Các nhà đầu tư thiếu kinh nghiệm và bong bóng thị trường
Các nhà quản lý tài chính thiếu kinh nghiệm có thể là nguyên nhân
góp phần gây nên tình trạng bong bóng của các cổ phiếu công nghệ.
Đó là kết luận trong một nghiên cứu gần đây nhất của trường Quản
trị Harvard.
Ông Sean Silverthorne, biên tập viên của mục Working Knowledge,
Harvard Business Online đã phỏng vấn Giáo sư Robin Greenwood về bài
nghiên cứu ”Các nhà đầu tư thiếu kinh nghiệm và bong bóng thị trường” của Greenwood về
những kết quả nói trên.
"Những thành công trong quá khứ không phải là một đảm bảo chắc chắn cho những kết
quả trong tương lai” - một thành ngữ tài chính.
Người ta thường tin rằng các nhà đầu tư mới vào nghề là nguyên nhân chính gây ra tình trạng
bong bóng giá cả tài sản trên thị trường. Vụ sụp đổ của cổ phiếu ngành công nghệ một vài năm
trước là một ví dụ. Xa hơn nữa,vào thế kỷ 17 xảy ra tình trạng bong bóng hoa tulip[1], mà theo
như quan sát của nhà báo Charles Mackay năm 1852 thì: “Ngay cả thợ nạo ống khói hay
những phụ nữ nghèo cũng nhảy vào vào kinh doanh hoa tulip.”
Những ngày đó, không riêng gì thợ nạo ống khói bị lôi kéo vào những vụ đầu tư mạo hiểm.
Những nghiên cứu mới đây cho thấy thậm chí những nhà đầu tư chuyên nghiệp - nếu còn trẻ
và thiếu kinh nghiệm - cũng có thể ngu ngốc rơi vào một vụ bong bóng thị trường.
Trong một nghiên cứu gần đây có tựa đề: “Các nhà đầu tư thiếu kinh nghiệm và tình trạng bong
bóng thị trường” của Robin Greenwood, trường đại học Harvard và của Stefan Negal trường
Stanford, hai tác giả đã so sánh khoản thu của các nhà quản lý quỹ tương hỗ trẻ và những nhà
quản lý tài chính lão luyện hơn trong và sau thời điểm một vụ bong bóng cổ phiếu ngành công
nghệ vào những năm cuối thập kỷ 90.
Các kết quả thu được cho thấy những nhà quản lý tài chính ít kinh nghiệm (tính theo tiêu chuẩn
dưới 35 tuổi) thường có các hành vi chạy theo xu hướng; họ đã đầu tư quá mức vào các cổ
phiếu ngành công nghệ. “Kết quả này hoàn toàn phù hợp với mô hình kỳ vọng thích
nghi[2] mà chúng tôi đang nghiên cứu” - các đồng tác giả cho biết. “Theo kết quả này,
động thái chạy theo xu hướng của các nhà quản lý trẻ tuổi là biểu hiện của những nỗ lực
trong quá trình học hỏi và áp dụng phương pháp ngoại suy từ các số liệu ít ỏi mà họ đã
thu thập được trong quá trình làm việc”.
Có phải các nhà quản lý tài chính trẻ tuổi là nguyên nhân chính thổi phồng những bong bóng thị
trường? Theo các nhà nghiên cứu thì điều này hiện vẫn chưa có bằng chứng rõ ràng, nhưng
mọi người thường cho rằng trong giai đoạn cao trào của thị trường (giai đoạn bong bóng), phần
lớn khoản vốn của các tổ chức là do những nhà quản lý trẻ tuổi quản lý, một phần nhờ sự lên
giá của các cổ phiếu ngành công nghệ.
Chúng tôi đã thảo luận với Greenwood về nghiên cứu của ông và ý nghĩa của nó đối với các
nhà đầu tư.
Sean Silverthorne (S): Chúng ta hãy bắt đầu từ phần kết luận nhé.
