Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Anh/Chị lĩnh hội được những gì sau chuyến tham quan bảo tàng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.59 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN LANG
KHOA QUAN HỆ CÔNG CHÚNG
TRUYỀN THÔNG

BÀI THU HOẠCH
MƠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: NGUYỄN THỊ THU HƯỜNG

ĐỀ TÀI:
Anh/Chị lĩnh hội được những gì sau
chuyến tham quan bảo tàng Hồ Chí Minh

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 04 năm 2021


BẢNG PHÂN CƠNG VÀ ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN NHĨM NGŨ LINH
Đánh giá
STT

Họ và tên

Lớp

Phân công

từ 1 đến
4

Phân chia bài làm, nhắc nhở
tiến độ, kiểm tra, duyệt tổng


1

hợp bài và làm word.
Khái quát về thân thế và cảm

2

nhận sau chuyến tham quan
Sự nghiệp cách mạng của chủ

3

tịch Hồ Chí Minh

4

Đưa ra mở đầu và kết thúc
Học tập gì từ tấm gương đạo

5

đức Hồ Chí Minh
Ghi chú: Vì tụi em khơng xem kĩ thời gian nên có chút sơ sót cần chỉnh sửa, tụi em
đã xin phép cô để nộp bài lại cho chỉnh chu và hoàn thiện hơn ạ. Tụi em chân thành
cảm ơn cô nhiều ạ


MỤC LỤC
VỀ THÂN THẾ........................................................................................................1
VỀ SỰ NGHIỆP......................................................................................................2

QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG...........................................................5
HỌC TẬP GÌ TỪ...................................................................................................10
TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH..........................................................10
CẢM NGHĨ VỀ CHUYẾN THAM QUAN BẢO TÀNG.......................................17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................18


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đối với Cô Nguyễn Thị Thu
Hường, giảng viên mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh của trường Đại học Văn Lang đã
tạo điều kiện cho chúng em có cơ hội được trải nghiệm chuyến tham quan và học
tập ở Bến Nhà Rồng để có nhiều thơng tin cần thiết hồn thiện đề tài này. Đồng
thời, trong q trình học bộ mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh của Cơ, Cơ đã giúp chúng
em tích lũy thêm cho mình những kiến thức bổ ích để có cái nhìn sâu sắc và hồn
thiện hơn trong cuộc sống.
Bộ mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh là bộ mơn vơ cùng thú vị và bổ ích. Tuy nhiên, kiến
thức là vơ hạn, mặc dù nhóm em đã cố gắng hết sức nhưng chắc chắn bài thu hoạch
sẽ khó tránh khỏi những thiếu sót và chưa chính xác hồn tồn. Kính mong Cơ xem
xét và góp ý bài tiểu luận để nhóm em có thể hồn thiện hơn.

TP. Hồ Chí Minh, ngày 13 tháng 04 năm 2021


Bài thu hoạch mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh

VỀ THÂN THẾ
Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, lớn lên đi học lấy tên là
Nguyễn Tất Thành, hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc) sinh ngày
19/5/1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước, tại làng Hoàng Trù, xã Chung Cự,
tổng Lâm Thịnh, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thân phụ

là Nguyễn Sinh Sắc, thân mẫu là Hoàng Thị Loan.

Từ lúc sinh ra đến 5 tuổi, Nguyễn Sinh Cung sống trong sự chăm sóc đầy tình
thương u của gia đình. Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung theo gia đình vào sống ở
Huế. Đầu năm 1901, sau khi thân mẫu qua đời, Người theo cha trở về Nghệ An, rồi
lấy tên là Nguyễn Tất Thành, tích cực học chữ Hán và còn theo cha đi một số nơi,
học thêm nhiều điều. Năm 1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế, thời gian
đầu học trường Pháp - Việt, sau học trường Quốc học Huế. Tháng 6/1909, Nguyễn
Tất Thành theo cha vào Bình Định, tháng 8/1910 vào Phan Thiết, Bình Thuận làm
giáo viên trường Dục Thanh. Tháng 02/1911, Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn.

Trang 1


VỀ SỰ NGHIỆP
Ngày 5/6/1911, Người đã lên tàu Amiran Latusơ Tơrêvin, rời bến cảng Nhà Rồng đi
Mác Xây (Pháp) bắt đầu hành trình tìm đường cứu nước.

