Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Giảm nhẹ biến đổi khí hậu trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.49 KB, 17 trang )

Giảm nhẹ biến đổi khí hậu
trong sản xuất nơng nghiệp ở Việt Nam
Nguyễn Thị Vĩnh Hà
Trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là một trong các quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề bởi biến
đổi khí hậu (BĐKH). Theo đánh giá tại báo cáo Chỉ số rủi ro khí hậu tồn
cầu (Global Climate Risk Index) của tổ chức Germanwatch năm 2021 thì
Việt Nam xếp thứ 13 trên thế giới về mức độ rủi ro khí hậu, xếp thứ 15 về
số người tử vong và xếp thứ 11 về mức thiệt hại tính theo USD (PPP) do
thời tiết cực đoan trong giai đoạn 2000-2019 (Eckstein và các cộng sự,
2021). BĐKH là mối đe dọa nghiêm trọng đối với con người và hệ thống
tự nhiên trên phạm vi toàn cầu, đòi hỏi tất cả các nước phải cùng nhau hành
động để ứng phó (IPCC, 2014). Vì vậy, Việt Nam cần phải thực hiện các
giải pháp nhằm giảm thải khí nhà kính (KNK), góp phần vào cơng cuộc
bảo vệ hệ thống khí hậu Trái Đất cũng như cứu lấy chính mình.
Việt Nam là quốc gia có thu nhập trung bình thấp, có mức thải KNK
bình qn đầu người khá thấp (3,94 tấn/người năm 2018), xếp thứ 106 trong
tổng số 191 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới (theo World Development
Indicators, World Bank). Tuy nhiên, với vị trí là nước đông dân thứ 15 trên
thế giới, tổng lượng thải KNK năm 2018 của nước ta xếp thứ 24, chiếm
0,82% tổng lượng KNK thải của tồn cầu.
Trong vịng gần 30 năm từ 1990 đến 2018, lượng thải KNK của Việt
Nam tăng nhanh chóng, với mức tăng cao nhất trong các quốc gia Đơng
Nam Á (Hình 1). Năm 2018, lượng thải KNK của Việt Nam tăng gấp 5,2
lần so với năm 1990. Mức thải KNK bình quân đầu người tăng 3,7 lần, từ
mức 1,07 tấn CO2 tương đương/người vào năm 1990 lên 3,94 tấn CO2
tương đương/người vào năm 2018.

387



5.5
5
4.5
4
3.5
3
2.5
2
1.5
1
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
Vi?t Nam

Thái Lan

Myanmar

Malaysia

Lào

Indonesia

Brunei

Campuchia

Philippines


Hình 1: Mức tăng thải khí nhà kính của các quốc gia Đơng Nam Á,
giai đoạn 1990-2018 (Nguồn: Tính tốn của tác giả
dựa trên dữ liệu World Development Indicators, World Bank)

Hình 2: Mức thải khí nhà kính (kg CO2 tương đương) cho mỗi USD GDP
(PPP, 2017) (Nguồn: Tính tốn của tác giả dựa trên
dữ liệu World Development Indicators, World Bank)

Mức thải KNK cho mỗi đơ la GDP (PPP, 2017) có xu hướng giảm
trong giai đoạn 1990-2018 (Hình 2), từ 0,62 kg còn 0,52 kg CO2 tương
đương cho mỗi USD trong GDP (PPP, 2017). Tuy nhiên, mức thải này vẫn
khá cao so với các quốc gia có điều kiện kinh tế xã hội tương đồng như
Bangladesh, Malaysia, Indonesia, Philipines, Thái Lan hay bình qn các
nước có thu nhập trung bình thấp. Mức thải KNK trên 1 USD của GDP ở
Việt Nam cao gần gấp 3 lần so với các nước EU, gấp 2 lần các nước OECD
và bằng 1,5 lần so với bình quân thế giới (Hình 3).

388


Hình 3: Mức thải khí nhà kính (kg CO2 tương đương) cho mỗi USD GDP năm 2018
của một số quốc gia, nhóm quốc gia (PPP, 2017) (Nguồn: Tính tốn của tác giả dựa
trên dữ liệu World Development Indicators, World Bank)

Những thông tin trên cho thấy Việt Nam cần phải cắt giảm lượng thải
KNK. Ở Việt Nam, ngành nông nghiệp chiếm 14,6% GDP năm 2018, tuy
nhiên, ngành này chiếm đến 21,3% tổng lượng thải KNK trong cùng năm
(theo số liệu thống kê của FAO). Việc lạm dụng phân bón hóa học, thuốc
trừ sâu và nước tưới nhằm gia tăng năng suất đã khiến nông nghiệp trở
thành nguồn thải KNK lớn thứ hai sau ngành năng lượng. Do đó, việc giảm

thải KNK trong sản xuất nông nghiệp là rất cần thiết. Báo cáo này rà sốt
các chính sách giảm nhẹ BĐKH và tổng hợp các giải pháp nhằm giảm thải
KNK trong ngành nơng nghiệp ở Việt Nam.
2. CÁC CHÍNH SÁCH GIẢM NHẸ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRONG
SẢN XUẤT NƠNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
Một trong những động thái sớm nhất của Chính phủ Việt Nam liên
quan giảm nhẹ BĐKH là việc ký Nghị định thư Kyoto ngày 03/12/1998
và phê chuẩn Nghị định thư ngày 25/9/2002, sau đó chính thức đệ trình
Thơng báo đầu tiên của Việt Nam năm 2003. Nghị định thư Kyoto là một
thỏa thuận về việc cắt giảm lượng thải KNK, gắn liền với Chương trình
Khung Liên Hiệp Quốc về BĐKH (United Nations Framework Convention
on Climate Change – UNFCCC). Nghị định thư buộc các nước tham gia
phải cam kết đạt được các mục tiêu về thải KNK được xác định cụ thể cho
từng nước. Việt Nam khơng nằm trong nhóm các quốc gia phải cam kết cắt
giảm KNK, nhưng có thể tham gia cơ chế thị trường khí thải và cơ chế phát
389


