển đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN của
Trung Quốc gắn liền với việc từng bước đoạn tuyệt với nền kinh tế KHH tập
trung. Quá trình này tiến triển qua 4 giai đoạn:
- Giai đoạn một (1978-1984): “lấy kinh tế kế hoạch làm chính, lấy điều
tiết thị trường làm bổ trợ”. Đây là bước chuyển mang tính đột phá.
6


- Giai đoạn hai (1984-1993): “nền kinh tế XHCN là nền kinh tế hàng hố
có kế hoạch trên cơ sở chế độ công hữu”.
- Giai đoạn ba (1993-2003): xây dựng “thể chế kinh tế thị trường
XHCN”, thực chất là làm cho thị trường có vai trị cơ sở đối với phân phối tài
ngun, dưới sự kiểm sốt vĩ mơ của nhà nước; hình thành thể chế xí nghiệp hiện
đại phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường, tách chính quyền khỏi xí nghiệp.
- Giai đoạn bốn (từ HNTƯ 3 khoá XVI, 2003): khẳng định “nền kinh tế thị
trường XHCN”. Đi liền với sự khẳng định này là việc xác định khung thể chế cơ
bản của nền kinh tế thị trường XHCN ở Trung Quốc, bao gồm các yếu tố sau:
+ Nền kinh tế thị trường XHCN mang tính đa dạng sở hữu, với các đặc
trưng: 1) Chế độ kinh tế cơ bản lấy i) chế độ công hữu làm chủ thể và ii) nhiều
chế độ sở hữu khác cùng phát triển ; 2) Hình thức cơ bản của chế độ công hữu là
chế độ cổ phần.
+ Người lao động tự chủ lựa chọn việc làm, thị trường điều tiết việc làm
và chính phủ thúc đẩy việc làm.
+ Phân phối theo lao động là chủ thể; nhiều hình thức phân phối cùng tồn
tại, chú trọng giải quyết vấn đề chênh lệch thu nhập.
+ Nhà nước kiểm sốt vĩ mơ, chức năng quản lý kinh tế của C.phủ chủ yếu
là phục vụ chủ thể thị trường và sáng tạo môi trường phát triển tốt đẹp.
+ Hiến pháp: cơ sở pháp lý của thể chế kinh tế thị trường XHCN chiếm vị

trí chủ đạo. Phải dựa vào pháp luật để bảo vệ các quyền sở hữu tài sản, kiện toàn
quy tắc giao dịch và chế độ giám sát quyền sở hữu tài sản.
 Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Khái niệm “kinh tế thị trường định hướng XHCN” được khẳng định tại
Đại hội Đảng IX năm 2001. Đây là kết quả của quá trình đổi mới tư duy và thực
tiễn ở nước ta, được đúc kết lại trên cơ sở kiểm điểm, đánh giá và rút ra các bài
học lớn tại các kỳ Đại hội Đảng.
Quá trình đổi mới tư duy lý luận về kinh tế thị trường định hướng XHCN được
xác định trên cơ sở khái quát lại quá trình đổi mới qua ba nấc thang nhận thức về
nền kinh tế định hướng XHCN, tương ứng với ba giai đoạn phát triển của nền
kinh tế: Trước Đại hội Đảng VI (năm 1986); Từ Đại hội Đảng VI đến Đại hội
Đảng IX (1986-2000) và Từ Đại hội Đảng IX đến nay.
7


Nhận thức gần đây nhất về nền kinh tế định hướng XHCN của Việt Nam
là: Chuyển từ nhận thức thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý kinh tế
sang nhận thức thị trường là một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của xã hội trong giai
đoạn tiến lên CNXH. Đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Đại hội IX khái quát mơ hình nền kinh tế thị trường thể hiện sự phát triển
tư duy hệ thống về mơ hình tổng qt của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
CNXH. “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, đó chính là nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN” .
1.3.3. Sự cần thiết khách quan phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những điều kiện
chung để kinh tế hàng hóa xuất hiện vẫn cịn tồn tại. Do đó, sự tồn tại kinh tế
hàng hóa ở nước ta là một tất yếu khách quan. Những điều kiện chung để kinh tế
hàng hóa xuất hiện và tồn tại là:

- Phân công lao động xã hội là cơ sở tất yếu của nền sản xuất hàng hóa
vẫn tồn tại và ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu ở nước ta hiện
nay. Sự phát triển của phân công lao động xã hội thể hiện ở chỗ các ngành nghề ở
nước ta ngày càng đa dạng, phong phú, chun mơn hóa sâu. Điều đó, đã góp
phần phá vỡ tính chất tự cung tự cấp của nền kinh tế tự nhiên trước đây và thúc
đẩy kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ hơn. Hơn nữa, phân công lao động xã
hội là cơ sở để nâng cao năng suất lao động xã hội, nghĩa là làm cho nền kinh tế
ngày càng có nhiều sản phẩm đem ra trao đổi, mua bán. Do đó, làm cho trao đổi,
mua bán hàng hóa trên thị trường càng phát triển hơn.
- Sự tồn tại và phát triển của nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế khác nhau tạo nên sự tách biệt kinh tế giữa các chủ thể kinh tế độc lập
cũng là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế thị
trường ở nước ta. Thật vậy, một khi còn tồn tại nhiều dạng sở hữu khác nhau về
tư liệu sản xuất và về sản phẩm lao động sẽ tạo nên sự độc lập về kinh tế của
những ngành chủ sở hữu khác nhau đó. Do đó, các chủ thể kinh tế trong nền kinh
tế khi cần sản phẩm của nhau tất yếu phải thông qua con đường thoả thuận, trao
đổi, mua bán.
Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định mơ hình nền kinh tế ở nước ta
trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ
8


chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
(gọi tắt là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa). Sự lựa chọn đó là xuất
phát từ những lợi ích của việc phát triển kinh tế - xã hội đem lại cho nước ta.
Phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta có lợi là:
- Nước ta trong thời kỳ quá độ muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất thì phải xã hội hóa, chun mơn hóa lao động. Q trình ấy chỉ có thể diễn
ra một cách thuận lợi trong một nền kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường. Sản xuất
càng xã hội hóa, chun mơn hóa thì càng địi hỏi phát triển sự hiệp tác và trao

