TIỂU LUẬN
BẢN CHẤT VÀ CÁC HÌNH
THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ
TRỊ THẶNG DƯ
Giáo viên hướng dẫn : Ts Nguyễn Cảnh Lịch
Sinh viên thực hiện : Phạm Thành Hải\
1
PHẦN I : MỞ ĐẦU 3
PHẦN II: LÍ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ 4
I. PHẠM TRÙ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ 4
1. Sự chuyển hoá tiền tệ thành tư bản 4
2. Hàng hoá sức lao động 6
II . CÁC PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ 11
1.Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối 11
2. Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối 12
PHẦN III : KẾT LUẬN 13
2
PHẦN I : MỞ ĐẦU
Theo danh giá của VI LêNin thì lý luận giá trị thặng dư là hòn đá tảng
của học thuyết kinh tế của C.Mac. Các nhà tư bản để đạt được mục đích tối
đa của mình họ đã mua sức lao động của người công nhân kết hợp với tư
liệu sản xuất để sản xuất ra sản phẩm và thu về giá trị thặng dư.
Các nhà kinh tế học thường cho rằng mọi công cụ lao động, mọi tư liệu
sản xuất đều là tư bản. Thực ra bản thân tư liệu sản xuất không phải là tư
bản, nó chỉ là yếu tố cơ bản của sản xuất trong bất cứ xã hội nào. Tư liệu sản
xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở thành tài sản của các nhà tư bản và được
dùng để bót lột lao động làm thuê. Ta có thể định nghĩa chính xác tư bản là
giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê. Giá
trị thặng dư , phần giá trị do lao động của công nhân làm thuê sáng tạo ra
ngoài sức lao động và tư bản chiếm không.
Chính vì vậy mà sản xuất giá trị thặng dư tối đa cho nhà tư bản là nội
dung chính của quy luật thặng dư. Nó quyết định đến sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản và sự thay thế nó bằng một xã hội khác cao hơn là quy luật vận
động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Việc nghiên cứu phạm trù giá trị thặng dư có vai trò rất quan trọng , nó
có ý nghĩa rất quan trọng trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì
vậy mà tôi đã chọn đề tài “Bản chất và các hình thức biểu hiện của giá trị
thặng dư” cho bài tiểu luận của mình
3
PHẦN II: LÍ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
I. PHẠM TRÙ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1. Sự chuyển hoá tiền tệ thành tư bản
Tiền tệ ra đời là kết quả lâu dài và tất yếu của quá trình sản xuất và trao
đổi hàng hoá. đồng thời tìên tệ cũng là khởi điểm của tư bản. Nhưng bản
thân tiền tệ không phải là tư bản. Tiền chỉ biến thành tư bản trong những
điều kiện nhất định , khi chúng được sử dụng để bóc lột sức lao động của
người khác.
Tiền được coi là tiền thông thườg thì vận đông theo công thức sau H-T-H
(hàng - tiền – hàng) nghĩa là sự chuyển hoá của hàng hoá thành tiền , rồi tiền
lại chuyển hoá thành hàng hoá. Còn tiền với tư cách là tư bản thì vận động
theo công thức T-H-T (tiền – hàng – tiền ) tức là sự chuyển hoá của tiền
thành hàng hoá rồi hàng hoá lại chuyển hoá ngược lại thành tiền. Bất cứ biến
động nào vận động theo công thức T-H-T đều chuyển hoá thành tư bản.
Mục đích của lưu thông hàng hoá giản đơn là giá trị sử dụng để thoả mãn
nhu cầu nên hàng hoá trao đổi phải có giá trị sử dụng khác nhau. Sự vận
động sẽ kết thúc ở giai đoạn hai khi những người trao đổi có được giá trị sử
dụng mà người đó cần đến. Còn mục đích lưu thông tư bản không phải là giá
trị sử dụng mà là giá trị , hơn nữa là giá trị tăng thêm. Vì vậy số tiền thu về
bằng số tiền ứng ra thì sự vận động trở nên vô nghĩa. Do vậy mà số tiền thu
về phải lớn hơn số tiền ứng ra nên công thức vận động đầy đủ của tư bản là
T-H-T’ trong đó T’= T + ∆T. Số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra C Mac
gọi là giá trị thặng dư. Vạy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư , nên sự
vận động tư bản không có giới hạn vì sự lớn lên của giá trị là không có giới
hạn.
