Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

SOẠN văn bài tây TIẾN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.71 KB, 75 trang )

TÂY TIẾN
QUANG DŨNG
1. Quang Dũng.
– Quang Dũng (1921-1988) tên khai sinh là Bùi Đình Diệm, quê ở Hà Tây.
– Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Nhưng
Quang Dũng được biết đến nhiều là một nhà thơ. Thơ Quang Dũng hồn hậu, phóng
khống, đậm chất lãng mạn và tài hoa. Các tác phẩm chính: Mây đầu ơ, Thơ văn Quang
Dũng…
2. Hồn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
– Tây Tiến vừa chỉ hướng hành quân, vừa là tên một đơn vị quân đội được thành lập
đầu năm 1947.
– Tây Tiến có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt –Lào, đồng thời
đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở miền tây Bắc Bộ Việt
Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân TT khá rộng nhưng chủ yếu là ở
biên giới Việt – Lào. Chiến sĩ Tây Tiến phần đơng là thanh niên, học sinh, trí thức Hà
Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét
hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.
– Quang Dũng là đại đội trưởng ở đơn vị Tây Tiến từ đầu năm 1947, rồi chuyển sang
đơn vị khác. Rời đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ
Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là Tây Tiến. Tây Tiến là một bài thơ
xuất sắc, có thể xem là một kiệt tác của Quang Dũng, xuất hiện ngay trong thời gian đầu
của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
3. Đặc điểm nổi bật của bài thơ Tây Tiến
– Cảm hứng lãng mạn: Tác phẩm đã bày tỏ mạch cảm xúc tràn trề của cái tơi trữ tình –
nỡi nhớ nồng nàn bao bọc cả bài thơ. Sử dụng nhiều hình ảnh gây ấn tượng mạnh, phát
huy cao độ trí tưởng tượng khiến cho bài thơ có nhiều so sánh liên tưởng độc đáo. Đối
tượng miêu tả có nhiều nét phi thường, thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, dữ dội, vừa
thơ mộng trữ tình, hoang sơ mà ấm áp, người lính Tây Tiến hào hoa, mộng mơ, lãng
mạn. Sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập: đối lập về hình ảnh, thanh điệu, tính cách của
người lính TT.
– Âm hưởng bi tráng: “bi” là đau buồn, “tráng” là khỏe khoắn, mạnh mẽ. Tác phẩm có


âm hưởng bi
tráng thường khơng né tránh những chuyện xót xa, đau lòng nhưng bao giờ cũng đưa
đến những xúc cảm mạnh mẽ, rắn rỏi. Tác giả đã nhắc đến những khó khăn gian khổ
trong những cuộc hành quân, nói đến những mất mác, hi sinh, nhưng trong cái đau
thương ấy đã hàm chứa những nét đẹp hùng. Bi mà không luỵ. Cái bi được thể hiện
bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng.
– Chất lãng mạn hoà hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.
4. Nội dung và nghệ thuật của bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.


a. Nội dung:
– Bức tranh thiên nhiên vùng Tây Bắc tổ quốc ta vừa tráng lệ, hùng vĩ vừa nên thơ, trữ
tình.
– Khẳng định, ca ngợi vẻ đẹp đậm chất bi tráng về hình ảnh người lính Tây Tiến: tâm
hồn lãng mạn, khí phách anh hùng, lí tưởng cao cả Vẻ đẹp của chiến sĩ Việt Nam trong
kháng chiến chống Pháp.
– Thể hiện tình u, sự gắn bó, niềm tự hào của tác giả về trung đoàn Tây Tiến và quê
hương Tây Bắc trong những năm kháng chiến chống Pháp.
* Đoạn 1: Nỗi nhớ của tác giả và con đường hành qn của trung đồn Tây Tiến:
“ Sơng Mã xa rồi Tây Tiến ơi!…………Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
– Nỡi nhớ của tác giả:
Nhà thơ Quang Dũng gắn bó với trung đồn Tây Tiến, gắn bó với núi rừng Tây Bắc
trong những năm kháng chiến . Vì thế mà khi xa Tây Tiến, xa Tây Bắc – xa đơn vị bộ
đội , xa vùng đất nhiều kỉ niệm kháng chiến tác giả nhớ nhung da diết:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
– Mở đầu bài thơ là lời gọi tha thiết , ngọt ngào. Tác giả gọi tên đơn vị “ Tây Tiến” , gọi
tên con sông vùng Tây Bắc “ sông Mã” mà thân thiết , dạt dào cảm tình như gọi tên
những người thân thương trong cuộc đời mình.Phải chăng trung đoàn Tây Tiến, núi
rừng Tây Bắc gần gũi , thân thương với tác giả và khi xa thì Tây Bắc, Tây Tiến trở

thành một “ mảnh tâm hồn” của tác giả.
– Tác giả rất thành công trong việc sử dụng nghệ thuật điệp từ “ nhớ “ và từ láy “ chơi
vơi”, tác giả “ nhớ chơi vơi” nỗi nhớ ấy không xác định được hết đối tượng , nhớ sông
Mã , nhớ Tây Tến, nhớ núi rừng Tây Bắc , … nhớ tất cả. Những nơi trung đoàn Tây
Tiến đã đi qua, những đồng đội từng gắn bó,…tất cả đều trở thành kỉ niệm khơng thể
nào qn.Chính vì thế mà khi xa Tây Tiến, xa Tây Bắc trong tâm hồn tác giả trào dâng
nỗi nhớ da diết, mãnh liệt.
– Con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến: Qua nỗi nhớ da diết của nhà thơ , con
đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến nơi Tây Bắc hiện lên khá rõ nét.
– Trước hết là những vùng đất mà đồn qn đã đi qua, gắn bó, mỡi vùng đất với một
nét riêng khơng dễ gì qn:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
….
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
…..
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
……
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
+ Ở Sài Khao thì sương nhiều như muốn che lấp cả đồn qn khiến cho đồn qn mỏi
mệt Đó cũng chính là những gian khổ mà chiến sĩ phải vượt qua.


+ Nếu như ở Sài Khao đoàn quân phải vất vả, mệt nhọc thì khi về Mường Lát thật ấm
áp, lãng mạn bởi “ hoa về trong đêm hơi”. “ Hoa”, “ hơi” là hai hình ảnh làm cho bức
tranh Mường Lát thêm gần gũi, trìu mến.
+ Về Pha Lng thì mưa rừng thật thú vị, vừa hành quân vừa ngắm cảnh vật dưới mưa
thật lãng mạn, trữ tình.
+ Có lẽ “ấm lòng” nhất là khi hành quân về vùng Mai Châu , hương vị đặc sản “ nếp
xôi”của vùng đất ấy khiến các anh chiến sĩ dẫu có xa cũng không thể nào quên.

+ Còn ghê rợn nhất là khi về Mường Hịch, cái âm thanh phát ra từ núi rừng ấy thật là
khiến cho con người cảm giác bất an : “cọp trêu người”.
Mỡi vùng đất trung đồn Tây Tiến đi qua đều để lại dấu ấn trong tâm hồn, tuy có nhiều
gian nan, vất vả nhưng cũng rất lãng mạn, trữ tình.
– Con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến được tác giả khái quát rõ nhất qua
đoạn thơ:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
…..
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Đoạn thơ ngắn nhưng thể hiện nét bút tài hoa của Quang Dũng. Ơng thành cơng trong
việc sử dụng ngơn từ, hình ảnh, bút pháp,…
+ Hàng loạt từ láy gợi hình ảnh, cảm xúc “khúc khuỷu”, “ thăm thẳm”, “ Heo hút”
+ Hình ảnh vừa hiện thực vừa táo bạo, phi thường như dốc cao khiến súng chạm trời – “
súng ngửi trời”, dốc lên bao nhiêu thì xuống bấy nhiêu “ ngàn thước lên cao , ngàn
thước xuống” .
+ Kết hợp hình ảnh với những âm thanh đặc sắc như “ thác gầm thét”, “ cọp trêu người”
+ Sử dụng nhiều thanh Trắc.
+ Đoạn thơ đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Nét bút tài hoa của Quang Dũng đã vẽ lại con đường hành quân- chiến đấu của trung
đoàn Tây Tiến trong những năm kháng chiến chống Pháp , con đường ấy thật gian khổ,
hiểm nguy với đèo cao , dốc hiểm và thú rừng dữ tợn nhưng cũng thật lãng mạn, khó
quên.
– Sau hàng loạt những câu thơ sử dụng thanh Trắc tác giả phóng bút một câu thơ tồn
thanh Bằng khá độc đáo “ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Phải chăng sau những đoạn đường hành quân, chiến đấu vất vả thì chiến sĩ Tây Tiến
được thưởng thức nét lãng mạn của cơn mưa rừng, được thưởng thức nét đẹp của nhà ai
thấp thoáng trong màn mưa. Những giây phút lãng mạn , thơ mộng trên con đường hành

quân là ngọn nguồn sức mạnh để các chiến sĩ vượt qua gian lao, thử thách.
Qua con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến ta cảm nhận được vẻ đẹp riêng của
núi rừng Tây Bắc và trung đoàn Tây Tiến. Tây Bắc vừa hùng vĩ, tráng lệ vừa nên thơ,
trữ tình. Chiến sĩ Tây Tiến kiên cường, bất khuất, sẵn sàng vượt gian lao thử thách để