đổi hoạt động kinh tế trong xã hội, càng phải thơng qua sự trao đổi hàng hóa giữa
các đơn vị sản xuất để đảm bảo những nhu cầu cần thiết của các loại hoạt động
sản xuất khác nhau.
- Chỉ có phát triển kinh tế thị trường mới làm cho nền kinh tế nước ta phát
triển năng động. Trong cơ chế kinh tế cũ, vì coi thường quy luật giá trị, cạnh
tranh, cung cầu nên các cơ sở kinh tế cũng thiếu sức sống và động lực để phát
triển sản xuất. Sử dụng kinh tế thị trường là sử dụng quy luật giá trị, cạnh tranh,
cung cầu, buộc mỗi người sản xuất tự chịu trách nhiệm về hàng hóa do mình làm
ra. Chính vì thế mà nền kinh tế trở nên sống động. Mỗi người sản xuất đều chịu
sức ép buộc phải quan tâm tới sự tiêu thụ trên thị trường, sao cho sản phẩm của
mình được xã hội thừa nhận và cũng từ đó họ mới có được thu nhập.
- Phát triển nền kinh tế thị trường là phù hợp với sự phát triển của lực
lượng sản xuất xã hội, cũng có nghĩa là sản phẩm xã hội ngày càng phong phú,
đáp ứng nhu cầu đa dạng của mọi người. Ở nông thôn nước ta, sự phát triển kinh
tế thị trường và việc tăng tỷ lệ hàng hóa nơng sản đã làm cho hàng hóa bán ra của
nơng dân nhiều lên, thu nhập tăng lên, đồng thời các ngành nghề ở nông thôn
cũng ngày một phát triển, tạo ra cho nơng dân nhiều việc làm. Đó cũng là điều đã
diễn ra ở thành phố, đối với những người lao động thành thị.
- Phát triển kinh tế thị trường đòi hỏi phải đào tạo ngày càng nhiều cán bộ
quản lý và lao động có trình độ cao. Muốn thu được lợi nhuận, họ cần phải vận
dụng nhiều biện pháp để quản lý kinh tế, thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, hạ giá thành
sản phẩm, làm cho sản xuất phù hợp với nhu cầu của thị trường, nâng cao hơn
nữa hiệu quả kinh tế. Qua cuộc cạnh tranh trên thị trường, những nhân tài quản lý
kinh tế và lao động thành thạo xuất hiện ngày càng nhiều và đó là một dấu hiệu
quan trọng của tiến bộ kinh tế.

9


Như vậy, phát triển kinh tế thị trường đối với nước ta là một tất yếu kinh

tế, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh
tế hiện đại, hội nhập vào sự phân cơng lao động quốc tế. Đó là con đường đúng
đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất
nước để thực hiện nhiệm vụ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Kinh tế
hàng hóa, kinh tế thị trường khơng đối lập với các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà trái lại thúc đẩy các nhiệm vụ đó phát
triển mạnh mẽ hơn.
Thực tiễn những năm đổi mới chỉ ra rằng, việc chuyển sang mơ hình kinh
tế thị trường của Đảng ta là hồn tồn đúng đắn. Nhờ mơ hình kinh tế đó, chúng
ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước đi đôi với thu hút vốn và kỹ
thuật nước ngồi, giải phóng được năng lực sản xuất trong xã hội, phát triển lực
lượng sản xuất, góp phần quyết định bảo đảm nhịp độ tăng trưởng GDP bình
quân hằng năm cao. Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội được tăng
cường. Đời sống của nhân dân được cải thiện, nâng cao tích luỹ xã hội, tạo tiền
đề cho sự phát triển trong tương lai.

CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP
VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀO
VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.
2.1. Quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
10


Từ khi hịa bình độc lập lại năm 1954, miền Bắc nước ta đã bước vào thời
kỳ quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa với những đặc điểm như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói: Đặc điểm to nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ là một nước
nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải trải qua gia đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa.
Từ năm 1975, sau khi đất nước hoàn toàn độc lập và thống nhất, cách

mạng dân tộc – dân chủ đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước thì Việt
Nam tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, từ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của
Đảng ta nói rõ hơn thực trạng kinh tế và chính trị của đất nước: Nước ta quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa
phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến
tranh, hậu quả để lại còn nặng nề, những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều.
Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và
nền độc lập dân tộc của nhân dân ta.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất kỳ một quốc gia nào đi lên chủ
nghĩa xã hội cũng đều phải trải qua, ngay cả đối với những nước đã có nền kinh
tế phát triển. Bởi lẽ, ở các nước này tuy lực lượng sản xuất đã phát triển cao
nhưng vẫn còn cần phải cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng nền
văn hóa mới. Các nước này về khách quan có nhiều thuận lợi hơn như thời kỳ
quá độ có thể diễn ra ngắn hơn. Nhưng đối với nước ta, một nền nông nghiệp lạc
hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thì lại càng phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta là một thời kỳ lịch sử mà: nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây
dựng nền tảng vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, tiến dần lên chủ nghĩa xã
hội, có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện đại, có văn hóa, khoa học tiên tiến.
Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ
và xậy dựng nền kinh tế mới đó là phải xây dựng nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài.
Sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, bằng sự nỗ lực
sáng tạo của quần chúng, các ngành, các cấp, chúng ta đã vượt qua được khủng
hoàng, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng trong hoạt động thực
tiễn trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế tăng trưởng nhanh, chính trị
ổn định, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
tận dụng nguồn vốn và công nghệ, phát huy nội lực đất nước, đẩy mạnh công
11



