Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÂN CÁCH NGƯỜI LÃNH ĐẠO Cao học lãnh đạo học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.56 KB, 18 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “Làm lãnh đạo cũng là một
nghề, phải rèn đức luyện tài, trong đó đức phải là gốc”! Người lãnh đạo, quản lý
là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, xây dựng
một đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý “vừa hồng, vừa chuyên” là một trong
những nhiệm vụ then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Vì thế phẩm chất,
nhân cách và năng lực của người lãnh đạo, quản lý giữ vai trò quan trọng.
Chuẩn mực đạo đức của người lãnh đạo được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
rõ: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ yếu
nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỉ luật của Đảng, thực hiện tốt đường
lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và nhân dân lao động lên trên,
lên trước lơi ích riêng của cá nhân mình.
Một lịng phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì nhân dân mà đấu tranh quên mình,
gương mẫu trong mọi công việc. Lãnh đạo là đầy tớ trung thành của nhân dân.
Người lãnh đạo là một nhà chức trách, nắm quyền lực thực tế, có trong tay một
số cán bộ, cơng nhân viên nhất định, đồng thời có quyền ban hành các quyết
định về những vấn đề liên quan đến lợi ích của cơ quan, của người lao động
thuộc quyền quản lý.
Khi đã ở cương vị quản lý, người lãnh đạo tự quyết định mình phải làm
gì, làm như thế nào, đồng thời chịu trách nhiệm về các quyết định của mình
trước tập thể, trước cấp trên. Người lãnh đạo giữ vị trí trung tâm của tập thể lao
động, mang sức mạnh quyền lực - sức mạnh được Nhà nước đảm bảo tác động
trực tiếp với đối tượng quản lý của mình.
Người lãnh đạo là cầu nối giữa cơ quan quản lý cấp trên và tập thể lao
động; mọi chỉ thị, nghị quyết của Nhà nước ban hành thông qua người lãnh đạo
để đến với tập thể và chịu trách nhiệm trước cấp trên về trạng thái hoạt động, kết
quả hoạt động, cũng như các mặt về đời sống của tập thể do mình quản lý. Có
trách nhiệm tạo những điều kiện cần thiết đảm bảo cho việc thực hiện sáng kiến
của người lao động, đảm bảo cho họ tham gia tích cực vào hoạt động quản lý
của tập thể lao động.
Để thực hiện tốt vai trò, chức năng trên và để khẳng định tốt vị trí của


mình, người lãnh đạo cần phải có những phẩm chất và năng lực cần thiết - Đó là
những nét đặc trưng về nhân cách của người cán bộ lãnh đạo.


Trong bài phát biểu ngày 26/7/2016, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân
Phúc đã xác định rõ mục tiêu xây dựng Chính phủ mới trong nhiệm kỳ này, đó là
"Chính phủ kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ nhân
dân". Để thực hiện mục tiêu đó, những yêu cầu và đòi hỏi về phẩm chất của
người cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý phải gắn với những tiêu chí cốt lõi
của thời kỳ hội nhập.
Thực tế công tác cán bộ, đặc biệt là việc bổ nhiệm vào các cương vị lãnh
đạo, quản lý ở Việt Nam trong nhiều năm gần đây vẫn nặng về xem xét, đánh
giá những tiêu chí hình thành phẩm chất người lãnh đạo, quản lý, nghĩa là có
khuynh hướng định tính hơn là kỹ năng. Do đó, tính chun nghiệp trong quản
lý, điều hành ở những người đã được bổ nhiệm chưa cao. Vẫn cịn tình trạng bổ
nhiệm những người khơng có chuyên môn sâu, chỉ thuần túy khả năng hoạt
động phong trào, trong nhiều trường hợp còn đề bạt, bổ nhiệm các cương vị lãnh
đạo, quản lý xuất phát từ mối quan hệ thân tộc hoặc lợi ích nhóm... Vì vậy,
những người thực sự có năng lực khơng có cơ hội bộc lộ khả năng của mình.
Điều đó khơng tránh khỏi lối tư duy và hoạt động quản lý nặng về thể hiện hình
thức, thiếu nền tảng.
Hiện nay, khuynh hướng đánh giá phẩm chất người lãnh đạo, quản lý ở
Việt Nam cũng cần phải có những tố chất như tiêu chí về người lãnh đạo, quản
lý ở các quốc gia phát triển. Trước hết, người lãnh đạo, quản lý phải có kỹ năng,
bởi lẽ trong bối cảnh hội nhập, năng lực cạnh tranh địi hỏi phải có trình độ
chun mơn cao, đó là sự thơng hiểu trên nhiều phương diện, khả năng nắm bắt
xu thế và định hướng được sự phát triển hợp lý cho tổ chức, cho xã hội. Thiếu
kỹ năng trong lãnh đạo, quản lý sẽ dẫn tới nguy cơ mắc phải ba hiểm họa: khơng
có tầm nhìn, khơng tiên liệu trước được tương lai; khơng thích ứng mau lẹ và
hiệu quả với hiện tại do thiếu óc thực tế và khả năng sáng tạo; không chịu rút ra

