Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Bài thu hoạch, phân tích thắng lợi và ý nghĩa lịch sử cuộc kháng chiến chống pháp liên hệ xây dựng và bảo vệ tổ quốc ở địa phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.95 KB, 49 trang )

Chủ đề 22
PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ
CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1954)
LIÊN HỆ CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC TẠI ĐỊA
PHƯƠNG ĐỒNG CHÍ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA.
TRẢ LỜI
Cuộc Cách mạng tháng Tám, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản đã giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cơng bố Tun ngơn Độc lập, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Nhưng
thực dân Pháp từ lâu đã có ý đồ xâm lược trở lại Đông Dương.
Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, được đế quốc Mỹ, Anh thoả thuận,
chính quyền Đờ Gôn quyết định gây chiến tranh, đặt lại ách thống trị ở Đơng
Dương.

Ngày 17/8/1945, Uỷ ban Quốc phịng Pháp quyết định đưa 6 vạn quân sang
Đông Dương. Mặc dù mới có một bộ phận nhỏ quân Pháp theo gót quân Anh
vào miền Nam nhưng dựa vào gần 2 vạn lính Pháp cịn lại tại Đơng Dương và
sự tiếp tay của quân Anh, ngày 23/9/1945, quân Pháp gây hấn đánh chiếm Nam
Bộ, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta bắt đầu.
Từ ngày 23/9/1945 đến năm 1946, cuộc kháng chiến diễn ra trên chiến trường
Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Mặc dù lực lượng vũ trang của ta ở đây rất nhỏ và
yếu nhưng có những đồn qn Nam tiến từ miền Bắc, miền Trung vào, những
đoàn quân của Việt kiều từ Lào, từ Campuchia, từ Thái Lan về, nhất là nhân dân
đứng lên tổ chức đánh địch nên đã từng bước ngăn chặn quân địch, làm phá sản
chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp.
Tuy nhiên vào thời điểm này, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà non trẻ đang
đứng trước mn vàn khó khăn, khơng thể tiến hành một cuộc chiến tranh quy


mô cả nước với thực dân Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương
hồ hỗn nhân nhượng, cố gắng giải quyết cuộc xung đột Pháp-Việt bằng con


đường hồ bình, chí ít cũng trì hỗn cuộc chiến tranh chậm nổ ra để ta có thời
gian chuẩn bị lực lượng. Các cuộc hoà đàm Việt-Pháp diễn ra, Hiệp định Sơ
bộ (6/3/1946) và Tạm ước Việt-Pháp (15/9/1946) được ký kết. Chiến tranh bị
đẩy lùi một bước.
Không từ bỏ ý đồ xâm lược, thực dân Pháp ngày càng lấn tới đòi nhân dân ta hạ
vũ khí đầu hàng. Khả năng hồ hỗn khơng cịn, với tinh thần “Thà hy sinh tất
cả chứ nhất định không chịu mấy nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, đêm
19/12/1946, theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, cả
nước đứng lên kháng chiến. Cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu.
Đường lối kháng chiến của Đảng ta xác định ngay từ đầu cuộc chiến tranh
là: Toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Từ ngày 19/12/1946 đến chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947, quân dân ta đã
chặn đánh tiêu hao lực lượng địch, bảo toàn lực lượng rút khỏi thành phố, phát
triển lực lượng, phản công diệt địch trong Chiến dịch Việt Bắc. Sau khi mở rộng
được địa bàn chiếm đóng trên cả nước, Thu Đơng năm 1947, Pháp tập trung
trên 2 vạn quân mở cuộc tiến công lớn hiệp đồng quân binh chủng từ nhiều
hướng bao vây căn cứ Việt Bắc, tìm diệt quân chủ lực và đầu não kháng chiến
của ta.
Ngày 7/10/1947, địch bắt đầu tiến công. Quân địch theo đường bộ số 3, số 4 và
đường thuỷ sơng Lơ, sơng Gấm hình thành thế bao vây Việt Bắc. Đồng thời,
địch cho quân nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn, chợ Mới, chợ Đồn định diệt các
cơ quan đầu não kháng chiến.
Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy ta đã phán đoán âm mưu của địch nhưng
việc nhảy dù xuống địa điểm cụ thể thì chưa lường hết nên lúc đầu có lúng túng.
Sau khi nắm được kế hoạch của địch, ta đã điều chỉnh kế hoạch tác chiến.
Lực lượng ta dùng trong chiến dịch là 10 trung đoàn và 7 tiểu đoàn bộ binh
cùng dân quân du kích tại chổ. Các chiến trường tồn quốc cũng đẩy mạnh tiến
cơng phối hợp.
Trên hướng tiến công đường số 3, số 4 của địch, quân ta đánh phục kích, tập
kích liên tục nhiều trận tiêu hao lực lượng địch. Bị thiệt hại nặng, địch phải

quay lại.
Mục tiêu chiến dịch không đạt được, lại bị thiệt hại nặng và có nguy cơ bị bao
vây tiêu diệt nên địch phải rút lui. Ngày 22/11, quân Pháp bắt đầu rút khỏi Việt
Bắc. Dọc đường bị quân ta phục kích một số trận. Ngày 22/12/1947, chiến dịch
kết thúc.
Chiến dịch Việt Bắc kết thúc giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược. Quân ta loại
khỏi vòng chiến đấu 6.000 địch, đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của địch,


làm phá sản chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của chúng, bảo vệ cơ quan lãnh
đạo, chuyển kháng chiến sang giai đoạn mới.
Từ năm 1948 đến chiến dịch Biên Giới (1950), phát triển chiến tranh du kích,
đẩy mạnh vận động chiến tranh, chiến thắng Biên Giới.
Sau Chiến dịch Việt Bắc, thực dân Pháp phải chuyển hướng chiến lược chiến
tranh. Từ chiến lược “Đánh nhanh thắng nhanh” phải chuyển sang đánh lâu dài,
thực hiện chính sách “Lấy chiến tranh ni chiến tranh, dùng người Việt đánh
người Việt”. Từ mở rộng vùng chiếm đóng chuyển sang củng cố vùng chiếm
đóng, từ những cuộc hành quân lớn nhằm tiêu diệt quân chủ lực của ta chuyển
sang nhiều cuộc hành quân nhỏ đánh vào cơ sở kinh tế, chính trị và diệt từng bộ
phận lực lượng vũ trang ta. Chúng ra sức củng cố nguỵ quyền, phát triển nguỵ
quân, tranh thủ viện trợ Mỹ.
Về phía ta, sau chiến thắng Việt Bắc, lực lượng vũ trang ta trưởng thành một
bước quan trọng. Ngày 28/8/1949, sư đoàn chủ lực đầu tiên - đại đoàn 308 ra
đời, tiếp đó đầu năm 1950 đại đồn 304 được thành lập. Chiến tranh du kích
phát triển mạnh ở vùng sau lưng địch cả ở Bắc-Trung Bộ và Nam Bộ; đồng thời,
ta chủ trương “Phải từng bước đẩy vận động chiến tiến tới”.
Tháng 6/1950, Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Biên
Giới nhằm: tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, khai thông biên giới
Việt - Trung, gắn liền với phe xã hội chủ nghĩa, mở rộng và củng cố căn cứ địa
Việt Bắc. Ngày 16/9, quân ta nổ súng đánh Đông Khê (Lạng Sơn) mở màn

chiến dịch, sau đó đón đánh diệt 2 binh đồn quân Pháp đến tăng cường cho
Thất Khê sợ bị tiêu diệt, quân Pháp phải rút chạy khỏi các cứ điểm từ Thất Khê
đến Lạng Sơn, quân ta truy kích diệt thêm một số quân Pháp.
Ở các địa phương, quân dân ta đẩy mạnh hoạt động tiến công phối hợp với
chiến dịch Biên Giới. Ngày 14/10/1950, ta kết thúc chiến dịch. Chiến dịch Biên
Giới, ta đã diệt được trên 8.000 quân địch, thu nhiều vũ khí trang bị, giải phóng
vùng biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập (Lạng Sơn), mở rộng giao lưu quốc
tế, làm thay đổi cục diện chiến tranh, giành quyền chủ động chiến lược trên
chiến trường.
Từ năm 1951 đến chiến dịch Điện Biên Phủ, giữ vững quyền chủ động chiến
lược đẩy mạnh tiến công và phản công, giành thắng lợi quyết định, kết thúc
chiến tranh. Sau thất bại ở chiến trường biến giới, thực dân Pháp còn cố giành
lại quyền chủ động chiến lược bằng cách tăng quân, thay tướng, xin thêm viện
trợ Mỹ, De Latre de Tassigny, viên tướng được coi là tài giỏi nhất của nước
Pháp lúc đó, được cử sang Việt Nam với kế hoạch: phát triển quân số, xây dựng
hệ thống cứ điểm vững chắc, tập trung giữ chiến trường chính là Bắc Bộ, đồng
thời tăng cường càng quét “bình định” Trung Bộ và Nam Bộ, kết hợp với đánh
phá, bao vay kinh tế, chiến tranh tâm lý với vùng căn cứ kháng chiến.
Về phía ta, chủ trương chung là tiếp tục giữ khí thế chủ động tiến cơng liên tục
tiêu diệt sinh lực địch, tiến tới giải phóng đồng bằng Bắc Bộ. Các đại đoàn 312,


316, 320, 351, 325 được thành lập. Nhiều chiến dịch lớn được mở như Chiến
dịch Trần Hưng Đạo (tháng 12/1950-2/1951) ở Bắc Giang, Việt Trì; Chiến dịch
Hồng Hoa Thám (tháng 4/1951) dọc đường 18; Chiến dịch Quang
Trung (tháng 5-6/1951) ở Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình; Chiến dịch Lý
Thường Kiệt (tháng 9-10/1951) ở Nghĩa Lộ; Chiến dịch Hồ Bình (tháng
12/1951-2/1952); Chiến dịch Tây Bắc (tháng 10/1951-2/1952); đồng thời, đẩy
mạnh chiến tranh du kích.
Hoạt động quân sự của ta gây cho địch nhiều thiệt hại lớn, Kế hoạch de