Có phải điều mà nghiên cứu của ông muốn chỉ ra chính là vai trò của các nhà quản lý quỹ
tương hỗ trẻ tuổi trong việc tạo ra tình trạng bong bóng cổ phiếu ngành công nghệ?
Robin Greenwood (R): Mối quan tâm của chúng tôi là tìm hiểu vai trò của kinh nghiệm đầu tư
đối với việc gây ra bong bóng thị trường. Một đặc tính đã được chứng minh khá rõ ràng của
tình trạng bong bóng cổ phiếu ngành công nghệ là sự tham gia của những nhà đầu tư trẻ tuổi.
Nếu bạn đã đọc qua những tài liệu liên quan đến vụ bong bóng hoa tulip cũng như những ví dụ
nổi tiếng khác thì bạn sẽ nhận thấy điều này rất phổ biến.
Theo chúng tôi, nguyên nhân là do các cổ phiếu ngành công nghệ đã được định giá quá cao
ngay từ đầu. Hơi khó để có thể chứng minh điều này. Tuy nhiên chúng tôi có thể chỉ ra rằng các
nhà quản lý quỹ tương hỗ thiếu kinh nghiệm dường như đã đi chệch khỏi những mốc tiêu
chuẩn họ đặt ra và mua một lượng lớn cổ phiếu ngành công nghệ trong giai đoạn 1998-2000.
S: Nghiên cứu của ông chỉ đưa ra rất ít khác biệt giữa những người quản lý quỹ tương hỗ trẻ và
những chuyên gia nhiều tuổi hơn tại thời điểm bắt đầu tình trạng bong bóng. Nhưng sau đó,
những nhà đầu tư trẻ tuổi đã đầu tư quá nhiều vào cổ phiếu ngành công nghệ. Vậy, tại sao
những nhà quản lý thiếu kinh nghiệm lại bị thu hút đến vậy?
R: Giả thuyết của chúng tôi là các quản lý trẻ (nhìn chung là các nhà đầu tư thiếu kinh nghiệm)
thường suy luận võ đoán các thay đổi về giá trong quá khứ khi định hình các dự đoán về thu
nhập trong tương lai của họ.
Trong lịch sử, có rất nhiều ví dụ về tình trạng bong bóng mà trong đó các nhà đầu tư thiếu kinh
nghiệm đã bị lôi kéo vào. Khá ngạc nhiên là những nhà quản lý trẻ không giỏi đánh giá các cổ
phiếu ngành công nghệ. Mặc dù trong những giai đoạn các cổ phiếu này lên giá cao, họ đã
từng thu được các khoản thu đáng kể, nhưng chúng tôi cho rằng nếu một sự cố liên quan đến
cổ phiếu ngành công nghệ xảy ra thì các quản lý trẻ tuổi sẽ không thể kiểm soát được chúng.
Do vậy việc họ gặp khó khăn sau năm 2000 là không có gì đáng ngạc nhiên cả.
S: Tại sao các nhà quản lý nhiều kinh nghiệm hơn lại không muốn chạy theo cơn sốt bong
bóng của thị trường?
R: Điều này có hai lý do. Thứ nhất, họ có nhiều kinh nghiệm thị trường hơn và họ biết rằng các
khoản thu trong quá khứ không phải là một đảm bảo về lợi nhuận trong tương lai. Thứ hai, họ
đã từng trải qua một vài năm với thu nhập quá thấp, điều này khiến họ cẩn trọng hơn.
Khá thú vị là so với các đồng nghiệp trẻ hơn, các nhà quản lý tài chính với tuổi đời hơn bốn
mươi (những người này đã từng trải qua cuộc khủng hoảng năm 1987) lại đặc biệt thờ ơ trong
việc đánh cược với cổ phiếu ngành công nghệ.
S: Có một thực tế khá thú vị trong nghiên cứu của ông. Đó là ngay cả khi tình trạng bong bóng
kết thúc, nhiều nhà đầu tư vẫn tiếp tục rót tiền vào các quỹ được điều hành bởi những người
quản lý thiếu kinh nghiệm bất chấp những kết quả đầu tư tồi tệ của họ.