thực hiện nhiệm vụ trong hồn cảnh đất nước có chiến tranh.
– Và trên con đường hành quân, chiến đấu , cũng có những chiến sĩ khơng còn đủ sức
để tiếp tục nhiệm vụ, lí tưởng của mình:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Hai câu thơ gợi cái bi, sự mất mác , đau thương . Nhưng dẫu các anh “ không bước
nữa”, “ bỏ quên đời “ thì vẫn trong tư thế cầm súng. Một số chiến sĩ Tây Tiến không
tiếp tục sự nghiệp , lí tưởng bởi lẽ sức đã kiệt. Các anh sống và chiến đấu trong điều
kiện thiếu thốn thuốc men, lương thực, lại bị những cơn sốt rét rừng hồnh hành nên
khơng còn đủ sức để tiếp bước. Đây là hiện thực đau thương khó tránh khỏi trong
những năm kháng chiến nên Quang Dũng cũng không ngần ngại khi nhắc đến. sự ra đi
của đồng đội là mất mác không thể nào quên của đại đội trưởng Quang Dũng. Tác giả
nhắc đến để tưởng nhớ, buồn thương , tự hào về đồng đội của mình và càng thơi thúc
tinh thần chiến đấu để giành lấy sự bình yên, hạnh phúc, độc lập, tự do.
Đoạn mở đầu bài thơ “ Tây Tiến” da diết nỗi nhớ đồng đội , nhớ núi rừng Tây Bắc của
tác giả Quang Dũng. Qua nỗi nhớ, con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến và
bức tranh núi rừng Tây Bắc hiện về khá rõ nét.
Đó cũng chính là cái “Tình “ mà Quang Dũng dành cho Tây Tiến ,Tây Bắc : Yêu mến,
gắn bó và tự hào.
( Chế Lan Viên : Khi ta ở , chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn )
* Đoạn 2: Những kỉ niệm đẹp của trung đoàn Tây Tiến trong những năm kháng chiến
chống Pháp.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa……….Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

* Kỷ niệm đẹp một thời trận mạc đã trở thành hành trang của người lính Tây Tiến.
Đúng vậy, các chiến sĩ Tây Tiến cũng như chính tác giả cũng không thể nào quên những
kỉ niệm trong những năm kháng chiến cùng đồng đội, quân dân. Kỉ niệm khó quên nhất
có lẽ là những đêm liên hoan lửa trại:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa…….Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
+ Đêm “ hội đuốc hoa” là đêm liên hoan lửa trại giữa chiến sĩ Tây Tiến với đồng bào
( Tây Bắc, Lào) .
“ Doanh trại bừng lên “ – tác giả sử dụng từ “ bừng lên” thật hay, làm bừng sáng và tỏa
hơi ấm cho không gian đêm hội. Đêm hội có ánh sáng, hơi ấm của “ đuốc hoa”, có tiếng
khèn, điệu nhạc và có “em” trong trang phục xiêm áo đang yểu điệu , thướt tha , e ấp,
dịu dàng. “ Em” ở đây là cơ gái, có thể là các cơ gái miền núi Tây Bắc nước ta, có thể là
các cơ gái Lào. Sự xuất hiện của các cô gái làm cho đêm hội thêm vui vẻ, ấm áp và
quyến rũ, say lòng người.
+ Chiến sĩ Tây Tiến đa phần là những chàng trai Hà Nội hào hoa, lãng mạn và có chút
đa tình nên khi các cơ gái xuất hiện trong ánh lửa, tiếng khèn điệu nhạc khiến các anh
ngạc nhiên , thích thú, say mê. Niềm vui, thái độ thích thú của các anh được tác giả diễn
tả ở từ “ Kìa”. Phải chăng các anh ngạc nhiên vì nơi núi rừng ấy lại có những “ đóa


hoa” say lòng người đến thế.
+ Say mê , thích thú trong đêm hội để về “ xây hồn thơ” các chiến sĩ xây mộng với các
cô gái Các chiến sĩ thật là lãng mạn.
+ Tài hoa của Quang Dũng trong đoạn thơ là kết hợp hài hòa hình ảnh, âm thanh, ánh
sáng,… Đoạn thơ là bức tranh đêm hội đuốc hoa thật vui vẻ ,ấm áp , lãng mạn . Và đó
cũng chính là một trong những kỉ niệm khơng thể nào qn của trung đồn Tây Tiến,
minh chứng cho tình cảm đồng đội, tình quân dân nồng nàn, thắm thiết. Giây phút vui
vẻ, hạnh phúc cùng đồng bào, tình cảm quân dân thắm thiết là hành trang của các chiến
sĩ trên chiến trường ác liệt.
* Trung đoàn Tây Tiến qua nhiều vùng đất nơi Tây Bắc, mỗi vùng đất với nét đẹp riêng
khó quên. Nếu Sài Khao có sương nhiều như che lấp cả đoàn quân Tây Tiến , Mường

Hịch có tiếng cọp khiến con người ghê sợ , vùng Mai Châu có hương vị cơm nếp thật
hấp dẫn ,…thì Châu Mộc cũng thật lãng mạn, trữ tình.
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy….Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Bốn câu thơ theo dòng hồi tưởng “trôi” về miền đất lạ, đó là Châu Mộc thuộc tỉnh Sơn
La, nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mơng, có dãy núi Pha Lng cao 1884 mét , nơi
có bản Pha Luông sầm uất của người Thái. Quang Dũng đã khám phá ra bao vẻ kì thú
của miền Châu Mộc. Năm tháng đã đi qua và miền đất ấy trở thành một mảnh trong tâm
hồn của bao người.
“ Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn” ( Chế Lan Viên )
+ “Chiều sương ấy” là chiều thu năm 1947 , sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu
làm cho cảnh, người càng thêm thơ mộng, trữ tình. Buổi chiều thu đầy sương ấy in đậm
hồn người khiến cho hoài niệm thêm mênh mang. Chữ “ấy” bắt vần với chữ “ thấy” tạo
nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi “có thấy” cất lên trong lòng.
+ “ Hồn lau” là hồn mùa thu, hoa lau nở trắng, lá lau xào xạc trong gió thu nơi bờ sơng
bờ suối“nẻo bến bờ”.
Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên
Châu Mộc qua cảnh sắc “ chiều sương” và “ hồn lau nẻo bến bờ”.
+ Điệp ngữ “ có thấy”, “ có nhớ” làm cho hoài niệm về chiều sương Châu Mộc thêm
phần man mác, bâng khng. Trong chia phơi còn có nhớ , nhớ cảnh rồi nhớ đến người.
“ Có nhớ” con thuyền độc mộc và dáng người chèo thuyền độc mộc? “ Có nhớ” hình
ảnh “hoa đong đưa” trên dòng nước lũ ? “ Hoa đong đưa” là hoa rừng đong đưa làm
duyên trên dòng nước hay là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây Bắc xinh đẹp lái
thuyền duyên dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang đong đưa
trên dòng suối? Và nếu là hình ảnh gợi tả các cơ gái Tây Bắc thì các cơ gái ấy phải có
“tay lái ra hoa” mới có thể “ đong đưa” được như vậy. Quang Dũng thật tài tình và con
người Tây Bắc thật tài hoa!
Bốn câu thơ là những dòng hồi tưởng về cảnh sắc và con người nơi Tây Bắc, nơi cao
nguyên Châu Mộc.Với bút pháp tài hoa và tâm hồn lãng mạn , Quang Dũng vẽ lại bức
tranh tuyệt đẹp về thiên nhiên và con người Tây Bắc.



+ Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc thật hoang vu, là chốn rừng thiêng nước độc nhưng tác giả
đã khám phá ra được nét đẹp thật thơ mộng, lãng mạn của cảnh và người .Nhà thơ gắn
bó với cảnh vật, với con người Tây Bắc, vào sinh ra tử với đồng đội mới có những kỉ
niệm đẹp và sâu sắc như vậy, mới có thể viết nên những vần thơ sáng giá đến như thế.
Bức tranh chiều sương Châu Mộc và đêm hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của
một danh họa mang vẻ đẹp màu sắc cổ điển và lãng mạn, kết hợp hài hòa tính thời đại
và hiện đại trong máu lửa chiến tranh.
Bức tranh chiều sương Châu Mộc và đêm hội đuốc hoa là tài năng , tâm hồn và sự gắn
bó sâu nặng của Quang Dũng với trung đoàn Tây Tiến, với núi rừng Tây Bắc và với quê
hương đất nước trong những năm kháng chiến chống Pháp.
* Đoạn 3 : chân dung chiến sĩ Tây Tiến với khí phách anh hùng, tâm hồn lãng mạn
trong máu lửa chiến tranh.
TâyTiến đồn binh khơng mọc tóc………Sơng Mã gầm lên khúc độc hành
* Trên những nẻo đường hành quân , chiến đấu , vượt qua bao đèo cao dốc hiểm , đoàn
quân Tây Tiến hiện ra giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp vừa kiêu hùng vừa cảm động.
Người chiến binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da phong sương vì sốt
rét rừng, thiếu thuốc men, lương thực,…
TâyTiến đồn binh khơng mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
– Hai câu thơ trần trụi như hiên thực chiến tranh những năm tháng kháng chiến chống
Pháp. Hình ảnh đồn qn “ khơng mọc tóc” vừa gợi nét bi hài vừa phản ánh cái khốc
liệt của chiến tranh.
Cái hình hài khơng lấy gì làm đẹp “khơng mọc tóc”, “ xanh màu lá” tương phản với
nét“ dữ oai hùm”. Với bút pháp tài hoa, Quang Dũng làm bật chí khí hiên ngang , tinh
thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm quân giặc khiếp sợ.
– “ Dữ oai hùm” là hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí của người lính Tây Tiến , tuy các
chiến sĩ có gầy, xanh nhưng khơng hề yếu, chí khí của người lính vẫn như con hổ nơi
rừng xanh. Cái tài của Quang Dũng là khắc họa chân dung bên ngoài của chiến sĩ Tây

Tiến tuy gầy , xanh nhưng vẫn toát lên được cái oai phong, khí phách của người lính cụ
Hồ.
* Các chiến sĩ Tây Tiến tuy hành quân, chiến đấu trong mn vàn gian khổ, thiếu thốn,
bệnh tật,…nhưng vẫn có những giấc mơ, giấc mộng rất đẹp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới…….Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Các chiến sĩ Tây Tiến mộng và mơ gửi về hai phía chân trời : biên giới và Hà Nội, biên
giới là nơi còn đầy bóng giặc, Hà Nội là nơi còn đó những kỉ niệm, những người thân
thương,…
– Mắt trừng – hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh
táo của người lính trong khói lửa ác liệt , “gửi mộng qua biên giới” là mộng tiêu diệt kẻ
thù,bảo vệ biên cương , lập nên chiến cơng nêu cao truyền thống anh hùng của đồn
qn Tây Tiến, của chiến sĩ cụ Hồ.
– Các chiến sĩ Tây Tiến lại có những giấc mộng đẹp về Hà Nội ,về “ dáng kiều thơm”.


Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên Hà Nội “ Xếp bút nghiên theo việc đao,
cung”, họ là những chàng thanh niên trẻ hào hoa, lãng mạn và có chút đa tình. Khi xa
Hà Nội, tiến về Tây Bắc để thực hiện nhiệm vụ thì các chiến sĩ luôn “Ngàn năm thương
nhớ đất Thăng Long”. Sống giữa chiến trường ác liệt nhưng tâm hồn các anh luôn
hướng về Hà Nội , mơ về Hà Nội. Đúng vậy, làm sao các anh có thể quên được hàng
me, hàng sấu, phố cổ trường xưa? ,… Làm sao các anh quên được những tà áo trắng,
những cô gái thân thương,… những “dáng kiều thơm” đã từng hò hẹn,…? Hình ảnh “
dáng kiều thơm” của Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều điều thú vị , ngơn từ
vốn có trong thơ lãng mạn thời “tiền chiến” nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng nó
trở nên có hồn, đặc tả được chất lính trẻ trung, hào hoa, lãng mạn của binh đồn Tây
Tiến trong trận mạc.
Viết về “mộng” và “ mơ “ của trung đoàn Tây Tiến , Quang Dũng đã ca ngợi tinh thần
lạc quan, yêu đời của đồng đội. Đó cũng chính là nét khám phá của nhà thơ khi vẽ chân
dung người lính cụ Hồ xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong những năm kháng chiến
chống Pháp.

* Bốn câu thơ tiếp theo tô đậm chân dung chiến sĩ Tây Tiến:
– Trong gian khổ chiến trận , bao đồng đội đã ngã xuống trên mảnh đất miền Tây, họ
nằm lại nơi chân đèo góc núi :
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ……..Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Câu thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”để lại trong lòng ta nhiều thương cảm , biết
ơn, tự hào,…. Câu thơ gợi cái bi, nếu đứng một mình thì nó gợi một bức tranh xám
lạnh, ảm đạm, hiu hắt ,…và đem đến cho người đọc nhiều xót thương. Nhưng cái tài
của Quang Dũng là đã tạo cho nó một văn cảnh, tiếp theo sau là “Chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh”. Khi nằm trong văn cảnh ấy thì câu thơ càng thể hiện chí khí, tinh thần
của người lính Tây Tiến. “Đời xanh” là đời trai trẻ, tuổi xuân. “Chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh” là họ sẵn sàng ra trận vì lí tưởng cao đẹp: bảo vệ biên cương, tiêu diệt kẻ
thù, giành độc lập tự do,… Họ là những thanh niên Hà Nội, họ tiến về miền Tây của Tố
quốc vì nghĩa lớn của chí khí làm trai. Dẫu thấy cái chết trước mắt họ vẫn không sợ, họ
coi cái chết nhẹ như lông hồng. Họ sẵn sàng “ quyết tử cho Tố quốc quyết sinh”.
Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề thiêng liêng,
cao cả. Các anh quyết đem xương máu bảo vệ Tổ quốc , bảo vệ độc lập tự do cho dân
tộc. Tinh thần của người lính Tây Tiến cũng như quyết tâm sắt đá của dân tộc ta trong
những năm kháng chiến chống Pháp:” chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
– Cảnh trường bi tráng giữa chiến trường miền Tây thuở ấy được tác giả ghi lại ở hai
câu cuối của đoạn thơ:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Các chiến sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh.
Các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ , với tấm áo bào bình dị ấy “về với đất”.
Một sự ra đi thật nhẹ nhàng, thanh thản ! Anh giết giặc vì quê hương, anh ngã xuống là


“ về đất” , nằm trong lòng Mẹ tổ quốc thân thương. Nhà thơ không dùng từ “ chết”, “ hi
sinh” mà dùng từ “ về đất” để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm lặng mà thanh

thản của người lính Tây Tiến. Chiến sĩ Tây Tiến đã sống và chiến đấu
cho quê hương,đã hi sinh cho quê hương, “anh về đất” bằng tất cả tấm lòng thủy chung
son sắt với Tố quốc. Vì thế mà “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Đây là câu thơ hay, gợi tả khơng khí thiêng liêng, trang trọng đồng thời tạo âm điệu
trầm hùng, thương tiếc. “Sông mã gầm lên “ hay hồn thiêng sông núi đang tấu lên khúc
nhạc tiễn đưa linh hồn các anh về nơi an nghỉ cùng đất Mẹ.
* Đoạn thơ viết về chân dung chiến sĩ Tây Tiến là đoạn thơ độc đáo nhất trong bài .
Đoạn thơ đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn , kết hợp vận dụng sáng tạo
trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc tạo nên những câu thơ có hồn và khắc họa được vẻ
đẹp bi tráng của chiến sĩ Tây Tiến. Các chiến sĩ Tây Tiến đã sống anh hùng và chết vẻ
vang. Chính vì thế mà hình ảnh người lính Tây Tiến, người lính cụ Hồ mãi mãi là một
tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc:
“ Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế !” ( Tố Hữu )
* Khắc họa chân dung chiến sĩ Tây Tiến đậm chất bi tráng Quang Dũng khẳng định ,
ngợi ca tinh thần yêu nước , chủ nghĩa anh hùng của chiến sĩ Tây Tiến, chiến sĩ Việt
Nam trong kháng chiến chống Pháp. Đồng thời qua đó thể hiện nét bút tài năng và tình
cảm u mến, gắn bó, tự hào về trung đoàn Tây Tiến của Quang Dũng.
b. Nghệ tḥt:
– Ngơn từ giàu hình ảnh, cảm xúc; nhiều từ ngữ Hán Việt ; từ ngữ chỉ địa danh.
– Sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như nhân hóa, đối lập, điệp,..
– Hình ảnh đặc sắc, đậm chất thơ chất nhạc.
– Kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và bút pháp bi tráng.
Nét bút tài hoa của Quang Dũng.
ƠN TẬP BÀI TÂY TIẾN
Có các dạng đề thi như sau :
Dạng 1 :Cảm nhận về đoạn thơ trong bài Tây Tiến- Quang Dũng
Dạng 2 : Nghị luận ý kiến bàn về bài Tây Tiến- Quang Dũng
Dạng 3 : So sánh đoạn thơ trong bài Tây Tiến- Quang Dũng với đoạn thơ trong bài
thơ khác có cùng chủ đề hoặc có điểm tương đồng về nội dung.

Với bài Tây Tiến- Quang Dũng, đề thi có thể yêu cầu so sánh với Việt Bắc, Đất nước,
hoặc đoạn thơ miêu tả hình tượng người lính ,…
Dạng 4 : Liên hệ thực tế.


Dang 5 : Cảm nhận hình tượng người lính Tây Tiến, cảm nhận chi tiết , hình ảnh,

Ví dụ đề bài cho phân tích hình tượng người lính Tây Tiến , từ đó liên hệ tới hình ảnh
người chiến sĩ đang ngày đêm bảo vệ biển đảo quê hương chẳng hạn,… hoặc liên hệ tới
lí tưởng sống của thanh niên thời nay.
Một số đề bài tham khảo :
MỘT SỐ ĐỀ THAM KHẢO VỀ BÀI TÂY TIẾN
ĐỀ 1 : Cảm nhận đoạn thơ sau ... (Dạng đề đơn giản, dễ làm nhất )
Trong bài Tây Tiến, các em cần học thuộc và phân tích đoạn 1-2-3, đoạn 4 khả năng thi
rất thấp.
Đề 2 :Cảm nhận của em về hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ Tây Tiến của
Quang Dũng
Bài tham khảo
Hình ảnh người lính nói chung và những người lính thời kỳ chống Pháp nói riêng từ lâu
đã đi vào văn chương như một nguồn thi cảm. Các nhà thơ viết về người lính với tất cả
niềm kiêu hãnh, tự hào. Giữa muôn vàn những tác phẩm như vậy,Tây Tiến là bài thơ có
vị trí đặc biệt. Tây Tiến là một trong những bài thơ sớm nhất viết về người lính cách
mạng, ra đời ngay trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và trở
thành thi phẩm xuất sắc của nền thơ Việt Nam từ sau năm 1945 cùng với hình tượng
người lính Tây Tiến.
Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp
với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt- Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở
Thượng Lào va miền Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn
quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây
Thanh Hóa và cả Sầm Nưa ( Lào).