4
Tiền ứng trước tức là tiền đưa vào lưu thông , khi trở về tay người chủ
của nó thì thêm một lượng nhất định. Vạy có phải do bản chất của lưu thông
đã làm cho tiền tăng thêm và do đó mà hình thành giá trị thặng dư hay không
? các nhà kinh tế học tư sản đã cho rằng sự tăng thêm đó là do lưu thông
hàng hoá sinh ra. Nhưng sự quả quyết của các nhà tư sản đều không có căn
cứ.
Trong lưu thông hàng hoá được thay đổi ngang giá thì chỉ có sự thay hình
thái giá trị , còn tổng số giá trị cũng như phần giá trị thuộc về mỗi bên trao
đổi là không đổi.
Theo quan điểm của C Mac thì trong xã hội tư bản không có bất kỳ một
nhà tư bản nào chỉ đóng vai trò người bán sản phẩm mà lại không phải là
người mua các yếu tố sản xuất. Vì vậy khi anh ta bán hàng hoá cao hơn giá
trị vốn của nó thì khi mua các yếu tố sản xuất ở đầu vào các nhà tư bản khác
cũng bán cao hơn giá trị và như vậy cái được lợi khi bán sẽ bù cho cái thiệt
hại khi mua. Cuối cùng vẫn không tìm thấy nguồn gốc sinh ra ∆T.
Nếu hàng hoá được bán thấp hơn giá trị thì số tiền mà người đó sẽ được
lợi khi là người mua cũng chính là số tiền mà người đó sẽ mất đi khi là
người bán. như vậy, việc sinh ra ∆T không thể là kết quả của việc mua hàng
thấp hơn giá trị của nó. Giả định có một số người nhờ mánh khoé mà chuyên
mua được rẻ bán được đắt thì như C Mac nói điều đó chỉ có thể là giải thích
được sự làm giầu của những thương nhân cá biệt chứ không thể giải thích
được sự làm giầu của toàn bộ giai cấp các nhà tư bản. Bởi vì tổng số giá trị
trước lúc trao đổi cũng như trong và sau khi trao đổi không thay đổi mà chỉ
có phần giá trị nằm trong tay mỗi bên trao đổi là thay đổi.
Như vậy, nếu người ta thay đổi những vật ngang giá thì không sinh ra giá
trị thặng dư, và nếu người ta trao đổi những vật không ngang giá thì cũng
không sinh ra giá trị thặng dư. Lưu thông không tạo ra giá trị mới.
5
Nhưng nếu người có tiền không tiếp xúc gì với lưu thông tức là đứng
ngoài lưu thông thì không thể làm cho tiền của mình lớn lên được.
“vậy thì tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất
hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông” (C Mac:
TB,NXB sự thật, HN, 1987 Q1, tập 1, trang 216). Đó là mâu thuẫn chung
của công thức tư bản.
2. Hàng hoá sức lao động
Sự chuyển hoá của tiền thành tư bản, không thể phát sinh từ bản thân số
tiền đó. Trong việc mua bán hàng hoá tiền chỉ là phương tiện lưu thông để
thực hiện giá cả hàng hoá, nên trước sau giá trị của nó vẫn không thay đổi.
Sự chuyển hoá đó xẩy ra trong quá trình vận động của tư bản.Nhưng sự
chuyển hoá đó không sảy ra ở giá trị trao đổi hàng hoá vì trong trao đổi
người ta trao đổi nhưng vật ngang giá mà chỉ có thể ở giá trị sử dụng hàng
hoá. Do đó hàng hoá đó phải là một thứ hàng hoá đặc biệt mà giá trị sử dụng
của nó có đặc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Thứ hàng hoá đó là sức lao
động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường.
Như vậy, sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực và trí lực tồn tại trong
cơ thể con người, thể lực và trí lực mà người đó đem ra vận dụng trong quá
trình tái sản xuất ra một giá sử dụng.
Không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá, mà sức lao động chỉ
biến thành hàng hoá trong điều kiện lịch sử nhất định.
C Mác đã nhấn mạnh sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có đủ hai
điều kiện sau:
Một là người lao động phải tự do về thân thể, phải làm chủ được sức lao
động của mình và có quyền đem bán cho người khác.Vậy người có sức lao
động phải có quyền sở hữu sức lao động của mình.