Người ra nước ngồi, làm nhiều nghề, tham gia cuộc vận động cách mạng của nhân
dân nhiều nước, đồng thời không ngừng đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc
mình. Năm 1920, Người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp tại Đại hội Tua.
Năm 1921, người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp; xuất
bản tờ báo Người cùng khổ ở Pháp (1922). Năm 1923, Người được bầu vào Ban
Chấp hành Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Bác tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc
tế Cộng sản và được chỉ định là Ủy viên Thường trực Bộ Phương Đông, trực tiếp
phụ trách Cục Phương Nam. Năm 1925, Bác tham gia thành lập Hội Liên hiệp các
dân tộc bị áp bức châu Á, Xuất bản hai cuốn sách nổi tiếng: Bản án chế độ thực dân
Pháp (1925) và Đường cách mệnh (1927).
Năm 1925, Bác thành lập Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí Hội ở Quảng
Châu (Trung Quốc) và tổ chức “Cộng sản đoàn” làm nịng cốt cho Hội đó, đào tạo

cán bộ Cộng sản để lãnh đạo Hội và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam.


Ngày 3/2/1930, Người chủ tọa Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long (gần
Hương Cảng). Bác ra lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (sau
đổi là Đảng Cộng sản Đông Dương, rồi Đảng Lao động Việt Nam và nay là Đảng
Cộng sản Việt Nam).
Từ năm 1930 đến 1940, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục hoạt động cho sự nghiệp
giải phóng của dân tộc Việt Nam của các dân tộc bị áp bức khác trong những điều
kiện vơ cùng gian khổ và khó khăn.
Năm 1941, Người về nước, triệu tập Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Đông Dương, quyết định đường lối cứu nước, thành lập Việt
Nam độc lập đồng minh Hội (Việt Minh), tổ chức lực lượng vũ trang giải phóng,
chính sách căn cứ địa, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa từng phần và chuẩn bị tổng
khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Sau Cách mạng Tháng Tám (1945) thắng lợi, ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba
Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tun ngơn Độc lập tuyên bố thành lập nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; tổ chức Tổng tuyển cử tự do trong cả nước, bầu Quốc
hội và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I đã bầu
Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946).


Cùng với Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân Việt Nam phá tan âm mưu của đế quốc, giữ vững và củng cố chính quyền
cách mạng.
Ngày 19/12/1946, người kêu gọi cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, bảo vệ và phát triển những thành quả của
Cách mạng Tháng Tám.
Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp

hành Trung ương Đảng.
Sau khi miền Bắc được hồn tồn giải phóng (1955) Trung ương Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đề ra hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là tiến hành
cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời
đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Đại hội lần thứ III của Đảng (1960) đã nhất trí bầu lại Chủ tịch Hồ Chí Minh làm
Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc hội khóa II,
khóa III đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 02/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời là tổn thất vơ cùng lớn lao. Đồng
bào và chiến sĩ cả nước ta thương nhớ Người khôn xiết. Sự ra đi của Người để lại
muôn vàn tình thương u cho tồn Đảng, tồn dân tộc Việt Nam và tình đồn kết
thân ái với nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của
Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta và vì hịa bình, tiến bộ xã hội trên thế giới. Người
đã trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và
phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại
của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi là tấm gương sáng ngời cho lớp lớp thế hệ người
Việt Nam học tập và noi theo.
Tên tuổi và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ cịn mãi với non sơng đất nước,
sống mãi trong lịng mỗi chúng ta.


Bài thu hoạch mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Q TRÌNH HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG
1. Giai đoạn 1911 - 1920
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước, ở một làng quê giàu truyền
thống lịch sử, văn hóa và cách mạng; chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, Người đã
sớm hun đúc ý chí và khát vọng cháy bỏng giành độc lập tự do cho dân, cho nước.