Về xuất thân, các chiến sĩ Tây Tiền phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều
học sinh, sinh viên. Mặc dù hồn cảnh chiến đấu rất gian khổ, thiếu thốn về vật chất,
thuốc men với căn bệnh sốt rét hoành hành dữ dội nhưng những người lính Tây Tiến
vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Có thể nói những người lính Thủ đơ
đã đi vào cuộc kháng chiến mang theo vẹn nguyên cái mộng mơ, lãng mạn, hào hoa của
người con đất Hà Thành.
Bài thơ được hình thành từ một nỗi nhớ, nỗi nhớ da diết về những người đồng đội và
những ngày tháng, những kỉ niệm không thể nào qn của chính tác giả với đồn qn
Tây Tiến, gắn với vùng đất miền Tây hùng vĩ, hiểm trở và thơ mộng. Nỗi nhớ ấy đã


đánh thức mọi ấn tượng , kí ức để kết tinh tập trung trong bức chân dung người lính Tây
Tiến.
Bằng bút pháp lãng mạn mà khơng thốt li hiện thực, bài thơ đã khắc họa sừng sững
bức tượng đài người lính trường tồn, bất tử mãi mãi với khơng gian, thời gian.
Trước hết, đó là nét gân guốc, lạ hóa trong ngoại hình của người lính Tây Tiến:
Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm
Ta đã từng thấy một “Tiểu đội xe khơng kính” dí dỏm trong thơ Phạm Tiến Duật thì nay
lại thấy một “đồn binh khơng mọc tóc” trong thơ Quang Dũng. Nhưng nét gân guốc,
lạ hóa trong ngoại hình của người lính Tây Tiến bắt nguồn từ chính hiện thực đến từng
chi tiết. Khơng mọc tóc là hậu quả của những trận sốt rét rừng khủng khiếp, rừng thiêng
nước độc, thuốc men khơng có nên qn xanh màu lá cũng là thực tế hiển nhiên. Tố
Hữu khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài cá nước cũng không quên nhắc tới
sức ảnh hưởng ghê gớm của căn bệnh quái ác đó:
Giọt mồ hơi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Nhưng ẩn sau ngoại hình ấy là sức mạnh nội tâm là tâm hồn, khí phách của những
người lính Tây Tiến:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Nếu câu thơ thứ nhất nhấn mạnh chữ MỘNG thì câu thơ thứ hai nhấn mạnh chữ “Mơ”.
Câu thơ mang vẹn nguyên cả ước vọng và điểm đến cuối cùng của đời lính Tây Tiến.
Chữ “trừng” được sử dụng khá độc đáo. Người đọc có cảm tưởng như mọi ước mơ
khao khát tận đáy lòng đã trào dâng và đong đầy trong ánh mắt người lính. Tứ thơ ấy
gợi nhắc đến hình ảnh thơ quen thuộc:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
{Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
Thì ra bao giờ cũng vậy, đích đến cuối cùng của những người lính ln là hạnh phúc.
Nỡi nhớ của họ hướng cả về “dáng kiều thơm”, những bóng hình giai nhân u kiều,
thướt tha, thanh lịch nào đó ngồi cuộc đời. Họ ra đi chiến đấu vì tự do, độc lập, nhưng
trước hết là vì cuộc sống tương lai hạnh phúc mà họ khao khát. Chính vì vậy mà “dáng
kiều thơm” trở thành điểm tựa, niềm hi vọng để tiếp thêm cho họ sức mạnh để chiến
đấu và chiến thắng.


Những người lính Tây Tiến sống anh dũng mà hi sinh cũng anh hùng. Quang Dũng
không hè né tránh hiện thực khắc nghiệt nhất, đau thương nhất, tàn nhẫn nhất của chiến
tranh đó là sự hi sinh:


Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời;
– Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh;
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lèn khúc độc hành.
Ba lần Quang Dũng nhắc tới sự hy sinh, nhưng lần nào cũng là hình ảnh ẩn dụ để tránh
đi từ “chết”. Dường như khi người lính Tây Tiến ngã xuống chỉ là khi anh tạm nghỉ

chân trước cuộc đời. Cái chết không đồng nghĩa với ngừng chiến đấu vì tâm hồn, vì ước
nguyện của anh sẽ mãi trường tồn với thời gian. Anh ngã xuống nhưng vẫn kịp trao
ngọn lửa tuổi trẻ cho những đồng đội tiếp tục con đường cách mạng vinh quang. Sự hi
sinh của các anh làm người đọc không khỏi nghẹn ngào: “Rải rác biên cương mồ viền
xứ”. Chữ “rải rác” được đảo lên đầu câu, nhấn mạnh cho sự quạnh quẽ, lạnh lẽo, hoang
vắng gợi cảm giác xót xa đau đớn nhưng đơi cánh của lí tưởng qn mình vì Tổ
quốc“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” đã xoa dịu nỗi đau làm sáng lên vẻ đẹp tâm
hồn của người lính Tây Tiến.
Có lẽ hình tượng người lính Tây Tiến đã trở thành bất tử với muôn đời. Dòng lịch sử có
thể đổi thay nhưng mọi thế hệ sau vẫn gợi nhắc đến các anh như hình tượng đẹp đẽ
nhất. Qua dòng hồi tưởng của Quang Dũng, những chiến sĩ Tây Tiến hiện lên trong sự
đối mặt với khó khăn, gian khổ, hi sinh nhưng lúc nào cũng lạc quan phơi phới yêu đời.
Với âm hưởng thơ lúc dữ dội, khi sôi nổi, lúc lại vang vọng, trầm lắng, bài thơ đã dẫn
hồn người đọc trở về một thời quá khứ xưa, để cùng lắng cảm trong nỗi nhớ thương da
diết của Quang Dũng.
Đề 3 : So sánh đoạn thơ trong bài Đất nước và Tây Tiến ( dạng đề khó, dành cho học
sinh khá giỏi )
Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn thơ sau:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành (Tây Tiến – Quang Dũng)
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Khơng ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước (Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm)



Mở bài:
Tây Tiến của Quang Dũng và Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là những bài thơ đặc
sắc trong nền thơ cách mạng Việt Nam. Hai tác phẩm này đã nói về những con người vơ
danh lặng thầm chiến đấu bảo vệ quê hương. Mỗi bài thơ đều để lại những cảm xúc, suy
tư sâu lắng trong lòng người đọc. Trong đó có những câu thơ rất đặc sắc:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
……………………………….”
Và:
“Có biết bao người con gái con trai
……………………………………..”
Thân bài:
Trước hết chúng ta tiến hành phân tích từng đoạn:
a.Đoạn thơ trong bài Tây Tiến
*Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, vị trí đoạn thơ
+Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài (thơ, văn, nhạc, hoạ), cũng là một người lính, sống một
đời lính oanh liệt, hào hùng. Quãng đời ấy đã trở thành cảm hứng đặc sắc trong thơ ông.
Bài thơ Tây Tiến viết về người lính, về những chàng trai“chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh” – người lính Tây Tiến.
+Tây Tiến là một đơn vị bộ đội thành lập đầu năm 1947. Thành phần chủ yếu là thanh
niên trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào, đánh tiêu hao lực
lượng địch ở Thượng Lào, bảo vệ biên giới Việt Lào. Sau một thời gian hoạt động ở
Lào, đoàn qn Tây Tiến trở về Hồ Bình thành lập trung đoàn 52. Năm 1948, nhà thơ
Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, không bao lâu, ông nhớ đơn vị cũ sáng tác bài
thơ này.
+ Bài thơ có 4 khổ, đây là khổ thứ 3, nội dung khắc hoạ hình tượng người lính TT
*Phân tích cụ thể:
-Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ, nhớ về đồng đội và địa bàn hoạt động của
đoàn quân, nhớ về vùng đất mà bước chân hào hùng mà đoàn binh Tây Tiến đã đi qua –
Tây Bắc. Vùng đất đó với thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ và thơ mộng, trữ tình, vùng đất
ấy với những con người tài hoa, duyên dáng và nghĩa tình. Trên nền cảnh ấy là hình ảnh

người lính Tây Tiến. Họ hiện lên thật ấn tượng với phẩm chất hào hùng đáng kính, họ