Tassginy phá sản, Cao uỷ kiêm Tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương De
Latre de Tassginy bị triệu hồi.
Tháng 5/1953, tướng Henry Navare được cử sang làm Tổng chỉ huy quân đội
Pháp. Navare đề ra kế hoạch mới gọi là Kế hoạch Navare định giành thắng lợi
quân sự có ý nghĩa chiến lược trong vòng 18 tháng làm cơ sở cho một giải pháp
chính trị mở lối thốt danh dự cho Pháp.
Nắm chắc âm mưu của địch, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết
định mở cuộc tiến cơng chiến lược Đông Xuân 1953-1954 gồm nhiều chiến dịch
trên một số hướng chiến lược, đẩy mạnh chiến tranh du kích, sẵn sàng tiêu diệt
địch khi chúng đánh vào vùng tự do, nhằm đánh bại cố gắng cao nhất của PhápMỹ. Ta đã mở Chiến dịch Tây Bắc-Thượng Lào, phối hợp với Bạn giải phóng
Trung, Hạ Lào, Đơng Bắc Campuchia, Chiến dịch Bắc Tây Nguyên. Các chiến
trường đồng bằng Bắc Bộ, Bình Trị Thiên, cực Nam Trung Bộ, Nam Bộ đẩy
mạnh tiến công địch, tiêu hao, phân tán, kiềm chế lực lượng địch để phối hợp
với các chiến dịch lớn.
Để giữ Tây Bắc Việt Nam và Thượng Lào, Navare cho quân nhảy dù tăng
cường cho Điện Biên Phủ, xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm
mạnh, thành nơi tập trung binh lực thứ hai sau đồng bằng Bắc Bộ. Quân Pháp
chấp nhận đương đầu với chủ lực ta ở Điện Biên Phủ, coi đây là nơi “nghiền nát
chủ lực Việt Minh”. Như vậy, Điện Biên Phủ lúc đầu không có trong kế hoạch
thì nay lại trở thành trung tâm điểm của kế hoạch Navare.
Tháng 12/1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Điện
Biên Phủ. Lực lượng của ta gồm 3 đại đoàn (308, 312, 316) và 1 trung đồn bộ
binh, 1 đại đồn cơng binh-pháo binh (351). Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên
Giáp được cử làm Tư lệnh chiến dịch. Kế hoạch lúc đầu ta chủ trương tiến công
ào ạt, đánh nhanh, thắng nhanh nhưng sau khi nắm cụ thể tình hình địch, ta thấy
không bảo đảm chắc thắng nên chuyển sang phương châm “đánh chắc, tiến
chắc”.
Chiều ngày 13/3/1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn. Sau 3 đợt tiến công,
55 ngày đêm chiến đấu anh dũng, quyết liệt, mưu trí, sáng tạo, cuối ngày 7/5,
qn ta giải phóng hồn tồn Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân

địch gồm 16.200 tên, trong đó có tướng Đờ Cáttơri. Chiến dịch Điện Biên Phủ
toàn thắng.


Chiến dịch Điện Biên Phủ là một trận quyết chiến chiến lược góp phần quyết
định làm phá sản kế hoạch Navare và làm sụp đổ ý chí xâm lược của thực dân
Pháp dẫn tới thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp.
Dễ trăm lần khơng dân cũng chịu khó vạn lần dân liệu cũng xong
1. Nguyên nhân thắng lợi:
*Nguyên nhân chủ quan:
- Nhờ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, với
đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo;
- Nhờ có hệ thống chính quyền nhân dân sau năm 1945 trong cả nước lớn mạnh
- Xây dựng quốc phịng tồn dân đồn kết một lịng. mặt trận dân tộc được
thống nhất, mở rộng, lực lượng vũ trang không ngừng lớn mạnh.
- Đường lối đúng đắn trong ngoại giao -----kết thúc kháng chiến chống pháp
*Nguyên nhân khách quan:
- Có sự đồn kết, giúp đỡ của hai nước Lào, Campuchia, hình thành liên minh
chiến đấu chung trong khu vực Đông Dương.
- Được sự ủng hộ, giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ tiến
bộ trên toàn thế giới.
2. Ý nghĩa lịch sử:
*Đối với Việt Nam:
-Chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trong gần một thế kỷ
trên đất nước Việt Nam. Miền Bắc được hồn tồn giải phóng, tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Miền Nam tiếp tục đấu tranh thống nhất đất nước.
-Thể hiện lòng yêu nước , Ý trí đấu tranh quật cường của nhân dân ta
- Thể hiện sự lớn mạnh của chính quyền cách mạng,
- lớn mạnh của quân đội nhân dân VN và nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân
dân

- Sự lớn mạnh của Đảng và Chủ nghĩa Mac lê nin vào cách mạng Việt Nam với
những chính sách hợp lịng dân
*Đối với thế giới:


-Giáng một đòn nặng nề vào âm mưu xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, góp
phần làm tan rã hệ thống thuộc địa của chúng,
- Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trên thế
giới châu Phi và châu Mỹ.
3. Liên hệ
* TÌNH HÌNH ĐỊA PHƯƠNG THỰC HIỆN 2 CHIẾN LƯỢC XD VÀ BV TQ
- Ưu điểm
+ Bảo vệ tổ quốc thời bình: Nhập ngũ, quốc phịng tồn dân chống diễn biến
hịa bình, chống dịch bệnh
+ Xây dựng tổ quốc : Phát triển kinh tế, đại đồn kết xây dựng nơng thơn mới,
chống tham nhũng, chống tệ nạn xã hội, toàn dân xây dựng đời sống văn hóa
Năm 2020, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Bắc Giang đã cụ thể hóa và ban hành
đầy đủ các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức triển khai thực hiện
cơng tác quốc phịng địa phương và được các cấp, ngành, địa phương thực hiện
đạt kết quả tích cực, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an tồn xã hội,
tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế ở địa phương.
Công tác chỉ đạo thực hiện phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại gắn với
QP&AN, QP&AN với kinh tế; xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh tồn diện
làm nòng cốt để xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc; quản lý, bảo vệ các
cơng trình quốc phịng, căn cứ hậu phương và các khu quân sự đạt hiệu quả.
Nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ tiềm lực quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang
địa phương, xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh
nhân dân trong khu vực phòng thủ; động viên nền kinh tế quốc dân đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ quốc phịng địa phương và cả nước trong mọi tình huống. Xây
dựng, huấn luyện và bảo đảm hoạt động của bộ đội địa phương, dân quân tự vệ,

lực lượng dự bị động viên; thực hiện công tác tuyển quân và động viên theo quy
định của pháp luật... Đảm bảo tốt cơng tác phịng, chống dịch Covid-19 trên địa
bàn.
Bên cạnh đó, cơng tác giáo dục quốc phịng và an ninh (GDQP&AN) được các
cấp, chính quyền địa phương các cấp; các ngành, tổ chức chính trị - xã hội quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo và được cụ thể hóa bằng kế hoạch, chương trình cơng tác
bảo đảm đồng bộ, thống nhất từ tỉnh tới cơ sở, góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác GDQP&AN trên địa bàn tỉnh.
Thảo luận tại hội nghị, các đại biểu tập trung làm rõ một số khó khăn, tồn tại và
đề nghị một số vấn đề như: Quan tâm bổ sung trang thiết bị cho lực lượng quân
sự ở cơ sở, dân quân tự vệ; thường xuyên kiện toàn, bổ sung đúng, đủ thành
phần và đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng GDQP&AN các
cấp; tăng cường rà soát, kiểm tra việc đăng ký, quản lý chặt chẽ nguồn động


viên; xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân
dân...
Phát biểu tại hội nghị, Thiếu tướng Hồng Văn Hữu - Phó Tư lệnh Qn khu I
đánh giá cao kết quả cơng tác quốc phịng, quân sự địa phương, công tác
GDQP&AN của tỉnh Bắc Giang trong thời gian qua.
Phát huy kết quả đã đạt được, Thiếu tướng Hoàng Văn Hữu đề nghị thời gian
tới tỉnh Bắc Giang tiếp tục quán triệt, tuyên truyền sâu sắc các nghị quyết, chỉ
thị của Đảng về chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở
thực sự vững mạnh, nâng cao năng lực quản lý, điều hành của các cấp chính
quyền đối với nhiệm vụ quốc phòng an ninh. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng
cao đời sống nhân dân và tích lũy cho quốc phịng an ninh. Tập trung nâng cao
năng lực tồn diện cho đội ngũ cán bộ quân sự các cấp. Xây dựng lực lượng dự
bị động viên, dân quân tự vệ lớn mạnh.
Trong đó tập trung xây dựng mơ hình điểm đơn vị tự vệ trong doanh nghiệp;
chủ động phối hợp thực hiện tốt với các cơ quan chức năng để quản lý chặt chẽ;

giải quyết các vấn đề vướng mắc liên quan đến đất quốc phòng đúng pháp luật.
Đồng thời tiếp tục quán triệt, tham mưu chỉ đạo tổ chức tốt các biện pháp
phòng, chống dịch Covid-19,...
Phát biểu kết luận hội nghị, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Lê Ánh
Dương tiếp thu những ý kiến chỉ đạo của Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Quân khu 1.
Đồng chí nhấn mạnh năm 2020 là một năm khó khăn, song với sự đồng lòng,
quyết tâm cao, tỉnh Bắc Giang đã thực hiện thắng lợi "mục tiêu kép". Thay mặt
lãnh đạo tỉnh, đồng chí biểu dương, ghi nhận những nỗ lực của các cấp, ngành,
cán bộ, chiến sỹ và nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa
phương, góp phần tích cực vào thành cơng chung của tỉnh.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ QPĐP, GDQP&AN năm 2021, Chủ tịch UBND
tỉnh Lê Ánh Dương đề nghị các cấp, ngành, địa phương tiếp thu nghiêm túc và
thực hiện có hiệu quả những nội dung chỉ đạo của Thiếu tướng Hoàng Văn Hữu
- Phó Tư lệnh Quân khu I. Đặc biệt xác định phát triển cơng tác quốc phịng,
qn sự địa phương ngang với phát triển kinh tế, là nhiệm vụ chính trị trọng tâm
của mỗi quốc gia, mỗi vùng miền; năm sau tốt hơn năm trước...
Trước mắt, cần làm tốt 2 nhiệm vụ, đó là QPĐP tập trung cao bảo vệ thành
cơng, tuyệt đối an tồn Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XIII trước, trong và sau
Đại hội; phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan nắm chắc tình hình, tham
mưu kịp thời với cấp ủy, chính quyền xử lý những điểm nóng, những vấn đề
phức tạp, đảm bảo giữ vững ổn định chính trị, tư tưởng, an ninh quốc phòng,
kinh tế địa phương; đảm bảo nhân dân đón Tết vui vẻ, an tồn, phấn khởi. Thực
hiện tốt cơng tác tuyển qn, trong đó cần làm tốt cơng tác tun truyền vận
động chính trị tư tưởng, đảm bảo các công dân nhập ngũ; tiếp tục thực hiện tốt
các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19.