6
Hai là người lao động phải tước hết tư liệu tư liệu sản xuất để trở thành
người vô sản và bắt buộc phải bán sức lao động, vì không còn cách nào khác
để sinh sống.
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động thành
hàng hoá. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để biến
thành tư bản.
Cũng như những hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động có hai thuộc
tính là giá trị và giá trị sử dụng.
Giá trị hàng hoá sức lao động do thời gian lao động cần thiết để sản xuất
và tái sản xuất sức lao động.
Giá trị hàng hoá sức lao động là giá trị của tư liệu sinh hoạt cần thiết để
nuôi sống người công nhân, vợ con anh ta, những yếu tố tinh thần, dân tộc,
tôn giáo của những người công nhân, những chi phí đào tạo người công
nhân.
Giá trị hàng hoá sức lao động giống giá trị hàng hoá thông thường ở chỗ:
nó phản ánh một lượng lao động hao phí nhất định để tạo ra nó. Nhưng giữa
chúng ta có sự khác nhau căn bản, giá trị hàng hoá hàng hoá thông thường
biểu thị hao phí lao động trực tiếp để sản xuất hàng hoá nhưng hàng hoá sức
lao động lại là sự hao phí lao động gián tiếp thông qua việc sản xuất ra
những vật phẩm tiêu dùng để nuôi sống người công nhân. còn hàng hoá sức
lao động ngoài yếu tố vật chất nó còn có yếu tố tinh thần lịch sử, dân tộc,
yếu tố gia đình và truyền thống nghề nghiệp mà hàng hoá thông thường đó
không có.
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình
tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân. Quá
trình đó là quá trình sản xuất ra hàng hoá, đồng thời là quá trình tạo ra giá trị
mới lớn hơn giá trị hàng hoá sức lao động. Phần lớn hơn đó là giá trị thặng
7
dư mà nhà tư bản chiếm đoạt. Như vậy giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao
động có tính chất đặc biệt là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là giá trị mới lớn
hơn giá trị bản thân nó.
Bản chất giá trị thặng dư
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà
là giá trị, hơn không phải là giá trị đơn thuần mà là giá trị thặng dư. để sản
xuất giá trị thặng dư.
Nhà tư bản muốn sản xuất ra 1 giá trị sử dụng có một giá trị trao đổi
nghĩa là một hàng hoá. Hơn nữa, nhà tư bản muốn sản xuất ra một hàng hoá
có giá trị lớn hơn tổng giá trị những tư liệu sản xuất và giá trị sức lao động
mà tư bản đó bỏ ra để mua, nghĩa là muốn sản xuất ra một giá trị thặng dư.
Vậy quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa các quá
trình sả xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C
Mac viết: “với tư cách là sự thống nhất giữa hai quá trình lao động và quá
trình tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất hàng hoá;
với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình làm tăng
giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là
hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hoá”.
Quá trình lao động với tư cách là quá trình tư bản tiêu dùng sức lao động
có hai đặc trưng:
Một là, người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản
giống như những yếu tố khác của sản xuất được nhà tư bản sử dụng sao cho
hiệu quả nhất.
Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, chứ không phải của
người công nhân.
C Mac đã lấy ví dụ về việc sản xuất của nước Anh làm đối tượng nghiên
cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Để nghiên cứu, Mac đã sử dụng
8
phương pháp giả định khoa học thông qua giải quyết chặt chẽ tiến hành
nghiên cứu: không xét đến ngoại thương, giá cả thống nhất với giá trị, toàn
bộ giá trị tư liệu sản đem tiêu dùng chuyển hết một lần giá trị sản phẩm và
chỉ nghiên cứu trong nền kinh tế sản xuất giản đơn.
Từ giả định trên mà C Mac đưa ra một loạt các giả thiết về nghiên cứu:
Nhà tư bản dự kiến kéo 10 kg sợi;giá 1 kg bông là 1 đôla; hao mòn thiết
bị máy móc để kéo 5 kg bông thành 5 kg sợi là 1 đôla; tiền thuê sức lao động
1 ngày là 4 đôla; giá trị mới 1 giờ lao động của công nhân là 1 đôla và chỉ
cần 4 giờ người công nhân kéo được 5 kg bông thành 5 kg sợi.