đã hi sinh dọc đường hành quân, hi sinh dọc miền biên giới – họ đã hi sinh vì lí tưởng
sống cao đẹp:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
-Đoạn thơ sử dụng rất nhiều từ Hán Việt mang sắc thái trân trọng, thể hiện khơng khí
trang nghiêm, lòng thành kính thiêng liêng của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.
Những từ ngữ ấy như những nén tâm nhang thắp lên đưa tiễn những người đã ngã
xuống. CHính hệ thống từ ngữ ấy kết hợp với những hình ảnh giàu sức gợi (biên cương,
chiến trường, áo bào, khúc độc hành) cũng tạo sắc thái cổ kính, gợi liên tưởng đến sự hi
sinh oanh liệt của những anh hùng, dũng tướng sẵn sàng chấp nhận cảnh “da ngựa bọc
thây” đầy bi tráng trong văn học trung đại.
-Câu thơ đầu đoạn thơ sử dụng nhiều từ Hán Việt (biên cương, viễn xứ) nhưng sức nặng
của cả câu lại dồn vào một từ thuần Việt: “mồ”. Mồ cũng là mộ nhưng không phải mộ
theo đúng nghĩa. Đó chỉ là những nấm đất được đào vội, chôn mau ngay trên con đường
hành quân vội vã để đoàn quân lại tiếp tục lên đường. Đặt trong không gian bao la,
mênh mông hoang sơ của miền biên giới Việt – Lào, những nấm mồ ấy gợi lên bao nỡi
xót xa.
-Trong câu thơ thứ hai, tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ (chiến trường đi) để nhấn
mạnh đích đến của người lính, người chiến sĩ. Trong hồn cảnh đất nước có chiến tranh,
sứ mênh đất nước rất mỏng manh, chiến trường là đích đến duy nhất, là sự lựa chọn đầy
trách nhiệm của cả một thế hệ. Với họ, “đường ra trận mùa này đẹp lắm” và “cuộc đời
đẹp nhất trên trận chiến chống quân thù”. Cách nói “chẳng tiếc đời xanh” cho thấy sự
dứt khốt, lòng quyết tâm, coi thường gian nguy, coi thường cái chết. Họ sẵn sàng hiến
dâng cả đời xanh, tuổi trẻ, quãng đời đẹp nhất cho tổ quốc, hơn thế nữa, tính mạng của
họ cũng sẵn sàng hi sinh để làm nên dáng hình đất nước. Họ ra đi với tinh thần của cả

thời đại“Người ra đi đầu khơng ngoảnh lại”. Đó là lí tưởng sống cao đẹp, hào hùng.
-Viết về người lính và cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta, nhà thơ Quang Dũng rất
chân thực, ông không hề né tránh hiện thực:
Áo bào thay chiếu anh về đất
“Áo bào thay chiếu” – một hình ảnh thực đến xót xa của chiến tranh. Nhưng cái thiếu
thốn về vật chất lại được khoả lấp bằng sự hiên ngang, can trường của người lính. Từ
Hán Việt và cách nói “Áo bào thay chiếu anh về đất”làm cho cái chết của người lính


Tây Tiến trở nên trang trọng hơn rất nhiều, thiêng liêng hơn nhiều. Nhà thơ vẫn gợi lên
sjw thật chung của cả thời chống Pháp là sự thiếu thốn về vật chất, ở vùng biên giới xa
xơi thì sự thiếu thốn ấy còn nhân lên gấp bội. Người chiến sĩ đã ngã xuống khơng có
một cỡ quan tài, thậm chí khơng có lấy một tấm chiếu để liệm thân mà khi ngã xuống
vẫn cứ mặc nguyên tấm áo thường ngày trên đường hành quân. Đó có thể là tấm áo sờn
vai, tấm áo bạc màu, tấm áo có vài mảnh vá. Nhưng với thái độ trân trọng đồng đội, nhà
thơ Quang Dũng đã thấy họ như đang mặc tấm áo bào của chiến tướng mà đi vào cõi
vĩnh hằng, bất tử cùng sơng núi. Cách nói “về đất” khơng chỉ là cách nói giảm, nói
tránh mà mang ý nghĩa biểu tượng thiêng liêng. Cái chết không phải là ra đi vào cõi hư
vô bất định mà là trở về, trở về với đất Mẹ yêu thương. Đất Mẹ cũng đã mở lòng đón
những đứa con đầy trách nhiệm của mình trở về. Họ đã ra đi như thế đấy. Họ đã nằm
lại nơi chân đèo, dốc núi nào đó trên con đường hành quân đầy gian khổ, nhọc nhằn, họ
đã để lại mình nơi biên cương lạnh lẽo, hoang vắng. Nhưng họ đã ra đi vì lí tưởng, cái
chết của họ dù để lại nhiều xót xa trong lòng người đọc nhưng họ ra đi một cách rất
thanh thản. Họ chỉ là “không bước nữa”, là “bỏ quên đời”, là “về đất” thôi chứ không
phải là chết. các anh đã ngã xuống, đã “hố thân cho dáng hình xứ sở” để rồi mỡi thế
núi hình sơng, mỡi tên đất tên làng đều có bóng hình các anh. Các anh hi sinh, trở về
trong lòng Đất Mẹ để “cho cây đời mãi mãi xanh tươi”, để đem lại cho đất đai, cho quê
hương đất nước sự sống bất tận.
– Đoạn thơ kết thúc bằng một âm hưởng hào hùng. Dường như linh hồn người tử sĩ đã
hòa cùng sông núi, con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc đau thương, hùng tráng để tiễn

đưa người lính vào cõi bất tử. Hình tượng “sơng Mã” ở cuối bài thơ được phóng đại và
nhân hóa, tơ đậm cái chết bi hùng của người lính_ sự hi sinh làm lay động đất trời,
khiến dòng sông gầm lên đớn đau, thương tiếc.
* Nghệ thuật:
– Bằng bút pháp lãng mạn và âm hưởng bi tráng, đoạn thơ ngợi ca những phẩm chất tốt
đẹp của người lính Tây Tiến trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
b.Đoạn thơ trong bài “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là lời nhắn nhủ của nhà
thơ về trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với non sông đất nước:
*Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm:
+Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ
thời chống Mỹ . Ông xuất thân từ một gia đình trí thức cách mạng ở Huế, bản thân ơng
tham gia trực tiếp vào phong trào đấu tranh sinh viên nên thơ Nguyễn Khoa Điềm rất
giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén mang tâm tư của người trí thức….
+Đất nứơc là phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng, viết năm 1971
tại chiến khu Trị Thiên giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang hết sức khốc liệt .


*Phân tích cụ thể:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước mn đời”
– Đoạn thơ có giọng điệu tâm tình sâu lắng, thiết tha. Tác giả tạo ra cuộc trò chuyện
thân mật giữa nhân vật trữ tình “anh” với “em”. Giọng điệu ấy đã làm mềm hóa nặng
nề, khơ khan của chất chính luận.
– Nguyễn Khoa Điềm đã khám phá một định luật rất mới “Đất Nước là máu xương của
mình”. Đối với mỗi con người, máu xương là yếu tố cần thiết cho sự sống. Hình ảnh so
sánh độc đáo ấy có hàm ý khẳng định: Đất nước là sự sống thiêng liêng đối với mỗi con
người.
Nguyễn Khoa Điềm nhắc nhở mỗi người chúng ta phải biết trân trọng đất nước hôm

nay.
– Từ việc xác định vai trò quan trọng của đất nước đối với mỗi con người, nhà thơ khơi
gợi ý thức trách nhiệm của mỗi công dân, nhất là thế hệ trẻ. Phép điệp ngữ “phải biết”
vừa có ý nghĩa cầu khiến vừa là lời thiết tha, mong chờ như mệnh lệnh từ trái tim. Ba
cụm động từ cụ thể hóa trách nhiệm của mỡi con người: “Gắn bó” là lời kêu gọi đồn
kết, hữu ái giai cấp. Vì, có đồn kết là có sức mạnh. “San sẻ” là mong muốn mỡi người
có ý thức gánh vác trách nhiệm với quê hương. Còn “hóa thân” là biểu hiện tinh thần
sẵn sàng hi sinh cho đất nước, là sự dâng hiến thiêng liêng, đẹp đẽ.
* Nghệ thuật:
– Đoạn thơ mang tính chính ḷn nhưng được diễn đạt bằng hình thức đối thoại, giọng
điệu trữ tình kết hợp với biện pháp tu từ điệp ngữ. Từ “Đất Nước” dược lặp lại hai lần
kết hợp cách viết hoa đã tăng thêm sự tơn kính thiêng liêng, thể hiện quan niệm lớn:
“Đất Nước của nhân dân”.
So sánh:
* Giống nhau:
Tư tưởng của cả hai đoạn thơ đều là tư tưởng cao đẹp: cống hiến, dâng hiến tuổi trẻ
mình cho đất nước non sơng.
* Khác nhau:
– “Tây Tiến” với cảm hứng đất nước được gợi lên từ nỡi nhớ cũa người lính vùng cao
về những năm tháng đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. “Đất Nước” hoàn
thành trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ tại mặt trận Trị Thiên bộc lộ cảm hứng
đất nước qua cái nhìn tổng quát đưa đến những chiêm nghiệm mới mẻ, sâu sắc về đất
nước: Đất nước là tất cả những gì gắn bó máu thịt với mỗi con người.


-Đoạn thơ trong bài Tây Tiến được viết bằng thể thơ thất ngơn, có sử dụng nhiều từ Hán
Việt trang trọng với giọng điệu thơ dứt khoát, mạnh mẽ, âm hưởng hào hùng để tô đậm
hiện thực khốc liệt của chiến tranh và khẳng định sự bất tử của người chiến sĩ vô danh.
+Đoạn thơ trong Đất Nước được viết bằng thể thơ tự do, giọng điệu tâm tình trò
chuyện, từ ngữ giản dị, gần gũi nhằm khẳng định vai trò to lớn của nhân dân vơ danh.