-Hạn chế
- Tình hình thực hiện xây dựng và bảo vệ tổ quốc tại địa phương
*Bài học kinh nghiệm

1. Kiên định đường lối, chủ trương lãnh đạo của Ðảng - Nhân tố quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam
Từ đầu năm 1970, khi đế quốc Mỹ thực hiện mưu đồ mở rộng chiến tranh sang
Lào và Cam-pu-chia, T.Ư Ðảng Lao động Việt Nam (nay là Ðảng Cộng sản Việt
Nam) nhận định: Ðịch sẽ triển khai những bước phiêu lưu quân sự mới, có thể
đánh phá quyết liệt tuyến vận tải chiến lược Ðường Trường Sơn nhằm "cắt đứt
đường tiếp tế và các cơ sở hậu phương của ta" (1). Ngày 10-10-1970, Quân ủy
T.Ư và Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Binh đồn 70 (B70), bố trí ở nam
Qn khu 4, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống. Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo
các đơn vị ở Ðường 9, Mặt trận Ðường 9 - Bắc Quảng Trị (B5), Quân khu Trị Thiên (B4) và Ðoàn 559 gấp rút điều chỉnh lực lượng, bố trí thế trận, sẵn sàng
phối hợp chiến đấu cùng các đơn vị chủ lực cơ động của Bộ.
Tháng 11-1970, Tổng thống Mỹ R. Ních-xơn phê chuẩn kế hoạch mở ba cuộc
hành quân quy mô lớn trên các vùng chiến lược của ba nước Ðông Dương (2),
trong đó Lam Sơn 719 là cuộc hành quân có quy mơ lớn nhất. Trước động thái
của địch, Bộ Chính trị nhận định: Ðây là "điều kiện thuận lợi, cơ hội tốt để tiêu
diệt lực lượng địch"(3) và chỉ thị cho Quân ủy T.Ư tập trung chỉ đạo đánh thắng
cuộc hành quân đầy tham vọng này. Quán triệt tinh thần đó, ngày 4-2-1971, Bộ
Quốc phịng quyết định thành lập Mặt trận Ðường 9 - Nam Lào (Bộ Tư lệnh
702), do đồng chí Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Phó Tổng Tham mưu trưởng làm
Tư lệnh; đồng chí Thiếu tướng Lê Quang Ðạo, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính
trị làm Chính ủy.
Ngày 8-2-1971, địch bắt đầu tiến công khu vực Ðường 9 - Nam Lào. Ngày 9-21971, Quân ủy T.Ư ra Chỉ thị "Kiên quyết đập tan bước phiêu lưu quân sự mới
của đế quốc Mỹ và tay sai, giành toàn thắng cho Chiến dịch X"(4) , kêu gọi:
"Toàn thể cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên hãy ra sức thực hiện Di chúc
thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu và quyết tâm chiến lược của
T.Ư Ðảng... Liên tục tiến công tiêu diệt thật nhiều lực lượng tinh nhuệ của địch,
quyết bảo vệ con đường Hồ Chí Minh"(5) . Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn
của T.Ư Ðảng, Bộ Chính trị, Quân ủy T.Ư và Bộ Quốc phịng, Chiến dịch phản
cơng Ðường 9 - Nam Lào (30-1 - 23-3-1971) đã giành thắng lợi có ý nghĩa
chiến lược, làm phá sản một bước cơ bản chiến lược "Việt Nam hóa chiến

tranh" của đế quốc Mỹ, tạo tiền đề quan trọng để quân và dân ta đẩy mạnh tiến
cơng, hồn thành thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Ngày nay, sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới của Ðảng, đất nước ta đã có
được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín lớn đối với các nước trong khu vực và trên
trường quốc tế. Tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực vẫn tiềm ẩn nhiều nguy


cơ, thách thức khó dự báo. Thực tế đó địi hỏi toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân
ta phải thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Ðảng,
trọng tâm là Nghị quyết T.Ư 8 khóa XI về Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới; Nghị quyết số 24-NQ/TW và Kết luận số 31-KL/TW ngày 16-4-2018
của Bộ Chính trị khóa XII về Chiến lược Quốc phòng và Chiến lược Quân sự
Việt Nam... Với vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, quân đội phải
luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Ðảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước; tiếp tục xây dựng Quân
đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,
phấn đấu đến năm 2030 một số quân, binh chủng được xây dựng hiện đại và từ
năm 2030, xây dựng quân đội hiện đại. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi
ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ Ðảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa.
2. Phát huy sức mạnh của lực lượng binh chủng hợp thành, kết hợp chặt chẽ
giữa lực lượng tại chỗ với lực lượng cơ động, xây dựng thế trận phản công vững
chắc
Ngay khi nắm được âm mưu của địch tiến công vào khu vực Ðường 9 - Nam
Lào, Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo các đơn vị khẩn trương tổ chức chuẩn bị về mọi
mặt. Ðể thực hiện tốt kế hoạch trên, lần đầu tiên Bộ Quốc phòng tổ chức, thành
lập binh đoàn (B70) tương đương cấp quân đoàn, sẵn sàng tham gia chiến dịch.
Tiếp đó, ta tổ chức, bố trí lực lượng có thể đánh địch trên các hướng. Lực lượng
ngăn chặn, tạo thế gồm Trung đoàn 24 (Sư đoàn 304) và các đơn vị tại chỗ của

Ðoàn 559. Lực lượng trên hướng chủ yếu phía bắc gồm Binh đoàn 70 (thiếu) và
phần lớn xe tăng, pháo binh chiến dịch. Lực lượng trên hướng thứ yếu phía nam
gồm Sư đoàn 324 (thiếu), Sư đoàn 2 và một phần pháo binh, xe tăng, phịng
khơng chiến dịch. Lực lượng đánh địch ở phía sau, gồm lực lượng tại chỗ của
B5 (Mặt trận Ðường 9 - Bắc Quảng Trị), một số tiểu đồn đặc cơng của Bộ,
Trung đồn pháo binh 84 và Trung đoàn 2 (Sư đoàn 324). Lực lượng đánh địch
trên hướng phối hợp ở phía Tây gồm Trung đồn 48 (Sư đoàn 320) và lực lượng
tại chỗ. Binh đoàn Trường Sơn tổ chức bảy khu vực tác chiến tại chỗ và tám
cụm hỏa lực phịng khơng, sẵn sàng tham gia đánh địch.
Nhờ sự chuẩn bị chu đáo, khi địch bắt đầu tiến công, các lực lượng chiến dịch
của ta đã nhanh chóng bước vào chiến đấu hiệu quả: Lực lượng tại chỗ đánh
ngăn chặn, làm chậm bước tiến của địch; lực lượng cơ động tổ chức đánh những
trận tiêu diệt lớn... tạo thời cơ để chuyển sang tiến công, tập kích các cụm quân,
truy kích địch tháo chạy, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giành thắng lợi quyết
định.
Trong giai đoạn hiện nay, sự biến động của tình hình thế giới, khu vực đặt ra
những yêu cầu mới đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Do vậy, cần
coi trọng xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ cân đối,
đồng bộ, có chất lượng tổng hợp, trình độ, sức mạnh và khả năng phối hợp tác
chiến cao. Toàn quân cần tranh thủ đẩy nhanh lộ trình hiện đại hóa quân đội,


đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và đóng góp tích cực cho hịa bình,
ổn định khu vực và thế giới; tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả Ðề án tổ chức
Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới (giai đoạn 2020 - 2025), điều
chỉnh tổ chức, biên chế bảo đảm "tinh, gọn, mạnh". Cùng với đó, tiếp tục phát
huy vai trị nịng cốt của qn đội trong xây dựng nền quốc phịng tồn dân,
thực hiện tốt Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 22-9-2008 của Bộ Chính trị về
tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực
phòng thủ vững chắc trong tình hình mới và Kết luận số 64-KL/TW, ngày 3010-2019 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW.

Ðồng thời, duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu, phát huy tốt vai trò nịng
cốt trong xây dựng nền quốc phịng tồn dân vững mạnh, hồn thành xuất sắc
nhiệm vụ là lực lượng nịng cốt trong phịng, chống thiên tai, dịch bệnh, bảo vệ
tính mạng, tài sản của nhân dân... làm đẹp thêm hình ảnh "Bộ đội Cụ Hồ". Ðây
là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng, nhằm tăng cường tiềm lực, sức mạnh
quốc phịng, góp phần thực hiện thành cơng sự nghiệp đổi mới, xây dựng, bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3. Vận dụng nghệ thuật chiến dịch phản cơng linh hoạt, sáng tạo, chuyển hóa
thế trận đúng thời cơ
Thắng lợi của Chiến dịch Ðường 9 - Nam Lào đánh dấu bước phát triển cao về
nghệ thuật chiến dịch của Quân đội nhân dân Việt Nam. Về nghệ thuật chiến
dịch, ta đã đưa nghệ thuật tác chiến phản cơng lên một trình độ khá hồn thiện,
với các nội dung: Lập thế ta, phá thế địch; kết hợp hiệu quả hoạt động tác chiến
giữa chủ lực cơ động với lực lượng tại chỗ trên địa bàn rừng núi, thưa dân; phối
hợp giữa bộ đội Việt Nam và Lào trong phạm vi chiến dịch; kết hợp nhịp nhàng
giữa các hướng của chiến dịch; chủ động lựa chọn thời cơ kết thúc chiến dịch.
Về phương pháp tác chiến, đó là nghệ thuật điều hành tác chiến ngăn chặn, vây
hãm các cánh quân địch, tập trung bẻ gãy từng cánh quân của địch khi chúng
đứng chân chưa vững; tập trung lực lượng đánh trận then chốt quyết định. Về
vận dụng chiến thuật, ta đã kết hợp phịng ngự với tiến cơng; bao vây đột phá
tiêu diệt các cụm lực lượng có xe tăng, thiết giáp của địch; kết hợp chốt chặn
đánh địch đổ bộ đường không với cơ động tiêu diệt địch trên điểm cao; lùng sục
vây quét địch và truy kích địch rút chạy. Qua đó, đánh bại các thủ đoạn chốt
điểm cao, đột phá bằng xe tăng thiết giáp, cơ động bằng máy bay lên thẳng...
của địch. Bằng sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo nghệ thuật chiến dịch phản công,
ta đã đánh bại các biện pháp tác chiến và chiến thuật của địch, làm phá sản công
thức "Chủ lực quân Sài Gòn + hỏa lực yểm trợ tối đa của Mỹ" trong chiến lược
"Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ.
Bài học về vận dụng nghệ thuật chiến dịch phản cơng vẫn cịn ngun giá trị đối
với quân đội ta hiện nay. Với tiềm lực quốc phòng và an ninh được tăng cường;

thế trận lòng dân được chú trọng; thế trận quốc phịng tồn dân và thế trận an
ninh nhân dân được củng cố, quân và dân ta có đủ khả năng để chủ động triển
khai và thực hành những địn phản cơng, tiến cơng, phát huy nghệ thuật quân sự
Việt Nam trong điều kiện tác chiến hiện đại, làm thất bại mọi mưu đồ gây chiến
tranh xâm lược. Ðể thực hiện điều đó, quân đội phải làm tốt chức năng tham