Ngày 5/6/1911 với tên gọi mới là Văn Ba, Người đã lên tàu Amiran Latusơ Tơrêvin,
rời bến cảng Nhà Rồng đi Mác xây (Pháp).
 Từ năm 1912 -1917, Nguyễn Tất Thành đi qua một số nước châu Phi, châu Mỹ.
Giữa năm 1913, Người đến nước Anh, tham gia nhiều hoạt động, cuối năm 1917
Người mới trở lại nước Pháp.
 Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp, tháng 6/1919 thay
mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi bản yêu sách gồm 08 điểm
(ký tên Nguyễn Ái Quốc) tới Hội nghị các nước đế quốc họp ở Véc- xây (Pháp),
địi chính phủ các nước họp Hội nghị phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và
quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
 Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được Luận cương của Lênin về vấn đề
dân tộc và thuộc địa.
 Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội Đảng Xã hội Pháp. Tại đây
Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng sản
Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
2. Giai đoạn 1921 - 1930
 Từ năm 1921 đến tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc tham gia nhiều hoạt động: thành
lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, dự Đại hội lần thứ I và lần thứ II của Đảng
Cộng sản Pháp, sinh hoạt trong Câu lạc bộ Phôbua, làm Chủ nhiệm kiêm chủ bút Báo
Người cùng khổ...
 Ngày 13/6/1923, Người rời nước Pháp đi Đức và đến thành phố
Xanhpêtécbua (Liên Xô) ngày 30/6/1923.
 Từ tháng 7/1923 đến tháng 10/1924, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động trong
phong trào cộng sản quốc tế, bổ sung và phát triển lý luận về cách mạng
SVTH: Nhóm Ngũ Linh

Trang 5


Bài thu hoạch mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh

thuộc địa. Người hoạt động trong Quốc tế Nông dân; tham dự Đại hội II
Quốc tế

SVTH: Nhóm Ngũ Linh

Trang 6


Bài thu hoạch mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Cơng hội đỏ, Đại hội Quốc tế Cộng sản Thanh niên; tiếp tục viết nhiều sách
báo tuyên truyền cách mạng, hoàn thành tác phẩm Bản án chế độ thực dân
Pháp; học tập tại trường Đại học phương Đông; tham gia Đại hội lần thứ V
Quốc tế Cộng sản và được chỉ định là cán bộ Ban phương Đông Quốc tế
Cộng sản.
 Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc).
Tháng 6/1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, trực tiếp mở
các lớp huấn luyện cán bộ, ra Báo Thanh niên (1925), tờ báo cách mạng đầu tiên
của Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, chuẩn bị cho
việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc được
tập hợp và in thành tác phẩm Đường Cách mệnh, được xuất bản vào năm 1927.
 Hè năm 1927, Nguyễn Ái Quốc rời Trung Quốc đi Liên Xô, sau đó đi Đức
(tháng 11/1927) rồi bí mật sang Pháp, đến nước Bỉ dự cuộc họp của Đại hội
đồng liên đoàn chống đế quốc (tháng 12/1927), rồi quay lại Đức, đi Thụy Sỹ,
sang Italia. Tháng 7/1928, Nguyễn Ái Quốc tới Xiêm (Thái Lan), rồi trở lại
Trung Quốc vào cuối năm 1929.
 Từ ngày 06/1 đến ngày 07/2/1930 tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc),
Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam.
3. Giai đoạn 1930 - 1945
 Từ năm 1930 đến năm 1941, tuy hoạt động ở nước ngoài nhưng Nguyễn Ái

Quốc vẫn chỉ đạo sát sao phong trào cách mạng trong nước. Tháng 6/1931,
Người bị nhà cầm quyền Anh bắt giam ở Hồng Kông. Cuối năm 1932,
Người được trả tự do, sau đó đến Liên Xơ học tại trường Quốc tế Lênin.
 Tháng 10/1938, Người rời Liên Xô đến Diên An (Trung Quốc) làm việc tại
Bộ chỉ huy Bát lộ quân, sau đó bắt liên lạc với tổ chức Đảng, chuẩn bị về
nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam.
 Ngày 28/1/1941, sau hơn 30 năm xa Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc trở về
nước (tại cột mốc 108 thuộc xã Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng).