triển sạch, trong đó cho phép các quốc gia phát triển tài trợ các dự án giúp
giảm lượng thải hoặc tăng hấp thu KNK tại các nước đang phát triển, đổi
lại các nước tài trợ sẽ được gia tăng lượng hạn ngạch thải ở nước mình.
Đây được xem như một công cụ hiệu quả nhằm giúp các nước đang phát
triển như Việt Nam có thể thực hiện giảm nhẹ BĐKH với sự hỗ trợ về tài
chính và kỹ thuật từ các nước phát triển.
Trong suốt hai thập kỷ qua, hoạt động ứng phó với BĐKH ở Việt
Nam đã có những tiến triển đáng kể thông qua việc phê duyệt một loạt các
chương trình nghị sự, chính sách và dự án về BĐKH. Việt Nam chú ý nhiều
hơn đến các chính sách nhằm thích nghi BĐKH, chẳng hạn như các Chương
trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH ban hành theo Quyết định số
158/2008/QĐ-TTg ngày 02/12/2008 và Quyết định số 1183/QĐ-TTg ngày

30/8/2012, Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự
2030 vì sự phát triển bền vững (Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày
10/5/2017), Kế hoạch quốc gia thích ứng với BĐKH giai đoạn 2021-2030,
tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 1055/QĐ-TTg ngày 20/7/2020),…
Ngồi ra cịn có các chính sách liên quan đến hoạt động cải thiện nghiên
cứu khoa học và công nghệ nhằm đề xuất các giải pháp ứng phó BĐKH có
hiệu quả (các Chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia về BĐKH
giai đoạn 2011-2015 và 2016-2020).
Tuy nhiên, các chính sách thúc đẩy lộ trình phát triển tăng trưởng
xanh, giảm thải KNK cũng đã được Chính phủ quan tâm. Chiến lược quốc
gia về BĐKH ban hành theo Quyết định số 2139/QĐ-TTg ngày
05/12/2011, được cụ thể hóa thơng qua Kế hoạch hành động quốc gia về
BĐKH giai đoạn 2012-2020 và Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó
với BĐKH giai đoạn 2012-2015 tập trung vào mục tiêu thích ứng và có
lồng ghép mục tiêu giảm nhẹ. Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh
ban hành theo Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 tập chủ yếu
trung vào mục tiêu giảm nhẹ tác động BĐKH. Hầu hết các hoạt động trong
Kế hoạch hành động quốc gia về Tăng trưởng xanh giai đoạn 2014-2020
đặt trọng tâm vào tăng trưởng xanh, tiến tới nền kinh tế carbon thấp, giảm
thải và tăng khả năng hấp thụ KNK.
Việt Nam đã đẩy mạnh cam kết với thế giới về giảm thải KNK thông
quan việc ban hành Quyết định 2053/QĐ-TTg ngày 28/10/2016 về Kế
390


hoạch thực hiện Thoả thuận Paris về BĐKH và phê duyệt Thoả thuận Paris
vào 03/11/2016. Việc đệ trình báo cáo Đóng góp dự kiến do quốc gia tự
quyết định (INDC) cho UNFCCC vào tháng 9/2015 và phê chuẩn Đóng
góp do quốc gia tự quyết định (NDC) vào tháng 11/2016 phản ánh những
nỗ lực của Việt Nam trong việc giảm thải KNK. Theo NDC của Việt Nam,

Chính phủ cam kết cắt giảm lượng KNK trong giai đoạn 2021-2030 khoảng
từ 8% đến 25% so với kịch bản phát triển trong điều kiện thông thường
(BAU), tùy điều kiện sử dụng nội lực hay có sự hỗ trợ của quốc tế, đặc biệt
là về nguồn lực tài chính. Để đạt được các mục tiêu giảm nhẹ tác động
BĐKH như đã đề ra trong NDC, các giải pháp cần thực hiện trong lĩnh vực
nông nghiệp là giảm thải KNK thông qua phát triển nông nghiệp bền vững,
thay đổi sử dụng đất, sử dụng công nghệ đánh giá làm tăng các bể chứa
carbon hiện tại thông qua việc bảo vệ rừng bền vững, trồng rừng và tái tạo
rừng, phát triển các dịch vụ môi trường rừng (Government of Vietnam,
2015).
Nỗ lực mới nhất và rất quan trọng của Việt Nam là đưa ra các quy
định về giảm nhẹ thải KNK vào Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020, trong
đó thúc đẩy việc xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch giảm nhẹ thải KNK
hằng năm trong lĩnh vực năng lượng, nông nghiệp, sử dụng đất và lâm
nghiệp, quản lý chất thải, các q trình cơng nghiệp.
Ngành nơng nghiệp và phát triển nơng thơn có Đề án giảm thải KNK
trong nông nghiệp, nông thôn đến năm 2020 (Quyết định số 3119/QĐBNN-KHCN ngày 16/12/2011), Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo
hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững (Quyết định số
899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013), Kế hoạch hành động về ứng phó với BĐKH
các giai đoạn 2011-2015, 2016-2020 với tầm nhìn 2050 (Quyết định số
543/QĐ-BNN-KHCN ngày 23/3/2011, Quyết định số 819/QĐ-BNN-HCN
ngày 14/3/2016) và Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh đến năm 2020
(Quyết định số 923/QĐ-BNN-KH ngày 24/3/2017). Các đề án, kế hoạch
này nhằm mục tiêu thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp xanh, bền
vững, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng, tài nguyên thiên nhiên
hướng đến nền kinh tế carbon thấp, giảm thải và tăng cường khả năng hấp
thụ KNK, tích hợp thích ứng và giảm thiểu để nâng cao hiệu quả, đáp ứng
đa mục tiêu trong ứng phó với BĐKH của ngành. Các kế hoạch hoạt động