nghiệp hóa, hiện đại hóa; bộ mặt kinh tế - xã hội thay da đổi thịt hàng ngày, đời
sống nhân dân được cải thiện rõ rệt
Trong quá trình đổi mới, một trong những vấn đề tư duy lý luận cốt lõi
thuộc về đường lối là sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Đảng và nhà nước đã chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách: phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý điều tiết của nhà nước;
phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất
mới cho phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý, phân phối.
2.2. Những thành tựu kinh tế - xã hội đã đạt được
Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam là số ít trong các nước chuyển đổi thành cơng
trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, liên tục và ổn định. Nhìn lại
chặng đường dài phát triển để có thêm động lực lấy lại đà tăng trưởng nhanh và
phát triển bền vững.
2.2.1. GDP tăng đều qua các năm
Nước ta đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Đường lối đổi mới của Đảng đã được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật, tạo
hành lang pháp lý cho nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN hình thành và
phát triển.
Chế độ sở hữu và cơ cấu các thành phần kinh tế được đổi mới cơ bản từ
sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể là chủ yếu
sang nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phân kinh tế đan xen hỗn hợp, trong đó
kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho
khai thác tiềm năng trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế- xã hội. Phân phối
tính đến hiệu quả.
Các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống nhất
trong cả nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới. Cơ chế thị trường có sự

quản lý của nhà nước đã đi vào cuộc sống, doanh nghiệp và doanh nhân được tự
chủ kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh để phát triển.
Minh chứng cho các thành quả đạt được một cách rõ nét nhất là tốc độ
tăng trưởng kinh tế. Giai đoạn 1986-1990, giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới,
khủng hoảng kéo dài nhưng đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan
12


trọng. GDP tăng 4,4%/năm. Giai đoạn 1991-1995 GDP bình quân tăng
8,2%/năm. Giai đoạn 1996-2000 mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài
chính khu vực, thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp nhưng chúng ta vẫn duy trì
được tốc độ tăng GDP đạt 7%. Bình quân từ năm 1991-2000 GDP tăng
7,6%/năm.
Giai đoạn từ 2001-2010 GDP tăng bình quân 7,26%. Giai đoạn 2011-2015
dự kiến đạt khoảng 6%/năm. Tính chung cho cả giai đoạn GDP tăng bình quân
gần 7%, trong đó có tới 20 năm liên tục GDP tăng bình quân 7,43%. Thành tích
này nếu so sánh thấp hơn Hàn Quốc, Singapore, nhưng cao hơn hầu hết các nước
khu vực ASEAN còn lại.
Trong 9 tháng đầu năm 2014, tăng trưởng đạt 5,62% với xu hướng cao
lên của cả 03 nhóm ngành: nông lâm thủy sản tăng trưởng 3%, công nghiệp – xây
dựng đạt 6,42%, dịch vụ là 5,99%.
2.2.2 Hoàn thiện thể chế
Trong những năm qua, trên thực tế, chúng ta đã có bước tiến dài về hồn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập mơi
trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính. Diện mạo mới của đất nước
có nhiều thay đổi. Thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều. Những thành
tựu, kinh nghiệm hơn 30 năm đổi mới đã tạo cho đất nước thế và lực mới.
Đây cũng là một đột phá chiến lược đã được nêu trong Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ XI. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trước
hết phải tôn trọng đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời phải có

cơng cụ điều tiết và chính sách phân phối để bảo đảm công bằng và tiến bộ xã
hội.
Tuy nhiên, chúng ta không bằng lòng với những thành tựu đạt được, bởi
chưa xứng với tiềm năng, kinh tế phát triển chưa bền vững. Tăng trưởng kinh tế
vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát
triển theo chiều sâu. Trong khi đó, nền tảng để Việt Nam trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ...
Tư tưởng kinh tế cốt lõi trong các văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ XI là
tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng, bảo đảm phát triển nhanh
và bền vững. Tiền đề để thực hiện thành công nhiệm vụ này là triển khai hiệu quả
ba đột phá chiến lược, trong đó, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường vừa là một
đột phá then chốt, có tác động trực tiếp đến q trình tái cơ cấu, chuyển đổi mơ
13


hình tăng trưởng. Do đó, việc xác định rõ hồn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường
được cho là chìa khóa để thành cơng.
Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vĩ mô nhanh và bền vững, Chính phủ đã
có những định hướng ưu tiên trong chỉ đạo, điều hành. Mục tiêu trước mắt trong
2 năm 2014-2015, Chính phủ ưu tiên tốc độ tăng trưởng kinh tế bình qn là
6,0%/năm. Trên cơ sở đó, tiếp tục kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm
sốt lạm phát; tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ thị
trường, bảo đảm phục hồi và nâng cao chất lượng tăng trưởng và đảm bảo tăng
trưởng ở mức hợp lý. Thực hiện chính sách tiền tệ đảm bảo cung ứng vốn một
cách có hiệu quả cho nền kinh tế, đồng thời góp phần kiềm chế lạm phát và ổn
định kinh tế vĩ mô. Tiếp tục phát triển đồng bộ và lành mạnh hóa thị trường tiền
tệ, giảm dần nợ xấu thông qua việc tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng. Triển
khai có hiệu quả hoạt động của Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng
Việt Nam. Bổ sung giải pháp mới để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hỗ trợ