Trang 7


 Từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ VIII của
Trung ương Đảng Cộng sản Đơng Dương tại Khuổi Nặm (Pắc Bó, Cao Bằng). Hội
nghị đã xác định đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc, chỉ đạo thành lập Mặt
trận Việt Minh, sáng lập Báo Việt Nam Độc lập, tổ chức lực lượng vũ trang giải
phóng, xây dựng căn cứ địa cách mạng.
 Tháng 8/1942, lấy tên là Hồ Chí Minh, Người đại diện cho Mặt trận Việt Minh và
Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội Quốc tế chống xâm lược sang Trung Quốc bắt
liên lạc với Đồng minh, cùng phối hợp hành động chống phát xít trên chiến trường
Thái Bình Dương. Người bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt
giam trong các nhà lao của tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Trong thời gian bị giam
giữ, Người viết cuốn Nhật ký trong tù. Tháng 9/1943, Người được thả tự do.
 Tháng 9/1944, Hồ Chí Minh trở về căn cứ Cao Bằng. Tháng 12/1944, Hồ Chí
Minh chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của
Quân đội nhân dân Việt Nam.
 Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang). Tại đây
theo đề nghị của Người, Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân đã họp
quyết định Tổng khởi nghĩa. Đại hội Quốc dân đã bầu ra Uỷ ban giải phóng dân
tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

 Tháng 8/1945, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân khởi
nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
 Ngày 02/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người đọc Tun ngơn
độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam).
4. Giai đoạn 1945 - 1954
 Những năm 1945 - 1946, Người cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân xây
dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, đối phó với thù trong, giặc
ngoài, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”; tổ
chức Tổng tuyển cử trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua


Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I (1946) đã bầu
Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa.
 Ngày 02/03/1946, Chính phủ Liên hiệp kháng chiến được thành lập do
Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
 Ngày 03/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh được Quốc hội giao nhiệm vụ thành
lập Chính phủ mới do Người làm Chủ tịch nước kiêm Thủ tướng Chính phủ (từ
tháng 11/1946 - đến tháng 9/1955) và kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
 Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã giành thắng lợi vẻ vang trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mà đỉnh cao là Chiến thắng
Điện Biên Phủ năm 1954 lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, đưa miền Bắc
đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
5. Giai đoạn 1954 - 1969
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Quân Pháp rút về
nước, miền Bắc nước ta được hồn tồn giải phóng. Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, sau
2 năm sẽ tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất nước Việt Nam. Nhưng đế quốc Mỹ với
ý đồ xâm lược Việt Nam từ lâu, đã lợi dụng cơ hội, gạt Pháp ra, nhảy vào tổ chức,

chỉ huy ngụy quyền, ngụy quân tay sai, viện trợ kinh tế quân sự, biến miền Nam
thành thuộc địa kiểu mới, chia cắt lâu dài nước ta. Cả dân tộc ta lại bước vào cuộc
chiến đấu chống xâm lược mới. Trước bối cảnh đó, Trung ương Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh tiếp tục lãnh đạo nhân dân thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lược: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam, thực hiện giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
 Tháng 10 /1956, tại Hội nghị Trung ương Đảng mở rộng lần thứ X (khóa
II), Chủ tịch Hồ Chí Minh được cử giữ chức Chủ tịch Đảng.
 Tại Đại hội lần thứ III của Đảng (1960), Người được bầu lại làm Chủ tịch Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc hội khóa II, khóa III bầu
Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.


Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đường lối
đúng đắn, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và công cuộc cải tạo, xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc thắng lợi; đặt nền móng và khơng ngừng vun đắp
tình hữu nghị giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên thế giới, giữa Đảng Lao
động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) với các Đảng Cộng sản và phong
trào công nhân quốc tế.
Ngày 02/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời là tổn thất vơ cùng lớn lao. Đồng
bào và chiến sĩ cả nước ta thương nhớ Người khôn xiết. Sự ra đi của Người để lại
mn vàn tình thương u cho tồn Đảng, tồn dân tộc Việt Nam và tình đồn kết
thân ái với nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của
Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta và vì hịa bình, tiến bộ xã hội trên thế giới. Người
đã trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và
phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại
của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi là tấm gương sáng ngời cho lớp lớp thế hệ người
Việt Nam học tập và noi theo.

Tên tuổi và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ cịn mãi với non sơng đất nước,
sống mãi trong lịng mỗi chúng ta.