391



giảm nhẹ thải KNK được đưa ra cho các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy
sản, lâm nghiệp, thủy lợi, diêm nghiệp và phát triển nông thôn nhằm giảm
thải KNK 20% trong mỗi giai đoạn 10 năm.
Trong lĩnh vực lâm nghiệp, các chính sách chính bao gồm Chương
trình quốc gia về giảm thải KNK thông qua hạn chế mất và suy thoái rừng;
bảo tồn, nâng cao trữ lượng carbon và quản lý bền vững tài nguyên rừng
(Chương trình REDD+) giai đoạn 2011-2020 và đến năm 2030 ban hành
theo các Quyết định số 799/QĐ-TTg ngày 27/6/2012, Quyết định số
419/QĐ-TTg ngày 05/4/2017. Chương trình REDD+ đưa ra mục tiêu đến
năm 2030 góp phần giảm thải KNK thông qua các hoạt động REDD+, ổn
định diện tích rừng tự nhiên, nâng cao độ che phủ rừng toàn quốc lên 45%.
Các đề án bảo vệ và phát triển rừng ven biển ứng phó với BĐKH giai đoạn
2015-2020, đề án trồng 1 tỉ cây xanh giai đoạn 2021-2025 cũng hướng tới
việc gia tăng độ phủ rừng và hấp thu KNK.
Danh mục các văn bản chính sách về giảm thải KNK liên quan đến
ngành nông nghiệp của Việt Nam được liệt kê trong Bảng 1
Bảng 1. Các văn bản chính sách giảm nhẹ BĐKH
liên quan đến sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam
STT
1.
2.
3.

4.

Số hiệu

2730/QĐ-BNNKHCN


Ngày
ban hành
03/12/1998
25/9/2002
05/9/2008

158/2008/QĐTTg
99/2010/NĐCP
543/QĐ- BNNKHCN

02/12/2008

7.

2630/QĐBKHCN

29/8/2011

8.
9.

2139/QĐ-TTg
3119/QĐ-BNNKHCN
432/QĐ-TTg

05/12/2011
16/12/2011

5.

6.

10.

24/9/2010
23/3/2011

12/4/2012

Tên văn bản
Ký Nghị định thư Kyoto
Phê chuẩn Nghị định thư Kyoto
Khung chương trình hành động thích ứng
với BĐKH của ngành nơng nghiệp và phát
triển nơng thơn giai đoạn 2008-2020
Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với
BĐKH
Chính sách chi trả dịch vụ mơi trường rừng
Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH của
ngành nông nghiệp và ptnt giai đoạn 20112015 và tầm nhìn đến năm 2050
Chương trình Khoa học và cơng nghệ phục
vụ Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó
với BĐKH
Chiến lược quốc gia về BĐKH
Đề án giảm thải khí nhà kính trong nơng
nghiệp, nơng thơn đến năm 2020
Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam
giai đoạn 2011-2020

392



11.

799/QĐ-TTg

12.

1183/QĐ-TTg

13.
14.

1393/QĐ-TTg
1474/QĐ-TTg

15.

899/QĐ-TTg

16.

1485/QĐKHĐT

17.

403/QĐ-TTg

18.


639/QĐ-BNNKH

19.
20.

55/2014/QH13
120/QĐ-TTg

21.

75/2015/NĐCP

22.

172/QĐBKHCN
819/QĐ- BNNKHCN

23.

24.
25.

1898/QĐ-BNNTT
119/2016/NĐCP

26.

38/2016/QĐTTg

27.


2053/QĐ-TTg

27/6/2012

Chương trình hành động quốc gia về “giảm
thải khí nhà kính thơng qua nỗ lực hạn chế
mất rừng và suy thoái rừng, quản lý bền
vững tài nguyên rừng, bảo tồn và nâng cao
trữ lượng các bon rừng” giai đoạn 2011 –
2020
30/8/2012 Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với
BĐKH giai đoạn 2012-2015
25/9/2012
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh
05/10/2012 Kế hoạch hành động quốc gia về BĐKH giai
đoạn 2012-2020
10/6/2013
Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo
hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển
bền vững
17/10/ 2013 Khung hướng dẫn lựa chọn ưu tiên thích ứng
với BĐKH trong lập kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội
20/3/2014
Kế hoạch hành động quốc gia về Tăng
trưởng xanh giai đoạn 2014-2020
02/4/2014
Quy hoạch nông nghiệp, nông thôn vùng
đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020,

tầm nhìn đến năm 2030 trong điều kiện
BĐKH
23/6/2014
Luật Bảo vệ môi trường 2014
22/01/2015 Đề án bảo vệ và phát triển rừng ven biển ứng
phó với BĐKH giai đoạn 2015-2020
09/9/2015 Cơ chế, chính sách bảo vệ và phát triển rừng,
gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền
vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số
giai đoạn 2015 – 2020
29/01/2016 Chương trình Khoa học và Cơng nghệ Quốc
gia về BĐKH
14/3/2016
Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH
ngành nơng nghiệp và phát triển nơng thơn
giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến năm
2050
23/5/2016
Đề án tái cơ cấu ngành lúa gạo Việt Nam
đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030
23/8/2016
Một số chính sách quản lý, bảo vệ và phát
triển bền vững rừng ven biển ứng phó với
BĐKH
14/9/2016
Một số chính sách bảo vệ, phát triển rừng và
đầu tư hỗ trợ kết cấu hạ tầng, giao nhiệm vụ
cơng ích đối với các cơng ty nông, lâm
nghiệp
28/10/2016

Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về
BĐKH

393


28.

93/NQ-CP

31/10/2016

29.

147/2016/NĐCP
923/QĐ-BNNKH

02/11/2016

31.

419/QĐ-TTg

05/4/2017

32.

622/QĐ-TTg

10/5/2017


33.

1670/QĐ-TTg

31/10/2017

34.

324/QĐ-TTg

02/3/2020

35.

891/QĐ-BNNKHCN

17/3/2020

36.

72/2020/QH14

17/11/2020

30.