thị trường nhằm tập trung đầu tư cho các cơng trình trọng điểm về giao thơng,
thủy lợi và bệnh viện. Sử dụng một phần thích đáng chi đầu tư công để tham gia
các dự án PPP, vốn đối ứng ODA và kinh phí giải phóng mặt bằng…
2.2.3. Hệ thống kết cấu hạ tầng
Hệ thống kết cấu hạ tầng có bước phát triển khá, đáp ứng yêu cầu trước
mắt và tạo được những năng lực gối đầu cho thời kỳ sau. Các cơng trình và các
trục tuyến giao thơng quan trọng được tập trung đầu tư nâng cấp, bảo đảm giao
thông thông suốt trong cả nước. Hệ thống bưu chính viễn thơng được hiện đại
hố về cơ bản. Hệ thống thuỷ lợi đợc nâng cấp và phát triển trên các vùng. Cơ sở
vật chất của các ngành giáo dục và đạo tạo, khoa học và công nghệ, y tế, văn hoá,
du lịch, thể dục thể thao đều được tăng cường đáng kể. Kinh tế đối ngoại tiếp tục
phát triển. Nước ta đã xây dựng quan hệ thương mại với trên 140 nước, quan hệ
đầu tư với gần 70 nước và vùng lãnh thổ, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư
nước ngồi. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm trên 21%, gấp 3
lần mức tăng GDP. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục gia tăng, đóng góp tích
cực vào phát triển kinh tế - xã hội. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tiếp
tục tăng, góp phần quan trọng phát triển kết cấu hạ tầng.
2.2.4. Văn hóa, xã hội

14


Văn hóa, xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục được cải
thiện. Sự nghiệp giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mơ, chất
lượng, hình thức đào tạo và cơ sở vật chất. Năm học 1999 – 2000 so với 1994 –
1995 số học sinh các cấp học, bậc học đều tăng đáng kể, mẫu giáo tăng 1,2 lần;
trung học cơ sở 1,6 lần; trung học phổ thông 2,3 lần; học nghề tăng 1,8 lần. Đến
hết năm 2000 cả 64 tỉnh, thành phố đều đã đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục tiểu
học và xóa mù chữ; một số tỉnh, thành phố đã bắt đầu phổ cập trung học sơ sở.
Phong trào học tập phát triển nhanh, chất lượng giáo dục – đào tạo đã có chuyển

biến bước đầu. Việc xã hội hóa giáo dục – đào tạo đã bước đầu được triển khai và
phát triển.

CHƯƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN TRONG
THỜI GIAN TỚI
3.1. Các giải pháp cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
15


Để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam
cần thực hiện đồng bộ các giải pháp. Dưới đây là những giải pháp quan trọng
nhất:
3.1.1. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần.
Sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần để khai thác mọi tiềm năng về
vốn, khoa học kỹ thuật, lao động,… một mặt khuyến khích các thành phần kinh
tế phát triển, một mặt tạo ra sức mạnh tổng hợp cùng hướng tới mục tiêu chung
của đất nước.
Để chuyển sang nền kinh tế thị trường hay chính là chuyển sang kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, cần phải đổi mới cơ
cấu sở hữu cũ bằng cách đa dạng hóa các hình thức sở hữu, điều đó đưa đến sự
hình thành các chủ thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng, tức là khôi phục một
trong những cơ sở của kinh tế hang hóa.
Trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức sở hữu, thực hiện nhất quán, lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Lấy việc phát triển
sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân làm
mục tiêu quan trọng để khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các
hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Theo tinh thần đó, tất cả các thành phần
kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, đều được khuyến khích phát triển. Tạo
mơi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh và phát triển mạnh mẽ các

thành phần kinh tế.
Trong những năm tới cần phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Muốn vậy cần tập trung nguồn lực phát triển có hiệu kinh tế nhà nước trong
những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế, sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước,
thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với những doanh
nghiệp nhà nước không cần nắm 100% vốn. Xây dựng và củng cố một số tập
đoàn kinh tế mạn trên cơ sở tổng cơng ty nhà nước, có sự tham gia của các thành
phần kinh tế. Đẩy mạnh việc đổi mới kỹ thuật, công nghệ trong các doanh nghiệp
nhà nước. Thực hiện chế độ quản lý công ty đối với tất cả các doanh nghiệp kinh
doanh có vốn của nhà nước, doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị
trường, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, do tính chất định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường nên
bên cạnh việc thừa nhận và khuyến khích mọi thành phần kinh tế thì thành phần
kinh tế nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh, sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả và
16


sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước. Củng cố, khơng ngừng nâng cao vai
trị chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế để cùng với kinh tế tập thể,
hướng các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo quỹ đạo tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Tạo động lực phát triển có hiệu quả các loại hình kinh tế tập thể.
Phát triển mạnh mẽ các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp, của
tư nhân thu hút mạnh nguồn lực của các đầu tư nước ngoài. Hướng vào mục tiêu
phát triển các sản phẩm xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh, gắn với thu hút vốn
và thu hút công nghệ hiện đại và đất nước. Và kiên quyết ngăn chặn các hành vi
lừa đảo, buôn lậu, hàng giả,… để tạo môi trường đầu tư lành mạnh.
3.1.2. Đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa
học – cơng nghệ, trên cơ sở đó đẩy mạnh phân cơng lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là cơ sở chung của sản xuất và trao đổi hàng
hóa. Vì vậy, để phát triển kinh tế hàng hóa, phải đẩy mạnh phân công lao động xã