HỌC TẬP GÌ TỪ
TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
1. Làm việc trách nhiệm
Trong cơng việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln đặt lợi ích của đất nước, của nhân dân,
của Đảng lên trên hết, gương mẫu trong mọi việc. Phương châm xử lý, giải quyết
công việc của Người là “chí cơng vơ tư”, “dĩ cơng vi thượng”, khơng để cảm xúc,
tình cảm cá nhân xen vào cơng việc. Muốn thực hiện được được điều này, theo Người,
phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, vì chủ nghĩa cá nhân là nguyên nhân của
mọi thói hư tật xấu, làm cho con người khơng giữ được mình, khơng vì lợi ích
chung để giải quyết công việc, kém tinh thần trách nhiệm, chỉ nghĩ đến lợi ích của
cá nhân, của gia đình, phe nhóm mình. Chủ nghĩa cá nhân là kẻ địch hung ác của
đạo đức cách mạng. Muốn đánh thắng chủ nghĩa đế quốc, muốn xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội, trước hết phải chiến đấu và chiến thắng kẻ thù bên trong của
mỗi con người là chủ nghĩa cá nhân.
Tấm gương, tinh thần làm việc trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn thể hiện
ở việc thống nhất giữa lời nói và việc làm. Đó là nói gắn liền với làm, khơng nói
nhiều làm ít, nói mà khơng làm, làm khơng như nói. Đây là một đặc điểm nổi bật
trong phẩm chất con người Hồ Chí Minh. Quần chúng nhân dân, cán bộ, đảng viên
nhìn thấy ở Người phẩm chất, phong cách của một lãnh tụ hành động, một tấm
gương có sức cảm hóa, thuyết phục đối với tất cả mọi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã làm đúng như những gì Người nói: “Một tấm gương sống cịn có giá trị hơn một
trăm bài diễn văn tun truyền” và chính Người đã trở thành một tấm gương sống
mẫu mực, sáng ngời về đạo đức, nhân cách, tài năng, kết tinh những giá trị, phẩm
chất tốt đẹp nhất, tiêu biểu cho phẩm giá, lương tâm, trí tuệ của con người Việt
Nam.
2. Làm việc khoa học, đổi mới

Làm việc gì cũng ln đi sâu đi sát, nghiên cứu, điều tra, khảo sát kỹ lưỡng


Trước khi đưa ra bất kỳ một quyết định, giải pháp nào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều
dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn chắc chắn, có độ tin cậy cao. Người không quyết


định theo cảm tính, chủ quan, mà nghe nhiều bên, có phân tích, xem xét, đánh giá
một cách khách quan rồi mới đưa ra quyết định cuối cùng. Người nói: “So đi sánh
lại, phân tích rõ ràng là cách làm việc có khoa học”. Phong cách làm việc khoa học
địi hỏi “gặp mỗi vấn đề, ta phải đặt câu hỏi: Vì sao có vấn đề này? Xử trí như thế
này, kết quả sẽ ra sao? Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm
liều. Chớ gặp sao làm vậy”. Cách làm khoa học này là cơ sở cho việc lãnh đạo đúng,
trúng, sát hợp thực tế, tình hình.
Trước những vấn đề mới, khó, phức tạp, bên cạnh việc tham vấn bộ máy, đội ngũ
trợ lý, giúp việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn trực tiếp đi nghiên cứu, khảo sát, tiếp
xúc với cơ sở, địa phương để tìm hiểu thực tế, nắm bắt tình hình, thu thập thông tin
cụ thể. Người chỉ rõ, muốn lãnh đạo đúng, trước hết phải quyết định mọi vấn đề cho
đúng. Muốn quyết định cho đúng, trước tiên phải điều tra, nghiên cứu rõ ràng.
Người yêu cầu cán bộ, đảng viên khi xử lý và giải quyết công việc cần phải tơn
trọng hiện thực khách quan, khơng “tơ hồng”, bóp méo sự thật, phải có tầm nhìn xa
rộng, tránh rơi vào những việc sự vụ, thiển cận. Theo Người, khi ra quyết định công
tác, xác định cách tổ chức, cách làm việc thì phải ln căn cứ vào tình hình thực tế,
xem xét mọi mặt. Người phê phán gay gắt những cán bộ mắc bệnh quan liêu, hình
thức, ngồi bàn giấy chỉ nghe người ta báo cáo rồi ra quyết định, mà khơng nắm rõ
tình hình thực tế,…
Làm việc có chương trình, kế hoạch
Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc theo chương trình, kế hoạch cơng tác cụ thể, chi tiết
hằng năm, quý, tháng, tuần, từ dài hạn, trung hạn, đến ngắn hạn. Theo Người,
chương trình, kế hoạch làm việc cần khoa học, cụ thể, chi tiết, không nên tham lam,