Từ đó ta có bảng sau:
Tư bản ứng trước Giá trị của sản phẩm mới
Giá trị 10 kg bông
10
đôla
Lao động cụ thể của
công nhân bảo tồn và
chuyển giá trị 10 kg
bông vào 10 kg sợi
10
đôla
Hao mòn máy
móc
2 đôla
Khấu hao tài sản cố
định
2 đôla
Tiền thuê sức lao
động trong một
ngày
4 đôla
Giá trị mới do 8 giờ lao
động của người công
nhân tạo ra.
8 đôla
Tổng chi phí sản
xuất
16
đôla
Tổng doanh thu
20
đôla
Nhà tư bản đối chiếu giữa doanh thu sau khi bán hàng (20 đôla) với tổng
chi phí tư bản ứng trước quá trình sản xuất (16 đôla) nhà tư bản nhận thấy
tiền ứng ra đã tăng lên 4 đôla, 4 đôla này được gọi là giá trị thặng dư.
Từ sự nghiên cứu trên, chúng ta rút ra một số nhận xét sau:
9
Một là, nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư chúng ta nhận thấy
mâu thuẫn của công thức chung của tư bản đã được giải quyết. Việc chuyển
hoá tiền thành tư bản diễn ra trong lĩnh vực lưu thông và đồng thời không
diễn ra trong lĩnh vực đó. Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được
một thứ hàng hoá đặc biệt, đó là hàng hoá sức lao động. Sau đó nhàtư bản sử
dụng hàng hoá đó trong sản xuất, tức là ngoài lĩnh vực lưu thông để sản xuất
giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó tiền của nhà tư bản mới biến thành tư
bản.
Hai là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất (10 kg sợi), chúng ta
thấy có hai phần :
Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của người công nhân
mà được bảo tồn và di chuyển vào giá trị của sản phẩm mới (sợi) gọi là giá
trị cũ.
Giá trị do lao động trìu tượng của người công nhân tạo ra trong quá trình
lao động gọi là giá trị mới, phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động,
nó bằng giá trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư.
Ba là, ngày lao động của người công nhân trong xí nghiệp tư bản được
chia thành hai phần:
Một phần gọi là thời gian lao động cần thiết: trong thời gian này người
công nhân tạo ra được một lượng giá trị ngang bằng với giá trị sức lao động
hay mức tiền công mà nhà tư bản giả cho mình(4 đôla).
Phần thời gian còn lại là thời gian lao động thặng dư : trong thời gian lao
động thặng dư người công nhân tạo một lượng giá trị lớn hơn giá trị sức lao
động hay tiền lương nhà tư bản đã trả cho mình, đó là giá trị thặng dư (4
đôla) và bộ phận này thuộc về nhà tư bản ( nhà tư bản chiếm đoạt)
Từ đó mà C Mac đã đi đến khái niệm về giá trị thặng dư:
10
Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra bên ngoài giá trị sức lao động do
công nhân làm thuê sáng tạo ra và bị tư bản chiếm đoạt.
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư là quá trình sản xuất ra giá trị vượt
khỏi điểm mà ở đó sức lao động của người công nhân đã tạo ra một lượng
giá trị mới ngang bằng với giá trị sức lao động hay mức tiền công mà nhà tư
bản đã trả họ. Thực chất của sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất ra giá trị
vượt khỏi giới hạn tại điểm đó là sức lao động được trả ngang giá.
II . CÁC PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, do vậy
mà các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng khối lượng giá trị thặng
dư. Những phương pháp cơ bản để đạt được mục đích đó là tạo ra giá trị
thặng dư tuyệt đối và tạo ra giá trị thặng dư tương đối.
1.Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ
thuật còn thấp thì phương pháp chủ yếu mà các nhà tư bản thường dùng để
tăng giá trị thặng dư đó là kéo dài ngày lao động của công nhân , trong điều
kiện thời gian lao động là tất yếu không thay đổi.
Giả sử thời gian lao động là 8 giờ trong đó 4 giờ là thơi gian lao động
cần thiết và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư khi đó trình độ bóc lột của
nhà tư bản là 100%. Giá trị ngày lao động kéo dài thêm 2 giờ trong khi thời
gian lao động cần thiết không đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng lên
một cách tuyệt đối , vì thế giá trị thặng dư cũng tăng lên , trình độ bóc lột
tăng lên đạt 200%(m’=200%).