24/3/2017

Phê duyệt Thỏa thuận Paris thực hiện Công

ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH
Bổ sung chính sách chi trả dịch vụ môi
trường rừng
Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh của
ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn
đến năm 2020
Chương trình quốc gia về giảm thải khí nhà
kính thơng qua hạn chế mất và suy thoái
rừng; bảo tồn, nâng cao trữ lượng carbon và
quản lý bền vững tài nguyên rừng đến năm
2030
Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện
Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển
bền vững
Chương trình mục tiêu ứng phó với BĐKH
và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020
Chương trình tổng thể phát triển nơng
nghiệp bền vững thích ứng với BĐKH vùng
Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030,
tầm nhìn đến năm 2045
Kế hoạch thực hiện thỏa Thuận Paris về
BĐKH của Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn giai đoạn 2021-2030
Luật Bảo vệ môi trường 2020

(Nguồn: Tổng hợp của tác giả)
3. CÁC GIẢI PHÁP GIẢM NHẸ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRONG SẢN
XUẤT NƠNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
Khái niệm “Nơng nghiệp thơng minh với khí hậu” (CSA) do Tổ chức
Lương thực và Nông nghiệp Liên hiệp quốc (FAO, 2013) đề xuất đang

được đưa vào áp dụng tại Việt Nam. CSA được định nghĩa là phương thức
sản xuất nông nghiệp có khả năng ứng phó (cả giảm thiểu và thích ứng) với
tác động tiêu cực của BĐKH để ổn định an ninh lương thực và phát triển
bền vững. CSA dựa trên ba trụ cột chính là: tăng trưởng bền vững về năng
suất và thu nhập của người sản xuất; thích ứng với sự thay đổi của khí hậu;
giảm thiểu (hoặc loại trừ) thải KNK. Hai mục tiêu chính của CSA là năng
suất (an ninh lương thực) và thích ứng và giảm thiểu tác động của BĐKH
(bao gồm cả cân bằng carbon cũng như giảm thải KNK). Việt Nam đã có
một số hoạt động nhằm giảm thải KNK trong sản xuất nông nghiệp, ở các
lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản và lâm nghiệp.

394


3.1. Giảm thải KNK trong lĩnh vực trồng trọt
Trong trồng trọt, đặc biệt là canh tác lúa nước, khi ruộng ngập nước
ở chế độ yếm khí sẽ phân giải chất hữu cơ thải ra khí methane. Đất nơng
nghiệp khi bón phân đạm bị chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác cũng
thải khí nitơ. Đốt nương làm rẫy và đốt rơm rạ thải khí carbonic. Đây là các
nguồn thải KNK từ trồng trọt.
Do nỗ lực thúc đẩy tăng năng suất cây trồng nên lĩnh vực trồng trọt
ở Việt Nam phụ thuộc nhiều vào sự thâm dụng các yếu tố đầu vào như
giống, nước, phân bón, thuốc trừ sâu. Tuy nhiên, ước tính có đến một nửa
hoặc hai phần ba lượng chất dinh dưỡng từ phân bón khơng được cây trồng
hấp thụ. Việc sử dụng quá nhiều phân bón gây ra một lượng lớn khí nitơ
oxit thải vào mơi trường (World Bank, 2016). Việc chuyển đổi trồng trọt
từ dựa vào đất sang dựa vào công nghệ, kỹ thuật để làm tăng năng suất,
chất lượng cây trồng giúp làm giảm các áp lực sử dụng phân bón, thuốc trừ
sâu, năng lượng, từ đó giúp giảm thải KNK.
Quản lý cây trồng tổng hợp (Integrated Crop Management – ICM)

thúc đẩy các kỹ thuật canh tác giảm nguồn đầu vào, chẳng hạn các kỹ thuật
2 giảm 3 tăng (2G3T), hoặc 3 giảm 3 tăng (3G3T), 1 phải 5 giảm (1P5G)
hay 1 phải 6 giảm (1P6G), trong đó các yêu cầu phải, giảm, tăng bao gồm:
phải dùng giống cây trồng được xác nhận, giảm lượng phân hố học bón
thừa trên đồng ruộng, giảm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, giảm lượng nước
tưới ở mức vừa đủ, giảm thất thoát sau thu hoạch, giảm lượng giống gieo
sạ, giảm khí thải nhà kính, tăng năng suất cây trồng, tăng chất lượng sản
phẩm, tăng hiệu quả kinh tế. Việc giảm sử dụng đầu vào sản xuất giúp
lượng thải KNK cũng giảm theo.
Hệ thống canh tác lúa cải tiến (System of Rice Intensification – SRI)
là phương pháp canh tác lúa sinh thái, mang lại hiệu quả và năng suất cao,
giảm thải KNK dựa trên những tác động kỹ thuật nhằm giảm chi phí đầu
vào như giống, phân bón, thuốc trừ sâu, tiết kiệm nước tưới. Những kỹ
thuật tác động bao gồm: thay đổi lịch gieo trồng, giảm mật độ gieo sạ/cấy
thưa, quản lý nước, làm cỏ sục bùn, bón phân hữu cơ. Nghiên cứu cho thấy
so với biện pháp canh tác lúa thông thường, việc áp dụng SRI giúp giảm
70-90% thóc giống, 20-25% phân bón, 30% nhu cầu nước tưới; năng suất