thiết thực, vừa sức, “chớ làm kế hoạch đẹp mặt, to tát, kể hàng triệu nhưng không
thực hiện được”.
Người yêu cầu, cần đặt kế hoạch cho sát hợp. Kế hoạch đặt ra để mình và mọi
người thực hiện chứ khơng phải để chiêm ngưỡng, tránh tình trạng “đánh trống bỏ
dùi”. Người chỉ ra khuyết điểm của cán bộ, đảng viên, nhất là của người lãnh đạo là:
“Chương trình cơng tác thì quá rộng rãi mà kém thiết thực. Đặt ra kế hoạch và
chương trình khơng xét rõ năng lực của những người thi hành kế hoạch và chương


trình đó. Thành thử việc gì cũng muốn làm mà việc gì làm cũng khơng triệt để”.
Cùng với đó,


cán bộ, đảng viên thường mắc phải khuyết điểm là đầu tư nhiều cơng sức vào việc
vạch ra chương trình, kế hoạch, nhưng lại ít tìm cách để thực hiện cho được kế
hoạch, chương trình đã đề ra. Hơn nữa, chương trình, kế hoạch này thực hiện chưa
xong, chưa biết kết quả thực hiện ra sao đã nghĩ đến chương trình, kế hoạch khác;
hoặc xây dựng chương trình, kế hoạch làm việc, nhưng cách sắp đặt công việc
không khéo, ôm đồm làm nhiều việc cùng một lúc, hoặc làm không đúng, lại thiếu
những biện pháp thích hợp, thiếu quyết tâm, nên chương trình, kế hoạch đặt ra đều
khơng thực hiện được. Do vậy, Người nhắc nhở: “Kế hoạch một phần, biện pháp
phải hai phần, và quyết tâm phải ba phần, có như thế mới có thể hồn thành và hồn
thành vượt mức kế hoạch”.
Làm việc gắn với kiểm tra, tổng kết, rút kinh nghiệm
Thực hiện quan điểm của V.I.Lê-nin: Lãnh đạo khơng kiểm tra thì coi như khơng
lãnh đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú ý đến cơng tác thanh tra, kiểm tra việc thực
hiện chủ trương, đường lối, chỉ thị, nghị quyết, chính sách của Đảng và của Nhà
nước. Mục đích của kiểm tra là để xem các cấp thực hiện có đúng đường lối, chính
sách khơng, để nắm được chất lượng, tiến độ công việc, tuân thủ quy trình, các bước
tiến hành triển khai cơng việc,… Người chỉ ra một thực trạng: “Hiện nay, nhiều nơi

cán bộ lãnh đạo chỉ lo khai hội và thảo nghị quyết, đánh điện và gửi chỉ thị, sau đó,
thì họ khơng biết gì đến những nghị quyết đó đã thực hành đến đâu, có những sự
khó khăn trở ngại gì, dân chúng có ra sức tham gia hay khơng. Họ qn mất kiểm
tra. Đó là một sai lầm rất to. Vì thế mà “đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị”
mà cơng việc vẫn khơng chạy”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn rất quan tâm đến việc tổng kết, rút kinh nghiệm. Theo
Người, mỗi khi làm xong một việc gì, dù thành công hay thất bại, đều cần tổng kết
thực tiễn để rút kinh nghiệm những việc làm được, hoặc cịn chưa làm được, phát
hiện những khó khăn, vướng mắc làm cơ sở cho việc bổ sung, phát triển lý luận, đề
ra chủ trương, biện pháp một cách sát hợp với điều kiện, tình hình thực tiễn. Trong
thực tế quá trình lãnh đạo, Người thường xun kiểm tra, kiểm sốt từ trên xuống
dưới và từ dưới lên trên để có cái nhìn đúng đắn, khách quan về hoạt động của cán
bộ, đảng viên, cũng như của các cơ quan, tổ chức thực hiện nhiệm vụ.
Làm việc phải cụ thể, kịp thời, thiết thực, có trọng điểm và nắm điển hình