hội. Nhưng sự phát triển của phân cơng lao động do trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất quyết định, cho nên muốn mở rộng phân công lao động xã hội,
cần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để xây dựng cơ sở vật chất
– kỹ thuật của nền sản xuất hiện đại.
Con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút
ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có
những bước nhảy vọt gắn cơng nghiệp hóa với hiện đại hóa, tận dụng mọi khả
năng để đạt trình độ tiên tiến, hiện đại về khoa học và công nghệ; ứng dụng
nhanh và phổ biến hơn mức độ cao hơn những thành tựu công nghệ hiện địa tri
thức mới, từng bước phát triển kinh tế tri thức.
Cùng với việc trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện địa cho các ngành, các
lĩnh vực của nền kinh tế trong quá trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa tiến hành
phân cơng lại lao động và phân bố dân cư trong phạm vi cả nước, cũng như ở
từng vùng, từng địa phương; hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý cho phép khai thác
tốt các nguồn lực của đất nước, tạo nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững
của toàn bộ nền kinh tế.
- Hướng tới mục đích: Phát triển LLSX cải thiện tình trạng kém phát triển
của kết cấu hạ tầng kỹ thuật, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm, doanh nghiệp và
nền kinh tế, phát triển thị trường.
3.1.3. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường.

17


Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thơng hàng hóa. Thừa
nhận sản xuất hàng hóa khơng thể phủ định sự tồn tại khách quan của thị trường.
Sản xuất hàng hóa, lưu thơng hàng hóa và thị trường đã được khẳng định về lý
luận và tồn tại ở Việt Nam. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các
nguồn lực kinh tế đều thông qua thị trường và được phân bố vào các ngành, các
lĩnh vực của nền kinh tế một cách tối ưu. Vì vậy, để xây dựng và phát triển nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải hình thành và phát
triển đồng bộ các loại thị trường. Song vấn đề đặt ra là hình thành và phát triển
thị trường như thế nào? Sự đồng bộ các loại thị trường ra sao? Đó là vấn đề hiện
nay nước ta đang cần đưa ra những hướng đi phù hợp cho giải pháp này.
Hình thành và đồng bộ của thị trường trước hết là hình thành hệ thống thị
trường với đầy đủ các loại hình: thị trường tiền tệ, thị trường công nghệ, thị
trường lao động, thị trường đất đai, thị trường hàng hóa dịch vụ... Các thị trường
này vừa độc lập với nhau vừa liên hệ với nhau trong hệ thống thị trường. Mỗi
loại thị trường đều có cung - cầu, giá cả, người mua - người bán đặc thù ; có quy
luật vận hành đặc trưng và khuynh hướng phát triển khác nhau. Sự quan hệ lệ
thuộc, tác động biện chứng giữa các thị trường do quá trình trao đổi hoạt động và
phối hợp cung ứng hình thành sản phẩm cuối cùng. Sự độc lập tương đối của các
thị trường ln có xu hướng phá vỡ sự cân bằng tổng thể. Sự phụ thuộc và liên hệ
giữa các thị trường đòi hỏi sự cân bằng mới và ăn khớp với nhau. Vấn đề ở đây
là, để cân bằng tự phát hay chủ động điều tiết để có sự ăn khớp hợp lý. Vai trò tạo
điều kiện và chủ động điều tiết của Nhà nước để tạo sự đồng bộ, ăn khớp và hợp
lực các hệ thống thị trường là đặc biệt quan trọng. Tính đồng bộ của thị trường là
làm sao cho mọi hoạt động của thị trường được diễn ra một cách trơi chảy, thơng
thống, minh bạch, lành mạnh và thầng nhất được trong môi trường pháp lý có sự
quản lý nhất qn trong hệ thống chính sách của nhà nước.
Trong những năm tới chúng ta cần phải thực hiện:
- Đẩy mạnh phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ thơng qua việc đẩy
mạnh sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển hệ thống giao
thông và phương tiện vận tải để mở rộng thị trường. Tăng cung hàng hóa về số
lượng, chất lượng và cơ cấu giảm giá thành sản phẩm, kích cầu thơng qua chính
sách giá cả tiền lương, lợi nhuận, lãi suất,…
- Hình thành thị trường sức lao động có tổ chức để tạo điều kiện cho sự di
chuyển sức lao động theo yêu cầu phát triển kinh tế, đảm bảo thực hiện đẩy đủ
quyền lợi của người lao động và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực.
18