395


tăng 9-15%; hạn chế dịch, bệnh, hại phát triển, nhất là bệnh khơ vằn, ốc
bươu vàng, bệnh nghẹt rễ, bó gốc, bọ trĩ…, đồng thời tăng khả năng chống
chịu sâu, bệnh của cây lúa; giá thành sản phẩm (thóc) giảm do tiết kiệm
được giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, chi phí về thủy lợi… Áp dụng
SRI giúp cho cây lúa cứng, khỏe hơn nên ít bị đổ ngả trong điều kiện mưa
bão. Việc không giữ nước ngập mặt ruộng thường xuyên hạn chế thải KNK
(Ngô Tiến Dũng, 2014). Biện pháp canh tác này được công nhận là tiến bộ
kỹ thuật ở Việt Nam, đạt giải thưởng Bông lúa vàng năm 2012.
Các mơ hình trồng rau an tồn, thực hành nông nghiệp tốt VietGAP

và GlobalGAP đảm bảo chất lượng sản phẩm trồng trọt, giảm lượng thuốc
bảo vệ thực vật, sử dụng phân bón hợp lý, từ đó giảm thải KNK. Kỹ thuật
canh tác nông nghiệp hữu cơ, sử dụng phân ủ hữu cơ (compost), phân vi
sinh trong canh tác lúa và các loại cây trồng không những làm tăng năng
suất cây trồng mà cịn cắt giảm chi phí sử dụng phân bón hóa học và làm
giảm tổng lượng thải KNK. Các kỹ thuật bảo vệ đất trồng trọt, làm đất tối
thiểu, che phủ đất bằng thảm thực vật và kỹ thuật nâng cao hiệu quả sử
dụng phân đạm giúp hạn chế thải khí N2 O. Các mơ hình tưới tiết kiệm, rút
nước mặt ruộng trong canh tác lúa, phương pháp tưới nhỏ giọt và tưới phun
mưa cho các vùng sản xuất cà phê, cây ăn quả, cây trồng cạn và rau màu
có giá trị kinh tế cao tại các vùng chuyên canh, đồng thời giảm tiêu hao
năng lượng phục vụ tưới tiêu.
Ngồi ra, các mơ hình xã hội hóa thu gom, xử lý và tái sử dụng chất
thải trong trồng trọt (rơm rạ, thân ngơ, lõi ngơ, bã mía, lá mía, vỏ cà
phê, vỏ sắn,...) làm phân bón hữu cơ, than sinh học (biochar), biogas, vật
liệu, chất độn,... giảm ô nhiễm môi trường và giảm thải KNK. Việc tái sử
dụng rơm rạ để trồng nấm, hoặc cày lật ngay tại ruộng giúp giảm tình trạng
đốt rơm rạ sau các vụ thu hoạch.
3.2. Giảm thải KNK trong lĩnh vực chăn nuôi
Trong lĩnh vực chăn nuôi, nguồn thải KNK quan trọng gồm sản xuất
thức ăn và chế biến (45%), chất thải trong q trình tiêu hóa của gia súc
nhai lại (39%) và sự phân hủy của phân (10%). Phần còn lại là từ việc xử
lý và vận chuyển sản phẩm động vật (Gerber và các cộng sự, 2013). Khí
sinh học là hỗn hợp khí methane (CH4) và một số khí khác phát sinh từ sự

396


phân huỷ các vật chất hữu cơ. Methane tạo ra hiệu ứng nhà kính gấp 21 lần
hơn khí carbonic (CO2). Theo ước tính của Bộ Năng lượng Hoa Kỳ, nếu sử

dụng tất cả nguồn nguyên liệu có thể tạo ra khí sinh học để dùng trong vận
chuyển thì lượng năng lượng này có thể làm giảm 500 triệu tấn khí
carbonic hàng năm, tương đương với số lượng 90 triệu xe dùng trong một
năm. Cơng nghệ khí sinh học (biogas) được sử dụng trong xử lý chất thải
chăn nuôi, đạt được lợi ích kép về sản xuất năng lượng sạch, làm phân bón
hữu cơ sinh học hướng đến chăn ni an tồn, giảm ơ nhiễm mơi trường và
giảm thải khí nhà kính.
Chăn ni trên nền đệm lót sinh học là một hình thức ni nhốt gia
súc, gia cầm trên một nền đệm lót được làm bằng nguyên liệu có độ trơ cao
(không bị nước làm nhũn nát như: trấu, mùn cưa, phoi bào, rơm, rạ….) trộn
với một hệ sinh vật (men vi sinh) để phân hủy phân, nước tiểu giảm khí độc
và mùi hôi chuồng nuôi tạo môi trường trong sạch không ô nhiễm. Hệ vi
sinh vật trong chuồng nuôi luôn giúp duy trì cân bằng hệ sinh thái theo
hướng có lợi cho vật nuôi, luôn đảm bảo đủ số lượng một mặt phân giải
chất thải, mặt khác ức chế vi sinh vật gây bệnh hoặc có hại bảo vệ đàn vật
ni. Các vi sinh vật trong độn lót đồng hóa chất hữu cơ từ chất thải của
vật nuôi tạo thành protein của chính vi sinh vật, nguồn protein này được
vật nuôi sử dụng một phần. Các chất hữu cơ được oxy hoá tạo ra CO2, giảm
lượng thải CH4. Phương thức chăn ni này hiện đang được khuyến khích
phát triển, được coi là hướng đi bền vững của ngành chăn nuôi ở Việt Nam
(Đỗ Hương, 2014).
Các công nghệ xử lý và tái sử dụng phụ phẩm, phế phẩm nông nghiệp
để tạo thức ăn chăn nuôi, sản xuất thức ăn chăn nuôi giàu dinh dưỡng giúp
tăng khả năng hấp thu, giảm thải khí nhà kính, tăng chất lượng sản phẩm
chăn ni sạch và nâng cao hiệu quả kinh tế. Các loại thức ăn bổ sung, chế
phẩm sinh học (pre và probiotic, enzyme,...) kháng sinh từ thực vật để thay
thế kháng sinh trong thức ăn chăn ni, giảm thải khí nhà kính từ đường
tiêu hóa, giảm bài tiết nitơ, phốt pho trong phân và nước tiểu, tăng tiêu hóa
và hấp thu thức ăn, nâng cao năng suất gia súc gia cầm, rút ngắn thời gian
ni và đảm bảo an tồn vệ sinh thực phẩm.