Các nhà tư bản tìm mọi cách để kéo dài ngày lao động và phương pháp
bóc lột này đem lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư bản. Nhưng dưới chủ
nghĩa tư bản mặc dù sức lao động của công nhân là hàng hoá , nhưng nó tồn
tại trong cơ thể sống con người vì vậy mà người công nhân cần có thời gian
11
để ăn ngủ nghỉ ngơi giải trí để phục hồi sức khoẻ nhằm tái sản xuất sức lao
động. Mặt khác , sức lao động là thứ hàng hoá đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố
vật chất người công nhân đòi hỏi phải có thời gian cho nhu cầu sinh hoạt về
tinh thần , vật chất , tôn giáo của mình. Như vậy , về mặt kinh tế , ngày lao
động phải dài hạn thời gian lao động tất yếu , nhưng không thể vượt qua giới
hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.
Vì thời gian lao động quá dài , do vậy mà đã dẫn đến phong trào giai cấp
vô sản đấu tranh đòi giai cấp tư sản phải rút ngắn thời gian lao động trong
ngày. Chính vì vậy mà giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp
bóc lột mới tinh vi hơn , đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương
đối.
2. Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối
Bóc lột giá trị thặng dư tương đối được tiến hành bằng cách rút ngắn thời
gian lao động cần thiết để trên cơ sở đó kéo dài tương ứng thời gian lao động
thặng dư, trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi.
Giả sử ngày lao động 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu
và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư , trình độ bóc lột 100%.Giả thiết rằng
công nhân chỉ cần 2 giờ lao động đã tạo ra được một giá trị bằng giá trị sức
lao động của mình. Do đó mà tỷ lệ phân chia ngày lao động thành thời gian
lao động cần thiết và thời gian lao động giá trị thặng dư trong trường hợp đó
cũng không thay đổi. Khi đó thời gian lao động cần thiết là 2 giờ, thời gian
lao động thặng dư là 6 giờ, trình độ bóc lột của nhà tư bản lúc này là 300%
(m’=300%).
Như vậy để có thể giảm thời gian lao động cần thiết để từ đó gia tăng
tương ứng phần thời gian lao động thặng dư thì các nhà tư bản cần tìm mọi
biện pháp để tăng năng suất lao động trong những nghành sản xuất tư liệu
sinh hoạt. Đồng thời nâng cao năng suất lao động xã hội trong những
12
nghành, những lĩnh vực sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng để nuôi sống người
công nhân.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối chiếm ưu thế, thì đến giai đoạn sau khi mà kỹ thuật phát triển, sản
xuất giá trị thặng dư tương đối đã chiếm ưu thế. Hai phương pháp trên đã
được các nhà tư bản sư dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột
công nhân làm thuê trong các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản.
PHẦN III : KẾT LUẬN
Mục đích của các nhà tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là sản
xuất giá trị thặng dư. sản xuất giá trị thặng dư là động lực vận động của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.C.mac viết “mục đích của sản xuất tư
bản chủ nghĩa là làm giàu, nhân giá trị lên, làm tăng giá trị do đó bảo tồn giá
trị trước kia và tạo ra giá trị thặng dư”.
Để sản xuất giá trị thặng dư tối đa, các nhà tư bản đã dùng mọi thủ đoạn
để bóc lột công nhân làm thuê như “kéo dài ngày lao động và tăng cường độ
lao động”.
Như vậy nội dung của quy luật giá trị thặng dư là để thu được giá trị
thặng dư một cách tối đa, nhà tư bản đã tăng số lượng lao động làm thuê và
tìm mọi cách, mọi thủ đoạn để bóc lột họ.
Trong giai đoạn hiện nay các nhà tư bản đã thực hiện cải tiến thiết bị
máy móc trong sản xuất để tăng năng suất lao động, làm giảm giá trị hàng
hoá.Đồng thời thu hút đội ngũ kỹ sư có trình độ cao mà chức năng của họ
chủ yếu là đảm bảo sử dụng hiệu quả tất cả các nhân tố của sản xuất trước
hết là sức lao động chính vì vậy mà tăng giá trị thặng dư.
13