mưu với Ðảng, Nhà nước, chủ động xây dựng các phương án, đối sách ngăn
ngừa, hóa giải nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Tiếp tục đổi mới,
nâng cao chất lượng huấn luyện, giáo dục và đào tạo theo tinh thần Kết luận số
60-KL/QUTW, ngày 18-1-2019 của Quân ủy T.Ư về tiếp tục thực hiện Nghị
quyết số 765-NQ/QUTW ngày 20-12-2012 về nâng cao chất lượng huấn luyện
giai đoạn 2013 - 2020 và những năm tiếp theo. Thực hiện tốt phương châm huấn
luyện "cơ bản, thiết thực, vững chắc"; đổi mới nội dung, hình thức, phương
pháp huấn luyện, diễn tập, coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu, sát thực
tế chiến đấu. Phát huy thành tựu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
vào nghiên cứu phát triển nghệ thuật quân sự, khoa học, công nghệ qn sự,
cơng nghiệp quốc phịng, làm chủ vũ khí, trang bị thế hệ mới, hiện đại, nâng cao
sức mạnh tổng hợp, sẵn sàng bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.
4. Phát huy tinh thần đồn kết quốc tế, nhất là sự phối hợp chiến đấu giữa quân
và dân Việt Nam - Lào
Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra tồn bán đảo Ðơng Dương, Bộ Chính
trị họp ngày 19-6-1970, ra Nghị quyết "Về tình hình mới ở bán đảo Ðông
Dương và nhiệm vụ mới của chúng ta", nhấn mạnh: "Tăng cường khối đoàn kết
chiến đấu nhân dân ba nước Ðông Dương… đẩy mạnh cuộc kháng chiến của
nhân dân ba nước chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai"(6). Trên cơ sở
dự đốn chính xác hướng tiến công của địch vào khu vực Ðường 9 - Nam Lào,
T.Ư Ðảng ta xác định: "Phối hợp với các chiến trường, với nhân dân các nước
Lào và Cam-pu-chia anh em, đập tan hành động phiêu lưu quân sự của đế quốc
Mỹ và tay sai"(7) .

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy T.Ư, Bộ Quốc phòng, từ
nửa cuối năm 1970 đến tháng 1-1971, bộ đội Việt Nam phối hợp chặt chẽ với
Pa-thét Lào liên tục tiến cơng địch, giải phóng nhiều vùng phía Ðông Bô Lô
Ven, Huội Sài, Pha Lan, Sê Săng Soi... và đẩy mạnh hoạt động sau lưng địch.
Chuyên gia Ðoàn 565 cùng Ðồn 968 Qn Tình nguyện Việt Nam tập trung
giúp Quân khu Trung Lào triển khai thế trận, bố trí lực lượng theo phương án
tác chiến. Q trình diễn ra chiến dịch, bộ đội hai nước có sự phối hợp nhịp
nhàng, kiên quyết tiến công địch ngay từ đầu. Chiến thắng Ðường 9 - Nam Lào
"không chỉ khẳng định sức mạnh to lớn của Quân đội và nhân dân Việt Nam,
mà còn là sự khẳng định sức mạnh vĩ đại của tình đồn kết Việt Nam - Lào"(8) ;
là minh chứng sâu đậm của tình đồn kết quốc tế.
Hiện nay, cơng tác đối ngoại quốc phịng cần nhất qn chủ trương vừa hợp tác,
vừa đấu tranh, kiên định mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; vận dụng linh hoạt,
mềm dẻo về sách lược theo phương châm "Dĩ bất biến, ứng vạn biến". Toàn
quân cần tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại, đường lối quốc phòng,
quân sự của Ðảng, nhất là Nghị quyết số 806-NQ/QUTW, ngày 31-12-2013 của
Quân ủy T.Ư "Về hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020
và những năm tiếp theo". Trong điều kiện đối tượng, đối tác đan xen, cần tiếp
tục đẩy mạnh hợp tác song phương, nâng tầm đối ngoại đa phương theo Chỉ thị
số 25-CT/TW, ngày 8-8-2018 của Ban Bí thư T.Ư Ðảng, ưu tiên quan hệ với các


nước láng giềng, các nước trong khu vực ASEAN; cân bằng quan hệ với các
nước lớn, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước có tiềm năng, gia tăng mức độ
đan xen lợi ích chiến lược với các nước. Tích cực tham gia các cơ chế hợp tác
quốc phịng đa phương trong khuôn khổ ASEAN và do ASEAN giữ vai trị chủ
đạo; tích cực tham gia hoạt động gìn giữ hịa bình của Liên hợp quốc. Chủ động
tham mưu các phương án đấu tranh ngoại giao hiệu quả, góp phần xây dựng và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Kỷ niệm 50 năm Chiến thắng Ðường 9 - Nam Lào là dịp để ôn lại, tự hào về

chặng đường chiến đấu vinh quang của quân và dân ta trong cuộc đấu tranh giải
phóng đất nước. Từ đó, tiếp tục phát huy, vận dụng những bài học lịch sử quý
báu, quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là thắng lợi của đường lối
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính; thắng lợi
của sức mạnh tồn dân tộc với tinh thần đấu tranh quật cường “Thà hy sinh tất
cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Cuộc
kháng chiến đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc đối với sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc (BVTQ); trong đó, bài học về phát huy sức mạnh tồn dân tộc có ý
nghĩa quan trọng, thiết thực đối với nhiệm vụ xây dựng nền quốc phịng tồn
dân (QPTD) hiện nay.
Trong bối cảnh chiến tranh thế giới vừa kết thúc, thực dân Pháp đưa quân trở lại
để thực hiện mục tiêu tiếp tục đô hộ nhân dân ta một lần nữa, Đảng ta đã chủ
trương phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân quyết tâm chiến đấu bảo vệ
độc lập dân tộc. Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi Tồn
quốc kháng chiến”, trong đó nhấn mạnh: “Bất kỳ đàn ơng, đàn bà, bất kỳ người
già, người trẻ, không phân chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt
Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng.
Ai có gươm dùng gươm, khơng có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai
cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước” 1. Tiếp đó, ngày 22-12-1946,
Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Tồn dân kháng chiến”. Đáp lại lời kêu gọi của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã mang tất cả “tinh thần và lực
lượng”, nhất tề đứng lên chiến đấu đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược. Với
đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” đúng đắn, sáng tạo, Đảng ta đã
phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của dân tộc, thực hiện đánh địch trên tất cả
các mặt trận: chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao... trong đó, lấy đấu tranh
quân sự là chủ yếu. Về mặt chính trị, Đảng ta tập trung xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân; chú trọng củng cố và phát huy khối liên minh cơng - nơng - trí

thức, mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc. Đặc biệt là, xây dựng, kiện toàn Nhà
nước dân chủ cộng hoà với hệ thống chính quyền các cấp từ Trung ương đến cơ
sở; kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng, bảo vệ chính quyền cách mạng non
trẻ. Để xây dựng tiềm lực kinh tế cho cuộc kháng chiến, Đảng ta đưa ra nhiều
chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, như: giảm tô, giảm tức, chia ruộng


đất cho nông dân, xây dựng nền kinh tế tự chủ, bảo đảm nhu cầu của kháng
chiến,... Về văn hoá, chúng ta vừa chống lại văn hố nơ dịch, vừa xây dựng nền
văn hoá mới trên cơ sở 3 nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng; mở “Bình
dân học vụ”, chống "giặc dốt". Về ngoại giao, Đảng ta chủ trương mở rộng quan
hệ quốc tế, vạch trần âm mưu, hành động của bọn thực dân xâm lược, tranh thủ
sự ủng hộ của các nước XHCN và nhân dân tiến bộ trên thế giới... Trên mặt trận
quân sự, với chủ trương: “Hai mươi triệu đồng bào Việt Nam quyết đánh tan
mấy vạn thực dân phản động”1 chúng ta đã thực hiện đánh địch bằng tác chiến
của các đơn vị chủ lực kết hợp với chiến tranh du kích rộng khắp trên các chiến
trường từ Nam Bộ, Trung Bộ, Tây Nguyên đến Bắc Bộ; đặc biệt là Chiến dịch
Điện Biên Phủ của quân và dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến 9 năm
trường kỳ gian khổ của dân tộc.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã khẳng định:
một dân tộc dù nhỏ, song nếu biết đoàn kết, phát huy sức mạnh toàn dân tộc thì
có thể đánh bại mọi kẻ thù xâm lược. Đó là quy luật cơ bản nhất, bao trùm nhất
để giành thắng lợi trong kháng chiến của dân tộc ta. Nó cũng thể hiện tập trung
nhất nghệ thuật tổ chức, động viên, phối hợp các lực lượng, các hình thức và
phương pháp đấu tranh, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh thắng kẻ thù xâm
lược.
65 năm đã trôi qua, nhưng bài học về phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược vẫn còn nguyên giá trị. Trước
yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ BVTQ, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu,
vận dụng bài học kinh nghiệm đó trong xây dựng nền QPTD, nhằm không

ngừng tăng cường sức mạnh quốc phòng, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh; đồng
thời, để sẵn sàng đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược bằng vũ khí cơng nghệ
cao của địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Nền QPTD mà
chúng ta đang xây dựng là nền quốc phịng có tính chất: tồn dân, toàn diện, độc
lập, tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại; đó là nền quốc phịng do
toàn dân thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành thống
nhất của Nhà nước. Để xây dựng nền QPTD đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra,
điều quan trọng trước hết là phải tiếp tục quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội
XI của Đảng: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ
thống chính trị, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ
quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ XHCN;…”3.
Vận dụng bài học về phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong xây dựng nền QPTD
hiện nay, chúng ta cần tập trung xây dựng và phát huy mọi tiềm lực của đất
nước; đó là các tiềm lực: chính trị – tinh thần, quân sự, kinh tế, văn hóa, khoa
học – cơng nghệ (KH-CN),... Để xây dựng tiềm lực chính trị – tinh thần, trước
hết cần tập trung xây dựng hệ thống chính trị các cấp trong sạch, vững mạnh, đủ
năng lực, bản lĩnh, trí tuệ để triển khai thực hiện đúng đắn, sáng tạo mọi chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Trong đó,
vấn đề then chốt là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ
thống chính trị các cấp; đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo điều kiện thúc đẩy
phát triển kinh tế – xã hội (KT-XH) và thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước


mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong công tác giáo dục quốc phòng –
an ninh (QP-AN), cần tập trung quán triệt, tuyên truyền quan điểm, đường lối
của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; đồng thời, nâng cao nhận thức
cho nhân dân về âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược "Diễn biến hồ bình" của
các thế lực thù địch. Thơng qua đó, bồi đắp tinh thần u nước, lòng tự hào dân