Lí giải :
Sự khác biệt như trên :
Do hoàn cảnh sáng tác
 Do phong cách, cá tính sáng tạo của mỡi nhà thơ
Kết bài: Đánh giá chung về giá trị hai đoạn thơ và tài năng nghệ thuật của hai tác giả


Đề 4 : Đề so sánh hai đoạn thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ- Hàn Mặc Tử và đoạn thơ
trong bài Tây Tiến – Quang Dũng. ( Dạng đề khó, dành cho học sinh khá giỏi )
Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
(Tây Tiến – Quang Dũng)
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
(Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử
Hướng dẫn:
1. Mở bài :
Giới thiệu 2 tác giả , 2 bài thơ , 2 đoạn thơ
2. Thân bài :
+Ý khái quát : một vài nét về tác giả tác phẩm và vị trí đoạn thơ cần phân tích
+Phân tích, cảm nhận từng đoạn thơ:
a. Đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến là cảnh sông nước miền Tây hoang sơ, thơ
mộng, trữ tình.
Giữa khói sương của hồi niệm, Quang Dũng nhớ về một “chiều sương ấy”- khoảng
thời gian chưa xác định rõ ràng nhưng dường như đã khắc sâu thành nỡi nhớ niềm

thương trong tâm trí nhà thơ. Đó có thể là khi đồn qn chia tay một bản làng Tây Bắc


chăng? Quá khứ vọng về là những hình ảnh mờ mờ ảo ảo, lung linh huyền hoặc: “hồn
lau nẻo bến bờ”, “dáng người trên độc mộc” và “hoa đong đưa”. Cảnh vật hiện lên qua
nét vẽ của Quang Dũng dù rất mong manh mơ hồ nhưng lại rất giàu sức gợi, rất thơ, rất
thi sĩ, rất đậm chất lãng mạn của người lính Hà thành:
“Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc”
Câu hỏi tu từ với phép điệp “có thấy”, “có nhớ” dồn dập như gọi về biết bao kỷ niệm
của một thời đã xa. Trong tâm tưởng của nhà thơ, cây lau tưởng như vơ tri vơ giác cũng
mang hồn. Cách nhân hố có thần đã khiến thiên nhiên trở nên đa tình thơ mộng hơn.
Thiên nhiên mang “hồn” là bởi nhà thơ có cái nhìn hào hoa nhạy cảm hay bởi nơi đây
còn vương vất linh hồn của những đồng đội của nhà thơ? Sự cảm nhận tinh tế hoà
quyện với thanh âm da diết của nỗi nhớ đã làm vần thơ thêm chứa chan xúc cảm.
Bên cạnh thiên nhiên, hình ảnh con người thấp thoáng trở về trong hồi ức của Quang
Dũng . “trên độc mộc”- chiếc thuyền làm bằng cây gỗ lớn, bóng dáng con người hiện
lên đầy kiêu hùng, dũng cảm mà tài hoa khéo léo giữa dòng nước xối xả, mạnh mẽ đặc
trưng của miền Tây. Phải chăng tư thế đó đủ để người đọc nhận ra vẻ đẹp riêng của con
người Tây Bắc, của đoàn binh Tây Tiến trong những năm tháng gian khổ mà hào hùng?.
“dáng người” ở đây có thể là dáng hình của người Tây Bắc, cũng có thể là chính những
chiến sĩ Tây Tiến đang đối mặt với thách thức của thiên nhiên dữ dội chăng? Dù hiểu
theo cách nào, dáng người trong thơ Quang Dũng cũng ln khảm sâu trong tâm trí nhà
thơ, luôn hiên ngang kiêu hùng mà uyển chuyển, tài hoa và khéo léo:
“Trơi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Có thể khẳng định rằng, đây là một trong những chi tiết ‘đắt’ nhất mà Quang Dũng tạo
nên cho bức tranh thiên nhiên miền Tây, đoá hoa giữa dòng là hội tụ của cái nhìn đa
tình vốn có trong tâm hồn người lính Hà Thành trẻ tuổi và vẻ thơ mộng của cảnh sắc
nơi đây. Nói như thế là bởi, ta nghiệm ra rằng, hình ảnh “hoa đong đưa” khi đang “trơi
dòng nước lũ” là hình ảnh khơng thể có trong thực tại nhưng lại rất hợp lý khi đặt giữa

mạch cảm hứng trữ tình của bài thơ. Cánh hoa như đơi mắt đong đưa, lúng liếng với
người lính trẻ hay bởi tâm hồn các anh quá hào hoa, quá lãng mạn u đời nên mới có
thể nhìn thiên nhiên bằng cái nhìn đa tình đến như thế? Bằng bút pháp lãng mạn với
phép nhân hoá, Quang Dũng đã vẽ nên nét vẽ thần tình, thâu tóm trọn vẹn vẻ đẹp của
thiên nhiên Tây Bắc, gửi gắm vào đó cả nỡi nhớ niềm thương luôn cháy bỏng trong trái
tim ông. Phải yêu lắm đồng đội, yêu lắm thiên nhiên và con người nơi đây thì Quang
Dũng mới có thể diễn tả tinh tế vẻ đẹp của chiều sương cao nguyên đến như vậy!
Bút pháp lãng mạn hào hoa, phép nhân hoá thần tình, cách dùng điệp từ khéo léo đã
quyện hồ với nỗi nhớ chưa bao giờ nguôi ngoai trong sâu thẳm tâm trí nhà thơ về đồng
đội và thiên nhiên miền Tây Tổ quốc, tất cả tạo nên điểm sáng lấp lánh của tâm hồn một


người chiến sĩ thiết tha với Tây Tiến, với quê hương. Xin nhắc mãi vần thơ của ông
trong nỗi nhớ chơi vơi da diết!
b. Đoạn thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ là khung cảnh sông nước xứ Huế qua cảm
nhận của cái tơi trữ tình đầy tâm trạng.
Khổ thơ thứ nhất nói về cảnh vật thơn Vĩ khi “nắng mới lên” … ở khổ thơ thứ hai, Hàn
Mạc Tử nhớ đến một miền sông nước mênh mang, bao la, một không gian nghệ thuật
nhiều thương nhớ và lưu luyến. Có gió, nhưng “gió theo lối gió”. Cũng có mây, nhưng
“mây đường mây”. Mây gió đơi đường, đơi ngả:
“Gió theo lối gió, mây đường mây”.
Cách ngắt nhịp 4/3, với hai vế tiểu đối, gợi ta một khơng gian gió, mây chia lìa, như
một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Chữ “gió” và “mây” được điệp lại hai lần trong mỗi vế
tiểu đối đã gợi lên một bầu trời thoáng đãng, mênh mông. Thi nhân đã và đang sống
trong cảnh ngộ chia li và xa cách nên mới cảm thấy gió mây đơi ngả đơi đường như tình
và lòng người bấy nay. Ngoại cảnh gió mây chính là tâm cảnh Hàn Mạc Tử.
Khơng có một bóng người xuất hiện trước cảnh gió mây ấy. Mà chỉ có “Dòng nước
buồn thiu, hoa bắp lay”. Cảnh vật mang theo bao nỗi niềm. Sông Hương lững lờ trôi
xuôi êm đềm, trong tâm tưởng thi nhân đã hóa thành “dòng nước buồn thiu”, càng thêm
mơ hồ, xa vắng. “Buồn thiu” là buồn héo hon cả gan ruột, một nỗi buồn day dứt triền

miên, cứ thấm sâu mãi vào hồn người. Hai tiếng “buồn thiu” là cách nói của bà con xứ
Huế. Bờ bãi đơi bờ sơng cũng vắng vẻ, chỉ nhìn thấy “hoa bắp lay”. Chữ “lay” gợi tả
hoa bắp đung đưa trong làn gió nhẹ. Hoa bắp, hoa bình dị của đồng nội cũng mang tình
người và hồn người.
Hai câu thơ 14 chữ với bốn thi liệu (gió, mây, dòng nước, hoa bắp) đã hội tụ hồn vía
cảnh sắc thơn Vĩ. Hình như đó là cảnh chiều hơm? Hàn Mạc Tử tả ít mà gợi nhiều,
tượng trưng mà ấn tượng. Ngoại cảnh thì chia lìa, buồn lặng lẽ biểu hiện một tâm cảnh:
thấm thía nỡi buồn xa vắng, cô đơn.
Hai câu thơ tiếp theo gợi nhớ một cảnh sắc thơ mộng, cảnh đêm trăng trên Hương
Giang ngày nào. “Dòng nước buồn thiu” đã biến hóa kì diệu thành “sơng trăng” thơ
mộng.
“Thuyền, ai đậu bến sơng trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Đây là hai câu thơ tuyệt bút của Hàn Mặc Tử được nhiều người ngợi ca, kết tinh rực rỡ
bút pháp nghệ thuật tài hoa lãng mạn. Một vần lưng tài tình. Chữ “đó” cuối câu 3 bắt
vần với chữ “có” đầu câu 4, âm điệu vần thơ cất lên như một tiếng khẽ hỏi thầm “có
chở trăng về kịp tối nay?”. “Thuyền ai” phiếm chỉ, gợi lên bao ngỡ ngàng bâng khuâng,
tưởng như quen mà lạ, gần đó mà xa xơi. Con thuyền mồ côi nằm trên bến đợi “sông


trăng” là một nét vẽ thơ mộng và độc đáo. Cả hai câu thơ của Hàn Mạc Tử, câu thơ nào
cũng có trăng. Ánh trăng tỏa sáng dòng sơng, con thuyền và bến đò. Con thuyền khơng
chở người (vì người xa cách chia li) mà chỉ “chở trăng về” phải “về kịp tối nay” vì đã
cách xa và mong đợi sau nhiều năm tháng. Con thuyền tình của ước vọng nhưng đã
thành vô vọng! Bến sông trăng trở nên vắng lặng vì “thuyền ai”: Con thuyền vơ định.
Phiếm chỉ — là con thuyền mồ côi. Còn đâu cô gái Huế diễm kiều, e ấp, mà chơ vơ còn
lại con thuyền mồ cơi khắc khoải đợi chờ trăng!
Sau cảnh gió, mây, là con thuyền, bến đợi và sông trăng. Cảnh đẹp một cách mộng ảo.
Cả ba hình ảnh ấy đều biểu hiện một nỗi niềm, một tâm trạng cô đơn, thương nhớ đối
với cảnh và người nơi thôn Vĩ. Như ta đã biết, thời trai trẻ, Hàn Mặc Tử đã từng học ở