3.3. Giảm thải KNK trong lĩnh vực thủy sản

397


Hoạt động khai thác thuỷ sản có thể tham gia thực hiện giảm nhẹ
BĐKH bằng cách giảm lượng xăng, dầu tiêu hao. Một số loại ngư cụ đánh
bắt chủ động như lưới kéo làm tăng thời gian chạy tàu, do đó tăng thải
KNK. Chính phủ cần giảm trợ cấp nhiên liệu cho tàu khai thác thuỷ sản,
thậm chí tăng thu thuế nhiên liệu, để khuyến khích sử dụng hiệu quả năng
lượng; khuyến khích sử dụng các loại ngư cụ khai thác thuỷ sản tĩnh như
lưới vây, lưới rê, cho phép sử dụng ít nhiên liệu hơn các ngư cụ khai thác
thuỷ sản động, như lưới kéo hay lưới cào; tăng cường hoạt động đăng kiểm
tàu cá để hạn chế máy thuỷ cũ tiêu hao nhiều nhiên liệu.
Việc tổ chức khai thác thuỷ sản xa bờ có thể cơ cấu lại theo hướng
phát triển hai loại đội tàu: tàu khai thác thuỷ sản và tàu hậu cần khai thác
thuỷ sản. Các tàu khai thác thuỷ sản có thể hạn chế thời gian chạy ra vào
bờ bằng cách tăng cường sử dụng các dịch vụ của tàu hậu cần khai thác
thuỷ sản: thu mua thuỷ sản xa bờ, cung cấp hàng hoá, nhu yếu phẩm cho
tàu khai thác thuỷ sản xa bờ,... Các tàu hậu cần cũng cung cấp các dịch vụ
bảo quản, chế biến thuỷ sản chuyên nghiệp để tăng chất lượng thuỷ sản.
Việc xây dựng chỗ neo đậu, trú bão ở xa bờ,... để giảm thời gian chạy tàu
ra vào bờ cũng giúp giảm tiêu hao nhiên liệu.
Trồng rừng ngập mặn, thảm cỏ biển có thể tăng cường hấp thu khí
carbonic. Do đó, Chính phủ cần tăng cường các dự án hỗ trợ (chẳng hạn sử
dụng nguồn vốn ODA, vốn tài trợ của các tổ chức phi chính phủ) phục hồi
rừng ngập mặn, thảm cỏ biển và bảo vệ các rạn san hơ để giúp hấp thu khí
carbonic, bảo vệ bờ biển, nghề cá và sinh kế. Nuôi trồng rong biển cũng
giúp tăng cường hấp thu khí carbonic.
Áp dụng các phương thức, quy trình ni thủy sản tiên tiến có thể tiết

kiệm và sử dụng hiệu quả thức ăn, nguồn nước tự nhiên, năng lượng và
giảm thải ra môi trường. Việc đẩy mạnh hoạt động bảo quản, chế biến, phát
triển và ứng dụng các công nghệ xử lý chất thải sau chế biến thuỷ sản để sản
xuất năng lượng sinh học có giá trị kinh tế cao, xử lý và tái sử dụng bùn
thải trong nuôi trồng thủy sản cũng giúp giảm lượng thải KNK.
3.4. Giảm thải KNK trong lĩnh vực lâm nghiệp
Rừng có tác dụng rất lớn trong việc hấp thu khí carbonic. Vì vậy, tất
cả các chương trình trồng rừng, bảo tồn rừng đều có tác dụng giảm nhẹ
398


BĐKH. Để khuyến khích trồng rừng, quản lý và bảo vệ rừng, Việt Nam đã
và đang triển khai thực hiện các giải pháp đa dạng:
- Thực hiện chi trả dịch vụ môi trường rừng (PES)
- Phát triển thị trường carbon từ rừng;
- Xây dựng phát triển mơ hình lâm sản ngồi gỗ dưới tán rừng, mơ
hình nơng lâm kết hợp, mơ hình kết hợp sản xuất lương thực và năng
lượng trong lâm nghiệp (IFES) để nâng cao hiệu quả kinh tế rừng.
- Triển khai thực hiện các chương trình trồng rừng, trồng cây xanh;
khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư vào trồng rừng kinh tế; áp dụng
tiến bộ kỹ thuật, đưa các giống mới vào trồng rừng nhằm nâng cao năng
suất, chất lượng rừng.
Cho đến nay, việc mở rộng trồng rừng đã bù đắp lượng thải từ hoạt
động chặt phá rừng và giải phóng mặt bằng trong nơng nghiệp. Kết quả là
đã chuyển đổi trạng thái của hoạt động sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất
và lâm nghiệp từ nguồn thải thành nguồn hấp thụ thải (CIAT và World
Bank, 2017).
3.5. Các giải pháp tích hợp giảm thải KNK trong sản xuất nông - lâm
- thuỷ sản
Kinh tế tuần hồn trong trong sản xuất nơng nghiệp là giải pháp giúp

sản xuất nơng nghiệp theo chu trình khép kín, giảm thiểu các tác nhân gây
ô nhiễm môi trường, giảm lượng tài nguyên sử dụng đầu vào, tăng tỉ lệ tuần
hồn các chất thải nơng nghiệp là giải pháp quan trọng giúp giảm thải KNK.
Đặc biệt, các chất thải nông nghiệp có thể tăng cường chuyển hố thành
năng lượng để cải thiện cơ cấu chất đốt ở nông thôn để giảm thải và nâng
cao chất lượng sống cho dân cư nơng thơn.
Ở Việt Nam, các mơ hình kinh tế tuần hồn đang phổ biến là kiểu mơ
hình nơng nghiệp sinh thái, trong đó khai thác các mối quan hệ sinh thái
của các loại cây trồng, vật nuôi. Nông nghiệp sinh thái (như nông nghiệp
bảo tồn, nông lâm kết hợp, nông nghiệp cảnh quan, thâm canh lúa bền vững,
hệ thống tổng hợp chăn nuôi và trồng trọt, canh tác hữu cơ...) giúp hạn chế
chuyển đổi rừng sang đất trồng trọt, hạn chế sử dụng vật tư (phân bón,