tộc, củng cố lòng tin của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng và chế độ XHCN,
xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, tạo sự đồng thuận của toàn dân đối với
sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hiện nay, công cuộc xây dựng CNXH của chúng ta đã tạo ra những tiền đề mới
về cơ sở vật chất của nền QPTD. Tuy nhiên, chúng ta phải biết tận dụng và phát
huy một cách hiệu quả nhất, biến tiềm lực thành thực lực quốc phịng, qn sự
khi cần thiết. Đó vừa là địi hỏi khách quan của sự nghiệp BVTQ trong tình hình
mới, vừa là sự kế thừa những bài học kinh nghiệm sâu sắc trong lịch sử chống
ngoại xâm của dân tộc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, mặc dù cịn
“trăm bề” khó khăn, phải tập trung sức người, sức của cho kháng chiến, nhưng
Đảng ta vẫn đề ra nhiều chính sách đẩy mạnh sản xuất, “vừa kháng chiến, vừa
kiến quốc”, chăm lo cải thiện đời sống nhân dân. Bài học đó cho thấy, để xây
dựng và phát huy tiềm lực kinh tế trong sự nghiệp BVTQ, trước hết, từng địa
phương phải tập trung phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân; đồng thời,
thực hiện tốt yêu cầu kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tăng cường
QP-AN; thực hiện mỗi bước phát triển kinh tế là một bước tăng cường tiềm lực
QP-AN. Sự kết hợp đó phải được thực hiện ngay trong quy hoạch, kế hoạch
phát triển KT-XH, việc phân bố dân cư và xây dựng kết cấu hạ tầng trên các địa
bàn, nhất là ở các địa bàn chiến lược trọng điểm về QP-AN. Thực tiễn cho thấy,
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với sự phát triển của nhiều thành phần
kinh tế đang đặt ra những vấn đề mới, nhất là trong huy động nhân lực và vật
lực. Vì vậy, chúng ta cần coi trọng việc tiếp tục nghiên cứu, xây dựng các chế
tài quy phạm pháp luật, các chính sách, phương thức, các biện pháp phù hợp để
quản lý, huy động các nguồn lực này cho cơng tác quốc phịng, qn sự khi cần
thiết.
Sức mạnh của nền QPTD là sức mạnh tổng hợp của đất nước. Tuy nhiên, sức
mạnh đó tập trung trước hết ở tiềm lực quân sự, mà sức mạnh chiến đấu của lực
lượng vũ trang (LLVT) có ý nghĩa quan trọng, quyết định. Vì vậy, trong kháng
chiến chống thực dân Pháp, cùng với xây dựng lực lượng và phát triển chiến
tranh du kích, tạo thành thế trận rộng khắp, Đảng ta ln coi trọng xây dựng các

đại đồn chủ lực cơ động có sức chiến đấu cao để tiến hành các chiến dịch, các
trận đánh quyết định. Ngày nay, nhiệm vụ BVTQ, nhất là bảo vệ chủ quyền lãnh
thổ, đặt ra những yêu cầu ngày càng cao, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng Quân
đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, có trình độ và khả
năng chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu cao. Cùng với đó, các địa phương, đơn vị
cịn phải tập trung thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng
lực lượng dự bị động viên “hùng hậu”; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ
"vững mạnh, rộng khắp", có chất lượng ngày càng cao. Trong thời bình, cần kết
hợp chặt chẽ giữa xây dựng nền QPTD, thế trận QPTD với xây dựng nền an
ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân; thực hiện tốt Nghị định
77/2010/NĐ-CP, ngày 12-7-2010 của Chính phủ về phối hợp giữa Bộ Công an


và Bộ Quốc phòng trong thực hiện bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an
tồn xã hội và nhiệm vụ quốc phòng. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, thiết
thực, khi mà nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nhiệm vụ
bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, nền văn hoá và bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân, chế độ XHCN không thể tách rời nhau. Theo đó, trên từng
địa bàn, cần phối hợp chặt chẽ giữa LLVT địa phương với lực lượng Công an
thực hiện tốt nhiệm vụ phịng, chống chiến lược “Diễn biến hịa bình”, bảo vệ
chính quyền, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ngay từ cơ sở.
Trong chiến tranh, kết hợp các hình thức, quy mơ, biện pháp đấu tranh, đánh
địch tồn diện, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tác chiến của
các binh đoàn chủ lực cơ động với tác chiến của LLVT địa phương trong các
khu vực phòng thủ. Đây là nét đặc sắc nhất của nghệ thuật tạo sức mạnh tổng
hợp của chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Cùng với đó, cần coi trọng xây dựng tiềm lực văn hoá, KH-CN,… Trong đó, tập
trung xây dựng nền văn hố tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; làm cho văn hoá
thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc.
Cần coi trọng giáo dục các thế hệ con người Việt Nam biết trân trọng các giá trị

văn hố truyền thống, giàu tính nhân văn “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí
nhân thay cường bạo”...; đồng thời, nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, xây
dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và
BVTQ. Mặt khác, cần tập trung xây dựng tiềm lực KH-CN theo hướng tự chủ,
hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH; đồng thời, đẩy mạnh phát triển
khoa học kỹ thuật – công nghệ quân sự theo hướng phục vụ kịp thời và có hiệu
quả những u cầu về bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho LLVT. Đặc biệt là,
phải đẩy mạnh phát triển nền cơng nghiệp quốc phịng, để có thể sản xuất, chế
tạo nhiều loại vũ khí, trang bị hiện đại, trực tiếp góp phần xây dựng Qn đội:
chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu tác chiến đánh bại kẻ thù có vũ
khí cơng nghệ cao.
Xây dựng nền QPTD là quan điểm cơ bản của Đảng ta về sức mạnh BVTQ
trong tình hình mới. Quan điểm đó hình thành trên cơ sở bài học kinh nghiệm
về phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong lịch sử dựng nước, giữ nước của nhân
dân ta, mà nổi bật là đường lối: “Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến,
trường kỳ kháng chiến, dựa vào sức mình là chính" trong kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược. Ngày nay, chúng ta có thuận lợi cơ bản là hệ thống
pháp luật từng bước được hồn thiện. Đó là cơ sở pháp lý để xây dựng kế
hoạch, các biện pháp phối hợp, huy động các tiềm lực, đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ BVTQ. Để vận dụng và phát huy sức mạnh toàn dân tộc, các cấp, các ngành
cần quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối quốc phòng, quân sự của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong đó, tập trung thực hiện tốt Nghị
quyết số 28-NQ/TW, ngày 22-9-2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc
trong tình hình mới. Đặc biệt là, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng với các biện
pháp huy động các tiềm lực; phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động quốc phòng,
quân sự với an ninh và đối ngoại, tạo thành sức mạnh tổng hợp của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự



quản lý, điều hành của Nhà nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
XHCN trong tình hình mới.
Ðể hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, chúng ta cần tiếp tục quán
triệt, thực hiện hiệu quả hơn nữa các chiến lược trên, trong đó, tập trung vào
một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Ðảng, toàn dân và tồn qn
và cả hệ thống chính trị đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Trước hết, chúng ta phải thấy rằng, nhận thức đúng thì hành động sẽ khoa học,
hiệu quả; trách nhiệm tốt thì kết quả bảo vệ Tổ quốc sẽ cao; đồng thời, tạo sự
đồng thuận xã hội, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Ðảng, toàn dân và toàn
quân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Bác Hồ đã dạy: “Sự đồng tâm
của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch
hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng
phải thất bại”(2). Các cấp, các ngành, các địa phương, nhất là lực lượng vũ
trang, trực tiếp là Quân đội cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục làm cho
cả hệ thống chính trị và tồn dân nhận thức sâu sắc nhiệm vụ quân sự, quốc
phòng, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chung của tồn xã hội, của đất nước, trong
đó lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Nội dung tuyên truyền, giáo dục phải toàn
diện, song cần tập trung cụ thể hóa mục tiêu, quan điểm, phương châm, phương
thức, nguyên tắc, nhiệm vụ, giải pháp của các chiến lược làm cơ sở để vận dụng
phù hợp với đặc điểm, điều kiện, nhiệm vụ của ngành, lĩnh vực, cơ quan, đơn
vị, địa phương mình. Trên cơ sở nhận thức đúng, làm cho cán bộ, đảng viên, lực
lượng vũ trang và toàn dân nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng và sự cần thiết
phải bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Ðây chính là thực hiện kế
sách bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy”. Ðồng thời, nhận
thức được mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nhiệm vụ của cách
mạng, đất nước, Quân đội; âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù
địch,... từ đó, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, trách nhiệm đối với sự
nghiệp giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ địa bàn và chủ
quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia.

Tập trung đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục, phát huy
sức mạnh của hệ thống cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình từ Trung ương
tới cơ sở; đẩy mạnh tuyên truyền trong hệ thống học viện, nhà trường trong và
ngoài Quân đội cùng các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể địa phương; coi trọng
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, bồi dưỡng, phổ biến kiến thức
quốc phòng và an ninh cho các đối tượng, làm cơ sở để đội ngũ này tuyên
truyền, giáo dục cho toàn dân. Cùng với đó, cần tích cực đấu tranh với những tư
tưởng, nhận thức lệch lạc, coi trọng nhiệm vụ phát triển kinh tế, xem nhẹ nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc, nhất là tư tưởng cho rằng trong thời bình khơng cần xây
dựng lực lượng vũ trang, Quân đội, nền quốc phịng tồn dân, gây tốn kém cho
nền kinh tế đất nước,... dẫn đến mất cảnh giác, mắc mưu các thế lực thù địch,
phản động.


Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng, quản lý của Nhà nước trong thực hiện
các chiến lược.
Trên cơ sở nhận thức đúng vai trò, tầm quan trọng của các chiến lược đối với sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, cấp ủy, người đứng đầu các bộ, ngành, địa
phương và cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang cần tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả các chiến lược, nhằm
đạt được mục tiêu đề ra là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Ðảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ
nghĩa; bảo vệ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ lợi ích quốc gia,
dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội và nền văn hóa; giữ
vững ổn định chính trị và mơi trường hịa bình để xây dựng, phát triển đất nước
nhanh và bền vững. Cần chú trọng quán triệt, vận dụng đúng đắn mục tiêu, quan
điểm, nhiệm vụ, giải pháp, khâu đột phá và tư tưởng chỉ đạo, phương châm,
nguyên tắc, phương thức tiến hành các chiến lược vào nghị quyết lãnh đạo
nhiệm kỳ và hằng năm bảo đảm phù hợp với đặc điểm tình hình, yêu cầu nhiệm
vụ của ngành, lĩnh vực, địa phương, cơ quan, đơn vị mình làm cơ sở để tổ chức

thực hiện. Tiếp tục quán triệt, thực hiện nhất quán nguyên tắc Ðảng lãnh đạo
trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang, sự nghiệp quốc
phịng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Cùng với đó, cần quán triệt, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các văn bản quy
phạm pháp luật về lĩnh vực quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, như: Nghị
quyết số 28-NQ/TW ngày 22-9-2008 của Bộ Chính trị, Nghị định số
21/2019/NÐ-CP ngày 22-2-2019 của Chính phủ về xây dựng khu vực phịng
thủ; Luật Quốc phòng, Sách trắng Quốc phòng, Luật Giáo dục quốc phòng và
an ninh, Luật Nghĩa vụ quân sự... Tăng cường các biện pháp quản lý nhà nước
về quốc phòng, bảo đảm các hoạt động quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc
đúng phương hướng chính trị của đất nước, theo tư duy, nhận thức mới của
Ðảng, đúng pháp luật Việt Nam, luật pháp quốc tế và đạt hiệu quả thiết thực.
Tiếp tục hồn thiện và tổ chức thực hiện có chiều sâu các cơ chế, quy chế, thông
tư, văn bản, hướng dẫn, quy định dưới luật, nhằm cụ thể hóa chủ trương, đường
lối, quan điểm quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc của Ðảng trong thực tiễn,
bảo đảm cho nội dung của các chiến lược đi vào cuộc sống, góp phần giữ vững
an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc địa bàn, Tổ quốc
trong mọi tình huống.
Ba là, phát huy vai trị nịng cốt của lực lượng vũ trang, trực tiếp là Quân đội
nhân dân trong tổ chức thực hiện các chiến lược.
Công tác quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp chung của cả hệ thống chính
trị và tồn dân, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt và Quân đội là lực
lượng chủ yếu, trực tiếp. Trong bối cảnh tình hình an ninh chính trị thế giới, khu
vực diễn biến phức tạp hiện nay, nhất là việc tranh chấp chủ quyền biển, đảo
trên Biển Ðông, cùng sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, đòi hỏi
phải phát huy hơn nữa vai trò của lực lượng vũ trang nhân dân, trọng tâm là
Quân đội nhân dân. Trên cơ sở bám sát chức năng, nhiệm vụ, Quân đội cần tiếp


tục quán triệt sâu sắc nội dung các chiến lược, phối hợp với các lực lượng liên

quan nắm chắc tình hình thế giới, khu vực, trong nước, dự báo chính xác xu
hướng vận động, phát triển của tình hình, tham mưu cho Ðảng, Nhà nước các
đối sách, giải pháp chiến lược, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu của các chiến
lược đề ra; xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống quốc phịng, an ninh, khơng
để bị động, bất ngờ cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Trong đó, tập
trung vào những khu vực, địa bàn trọng điểm về quốc phòng, an ninh, nhất là
khu vực biên giới, biển, đảo. Các cơ quan, đơn vị trong toàn quân, đặc biệt là cơ
quan quân sự các cấp cần phát huy vai trò nòng cốt, tham mưu cho cấp ủy,
chính quyền địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, quân sự, xây dựng
khu vực phòng thủ, xác định các biện pháp giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an
toàn xã hội, bảo vệ vững chắc địa bàn.
Trong giai đoạn hiện nay, các đảng bộ trực thuộc Trung ương đang tiến hành
đại hội nhiệm kỳ 2020 - 2025, tiến tới Ðại hội XIII của Ðảng, toàn quân cần
nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, duy trì nghiêm các chế độ, nền nếp sẵn
sàng chiến đấu; tiếp tục rà soát quyết tâm, phương án, kế hoạch sẵn sàng chiến
đấu, phịng, chống cháy nổ, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, phòng, chống dịch bệnh;
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác huấn luyện, diễn tập, sẵn sàng xử lý
thắng lợi các tình huống. Ðặc biệt, cần tập trung xây dựng, tổ chức luyện tập
chặt chẽ, nghiêm túc phương án, kế hoạch bảo vệ đại hội đảng các cấp, phối hợp
chặt chẽ với lực lượng Công an theo Nghị định 03/2019/NÐ-CP ngày 5-9-2019
của Chính phủ về phối hợp giữa Cơng an và Quân đội trong bảo vệ an ninh
quốc gia,... quyết tâm bảo vệ an toàn tuyệt đối đại hội đảng các cấp - nhiệm vụ
chính trị trọng tâm trong năm của Ðảng, các cấp, ngành, địa phương, lực lượng
vũ trang và toàn dân. Toàn quân đề cao cảnh giác, nắm chắc tình hình, phát
hiện, xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống, khơng để bị động, bất ngờ, bảo vệ
vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới, lãnh thổ của Tổ quốc. Tiếp tục tổ chức
xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong
đó có một số lực lượng được đầu tư tiến thẳng lên hiện đại, bảo đảm cho quân
đội ta có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao, đúng chủ trương tinh,
gọn bộ máy của Trung ương, phù hợp với khả năng, điều kiện của đất nước, đủ

sức bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
Bốn là, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về quân sự, quốc phịng,
bảo vệ Tổ quốc.
Thực tiễn ln vận động, biến đổi, do vậy, chúng ta cần chú trọng làm tốt công
tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về qn sự, quốc phịng, bảo vệ Tổ
quốc. Thơng qua tổng kết thực tiễn trong quá trình triển khai thực hiện Chiến
lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự, rút ra những
bài học kinh nghiệm, góp phần bổ sung, phát triển lý luận ở trình độ cao hơn,
phù hợp với yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trên cơ sở đó quay trở
lại chỉ đạo, hoạt động thực tiễn mang lại hiệu quả thiết thực. Ðối với Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc, Trung ương đã tổng kết, đánh giá 10 năm thực hiện Nghị quyết
Trung ương 8 (khóa IX) từ 2003 - 2013 và ban hành Nghị quyết Trung ương 8
(khóa XI), tới đây, chúng ta tiếp tục tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về vấn


đề này. Ðối với Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự, đây là hai chiến
lược mới nên các cơ quan tham mưu chiến lược của Bộ Quốc phòng, nhất là
Viện Chiến lược quốc phòng, Cục Tác chiến, Cục Dân quân tự vệ,... chỉ đạo các
cơ quan, đơn vị, nhà trường trong toàn quân, cơ quan quân sự các cấp tham mưu
cho các bộ, ngành, địa phương, tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm thực
hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng hằng năm và cả giai đoạn, làm cơ sở để Bộ
Quốc phòng tham mưu cho Ðảng, Nhà nước tổ chức tổng kết thực hiện các nghị
quyết, kết luận của Ðảng về các chiến lược ở cấp Trung ương. Nội dung tổng
kết tồn diện, trong đó tập trung vào nhận thức, tư duy về bảo vệ Tổ quốc; hoạt
động quân sự, quốc phòng; xây dựng, hoạt động của khu vực phịng thủ; xây
dựng nền quốc phịng tồn dân; nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân; nghệ
thuật quân sự; đối tượng, đối tác,... Trong quá trình thực hiện, chú ý tính tồn
diện, sâu sắc, nghiêm túc; đánh giá trung thực, khách quan; chỉ rõ kết quả đạt
được, hạn chế, nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm, làm cơ sở điều chỉnh
mục tiêu, yêu cầu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp, khâu đột phá cho giai

đoạn tiếp theo đạt hiệu quả cao hơn.
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự là kế
sách, mưu lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy; là kết tinh
truyền thống dân tộc với ý Ðảng, lòng dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chiến lược
này là trách nhiệm của tồn Ðảng, tồn dân, nịng cốt là lực lượng vũ trang
trước Tổ quốc; góp phần tăng cường tiềm lực quốc phòng, nâng cao khả năng
phòng thủ đất nước, sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, kịp thời đề ra đường lối, chủ trương
đúng đắn, sáng tạo trong xây dựng nền quốc phịng tồn dân, thế trận chiến
tranh nhân dân
Ngay khi quân Pháp nổ súng xâm lược, sáng 23/9/1945, Xứ ủy và Ủy ban nhân
dân Nam Bộ triệu tập Hội nghị tại đường Cây Mai, quyết định phát động toàn
dân kháng chiến, thành lập Ủy ban kháng chiến Nam Bộ; đồng thời gửi điện xin
chỉ thị Trung ương. Bước vào kháng chiến, qn và dân Sài Gịn nói riêng, Nam
Bộ nói chung phải đối mặt với nhiều khó khăn, thiếu thốn trăm bề: Chính quyền
cách mạng cịn non trẻ, vũ khí, tài chính, lực lượng, chưa xây dựng được căn cứ
địa, chiến khu... Trong bối cảnh đó, yêu cầu cấp bách là phải thống nhất tổ chức
đảng, kiện toàn cơ quan lãnh đạo cao nhất, làm cơ sở để xây dựng, củng cố
chính quyền cách mạng và thực lực kháng chiến. Ngày 15/10/1945, Hội nghị
cán bộ đảng Nam Bộ nhất trí giải thể hai Xứ ủy (Tiền Phong và Giải phóng),
thành lập Xứ ủy Nam Bộ thống nhất do đồng chí Tơn Đức Thắng làm Bí thư.
Mười ngày sau, trước sự phát triển nhanh chóng của tình hình, Hội nghị Xứ ủy
Nam Bộ mở rộng được tổ chức tại Thiên Hộ (Mỹ Tho), bàn chủ trương củng cố,
kiện toàn hơn nữa hệ thống tổ chức đảng trên toàn Nam Bộ, thống nhất lực
lượng vũ trang. Hội nghị cử đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư Xứ ủy thay đồng chí
Tơn Đức Thắng. Sự thống nhất về tổ chức đảng - cơ quan lãnh đạo kháng chiến



toàn Nam Bộ đã tạo cơ sở cho việc xây dựng, củng cố chính quyền và các tổ
chức, đồn thể cách mạng.
Theo sát tình hình, Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xun có
những chỉ đạo kịp thời, sát sao đối với cuộc kháng chiến ở Nam Bộ. Ngay trong
ngày 23/9/1945, sau khi nhận được điện của Ủy ban kháng chiến Nam Bộ, Chủ
tịch Hồ Chí Minh triệu tập khẩn cấp Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng,
chuẩn y quyết tâm kháng chiến của Nam Bộ. Ngày 26/9/1945, qua làn sóng Đài
Tiếng nói Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tới đồng bào Nam Bộ bức thơng
điệp thể hiện niềm tin vào “lòng kiên quyết ái quốc của đồng bào Nam Bộ”.
Ngày 27/9/1945, Chính phủ Trung ương gửi Huấn lệnh cho Nam Bộ. Đặc biệt,
ngày 25/11/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về kháng chiến
kiến quốc, trong đó xác định rõ những “Nhiệm vụ chiến thuật của ta ở Nam
Bộ”. Thực hiện chỉ thị này, quân và dân Nam Bộ đã vận dụng chiến thuật phù
hợp, hiệu quả, ngăn chặn bước tiến của địch và giành được những thắng lợi nhất
định.
Sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Trung ương Đảng, kịp thời đề ra đường
lối, chủ trương sát đúng đã tạo tiền đề, điều kiện căn bản quyết định để cuộc
kháng chiến từng bước phát triển về mọi mặt.
Bài học về tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng
cùng với việc đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn, sáng tạo đưa cuộc kháng
chiến ở Nam Bộ vượt qua khó khăn, vững bước đi lên vẫn cịn nguyên giá trị.
Việc tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, nâng cao
hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với công tác quân sự, quốc phòng, với sự
nghiệp xây dựng nền quốc phòng tồn dân, thế trận chiến tranh nhân dân ln
được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu, là giải pháp cơ bản, xuyên suốt. Đảng ta
vừa là người tổ chức, lãnh đạo, xác định quan điểm, định ra đường lối, đồng
thời cũng là hạt nhân đoàn kết động viên sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, kế hoạch trong xây dựng nền
quốc phịng tồn dân, thế trận chiến tranh nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng đối
với nhiệm vụ quốc phòng phải duy trì thường xuyên, thống nhất từ Trung ương