- Xây dựng thị trường vốn, từng bước hình thành và phát triển thị trường
chứng khoán để huy động các nguồn vốn vào phát triển sản xuất. Đẩy mạnh
chương trình cổ phần hóa doanh nghiệp, phát triển thị trường vốn theo hướng
hiện đại hoàn chỉnh về cấu trúc được sự giám sát của nhà nước và có khả năng
liên kết với thị trường khu vực và quốc tế.
- Thị trường bất động sản xây dựng một hệ thống thị trường bất động sản
đa dạng nhưng phải hoàn thiện và đồng bộ. Chính sách pháp luật về đất đai phải
phù hợp đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất đủ hiệu lực nhằm tạo điều kiện cho thị
trường bất động sản hoạt động. Có sự quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường nhà ở
và Nhà nước chủ động định hướng điều tiết và kiểm soát để ổn định thị trường
bất động sản.
- Thị trường khoa học công nghệ cần xây dựng và phát triển thị trường
thông tin, thị trường khoa học công nghệ. Mở cửa giao lưu tri thức kinh nghiệm
với các nước trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho nghiên cứu và phát triển
khoa học công nghệ. Định hướng phát triển và xây dựng kế haochj với các bước
phù hợp để triển khai có hiệu quả một số ngành mũi nhọn: công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa,… Đào tạo
và phát triển nguồn lao động trong ngành khoa học và công nghệ. Tiếp thu các
thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới phù hợp với điều kiện có ở
nước ta.
Hồn thiện các loại thị trường đi đôi với xây dựng khuôn khổ pháp lý về
thể chế, tăng cường sự kiểm tra, giám sát của nhà nước, để thị trường hoạt động
năng động, có hiệu quả, có trật tự, kỷ cương trong mơi trường cạnh tranh lành
mạnh, công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm sốt độc quyền kinh doanh. Có
biện pháp hữu hiệu chống buôn lậu và gian lận thương mại.
3.1.4. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Kinh tế đối ngoại là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công
nghệ của một quốc gia nhất định với các quốc gia khác hoặc với các tổ chức kinh

tế khu vực và quốc tế, được thực hiện dưới nhiều hình thức, được hình thành và
phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công, hợp tác quốc
tế ngày càng sâu rộng.
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại đã và đang là xu hướng tất yếu với hầu
hết các nước. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại bắt nguồn từ yêu cầu của quy
luật về sự phân công và hợp tác quốc tế giữa các nước từ sự phân bố tài nguyên
19


thiên nhiên và sự phát triển không đều về kinh tế - kỹ thuật giữa các nước. Trong
mấy chục năm gần đây sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - cơng
nghệ và tác động của nó đã khiến cho việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại trở
nên cấp thiết hơn bao giờ hết đối với tất cả các quốc gia. Cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế.
Sự tác động của cách mạng khoa học và công nghệ cùng với sự phát triển của các
công ty xuyên quốc gia và vai trò ngày càng tăng của các định chế kinh tế - tài
chính tồn cầu và khu vực đã thúc đẩy quốc tế hoá đời sống kinh tế phát triển đến
giai đoạn cao - tồn cầu hố kinh tế. Tồn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan
của thời đại, lơi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Tồn cầu hố kinh tế đang
phát triển nhanh chóng, gia tăng mạnh mẽ quy mơ và phạm vi giao dịch hàng
hố, dịch vụ, vốn, cơng nghệ, kỹ thuật. Tồn cầu hố kinh tế tạo khả năng để mở
rộng thị trường, thu hút vốn, công nghệ, đồng thời đặt ra thách thức mới về nguy
cơ tụt hậu ngày càng xa của các nước kém phát triển và sự cạnh tranh quốc tế rất
gay gắt. Tồn cầu hố kinh tế khiến cho khơng một nền kinh tế nào có thể phát
triển một cách biệt lập "đóng cửa", vì nếu biệt lập "đóng cửa" thì sẽ lạc hậu về
kinh tế, xã hội... Đồng thời, cộng đồng quốc tế đứng trước nhiều vấn đề kinh tế,
xã hội có tính tồn cầu mà khơng một nước riêng lẻ nào có thể giải quyết được
mà khơng cần có sự hợp tác đa phương. Như vậy, tồn cầu hố kinh tế càng
khẳng định tính tất yếu khách quan của mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và hội
nhập kinh tế quốc tế.

Trong thời gian qua, Việt Nam đã từng bước hội nhập kinh tế quốc tế
thông qua mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước tuy nhiên kết quả và
thành tựu đạt được chưa tương xứng với tầm vóc. Vì vậy để xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN, Việt Nam cũng cần đề ra và thực hiện đồng thời
hàng loạt các giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối
ngoại. Cụ thể:

 Bảo đảm sự ổn định về mơi trường chính trị, kinh tế - xã hội
Mơi trường chính trị, kinh tế - xã hội là nhân tố cơ bản, có tính quyết định
đối với hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc biệt là đối với việc thu hút đầu tư nước
ngồi - hình thức chủ yếu, quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại. Kinh
nghiệm thực tiễn đã chỉ ra rằng nếu sự ổn định chính trị khơng được bảo đảm,
mơi trường kinh tế khơng thuận lợi, thiếu các chính sách khuyến khích, mơi
trường xã hội thiếu tính an tồn... sẽ tác động gián tiếp hoặc trực tiếp đến tỷ suất

20


lợi nhuận của các đối tác, theo đó, sẽ tác động xấu tới quan hệ hợp tác kinh tế,
trước hết là đối với việc thu hút đầu tư nước ngoài.

 Có chính sách thích hợp đối với từng hình thức kinh tế đối ngoại
Đây là giải pháp quan trọng nhằm phát triển đa dạng, hiệu quả kinh tế đối
ngoại. Một mặt phải mở rộng các hình thức kinh tế đối ngoại, mặt khác phải sử
dụng linh hoạt phù hợp với điều kiện cụ thể. Đặc biệt là phải sử dụng chính sách
thích hợp đối với mỗi hình thức kinh tế đối ngoại. Chẳng hạn đối với hình thức
ngoại thương cần phải có chính sách khuyến khích mạnh mẽ sản xuất kinh doanh
hàng xuất khẩu, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng cơng nghệ cao, phát
triển mạnh mẽ những sản phẩm hàng hóa dịch vụ có khả năng cạnh tranh, có cơ
chế bảo hiểm hàng xuất khẩu, đặc biệt là nông sản, đầu tư cho sản xuất trong

nước, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu tiến tới cân bằng xuất nhập khẩu, v.v..

 Xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có vai trị quan trọng trong phát triển kinh
tế nói chung, kinh tế đối ngoại nói riêng. Trong điều kiện nền kinh tế tri thức
đang hình thành và từng bước phát triển, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội càng
đóng vai trò quan trọng và yêu cầu chất lượng ngày càng cao. Trong đó đặc biệt
là kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật mà trước hết là hệ thống thông tin liên lạc,
giao thông vận tải. Do vậy, phải có chiến lược đầu tư đúng, nhất là đầu tư tập
trung có trọng điểm, dứt điểm và có hiệu quả cao, đặc biệt phải kiên quyết chống
các hiện tượng tiêu cực gây thất thoát vốn đầu tư.

 Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với kinh tế đối ngoại
Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn những năm vừa qua đã khẳng định rằng
nếu thiếu sự quản lý của Nhà nước, kinh tế đối ngoại sẽ không thể mở rộng và
mang lại hiệu quả cao, thậm chí cịn dẫn đến những hậu quả khó lường trước
khơng chỉ về kinh tế mà còn nguy hại hơn là hậu quả về chính trị. Vì vậy việc
tăng cường quản lý nhà nước trở thành vấn đề cấp bách. Chỉ có tăng cường vai
trị quản lý của Nhà nước mới có thể bảo đảm mục tiêu, phương hướng và giữ
vững được những nguyên tắc cơ bản trong kinh tế đối ngoại và có như vậy hoạt
động kinh tế đối ngoại mới mang lại hiệu quả cao. Thơng qua sự tăng cường vai
trị quản lý của Nhà nước sẽ khắc phục được tình trạng cạnh tranh thiếu lành
mạnh, phát huy hiệu quả của sự hợp tác trong nước để có sức mạnh cạnh tranh
quốc tế, tránh được sự thua thiệt về lợi ích...
21


Để thực hiện tốt chiến lược kinh tế mở, xúc tiến các quan hệ kinh tế đối
ngoại, Nhà nước phải sử dụng nhiều cơng cụ, trong đó chủ yếu là: thuế xuất nhập
khẩu hạn ngạch (quota), tỷ giá hối đoái, bảo đảm tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất

khẩu,… Thơng qua những cơng cụ này, Nhà nước có thể khuyến khích việc xuất,
nhập khẩu; đồng thời lại bảo hộ một cách hợp lý nền sản xuất nội địa, nâng cao
sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, thu hút vốn đầu tư của nước ngoài ngày
càng nhiều, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.

 Xây dựng đối tác và tìm kiếm đối tác trong quan hệ kinh tế đối ngoại
Do hình thức kinh tế đối ngoại rất đa dạng nên đối tác cũng hết sức đa
dạng. Cũng vì thế vừa xây dựng đối tác và tìm kiếm đối tác quan hệ trở thành vấn
đề phức tạp cần được xử lý linh hoạt.
Đối với việc xây dựng đối tác trong nước, điều quan trọng là phải từng
bước xây dựng các đối tác mạnh (về vốn, công nghệ, năng lực quản lý, phong
cách giao tiếp quốc tế...) có tầm cỡ quốc tế, đóng vai trị đầu tàu trong quan hệ
kinh tế quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp vẫn là những chủ thể
chủ yếu trực tiếp hoạt động kinh tế đối ngoại nên cần phải xúc tiến xây dựng một
số doanh nghiệp nhà nước thành tập đoàn xuyên quốc gia. Các tập đoàn này sẽ là
lực lượng đầu tàu trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và thơng qua đó
lơi cuốn các doanh nghiệp khác.
Trong quan hệ kinh tế đối ngoại, việc lựa chọn đối tác thích hợp ln là
vấn đề quan trọng đối với Việt Nam. Song trong tương lai và lâu dài cần quan
tâm hơn đối với các công ty xuyên quốc gia vì đó là nguồn lực quốc tế lớn về
vốn, cơng nghệ, kinh nghiệm quản lý mà chúng ta rất cần khai thác.
Mỗi giải pháp trong hệ thống 5 giải pháp nói trên tuy đều có vị trí khác
nhau, song sự phân định cũng chỉ có ý nghĩa tương đối. Để mở rộng và nâng cao
hiệu quả kinh tế đối ngoại cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp tạo nên sức
mạnh tổng hợp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại của nền kinh tế
nước ta.
Các giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại phải đặt
trong tổng thể các giải pháp đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. Đó là các giải
pháp chủ yếu sau: Nâng cao nhận thức chung về hội nhập kinh tế quốc tế; xây

dựng chiến lược phát triển, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; nâng cao
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước; đổi mới cơ chế chính sách
22


quản lý, hoàn thiện hệ thống pháp luật; đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân
lực; đẩy mạnh cải cách hành chính; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước đối với các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế.
3.1.5. Giữ vững sự ổn định chính trị, hồn thiện hệ thống pháp luật:

 Giữ vững sự ổn định chính trị
Sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng để phát triển. Nó
là điều kiện để các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngồi n tâm
đầu tư. Giữ vững ổn định chính trị ở nước ta hiện nay là giữ vững vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nâng cao vai trò hiệu lực quản lý của Nhà
nước, phát huy đầy đủ vai trị làm chủ của nhân dân.