399


thuốc trừ sâu), giảm thiểu khí thải nhà kính từ nơng nghiệp và góp phần
tăng lưu trữ carbon. Việc chuyển đổi sang nơng nghiệp sinh thái cũng góp
phần đa dạng hóa cây trồng, nâng cao năng lực của nơng dân trong việc
bảo đảm an ninh lương thực, cung ứng sản phẩm an toàn thực phẩm và tăng
cường đa dạng sinh học nông nghiệp, cải thiện khả năng phục hồi của hệ
thống sản xuất trước BĐKH, góp phần giúp Việt Nam thực hiện các cam
kết quốc tế về giảm thiểu BĐKH (Đào Thế Anh và các cộng sự, 2020).
Mơ hình Vườn - Ao - Chuồng (VAC) đã được áp dụng phổ biến ở
Việt Nam từ những năm 1980 và được coi là hình thức nơng nghiệp tuần
hồn đơn giản nhất. VAC đã tạo ra một mơ hình sản xuất nơng nghiệp tổng
hợp, gắn kết trồng trọt với chăn nuôi, hạn chế chất thải, thuận theo tự nhiên
và hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc của kinh tế tuần hoàn. Sau này,
mơ hình VAC đã được cải tiến thành Vườn - Ao - Chuồng - Biogas
(VACB); Vườn - Ao - Chuồng - Rừng (VACR) ở các tỉnh miền núi; Vườn

- Ao - Hồ (VAH) ở các tỉnh miền Trung. Mơ hình nông nghiệp này vừa
đem lại hiệu quả kinh tế cao, vừa giúp giảm thải khí nhà kính. Đặc biệt, mơ
hình VACB đã giúp quản lý chất thải nông nghiệp, sử dụng hợp lý phế, phụ
phẩm nơng nghiệp làm phân bón trả lại độ phì cho đất, xử lý an tồn chất
thải động vật, tạo năng lượng tái sinh, tạo nguồn chất đốt phục vụ sinh hoạt,
chống ô nhiễm môi trường và góp phần giảm thải, giảm hiệu ứng nhà kính.
Mơ hình VAC lúc đầu nhỏ lẻ, quy mơ nơng hộ với mục tiêu góp phần bảo
đảm an ninh lương thực, xóa đói giảm nghèo. Hiện nay, mơ hình VAC đã
phát triển rộng khắp trên cả nước với các hình thức đã được cải tiến cùng
những ứng dụng linh hoạt trong quá trình tổ chức sản xuất và kinh doanh
tại nhiều hộ gia đình, trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp, tập đồn kinh tế
lớn.
Mơ hình lúa - tơm được áp dụng từ đầu những năm 2000 ở các tỉnh
đồng bằng sơng Cửu Long, mơ hình lúa - cá được thực hiện ở các tỉnh vùng
trũng, hay ngập úng ở các tỉnh đồng bằng sơng Hồng. Trong các mơ hình
này, khi nuôi tôm hoặc cá trong ruộng lúa, phân của tôm, cá và thức ăn cịn
dư (của tơm, cá) sẽ làm phân bón bổ sung dinh dưỡng cho cây lúa; ngược
lại, khi gặt lúa xong, thả tôm (cá) vào ruộng, gốc rạ, thóc rơi vãi trở thành
nguồn thức ăn cho tơm, cá. Với mơ hình ln canh này hầu như cây trồng,
vật nuôi không phải dùng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kháng sinh, tạo ra

400


sản phẩm sạch và bảo vệ môi trường. Đến nay, mơ hình này đang được cải
biến thành mơ hình “lúa thơm - tôm sạch” và “lúa thơm - cá sạch”. Trong
mơ hình cải biến này, chất thải sau vụ ni tơm, cá là nguồn phân bón để
sản xuất lúa thơm, đồng thời, kết hợp sử dụng nấm xanh để trừ sâu rầy
trong canh tác lúa thơm hữu cơ. Khi vùng ni tơm liên kết với nhà máy
chế biến tơm thì vỏ tôm được tận dụng để sản xuất chitin (chất có tác dụng

giúp kéo dài thời gian bảo quản rau quả, thịt; phụ gia dùng trong chế biến
một số đồ uống), qua đó, tận dụng phụ, phế phẩm trong ni trồng thủy
sản, nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm thiểu tối đa tác động xấu lên môi
trường, hệ sinh thái, cộng đồng dân cư (Vũ Mưa, 2020).
Mơ hình trồng lúa - trồng nấm - sản xuất phân hữu cơ - trồng cây ăn
quả được phổ biến ở hầu khắp các tỉnh, thành trong cả nước. Trong mơ hình
này, người nơng dân đã tận dụng nguyên liệu từ phụ phẩm rơm rạ trong
trồng lúa để trồng nấm, bã rơm rạ sau khi thu hoạch nấm được tận dụng để
bón cho cây trồng (cây ăn quả, rau màu) rất tốt. Thực tế cho thấy, lượng
rơm rạ từ một ha trồng lúa có thể tạo ra được 200m mô nấm và sau khi
trồng nấm từ 25-30 ngày có thể thu được 250-300kg nấm tươi (Lê Thoa,
2014).
Mơ hình sản xuất tổng hợp bị - trùn quế - cỏ/ngô - gia súc, gia cầm cá tận dụng phụ phẩm chăn nuôi (phân) để nuôi trùn quế; lấy phân trùn quế
bón cỏ/ngơ; trùn quế làm thức ăn cho gia súc, gia cầm, cá, đem lại hiệu quả
kinh tế cao, giảm thải khí nhà kính, bảo vệ mơi trường (Vũ Bá Quan, 2020).
Mơ hình chăn ni an toàn sinh học 4F (Farm - Food - Feed Ferlitizer: trồng trọt - thực phẩm - chăn nuôi - phân bón) (Cao Tiến, 2020)
có thể coi là mơ hình kinh tế tuần hồn đúng nghĩa đầu tiên trong nơng
nghiệp của Tập đoàn Quế Lâm, bắt đầu áp dụng từ 2020. Mơ hình là chu
trình sản xuất khép kín, gồm: chăn nuôi lợn hữu cơ, sản xuất các chế phẩm
sinh học, sản xuất thức ăn chăn nuôi hữu cơ và sản xuất phân bón vi sinh.
Trong mơ hình này, chất thải trong trang trại được thu gom và xử lý để sản
xuất phân bón hữu cơ vi sinh phục vụ trồng trọt, tạo thành quy trình sản
xuất nơng nghiệp khép kín từ chăn nuôi đến trồng trọt, từ cây đến đất. Thực
hiện mơ hình chăn ni an tồn sinh học 4F vừa tăng hiệu quả kinh tế,
phòng ngừa dịch bệnh, vừa góp phần bảo vệ mơi trường sinh thái, giảm thải
khí nhà kính.
401