đến các địa phương, ban, ngành, đoàn thể. Xây dựng nền quốc phịng tồn dân
phải được các cấp ủy, chính quyền xác định là một nhiệm vụ trọng yếu, là công
việc thường xuyên cần có sự quan tâm đúng mức; có sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu
sát, kịp thời và hiệu quả cơng tác này ở địa phương mình. Các chủ trương, chính
sách, hệ thống các nghị quyết, chỉ thị, văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về
xây dựng nền quốc phịng tồn dân, thế trận chiến tranh nhân dân cần được
quán triệt sâu kỹ và triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả. Trong đó, chú
trọng vai trị, trách nhiệm của cấp ủy, người chủ trì, cơ quan tham mưu, phụ
trách cơng tác qn sự, quốc phịng ở cơ quan, đơn vị, địa phương trong lãnh
đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện.
Những năm qua, thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Quân ủy Trung
ương, Bộ Quốc phòng đã tích cực, chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước ban
hành các chiến lược, nghị quyết, kết luận, đề án, quan trọng về quân sự, quốc
phòng, như: Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam, Chiến lược
Bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng,


Nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác tình báo trong
tình hình mới; Chiến lược phát triển Ngành Cơ yếu Việt Nam đến năm 2030 và
định hướng đến năm 2045, Luật Quốc phòng năm 2018, Luật Cảnh sát biển Việt
Nam, Luật Dân quân tự vệ, Luật Lực lượng Dự bị động viên, Luật Biên phịng
Việt Nam..., góp phần hồn thiện, phát triển tư duy lý luận, đường lối, nghệ
thuật quân sự, tạo hành lang pháp lý bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng
của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước đối với các ban, bộ, ngành Trung
ương và địa phương trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng nền quốc phịng
tồn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc cả trước mắt và lâu dài.
Hai là, chú trọng xây dựng “thế trận lịng dân”, ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập,
tự do, thống nhất Tổ quốc cho toàn dân - nhân tố quan trọng xây dựng nền quốc
phịng tồn dân, thế trận chiến tranh nhân dân

Ngày 02/9/1945, tại Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tun ngơn
độc lập, khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự
thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem
tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và
độc lập ấy” [2]. Với tinh thần đó, trước hành động xâm lược của quân Pháp, Sài
Gòn cùng Nam Bộ nhất tề đứng lên chiến đấu bảo vệ nền độc lập, tự do của dân
tộc. Ngày 26/9/1945, Chính phủ ra lời hiệu triệu toàn dân: “Hãy ủng hộ phong
trào đấu tranh oanh liệt của đồng bào Nam Bộ”. Hưởng ứng lời kêu gọi của
Chính phủ, Quỹ “Nam Bộ kháng chiến” được thành lập, cùng với sự xuất hiện
các “Phòng Nam Bộ” tại nhiều địa phương để ghi tên những người tình nguyện
vào Nam chiến đấu. Nhiều đồn qn “Nam tiến” liên tiếp được thành lập và
lên đường chi viện miền Nam. Hướng về Nam Bộ, nhiều cuộc quyên góp vật
chất ủng hộ Nam Bộ kháng chiến, nhiều cuộc mít tinh, biểu tình nổ ra thể hiện
tinh thần đồn kết, ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa, giao lưu, hội nhập quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ
của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặc biệt là sự chống phá quyết liệt
của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam, sự nghiệp xây dựng nền
quốc phịng tồn dân, thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc đang đặt ra
những yêu cầu mới. Xây dựng “thế trận lòng dân”, bồi dưỡng, phát huy tinh
thần, ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc cho toàn dân,
nhất là lực lượng vũ trang, là yêu cầu quan trọng hàng đầu trong xây dựng nền
quốc phịng tồn dân, thế trận chiến tranh nhân dân. Cùng với xây dựng hệ
thống chính trị, xây dựng “thế trận lòng dân” nhằm tạo một lực lượng thống
nhất về ý chí và hành động, tạo nền tảng vững chắc cho việc xây dựng nền quốc
phịng tồn dân và thế trận chiến tranh nhân dân. Trọng tâm của xây dựng “thế
trận lòng dân” là xây dựng và củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà
nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, khơi dậy lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc
và trách nhiệm của mọi cơng dân. Để xây dựng “thế trận lịng dân” vững chắc,
cần thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an
ninh; gần dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến nhân dân, chăm lo lợi ích chính đáng

và khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Các cấp,
các ngành phải thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho toàn dân nêu cao tinh


thần cảnh giác cách mạng, làm cho người dân nhận rõ bản chất, âm mưu, thủ
đoạn của các thế lực thù địch, phản động; từ đó, nâng cao ý thức, trách nhiệm,
góp phần xây dựng nền quốc phịng tồn dân, thế trận chiến tranh nhân dân bảo
vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.
Với lực lượng vũ trang, muốn xây dựng được “thế trận lòng dân”, bồi dưỡng
phát huy tinh thần yêu nước, ý chí, quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, phải thực hiện tốt chính sách dân vận, coi trọng kỷ luật
dân vận. Cùng với đó, cần tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác giáo dục chính trị tư tưởng cho mọi quân nhân, nhằm bảo đảm cho Quân đội
luôn giữ vững bản chất giai cấp công nhân, kiên định mục tiêu lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với
nhân dân, luôn giữ vững và phát huy tốt phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong tình
hình mới.
Ba là, xây dựng Quân đội nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân
vững mạnh, làm nịng cốt cho tồn dân đánh giặc
Bước vào kháng chiến, ở Nam Bộ, lực lượng vũ trang cách mạng chưa có đơn
vị chủ lực, mà chỉ có các đội tự vệ, trang bị thô sơ, thiếu thốn. Trong khi đó, ở
Sài Gịn và Nam Bộ có 4 sư đồn tự lập, các đại đội cộng hòa vệ binh, hơn 20
chi đội (đa phần các chi đội gắn với tên người chỉ huy) và nhóm quyết tử, cảm
tử, cơng an xung phong, quốc vệ đội… với trang bị vũ khí thơ sơ, thiếu tổ chức,
kỷ luật. Trước tình hình đó, Xứ ủy Nam Bộ đặt nhiệm vụ vừa lãnh đạo triển
khai kháng chiến, vừa chú trọng thống nhất lực lượng vũ trang Nam Bộ. Ngày
20/11/1945, Hội nghị quân sự Nam Bộ dưới sự chủ trì của Xứ ủy và các phái
viên được Trung ương cử vào, như: Nguyễn Bình, Vũ Đức (Hồng Đình Giong)
đã đề ra nhiều biện pháp thống nhất lực lượng vũ trang cả về biên chế tổ chức,
địa bàn hoạt động, chiến thuật, đặc biệt là chú trọng giáo dục, quán triệt lý

tưởng cách mạng, mục tiêu chiến đấu cho bộ đội. Hội nghị quyết định thành lập
Giải phóng qn Nam Bộ do Nguyễn Bình làm Tổng Tư lệnh. Sau đó, thực hiện
sự chỉ đạo của Trung ương, Nam Bộ phân chia thành 3 chiến khu (7, 8, 9), tổ
chức lại các đơn vị bộ đội chủ lực, đề ra phương châm hoạt động, xây dựng cơ
sở và tác chiến phù hợp với từng địa bàn. Sự thống nhất và không ngừng lớn
mạnh của lực lượng vũ trang ở Nam Bộ cùng với việc vận dụng sáng tạo, phù
hợp phương thức tác chiến của chiến tranh nhân dân đã phát huy tốt vai trị nịng
cốt cho tồn dân kháng chiến, phát huy được sức mạnh toàn dân, tồn diện
khơng những trong năm đầu kháng chiến ở Nam Bộ mà trong suốt quá trình 9
năm kháng chiến chống thực dân Pháp.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cần quan tâm xây dựng
nền quốc phịng tồn dân và thế trận chiến tranh nhân dân. Bài học về tổ chức
xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và
dân quân tự vệ), trong đó tập trung xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh,
làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc trong Nam Bộ kháng chiến vẫn cần tiếp
tục nghiên cứu, vận dụng và phát huy. Trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới, việc xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức, trong đó xây dựng chính trị là cơ sở nền tảng, là nhiệm vụ
trọng yếu. Vì vậy, cấp ủy, lãnh đạo, chỉ huy các cấp phải luôn quán triệt sâu sắc