Huế, từng có một mối tình đơn phương với một thiếu nữ thơn Vĩ, mang tên một lồi
hoa. Với chàng thi sĩ tài hoa đa tình và bất hạnh, đang sống trong cô đơn và bệnh tật,
nhớ Vĩ Dạ là nhớ cảnh cũ người xưa. Cảnh “gió theo lối gió, mây đường mây”, cảnh
thuyền ai đậu bến sơng trăng đó là cảnh đẹp mà buồn., Buồn vì chia lìa, xa vắng, lẻ loi
và vô vọng.
3. Nét tương đồng và khác biệt
a. Tương đồng:
+ Cả hai đoạn thơi đều là sự cảm nhận của cái tơi trữ tình về khung cảnh sơng nước q
hương.
+ Chính cái tơi lãng mạn chắp cánh cho cảnh vật thêm thơ mộng, huyền ảo, lung linh.
Cả hai đoạn thơ đều cho thấy nét bút tài hoa của hai thi sĩ.
b. Khác biệt:
+ Đoạn thơ trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ mang màu sắc tâm trạng chia ly,mong nhớ
khắc khoải.
+ Đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến mang nỗi nhớ da diết về thiên nhiên miền Tây, về kỷ
niệm kháng chiến.
4. Lí giải sự tương đồng và khác biệt
+ Cả Quang Dũng và Hàn Mặc Tử đều là những hồn thơ lãng mạn, tài hoa.
+ Mỗi nhà thơ đều mang một cảm xúc riêng khi đứng trước khung cảnh sơng nước.
+ Hồn cảnh sáng tác: cảnh ngộ riêng của mỡi nhà thơ và hồn cảnh thời đại để lại dấu
ấn trong cảm xúc và hình ảnh thơ của mỗi nhà thơ.
Kết bài :
Đánh giá chung
– Hai đoạn thơ thể hiện cho vẻ đẹp tâm hồn của hai nhà thơ ở hai thời cuộc, hai cảnh
ngộ khác nhau


-Hai đoạn thơ kết tinh tài năng nghệ thuật của Hàn Mặc Tử và Quang Dũng
Đề 3 : Phân tích đoạn 1 Tây Tiến , từ đó nhận xét về bút pháp lãng mạn của Quang
Dũng

Bài làm :
QD là một nghệ sĩ đa tài, ơng có thể làm thơ, viết văn, vẽ tranh, cả soạn nhạc. với thơ,
ông là nhà thơ mang hồn thơ phóng khống, hồn hầu, thơ ơng ln có hình ảnh “Cái
tơi” hào hoa, thanh lịch,giàu chất lãng mạn nhưng rất mực hồn nhiên và chân thực.Ra
đời từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, cùng đề tài về người lính với Nhớ của
Nguyên Hồng, Đồng Chí của Chính Hữu, TT của QD lại cuốn hút một cách khác
thường.Tác phẩm mang đậm hào khí lãng mạn của một thời, gắn với một giai đoạn lịch
sử đấu tranh anh dũng của dân tộc. Với bút pháp lãng mạn, QD đã khắc hoạ thành cơng
hình tượng người lính TT trên cái nền thiên nhiên hùng vĩ , tráng lệ :
“Sông Mã xa rồi TT ơi!
……………………….
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Tây Tiến là đơn vị được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào
để bảo vệ biên giới Việt_Lào và miền Tây Bắc Bộ VN, nhằm đánh tiêu hao lực lượng
quân đội Pháp ở thượng Lào. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là học sinh,sinh viên hà nội,
trong đó có Quang Dũng, với sức trẻ họ đã vượt qua những khó khăn gian khổ một cách
lạc quan nhất. sau khi QD chuyển đơn vị, tại Phù Lưu Chanh, tác giả đã viết nên “nhớ
TT” sau đổi lại thành “TT” để phù hợp với ý nghĩa rộng hơn, thâu tóm cả một thời TT,
gợi kỉ niệm của một đoạn đời bi tráng của người lính.
Trước hết, cần hiểu cảm hứng lãng mạn trong văn học là cảm hứng khẳng định cái tôi
tràn đầy cảm xúc, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ, phi
thường độc đáo, vượt lên những cái tầm thường, quen thuộc của đời sống hàng ngày, nó
đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng.
Cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm đến cách diễn đạt khoa trương, phóng đại, đối lập,
ngơn ngữ giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ. Cảm hứng lãng mạn trong
văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định
phương diện lí tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh
hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Cảm hứng lãng mạn
đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác, nó nâng đỡ con người có thể vượt lên
mọi thử thách trong máu lửa của chiến tranh gian khổ để hướng đến ngày chiến thắng.



Cả bài thơ là nỗi nhớ tha thiết của tác giả về đoàn quân TT, người đọc cảm nhận được
cảnh thiên nhiên hùng vĩ mĩ lệ của núi rừng TB và hình ảnh người lính gan dạ dũng cảm
mà tâm hồn trong sáng hào hoa.Tuy nhiên, bút pháp lãng mạn của QD được thể hiện
sâu sắc nhất qua khổ thơ đầu:
“Sông Mã xa rồi TT ơi!
……………………….
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ của QD về thiên nhiên và núi rừng TB hùng vĩ nhưng thơ
mộng lãng mạn, cùng con đường hành quân gian khổ. Bắt đầu cho nỗi nhớ là tiếng gọi
tha thiết “ TT ơi !”, âm hưởng của vần ơi tạo nên cảm xúc lớn. Nhà thơ nhớ sông Mã
hiền hòa cùng núi rừng vì đó là nơi những người chiến sĩ từng gắn bó, là địa bàn đóng
quân, là nơi sống, nơi chiến đấu, nơi có nhiều kỉ niệm một thời TT. Nỗi nhớ lại thêm
khắc sâu qua điệp từ “nhớ”, tác giả nhớ về TT với nỗi nhớ “chơi vơi” _đó là những nhớ
thương đầy ắp, mênh mơng, cảm chứ khơng nhìn được, nó như muốn tràn ra khỏi khơng
gian để xốy vào lòng người. nỡi nhớ ấy trong ca dao ta cũng từng bắt gặp:
“Ra về nhớ bạn chơi vơi”
Nỡi nhớ khơng định hình trong” nhớ chơi vơi” còn gợi sự chông chênh, mở ra cảm xúc
về đèo cao, vực sâu, dốc thẳng, là cả một chuỗi vô vàn những khó khăn nguy hiểm đang
chờ dợi phía trước:
“ SK sương lấp đoàn quân mỏi
ML hoa về trong đêm hơi”
Con người luôn trở nên nhỏ bé trước thiên nhiên hùng vĩ cùng những cái tên rất lạ SK,
ML, … qua màn sương muối dầy đặc, người lính hiện ra với dáng vẻ mệt mỏi, đó là
những khó khăn mà họ_những học sinh sinh viên HN_phải đối mặt, khắc nghiệt của
thiên nhiên và tính chất cơng việc đã gần như vắt kiệt sức họ. nhưng cái “mỏi” của đoàn
quân cũng dần dần biến mất trước cảnh ML thơ mộng, lãng mạn, ảo diệu với “ hoa về
trong đêm hơi”.
Với bút pháp lãng mạn kết hợp yếu tố tả thực, nhà thơ QD đã ghi lại chặng đường hành

quân gian khổ của người lính TT :
“ dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”


Người đọc hình dung được con đường hành quân gập ghềnh, quanh co như kéo dài vô
tận thông qua các từ láy tượng hình “ khúc khuỷu” “thăm thẳm”.sự chơng chênh nguy
hiểm của núi rừng TB gợi con đường ra trận của tráng sĩ năm xưa trong Chinh phụ
ngâm :
“ Hình khe thế núi gần xa
Đứt thơi lại nổi thấp đà lại cao”
(Đặng Trần Cơn-Đồn Thị Điểm)
Điệp từ “dốc” kết hợp thanh trắc, đó như hơi thở, như những tiếng bước chân nặng nhọc
của người lính đang ngược dốc. để tăng tính biểu cảm, nhà thơ còn cường điệu độ cao
của con đường hành quân” heo hút cồn mây súng ngửi trời”. trong cái khó khăn nguy
hiểm , nhà thơ chiến sĩ có những liên tưởng táo bạo đầy chất lính, pha chút hóm hỉnh
nghịch ngợm, núi cao tuong chừng như trên mây, mũi súng như chạm vào trời. đó là tư
thế của người lính đầy khí thế sánh ngang với trời xanh
“ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Ln mưa xa khơi”
Các cặp hình ảnh tương phản “ lên cao_xuống” kết hợp phép lặp cú pháp và điệp ngữ
ngàn thước càng làm cho cảnh thiên nhiên hiểm trở. Những khó khăn gian khổ là thế
nhưng lại nhẹ đi, êm ả hơn với câu toàn gần bằng tiếp sau: “ nhà ai PL mưa xa khơi”.
XDiệu trước đây cũng từng viết hai câu thơ toàn vần bằng mà ông rất tâm đắc:
“ Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
Giữa những câu vần trắc xen lẫn câu vần bằng , âm hưởng đoạn thơ trở nên trùng điệp
hơn . Cùng với cách dùng từ bay bỏng của QD bài thơ trở nên lãng mạn và hào hùng.
Khung cảnh thiên nhiên hiện lên ở TT thật hoang sơ, kì vĩ. Trên cái nền thiên nhiên dữ
dội hình ảnh đồn qn tt thật nhỏ bé nhưng chính sự đối lập tương phản đó càng làm