R: Đúng như vậy, nhưng các dòng tiền này đang giảm đáng kể. Điều này liên quan tới một thực
tế được nhiều người biết tới là dòng tài chính vào các quỹ tương hỗ thường “khó thanh khoản”
– các quỹ hoạt động tốt thu hút được các dòng vốn lớn còn những quỹ hoạt động kém hiệu quả
hơn chỉ nhận được các dòng tiền ít ỏi. Do vậy khó có thể khẳng định chắc chắn rằng các nhà
quản lý thiếu kinh nghiệm đã phải trả giá cho những quyết định mà họ đưa ra trong thời kỳ bong
bóng.
S: Nghiên cứu của ông tập trung vào các nhà quản lý thiếu kinh nghiệm (căn cứ theo tuổi đời).
Ông cho rằng tuổi đời ít ỏi có thể là biểu hiện của sự thiếu kinh nghiệm.
Thực tế, các nhà đầu tư này cũng phải có những thành tích trong quá khứ thì họ mới được trao
quyền quản lý các quỹ. Vậy, vấn đề ở đây là thời gian và kinh nghiệm tôi luyện nên kỹ năng đầu
tư; hay phải chăng có một số phẩm chất nào đó để trở thành một nhà quản lý quỹ (trái với việc
trở thành một nhà đầu tư cá nhân hoặc một nhà đầu tư không chuyên nghiệp) và đó mới chính
là yếu tố giúp mở rộng những kinh nghiệm mà họ có thể học hỏi?
R: Chúng tôi rất ngạc nhiên về những kết quả nghiên cứu mà chúng tôi đã phát hiện ra về mối
quan hệ tương quan giữa các nhà quản lý quỹ tương hỗ thiếu kinh nghiệm và nguyên nhân của
tình trạng bong bóng này. Họ không phải là những người bị nghĩ đến đầu tiên trong những
thành kiến kiểu này. Trên tất cả, họ được đào tạo tốt hơn so với những nhà đầu tư thông
thường. Nhưng chúng tôi cho rằng những định kiến kiểu này thậm chí sẽ ngày càng nghiêm
trọng hơn trong công chúng.
S: Chúng ta có thể học hỏi được gì từ việc các nhà quản lý quỹ thiếu kinh nghiệm bị ảnh hưởng
bởi bong bóng tài chính trong thời gian trước thập kỷ 90? Không lẽ chúng ta không học được gì
từ những lỗi lầm trong quá khứ?
R: Thật không may, nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng các nhà đầu tư không dành thời gian
để nhìn lại quá khứ. Học hỏi chỉ xảy ra thông qua quá trình thực hiện thực tế, mà trong trường
hợp này là thông qua việc đầu tư và được hưởng các khoản thu nhập có được từ các quyết
định đầu tư.
Tôi nhớ rằng, trước kia, đã có một vài nhà bình luận đã chỉ trích nhà đầu tư huyền thoại (và già
nua) Warren Buffet vì những do dự của ông trong việc đầu tư vào các cổ phiếu ngành công
nghệ. Nhưng cuối cùng thì ông đã đúng.
S: Nghiên cứu của ông đã mở rộng những kiến thức đã biết trước đây về sự hình thành hiện
tượng bong bóng, tâm lý “bầy đàn” và những vấn đề khác trong lĩnh vực này như thế nào?
R: Mặc dù có nhiều báo cáo mang tính giai thoại về việc các nhà đầu tư thiếu kinh nghiệm bị lôi
kéo tham gia vào thị trường trong giai đoạn “bong bóng”, nhưng tài liệu của chúng tôi là những
bằng chứng có hệ thống đầu tiên.
Sở dĩ tôi nói như vậy là vì đã có một vài thử nghiệm thú vị trong thập kỷ tám mươi, trong đó
những người tham gia vào một thị trường tài chính “ảo” được đề nghị đưa ra các quyết định
đầu tư. Kết luận đáng ngạc nhiên của những thử nghiệm này là các nhà đầu tư chưa bao giờ
trải qua tình trạng thâm hụt thu nhập vẫn thường suy đoán rằng giá cả vẫn sẽ tiếp tục tăng.