Mơ hình “vịng tuần hồn xanh” trong các trang trại bị sữa của Cơng

ty Vinamilk xây dựng và vận hành hệ thống trang trại bò sữa theo tiêu
chuẩn quốc tế (Global GAP) và tiêu chuẩn hữu cơ châu Âu (EU Organic)
với quy trình chăn ni khép kín: từ làm đất, trồng cỏ, chăm sóc bị đến xử
lý chất thải để tạo “vịng tuần hồn xanh”. Nhờ cơng nghệ biogas, chất thải
gia súc được xử lý để tiếp tục bón cho đồng cỏ, cải tạo đất và một phần
khác được biến đổi thành khí metan dùng để đun nước nóng dùng cho hoạt
động của trang trại. Việc tái tạo và tái sử dụng năng lượng vừa mang lại
hiệu quả về kinh tế, vừa giảm thiểu đáng kể lượng thải CO2.
4. THAY LỜI KẾT
Biến đổi khí hậu ảnh hưởng ngày càng nghiêm trọng đối với con
người và hệ thống Trái Đất. Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có thu
nhập bình quân đầu người ở mức trung bình thấp, nhu cầu tăng trưởng kinh
tế cao. Tuy nhiên, nếu Việt Nam, cũng như các quốc gia đang phát triển
khác, không tập trung thay đổi cách thức sản xuất, thực sự quan tâm đến
giảm thải khí nhà kính và tăng lưu trữ carbon, thì nỗ lực chung của thế giới
trong ứng phó biến đổi khí hậu khó đạt được thành cơng. Những thay đổi
trong mơ hình, kỹ thuật sản xuất nơng nghiệp thơng minh với khí hậu có
thể giúp Việt Nam đạt được mục tiêu kép về tăng năng suất, tăng chất lượng
sản phẩm nơng nghiệp, đồng thời giảm nhẹ biến đổi khí hậu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
CIAT; World Bank (2017). Climate-Smart Agriculture in Viet Nam. CSA Country
Profiles for Asia Series. International Center for Tropical Agriculture
(CIAT); The World Bank. Washington, D.C. 28 p.
Cao Tiến (2020). Ra mắt “Tổ hợp chăn ni an tồn sinh học 4F” đầu tiên tại Việt
Nam. Báo Dân sinh. . Truy cập ngày 25/8/2021.
Ðào Thế Anh, Lê Thành Ý, Chu Tiến Quang (2020). Phát triển nền nông nghiệp
sinh thái gắn với phát triển nông thôn bền vững. Báo Nhân dân.
Truy cập ngày 25/8/2021
Đỗ Hương (2014). Đệm lót sinh học: Hướng đi bền vững của ngành Chăn
ni. Báo Chính phủ . Truy cập 25/8/2021.

Eckstein, D., Künzel, V., & Schäfer, L. (2021). Global Climate Risk Index
2021: Who Suffers Most from Extreme Weather Events, 2000-2019.

402


FAO (2013). Climate-smart agriculture: sourcebook.
Gerber, P.J., Steinfeld, H., Henderson, B., Mottet, A., Opio, C., Dijkman, J.,
Falcucci, A. & Tempio, G (2013). Tackling climate change through
livestock – A global assessment of emissions and mitigation opportunities.
Food and Agriculture Organization of the United Nations (FAO), Rome.
Government of Viet Nam (2015). Nationally Determined Contribution of Viet
Nam.
IPCC. (2014). Climate Change 2014: Synthesis Report. Contribution of Working
Groups I, II and III to the Fifth Assessment Report of the
Intergovernmental Panel on Climate Change (C. W. Team, R. K.
Pachauri, & L. Meyer Eds.)
Lê Thoa (2014). Biến rơm rạ thành tiền: Trồng nấm, chế biến phân hữu cơ. Báo
Nông nghiệp. . Truy cập ngày 25/8/2021.
Ngơ Tiến Dũng (2014). Tóm tắt tình hình và kết quả ứng dụng SRI. Cục Bảo vệ
Thực vật. .
Nguyễn Thị Miền (2021). Phát triển kinh tế tuần hồn trong nơng nghiệp ở Việt
Nam: Một số vấn đề đặt ra và khuyến nghị. Tạp chí Lý luận Chính trị, số
3-2021.
Nguyễn Xuân Hồng (2020). Cơ cở thực tiễn và động lực thúc đẩy phát triển nông
nghiệp tuần hoàn Việt Nam: kinh tế VAC. />Truy cập ngày 25/8/2021.
Vũ Bá Quan (2020): Sản xuất tuần hoàn - nội dung mới trong tái cơ cấu nông
nghiệp, . Truy cập ngày 25/8/2021.
Vũ Mưa (2020). Xây dựng mơ hình “lúa thơm - cá sạch”. Tạp chí Thủy sản Việt
Nam (thuysanvietnam.com.vn). Truy cập ngày 25/8/2021.

World Bank (2016). Viet Nam development report 2016. Transforming
Vietnamese agriculture: Gaining more for less. World Bank. Washington,
DC.
World Bank; Ministry of Planning and Investment of Vietnam (2016). Vietnam
2035: Toward Prosperity, Creativity, Equity, and Democracy.
Washington, DC: World Bank.
X.H (2020). Vinamilk vận dụng kinh tế tuần hồn phát triển trang trại bị sữa thân
thiện với môi trường. . Truy cập ngày 25/8/2021.
FAO Statistics: />Thư viện pháp luật: />
403



×