 Hồn thiện hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ rất quan trọng để quản lý nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần. Nó tạo nên hành lang pháp lý cho tất cả mọi hoạt
động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Với hệ thống pháp luật đồng bộ và pháp chế nghiêm ngặt, các doanh nghiệp chỉ
có thể làm giàu trên cơ sở tuân thủ luật pháp.
Theo định hướng của Đảng và Nhà nước đến 2020, tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung vào
một số lĩnh vực pháp luật kinh tế trọng điểm, đáp ứng kịp thời u cầu cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Cụ thể:
- Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về sở hữu, quyền tự do kinh doanh.
Xác định rõ trách nhiệm pháp lý của chủ sở hữu, cơ chế bảo đảm quyền sở hữu
và hạn chế quyền sở hữu... Hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền tự do kinh doanh

theo nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì pháp luật khơng cấm. Tạo cơ
sở pháp luật để cơng dân tích cực huy động mọi tiềm năng, nguồn lực và phát
triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân, gia đình
và góp phần làm giàu cho đất nước. Tạo lập mơi trường pháp lý cho cạnh tranh
lành mạnh, bình đẳng, phù hợp với nguyên tắc của WTO và các cam kết quốc tế
khác. Xây dựng một khung pháp luật chung cho các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế, xoá bỏ đặc quyền và độc quyền kinh doanh, cải thiện môi
trường đầu tư; từng bước thống nhất pháp luật áp dụng đối với đầu tư trong nước
và đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng theo hướng tôn trọng
thoả thuận của các bên giao kết hợp đồng, không trái với đạo đức xã hội, không
23


xâm phạm trật tự công cộng, phù hợp với tập quán, thông lệ thương mại quốc tế.
Đổi mới cơ bản pháp luật về phá sản.
- Xây dựng pháp luật cho việc tạo lập đồng bộ các thị trường. Tạo cơ sở
pháp lý cho việc hình thành và phát triển thị trường bất động sản, bao gồm cả
quyền sử dụng đất, từng bước mở rộng thị trường bất động sản cho người Việt
Nam ở nước ngoài và người nước ngoài đầu tư ở Việt Nam.
- Hồn thiện mơi trường pháp lý cho sự hình thành, phát triển lành mạnh
thị trường lao động theo hướng đa dạng hố các hình thức tìm việc làm, giới
thiệu việc làm và tuyển chọn lao động, khuyến khích mở rộng thị trường lao
động có hàm lượng chất xám cao. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người
lao động và người sử dụng lao động.
- Hồn thiện pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, hình thành và phát
triển thị trường khoa học - công nghệ theo hướng mở rộng phạm vi các đối tượng
được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với yêu cầu của WTO và các điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
- Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng các thiết chế và chuẩn
mực quốc tế về an toàn trong kinh doanh tiền tệ - tín dụng, tạo mơi trường lành

mạnh, bình đẳng cho hoạt động ngân hàng, khuyến khích cạnh tranh trong hoạt
động tín dụng trên ngun tắc an tồn hệ thống.
- Hồn thiện pháp luật về thị trường chứng khốn.
- Hồn thiện pháp luật về tài chính cơng, xác định rõ nguồn thu và cơ cấu
chi của ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương, thống nhất chế độ chi
tiêu; xác định cơ chế đầu tư và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ ngân sách
Nhà nước. Công khai, minh bạch việc hình thành, quản lý và sử dụng các nguồn
vốn, tài chính huy động từ dân cư, cộng đồng. Tiếp tục cải cách pháp luật về thuế
theo hướng ổn định, đơn giản hơn, mức thuế phù hợp, có tính đến các định chế
kinh tế quốc tế và khu vực cũng như các điều ước quốc tế khác có liên quan.
- Hình thành đồng bộ pháp luật về các chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật
(xây dựng, điện lực, bưu chính - viễn thơng, an ninh lương thực, thú y, thuỷ
sản...) thể hiện các nguyên tắc, điều kiện, tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật liên quan
đến phát triển và quản lý ngành.

24


- Hồn thiện pháp luật về tài ngun và mơi trường theo nguyên tắc quản
lý chặt chẽ, phát triển bền vững, bảo đảm kết hợp hài hoà giữa việc sử dụng và
bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
3.1.6. Xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Sau hơn 25 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Việt Nam
đã chuyển đổi thành cơng từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu,
bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây chính
là một trong những thành tựu nổi bật của công cuộc đổi mới của Việt Nam.
Thể chế kinh tế mà Việt Nam đang thực hiện và tiếp tục hoàn thiện là thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là hệ thống luật pháp, cơ
chế, chính sách, các quy định, quy tắc chế định, điều tiết hành vi của mọi chủ thể,

mọi q trình sản xuất, lưu thơng diễn ra trong nền kinh tế nhằm tạo điều kiện
cho sự hình thành, vận hành thơng suốt và phát triển của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Thể chế này bao gồm các đặc trưng sau:
- Thừa nhận sự tồn tại, phát triển đa dạng và lâu dài của các hình thức sở
hữu, các thành phần kinh tế, đồng thời khẳng định vai trò chủ sở hữu của Nhà
nước đối với đất đai, tài nguyên, tài sản công, các nguồn lực nhà nước đầu tư
trong nền kinh tế, bảo đảm kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước
và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân.
- Đảm bảo sự phân bổ các nguồn lực cho phát triển kinh tế chủ yếu theo
nguyên tắc thị trường và theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế
– xã hội của Nhà nước.
- Thực hiện quan hệ phân phối vừa khuyến khích, tạo động lực cho phát
triển kinh tế, vừa đảm bảo công bằng xã hội trên từng bước và từng chính sách
phát triển.
- Bảo đảm kết hợp hài hòa cạnh tranh thị trường tự do và lành mạnh với
vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước thông qua chức năng tổ chức và quản lý vĩ
mô, sử dụng tốt các công cụ vĩ mơ, các cơng cụ hành chính, pháp lý và kinh tế.
bảo đảm mục tiêu tối thượng của sự phát triển kinh tế là “dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

25


×