tăng khí phách hào hùng kẻ thù cũng như những gian khỡ khơng gì khuất phục nổi .
Trên đường hành qn có những người lính đã nằm lại mãnh đất xa lạ để không bao giờ
tỉnh dậy .Nhưng tác giả đã khơng ngần ngại khi nói về cái chết:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Người lính hiện ra với từ xưng hơ gần gũi, thân mật “ anh bạn”-họ là anh em , bạn bè,
đồng đội. Những khó khăn gian khổ đã thật sự vắt kiệt sức người lính . Quang Dũng


miêu tả sự hi sinh của người lính theo cảm hứng lãng mạn, dùng cách nói giảm nói
tránh đầy tính nghệ thuật: “gục lên súng mũ”, “ bỏ quên đời”,”không bước nữa”. Cái
chết của người lính có gợi thương như là cái chết bi hùng , không bi lụy .Cách nói tránh
về cái chết “khơng bước nữa” , “bỏ qn đời” gợi tư thế hiên ngang của người lính Tây
Tiến . Họ chủ động chấp nhận cái chết , coi nó chỉ đơn giản như một giấc ngủ mà thơi .
Tư thế hi sinh “ gục lên súng mũ” đầy xót xa nhưng cũng thật hào hùng . Hình ảnh về
người lính anh dũng hi sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong “Dáng đứng Việt Nam” : “
Và anh chết trong khi đang đứng bắn- Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng” . Câu thơ
đã tiếp tục cảm hứng bi tráng khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến .
Dường như QD khơng muốn người đọc chìm sâu trong cảm xúc xót thương , nên ngay
sau đó là hình ảnh hào hùng của thiên nhiên :
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người “
Hai câu thơ mở ra cảnh hoang sơ đến rợn người ở TB, nơi những hiểm nguy đang rình
rập ,đe dọa tính mạng,nhưng người lính khơng lùi bước, vẫn ngang tàng và coi thường
thử thách.”cọp trêu người”-có một cái gì só rất nghịch, rất lính .sau những thử thách của
thiên nhiên , là cành thanh bình yên ấm với những kỉ niệm ấm áp tình người,tình qn
dân:
“Nhớ ơi TT cơm lên khói
Mai Châu mùa em thêm nếp xơi”
Nếu những gian khỡ đáng nhớ thì những ngọt ngào giữa gian khỗ còn đáng nhớ hơn .

QD nhớ những bữa cơm nóng , ấm áp tình đồng đội. câu thơ gơi cảm xúc nồng nàn với
kĩ niệm đơn sơ,nhỏ bé trong cuộc sống người lính , từng sinh hoạt hằng ngày dều hóa
thân một thứ kỉ niêm thân thương.”nhớ ơi” là cảm sâu lắng , là những hồi tưởng chân
thật dến da diết. hương thơm ấy không chỉ là hương nếp xơi mà còn là hương vị của
tình người,”em-cơ gái Mai Châu”.
Bút pháp lãng mạn của QD trong TT được biểu hiện cụ thể trong lối viết không hướng
về cái bi,có gợi thương, gơi sự đồng cảm nhưng khơng xốy sâu vào cảm xúc bi thương
. Xuyên suốt khổ thơ đầu nhà thơ ln hướng tới những hình ảnh kỳ vĩ “đèo cao”, “vực
sâu” “ dốc thăm thẳm” hay “súng ngửi trời”,…cùng những hình ảnh thơ mộng
“hoa”,”sương”, hình ảnh chân thật gầu gũi đầy tình người “cơm lên khói”,” nếp xơi”
,ngồi ra ơng còn kết hợp với thể thơ thất ngôn trường thiên giàu nhạc điệu hào
hùng,mạnh mẽ .QD sử dụng nhuần nhuyễn các biện pháp tu từ: từ láy, nhân hóa, điệp
từ,điệp cấu trúc ngữ pháp và nhiều hình ảnh giàu sức gợi. Tất cả tạo nên một tổng thể
hài hòa , chặt chẽ, tạo nên một TT đầy cảm xúc.


Bản chất thơ QD đã tràn đầy cảm hứng lãng mạn, nhưng đặc biệt khi tả về thiên nhiên
và người lính, nhà thơ lại vận dụng bút pháp lãng mạn tinh tế hơn bao giờ hết .
Đoạn thơ mở đầu bằng những hoài niệm và khép lại bằng những hoài niệm-hoài niệm là
ý thức về thời đã qua. Với QD nó nhuốm màu lãng mạn hóa. QD đã vận dụng thành
công bút pháp lãng mạn lên bức tranh thiên nhiên huy vĩ đầy những hiểm nguy và
những mất mát hy sinh mà đời lính phải trải qua.QD mở rộng tâm hồn đón nhận cuộc
sống chiến đấu của TT từ mọi phía , khơng theo bất kì khn mẫu nào và nhà thơ thật
sự mở rộng thế giới cảm xúc của thơ.Tác phẩm là đóng góp lớn của ơng trong sự
nghiệp thơ ca thời kháng chiến chống Pháp .
Đề 4 : Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc qua khổ đầu bài thơ Tây Tiến
của Quang Dũng.
Bài làm:
Văn chương có khả năng tái hiện vẻ đẹp của cuộc sống đồng thời có thể làm cho nhân
cách mỡi con người hoàn thiện hơn. Tác phẩm văn chương cũng là những chuyến đi

đưa chúng ta tới nhiều vùng đất mới, giúp ta hiểu biết thêm về vẻ đẹp của thiên nhiên
đất nước:
“Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.”
Rồi:
“Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh
Nước Tháp Mười lóng lánh cá tơm.”
Mặc dù chưa một lần đặt chân đến đến nhưng văn chương có thể cho ta cảm nhận được
phần nào vẻ đẹp của đối tượng được nhắc đến. Nhắc đến Tây Bắc, văn chương không
chỉ một lần đưa ta đến với mảnh đất này: ta được chiêm ngưỡng vẻ đẹp bộ tranh tứ bình
của rừng núi Tây Bắc trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu, qua trang thơ Quang Dũng,
một lần nữa, bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc tổ quốc lại hiện ra trước mắt độc giả
rõ nhất qua đoạn thơ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây sung ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục bên sung mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người


Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xơi”
Đoạn thơ trên trích từ phần đầu bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng. Quang Dũng là

một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc, ơng là một nhà thơ khốc áo
lính, đã từng sống và chiến đấu cùng với đơn vị Tây Tiến. Sự nghiệp sáng tác của
Quang Dũng tuy khiêm tốn nhưng cũng có những bài thơ đi cùng năm tháng và một
trong số đó là bài thơ “Tây Tiến”.Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm
1947, có nhiêm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao
lực lương quân đội Pháp ở thượng Lào cũng như ở miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn
đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai
Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa (Lào).Chiến sĩ Tây Tiến phần
đơng là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên như Quang Dũng,
chiến đấu trong hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét
hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Cuối năm
1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa được bao lâu, tại
Phù Lưu Chanh, nỗi nhớ Tây đã trào dâng mãnh liệt và từ sự thôi thúc của nỗi nhớ tác
giả đã viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến”, sau đó đổi thành Tây Tiến. Theo tác giả chỉ “Tây
Tiến” thôi đã đủ gợi nhớ lắm rồi, vừa cô đọng lại không lộ mạch cảm xúc ngay từ đầu
đề.
Quang Dũng đã kết hợp hoàn hảo bút pháp hiện thực và lãng mạn để vẽ lên bức tranh
thiên nhiên Tây Bắc hiện lên vừa hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ lại vừa gần gũi ấm áp chỉ
bằng một đoạn thơ. Hai câu thơ đầu của bài thơ là mạch nguồn cảm xúc của cả bài thơ
đồng thời cũng là cảm xúc chủ đạo của cả bài thơ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.”
Cảm xúc bao trùm lên toàn bài thơ đó là nỡi nhớ. Câu thơ mở đầu là một câu cảm thán
nhưng dùng để gọi với hô ngữ “ơi”, câu thơ đã trở thành một tiếng gọi thiết tha trìu mến
như gọi một người bạn thân. Sơng Mã là địa danh gắn liền với bước đường hành quân
của đoàn quân Tây Tiến. Đã không biết bao nhiêu lần những người lính Tây Tiến hành
quân qua địa danh này và cũng thật dễ dàng lí giải được tại sao hình ảnh sông Mã xuất
hiện ngay trong câu thơ mở đầu, nhắc đến Tây Tiến thì dòng sơng Mã hiện lên đầu tiên
trong tâm trí nhà thơ. Câu thơ mở đầu là một câu cảm thán nhưng dùng để gọi với hô
ngữ “ơi” khiến câu thơ trở thành một tiếng gọi thiết tha trìu mến như gọi một người bạn

thân, tác giả gọi Tây Tiến mà đối với tác giả thì bây giờ Tây Tiến đã cách xa nghìn
trùng. Khi người ta gọi một đối tương mà đã cách xa phải chăng nỗi nhớ trong lòng
đang trào dâng mãnh liệt, không thể kìm nén được nữa đành phải bật lên thành tiếng
gọi. Và đến câu thơ thứ hai cảm xúc trong lòng nhà thơ đã được cụ thể hóa với cách sử
dụng biện pháp điệp động từ “nhớ”. Biện pháp điệp đã khẳng định nỗi nhớ trong lòng
nhà thơ là vô cùng sâu sắc. Hơn nữa tác giả lại khéo léo sử dụng từ láy tượng hình “chơi
vơi” để bổ sung ý nghĩa cho động từ “nhớ” xuất hiện lần thứ hai làm cho chúng ta như


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×