Người yêu cầu người cán bộ phải chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm, óc
nghĩ; phải lãnh đạo toàn diện và cụ thể, phải cẩn thận mà nhanh nhẹn, kịp thời, làm
đến nơi đến chốn. Hồ Chí Minh phê phán căn bệnh “hữu danh vô thực” ở khơng ít
cán bộ, đảng viên: “Làm việc khơng thiết thực, khơng từ chỗ gốc, chỗ chính, khơng
từ dưới làm lên. Làm cho có chuyện, làm lấy rồi. Làm được ít, suýt ra nhiều, để làm
một bản báo cáo cho oai, nhưng xét kỹ lại thì rỗng tuếch… Thế là khơng làm trịn
nhiệm vụ của mình. Thế là dối trá với Đảng, có tội với Đảng. Làm việc khơng thiết
thực, báo cáo không thật thà, cũng là một bệnh rất nguy hiểm”.
Luôn đổi mới, sáng tạo trong công việc
Người luôn suy nghĩ, tìm tịi, đổi mới trong cơng việc, khơng cứng nhắc, bảo thủ,
đóng khung, cố chấp, mà rất linh hoạt, mềm dẻo khi xử lý, giải quyết từng vấn đề,
sự việc cụ thể. Một ví dụ để minh chứng cho nhận định trên: Khi dự thảo công văn
cho Bác, anh em giúp việc thường dựa vào các văn bản cũ đã được Người duyệt để
làm theo. Khơng ngờ, có lần Người lại sửa khác đi. Anh em giúp việc có ý thanh

minh: Thưa Bác, cháu thấy trong văn bản trước Bác đã thông qua một câu như vậy
rồi ạ. Người nói, lần trước Bác chưa nghĩ ra, lần này Bác thấy phải sửa tiếp cho tốt
hơn(12). Có thể thấy, phong cách làm việc của Người là luôn đổi mới, sáng tạo,
khơng cứng nhắc, khơng chấp nhận tư duy lối mịn, kinh nghiệm chủ quan, mà
hướng tới sự mới mẻ, hiệu quả để ngày càng đạt kết quả tốt hơn.
3. Học “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, địi riêng trong sáng,
nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường”.
Tích cực trong lao động, học tập, cơng tác với tinh thần lao động sáng tạo, có năng
suất, chất lượng, hiệu quả cao; biết quý trọng công sức lao động và sản của tập thể,
của nhân dân; không xa hoa, lãng phí, khơng phơ trương, hình thức; biết sử dụng
lao động, vật tư, tiền vốn của Nhà nước, của tập thể, của chính mình một cách có
hiệu quả.
Hồ Chí Minh thường dạy cán bộ, đảng viên phải cần, kiệm, liêm, chinh, chí cơng vơ
tư, ít lịng ham muốn vật chất, đó là tư cách người cán bộ cách mạng và tự mình,
Người đã gương mẫu thực hiện. Suốt đời Người sống trong sạch, thực hành cần, kiệm,
liêm, chính, chí cơng vơ tư, ln vì nước, vì dân, vì con người, không gợn chút
riêng


tư. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng viết:"Hồ Chủ tịch khơng có cái gì riêng. Cái gì của


nước, của dân là của Người. Quyền lợi tối cao của nước, lợi ích hàng ngày của dân
là sự lo lắng đêm ngày của Người. Gia đình của Người là đại gia đình Việt Nam".
4. Sống phải có đạo đức tốt
Người chỉ rõ việc thực hành tốt đạo đức cách mạng trong đời sống hàng ngày của
mỗi cá nhân không chỉ có tác dụng tơn vinh, nâng cao giá trị chính họ mà cịn tạo
sức mạnh nội sinh, giúp họ vượt qua khó khăn, thử thách. Người viết: "có đạo đức
cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi
bước... khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất

phát, khiêm tốn, "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ"; lo hoàn thành nhiệm vụ cho
tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thuần, khơng quan liêu,
khơng kiêu ngạo, khơng hủ hóa".
Nhấn mạnh vai trò của đạo đức trong đời sống của mỗi cá nhân trong xã hội. Hồ
Chí Minh khơng phân biệt đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường, đạo đức cán
bộ và đạo đức công dân. Người chỉ rõ, trong xã hội mỗi người có cơng việc, tài
năng và vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được
đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.
5. Học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt
qua mọi thứ thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống.
Cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh là một chuỗi những năm tháng vô cùng gian
khổ. Hai lần ngồi tù, một lần đã nhận án tử hình có giai đoạn hoạt động sôi nổi được
đánh giá rất cao, có giai đoạn bị hiểu nhầm, nghi kỵ, khơng được giao nhiệm vụ.
Song, nhờ ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, kiên cường,
chủ động vượt qua mọi thử thách, gian nguy, kiên trì mục đích cuộc sống, bảo vệ
chân lý, giữ vững quan điểm cách mạng của mình.
6. Học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân
và hết lịng, hết sức phục vụ nhân dân; ln nhân ái, vị tha, khoan dung
và nhân hậu với con người.
Hồ Chí Minh có tình thương u bao la đối với con người. Tình thương đó gắn liền
với niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh và trí tuệ của nhân dân. Người luôn dạy cán bộ


đảng viên, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết
sức


tránh: phải gần dân, hiểu dân, học dân, kính trọng nhân dân: hết lòng, hết sức phục
vụ nhân dân. Người phê phán quyết liệt đầu óc "quan cách mạng" và tự mình.
Người thường xuyên đi xuống cơ sở để tìm hiểu. "lắng nghe ý kiến của đảng viên,

của nhân dân, của những người khơng quan trọng". Là người có uy tín rất cao và
sức hấp dẫn rất lớn song khơng bao giờ Hồ Chí Minh đặt mình cao hơn nhân dân
chỉ tâm niệm suốt đời là công bộc của nhân dân, "như một người lính vâng mệnh
lệnh quốc dân ra trước mặt trận".
Với tình thương u bao la, Hồ Chí Minh dành cho tất cả, chia sẻ với mỗi người
những nỗi đau riêng. Người nói trong "mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau
khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì
thành nỗi đau khổ của tơi". Cách mạng Tháng Tám thành công, cũng là lúc Việt
Nam vừa trải qua nạn đói khủng khiếp. Hồ Chí Minh chủ trương tăng gia sản xuất,
mỗi tháng mỗi người nhịn ăn ba bữa để góp gạo cứu đói và người cũng đóng góp
lon gạo của mình như mọi người dân. Đi thăm trại tù binh trong chiến dịch biên giới
về. Người không cịn áo khốc ngồi vì Người đã cho tên quan ba thầy thuốc người
Pháp bị rét cóng...
Lịng nhân ái, khoan dung, nhân hậu của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ đại nghĩa của
dân tộc, nên có sức mạnh và sự cảm hóa to lớn trong việc xây dựng và tái tạo lương
tri. Ở Hồ Chí Minh, thương người là một tình cảm lớn cho nên khi làm cách mạng
Hồ Chí Minh đặt vấn đề tự do và hạnh phúc đi đơi. Đó chính là biểu hiện chủ nghĩa
nhân văn cộng sản, vừa thánh thiện, vừa gần gũi, đã làm xúc động trái tim nhân loại
và Người được suy tôn như "một ông thánh cộng sản"; "một con người của huyền
thoại", cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng có lẫn bình luận: Lịng nhân đạo, tình
thương đồng bào, đó là điều sâu sắc nhất tốt đẹp nhất trong con người Hồ Chủ tịch.
7. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phát huy chủ
nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết, hữu
nghị giữa các dân tộc trong điều kiện toàn cầu hóa, chủ động, tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế.
-Ngày nay, trong điều kiện tồn cầu hóa, việc mở rộng tình đồn kết quốc tế,
hợp tác cùng có lợi, chủ động, tích cực hội nhập là một nguồn lực quan trọng


để xây dựng và phát triển đất nước. Đoàn kết quốc tế trong sáng là thực

hiện chính sách đối ngoại


×