đường lối, quan điểm của Đảng, nhận thức đúng đắn vai trị, vị trí, chức năng,
phương thức xây dựng nền quốc phịng tồn dân, thế trận chiến tranh nhân dân;
trên cơ sở đó, đề ra chủ trương, giải pháp và cách thức thực hiện phù hợp. Về
xây dựng Quân đội, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI xác định:
Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng, tạo tiền đề
vững chắc để phấn đấu từ năm 2030 xây dựng Quân đội hiện đại; xây dựng lực
lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp; thực
hiện tốt vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phịng tồn dân. Tồn qn

sẵn sàng chiến đấu cao và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống, bảo vệ
vững chắc Tổ quốc, góp phần giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để xây
dựng và phát triển đất nước”. Nghiên cứu, điều chỉnh tổ chức, biên chế Quân
đội bảo đảm tinh, gọn, mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, phù
hợp với nghệ thuật quân sự Việt Nam và vũ khí, trang bị mới. Chú trọng xây
dựng Quân đội cả về con người và vũ khí trang bị, trong đó xây dựng con người
là trung tâm, là nhân tố quyết định trong việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc. Bảo đảm sự cân đối, đồng bộ giữa các quân chủng, binh chủng;
giữa cơ quan và đơn vị, giữa lực lượng thường trực và lực lượng dự bị động
viên. Tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng huấn luyện, giáo dục - đào tạo theo
tinh thần Nghị quyết số 765-NQ/QUTW ngày 20/12/2012 của Quân ủy Trung
ương về nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2013 - 2020 và những năm
tiếp theo; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu,
phù hợp với yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Thực hiện tốt phương
châm huấn luyện “cơ bản, thiết thực, vững chắc”; đẩy mạnh đổi mới nội dung,
hình thức, phương pháp huấn luyện, diễn tập, coi trọng huấn luyện đồng bộ và
chuyên sâu; sát thực tế chiến đấu, địa bàn hoạt động, đối tượng tác chiến, tổ
chức biên chế, sự phát triển của vũ khí, trang bị và nghệ thuật quân sự Việt
Nam, yêu cầu tác chiến trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao; kết hợp chặt
chẽ giữa huấn luyện quân sự với giáo dục chính trị, rèn luyện kỷ luật, xây dựng
niềm tin vào cách đánh, vũ khí, trang bị hiện có. Đặc biệt, tập trung tạo sự
chuyển biến về chất lượng huấn luyện làm chủ vũ khí, trang bị thế hệ mới, hiện
đại; huấn luyện, diễn tập tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng, diễn tập đối
kháng trong các mơi trường và tác chiến khu vực phịng thủ, làm cơ sở để nâng
cao trình độ, khả năng tác chiến của Quân đội. Kế thừa, phát huy thành tựu của
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiếp cận, ứng dụng thành tựu
của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào nghiên cứu phát triển nghệ
thuật quân sự, khoa học, công nghệ quân sự, công nghiệp quốc phịng, đẩy
nhanh hơn nữa tiến trình hiện đại hóa Qn đội, trước hết là các lực lượng được
xác định tiến thẳng lên hiện đại, tạo bước chuyển mang tính đột phá về trình độ,

khả năng SSCĐ, sức mạnh tổng hợp của Quân đội, sẵn sàng bảo vệ vững chắc
Tổ quốc trong mọi tình huống.
Bốn là, xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân
dân, sẵn sàng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc
Ngay sau khi quân Pháp nổ súng xâm lược, chiều ngày 23/9/1945, dưới sự chỉ
đạo của Ủy ban kháng chiến Nam Bộ, cả Sài Gịn đình cơng, ngừng các hoạt
động cơng sở, xí nghiệp, hãng bn, chợ, trường học, giao thông; điện, nước bị


cắt; chiến lũy hình thành trên nhiều đường phố. Các đội tự vệ, thanh niên xung
kích nhanh chóng triển khai chiến đấu. Những trận đánh ác liệt đã diễn ra liên
tục nhiều ngày. Ủy ban kháng chiến Nam Bộ chia nội thành Sài Gòn thành 4
mặt trận tiền tuyến ngăn chặn địch và tiêu diệt quân Pháp đang mở cuộc phá
vây. Mặt trận phía Đơng ngăn chặn qn địch trên chiến tuyến kéo dài từ ngã ba
sông Thị Nghè đến Cầu Bơng; Mặt trận phía Bắc án ngữ cửa ngõ đường số 1 đi
Tây Ninh, Campuchia, khu vực Bà Điểm - Hóc Mơn và trục đường 15; Mặt trận
phía Tây án ngữ đường Đơng Dương 16, đường sắt Sài Gịn - Mỹ Tho, đường
bộ Sài Gòn về miền Tây Nam Bộ; Mặt trận phía Nam ngăn chặn qn địch từ
xóm Kênh Tẻ đến cầu Chữ Y và cầu Bình Đăng.
Các mặt trận vừa chiến đấu ngăn chặn địch, vừa tổ chức các đơn vị mũi nhọn bí
mật luồn vào nội đơ tập kích nhiều vị trí qn Pháp, phá hoại các khu quân sự,
các cơ sở kinh tế, nhà máy, kho tàng của địch, hình thành thế trận “trong đánh,
ngồi vây”. Thế trận này được tạo ra với sự phối hợp có hiệu quả của lực lượng
chính trị và qn sự cả trong và ngồi thành phố. Theo đó, bên trong gồm các
đơn vị tự vệ chiến đấu, các đơn vị vũ trang. Lực lượng vũ trang nội thành được
tổ chức tinh gọn thành các “ban”, “đội” theo yêu cầu nhiệm vụ (trinh sát, hành
động, cảm tử, phá hoại, trừ gian, ám sát...). Đến tháng 4/1946, các ban, đội lại
được chuyển đổi thành 6 ban công tác Thành (từ số 1 đến số 6). Ngồi ra, cịn
có lực lượng Tự vệ Thành gồm 15 khu, đội tự vệ, các đội cơng an xung phong,
Ban Tình báo Thành. Các lực lượng tự vệ chiến đấu nội đô được sự đùm bọc,

giúp đỡ của nhân dân đã tích cự hoạt động quấy rối, phục kích tiêu hao, tiêu diệt
quân Pháp, trừng trị Việt gian.
Phối hợp với lực lượng bên trong, Ủy ban kháng chiến cịn tổ chức lực lượng
chiến đấu bên ngồi. Từ cuối năm 1945 đến đầu năm 1946, Xứ ủy lần lượt
thành lập các chi đội Vệ quốc đoàn (tương đương trung đoàn) của tỉnh Gia Định
(chi đội 6, 12); Chợ Lớn (chi đội 13, 15); Khu 7 (các chi đội 2, 3, 4, 7, 9, 21)…
Đầu năm 1946, toàn Nam Bộ có 25 chi đội, riêng Sài Gịn - Chợ Lớn - Gia Định
có 10 chi đội. Từ giữa tháng 10/1945, Xứ ủy và Ủy ban kháng chiến Nam Bộ
chủ trương lập những khu căn cứ kháng chiến ngay ở ngoại ơ, phụ cận Sài Gịn,
với phương châm khơng rút đi xa mà cố bám đất, bám dân, thực hiện chiến
tranh du kích, chiến tranh nhân dân. Nhờ vậy, hệ thống căn cứ địa bao quanh
thành phố được hình thành và phát huy hiệu quả to lớn trong chiến đấu, sớm
nhất là các căn cứ An Phú Đông, Rừng Sác, Vườn Thơm… Cùng với việc củng
cố, tổ chức, xây dựng về lực lượng, Xứ ủy, Ủy ban kháng chiến triển khai thế
trận chiến tranh nhân dân rộng khắp Sài Gòn và các địa phương, dựa vào nhân
dân để huy động mọi nguồn lực, bổ sung lực lượng, huy động sức mạnh toàn
dân, lấy tác chiến của lực lượng vũ trang làm nịng cốt cho tồn dân đánh giặc.
Các căn cứ địa, chiến khu xung quanh Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định xuất hiện
ở Nam Bộ đầu kháng chiến chống thực dân Pháp thực sự là các bàn đạp quân sự
- chính trị, phát huy hiệu quả trong tổ chức chiến đấu đánh địch và nơi cung cấp
nhân lực, hậu cần cho kháng chiến.
Bài học về xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân trong Nam Bộ kháng chiến
vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phịng tồn dân, thế
trận chiến tranh nhân dân hiện nay. Ngày nay, trong điều kiện thời bình, cấp ủy,


chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong toàn quân tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tham
mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm chăm lo xây dựng nền quốc
phịng tồn dân, gắn với thế trận an ninh vững mạnh; thực hiện tốt công tác xây
dựng cơ sở chính trị, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng căn cứ

cách mạng. Phát huy vai trò của khu kinh tế - quốc phòng trên các tuyến biên
giới, hải đảo; gắn phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phịng, an ninh,
thu hút đơng đảo đồng bào các dân tộc tham gia, góp phần xây dựng khu vực
biên giới hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Tích cực tham gia thực hiện
các chương trình xây dựng nơng thơn mới, giúp dân xóa đói giảm nghèo; quan
tâm thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội; đồng thời, Quân đội phải
thực hiện tốt nhiệm vụ giúp dân phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm cứu
nạn và xác định đây là nhiệm vụ chiến đấu trong thời bình.
Tiếp tục quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22/9/2008
của Bộ Chính trị (Khóa X), về “Tiếp tục xây dựng tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới”. Tập trung
xây dựng các tiềm lực trong khu vực phịng thủ, trong đó quan tâm xây dựng
tiềm lực chính trị - tinh thần. Thực hiện tốt việc kết hợp giữa kinh tế với quốc
phòng, an ninh; quan tâm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường
quốc phòng, an ninh trên các địa bàn trọng điểm, chiến lược, biên giới, biển,
đảo, nhằm xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân vững mạnh nơi “phên giậu”
Tổ quốc. Quan tâm đầu tư ngân sách xây dựng thế trận qn sự, các cơng trình
quốc phịng trong khu vực phòng thủ, tương xứng với tốc độ phát triển và tiềm
lực kinh tế của địa phương. Thực hiện đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên
xây dựng các cơng trình trong căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương, căn cứ hậu
cần, kỹ thuật, khu vực phòng thủ then chốt, sở chỉ huy các cấp, chốt chiến dịch;
gắn với phòng thủ dân sự, tạo lập thế trận rộng khắp, liên hoàn, vững chắc giữa
các khu vực phòng thủ với phòng thủ quân khu và trên từng hướng chiến lược,
sẵn sàng cho các tình huống quốc phịng, an ninh.
Xây dựng nền quốc phịng tồn dân, thế trận chiến tranh nhân dân hiện nay cần
gắn với tổ chức, bố trí lực lượng, xây dựng tiềm lực của đất nước, sẵn sàng triển
khai, chuyển hóa lực lượng và tiềm lực quốc phòng một cách đồng bộ theo ý
định, kế hoạch chiến lược trên toàn lãnh thổ, nhằm làm cho thế trận quốc phịng
tồn dân, thế trận chiến tranh nhân dân ngày càng được củng cố vững chắc.
Trên các hướng, địa bàn chiến lược, cần bố trí lực lượng cân đối, hợp lý giữa

lực lượng tại chỗ và lực lượng cơ động, lực lượng của địa phương và lực lượng
của Bộ, giữa các quân chủng, binh chủng, ngành; tạo thế trận liên hoàn, vững
chắc, phát huy sức mạnh các lực lượng, bảo đảm khả năng tác chiến trên bộ,
trên không, trên không gian mạng, trên biển, đảo, bảo vệ vững chắc độc lập chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Năm là, đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phịng trong tình hình
mới; nắm chắc, dự báo kịp thời, chính xác tình hình trong nước, khu vực và
quốc tế để có đối sách phù hợp, hiệu quả
Trong những ngày chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 và chuẩn bị
kháng chiến, Xứ ủy Nam Bộ đã nắm chắc đường lối, chủ trương của Trung
ương Đảng, dự báo chính xác sự phát triển của tình hình, âm mưu, thủ đoạn của


×