Chúng tôi cho rằng những nghiên cứu thực nghiệm như vậy rất thú vị, nhưng điều mà chúng tôi
muốn biết là những kết quả này liệu có thể áp dụng như thế nào cho thị trường tài chính trong
thế giới thực? Theo tôi, phần đóng góp chính trong nghiên cứu của chúng tôi là đã chỉ ra rằng
đặc điểm của các nhà đầu tư có thể thay đổi theo thời gian. Chúng tôi thường coi các quỹ
tương hỗ như những nhà đầu tư phức tạp, và họ thậm chí còn tạo ra ảnh hưởng ổn định giá
trong những thời điểm mà các nhà đầu tư cá nhân đang phát cuồng lên.
Nhưng thật không may là trong suốt thời gian xảy ra tình trạng bong bóng, các quỹ tương hỗ
nhận được những dòng vốn đầu tư lớn nhất lại do những nhà đầu tư thiếu kinh nghiệm nhất
quản lý. Do vậy, vào thời kỳ cao trào của tình trạng bong bóng, các nhà đầu tư thiếu kinh
nghiệm lại quản lý các tài sản lớn và họ có quyền và khả năng làm xoay chuyển giá trên thị
trường.
S: Các ông định sẽ làm gì tiếp theo?
R: Công việc hiện tại của chúng tôi là tập trung vào các quỹ tương hỗ, nhưng chúng tôi đang
quan tâm tìm hiểu sâu hơn về ảnh hưởng của tình trạng thiếu kinh nghiệm. Hiện tại chúng tôi
đang thực hiện một dự án nghiên cứu những quyết định giao dịch của các nhà đầu tư cá nhân
trong tài khoản môi giới chứng khoán của họ.
- Trích dịch từ mục Working Knowledge của trường Quản trị Harvard –
Đôi dòng giới thiệu về các tác giả nghiên cứu “Các nhà đầu tư thiếu kinh nghiệm và tình trạng
bong bóng thị trường”:
1. Robin Greenwood, Giáo sư môn tài chính của Trường Đại học Harvard từ tháng 7 năm 2003.
Là tác giả của nhiều đề tài nghiên cứu về tài chính, kinh tế đã in thành sách được các chuyên
gia đánh giá cao. Tác phẩm gần đây nhất: “Rào cản tài chính đối với các chính trị gia”, xuất bản
tháng 8-2007.
2. Stefan Nagel, giáo sư của lớp tài chính MBA trong chương trình 1969 Faculty Scholar khóa
2006-2007. Tốt nghiệp trường Business Stanford University, Mỹ. Là đồng tác giả của nhiều
cuốn sách phân tích, giảng dạy về kinh tế nổi tiếng. Đồng tác giả cuốn “Tác động của lợi nhuận
đối với thị trường” sắp xuất bản (Viết cùng Malcolm Baker và Jeffery Wrugler).
[1] Hội chứng Tulip là một nỗi đam mê đã tràn ngập nước Hà Lan trong những năm 30 của thế
kỷ 17. Người ta tranh nhau mua hoa như điên, đầu tư vào Tulip như một loại chứng khoán. Đến
đỉnh điểm, hoa Tulip cao giá đến nỗi chỉ một củ hoa thôi giá cũng đã bốn ngàn đôla. Và khi cơn
đam mê qua đi, những kẻ tích trữ ở thị trường hoa đều phá sản. Về sau, “hội chứng Tulip” đã
trở thành một thuật ngữ kinh tế để mô tả những cơn sốt bong bóng giá cả tài sản trên thị
trường.
[2] Một phương pháp nhìn lại việc hình thành các kỳ vọng thông qua điều chỉnh dựa vào những
sai lầm trong quá khứ.
Admin (Theo
Vietnamnet
)