bài học kinh nghiệm từ quá khứ và thất bại do thiếu khả năng suy ngẫm, học hỏi
và như vậy sẽ phải đối mặt với sự tụt hậu, đi xuống của tổ chức.
B. NỘI DUNG
I. CÁC KHÁI NIỆM
1. Khái niệm Lãnh đạo.
* Khái niệm: Lãnh đạo là quá trình hành động gây ảnh hưởng đến người
khác nhằm khơi dậy những cảm xúc, động lực tích cực và cam kết cùng hành
động vì mục tiêu chung.


* Lãnh đạo có những chức năng sau:
- Kiến tạo tầm nhìn
- Xây dựng văn hóa tổ chức
- Động viên, thúc đẩy cộng sự
- Đổi mới và thích nghi
2. Khái niệm Nhân cách:
* Nhân cách là khái niệm được phổ biến rộng rãi trong đời sống xã hội
và có nhiều nhận định khác nhau về khái niệm nhân cách.
Các tác giả Xơ viết có rất nhiều quan niệm khác nhau về nhân cách với
những tên tuổi nổi tiếng như: B.G.Ananiev, A.N.Lêonchiev, K.K.Platonov...
A.N.Lêonchiev coi nhân cách như một cấu tạo tâm lý mới được hình
thành trong các quan hệ sống của cá nhân do kết quả của hoạt động cải tạo
của người đó. Theo ơng, nhân cách là sản phẩm của q trình tiến hóa. Ơng
phân biệt giữa hai khái niệm cá nhân và nhân cách. Cá nhân là một chỉnh thể,
một sản phẩm của sự tiến hóa chủng lồi và tiến hóa cá thể. Nhân cách là một
cấu tạo tâm lý đặc biệt có tính trọn vẹn, là kết quả của q trình chín muồi
những yếu tố bẩm sinh dưới tác động của môi trường xã hội. Sự phát triển nhân
cách diễn ra theo quá trình phát triển của cá nhân. Đối với đứa trẻ sự hình thành
nhân cách được bắt đầu từ sự hình thành mối quan hệ giữa trẻ em với người
lớn, trẻ em với thế giới xung quanh. Nhân cách được hình thành theo một quá

trình từ nhỏ đến lớn. Đặc biệt ông nhấn mạnh đến vai trò của hoạt động, đặc
biệt là hoạt động chủ đạo của mỗi giai đoạn lứa tuổi. Muốn hiểu nhân cách một
con người, phải dựa vào hoạt động của họ và đồng thời phải đề cập đến các yếu
tố động cơ, nhu cầu, mục đích...
K.K.Platonov coi nhân cách là con người có ý thức. Bàn về sự hình
thành nhân cách, ơng cho rằng sẽ là không biện chứng khi xác định lúc nào
nhân cách được hình thành ở trẻ. Khi đứa trẻ biết nói “tơi” thì đó chính là một
nhân cách rồi. Nhân cách được hình thành trong giao tiếp. Vì vậy, khơng thể
nói một cách chỉnh xác nhân cách hình thành từ khi nào.
* Khái niệm nhân cách theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Nhân cách là tổ hợp
những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân, qui định hành vi xã hội
và giá trị xã hội của cá nhân đó.
II. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÂN CÁCH
NGƯỜI LÃNH ĐẠO.


1. Khái niệm về nhân cách:
Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá
nhân, qui định hành vi xã hội và giá trị xã hội của cá nhân đó.
2. Khái niệm về nhân cách người lãnh đạo:
* Xét về góc độ lãnh đạo là cá nhân: Nhân cách người lãnh đạo là tổ hợp
những đặc điểm, phẩm chất tâm lý đặc trưng, tương đối ổn định, qui định hành
vi xã hội, giá trị xã hội của người lãnh đạo đó.
* Xét về góc độ nhân cách lãnh đạo là một nhóm: Nhân cách người lãnh đạo
là mẫu hình nhân cách mà đối tượng lãnh đạo kỳ vọng rằng tổ hợp những phẩm chất,
năng lực ở người đó sẽ đảm bảo cho họ thực hiện được tốt các vai trò lãnh đạo.
3. Quan điểm Hồ Chí Minh về nhân cách người lãnh đạo.
Nhân cách của người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở
nước ta hiện nay là sự tổng hịa các yếu tố về phẩm chất và năng lực, trong đó
nổi lên là vấn đề đạo đức. Việc rèn luyện nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản

lý là một nhiệm vụ then chốt, thường xuyên của công tác cán bộ. Trong điều
kiện hiện nay, tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở để xây
dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhằm góp phần thực hiện thắng
lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Và theo tư tưởng của Người, nhân cách
người lãnh đạo bao gồm các nội dung sau:
3.1. Sự thống nhất biện chứng giữa đức và tài:
Theo Hồ Chí Minh: Cấu trúc Nhân cách gồm: Đức và Tài. Người có đức
mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà khơng có đức sẽ gây hại
nước, hại dân.
Đức là đạo đức cách mạng. Đức là “gốc”, nếu có tài mà khơng có đức là
vơ dụng, “có tài khơng có đức, tham ơ hủ hố có hại cho nước".
Đức và tài phải được biểu hiện trên kết quả cơng tác và phải ln thống
nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau trong nhân cách người cán bộ cách mạng.
3.2 Đạo đức của người lãnh đạo:
Đạo đức là gốc của nhân cách, cán bộ phải có đạo đức, khơng có đạo đức
thì tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân.
Hồ Chí Minh chỉ ra căn bệnh thường mắc phải của cán bộ là chủ nghĩa cá
nhân:
8 biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân: tham lam; lười biếng; kiêu ngạo; hiếu
danh; thiếu kỷ luật, óc hẹp hịi, óc địa phương, óc lãnh tụ.


7 bệnh khác: hữu danh, vô thực; kéo bè kéo cánh; bệnh cận thị; bệnh cá
nhân; lười biếng; tị nạnh xu nịnh, a dua.
Đạo đức cách mạng của người lãnh đạo bao gồm: Suốt đời đấu tranh cho
dân tộc và Tổ quốc; Đặt lợi ích của cách mạng lên trên hết và trước tiên: “Dĩ công
vi thượng”; Hết sức giữ kỷ luật và giữ bí mật; Nêu gương tốt cho quần chúng; Gần
gũi, học hỏi quần và phải lãnh đạo quần chúng. Khơng theo đi quần chúng.
Theo Hồ Chí Minh, nhân cách của người cán bộ lãnh đạo, quản lý trước
hết biểu hiện ở lòng "trung với nước, hiếu với dân". Người coi trung với nước,

hiếu với dân là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất của đạo đức cách
mạng và là một yếu tố cơ bản của nhân cách người cán bộ, đảng viên. Trong
điều kiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trung với nước là dám xả thân vì
nền độc lập, tự do của Tổ quốc, dẫu biết rằng đi làm cách mạng thì có thể bị tù
đày, lên máy chém, ra pháp trường. Ngày nay, trong hịa bình xây dựng, những
điều kiện ấy khơng cịn, nhưng những thử thách khơng kém phần nghiệt ngã vẫn
cịn đó đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Một số người khơng hy sinh bởi
mũi tên, hịn đạn trong cuộc chiến đấu khốc liệt để bảo vệ Tổ quốc, nhưng trong
hịa bình xây dựng lại bị "chết" bởi những “viên đạn bọc đường”, sa vào tham ô,
tham nhũng, lãng phí, quan liêu - những căn bệnh mà Hồ Chí Minh coi là "giặc
nội xâm", thứ giặc ở trong lòng, nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, trung với nước là phải đặt quyền lợi của Tổ
quốc, của Đảng lên trên hết, trước hết. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý là người
giữ trọng trách trong bộ máy của hệ thống chính trị càng cần có đức tính hy sinh
cho lợi ích của Đảng, của Tổ quốc. Điều này càng đặc biệt quan trọng trong cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khi các lợi ích đặt ra cho mọi người,
trong đó có lợi ích cá nhân trong mối quan hệ với lợi ích của tập thể và lợi ích
của Tổ quốc. Hồ Chí Minh cho rằng, khơng có chế độ nào tơn trọng con người,
chú ý đến lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế
độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa; rằng những cán bộ, đảng viên cũng
như bao con người khác, cũng có những nhu cầu chính đáng về cuộc sống vật
chất và tinh thần, nhưng có khác là ở chỗ khi cần, sẵn sàng hy sinh quyền lợi của
cá nhân mình, của gia đình mình cho lợi ích tối thượng của Đảng, của Tổ quốc.
Trong lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, có lợi ích của cá nhân mình. Hồ Chí Minh
cịn nói rằng, vào Đảng là tự nguyện; nếu vào Đảng mà sợ hy sinh thì đừng vào
Đảng hoặc khoan hẵng vào, để khi nào rèn được đức tính hy sinh rồi hãy vào.
Mọi người, kể cả những cán bộ lãnh đạo, quản lý được khuyến khích làm giàu,


nhưng đó là làm giàu chính đáng, chứ khơng phải làm giàu với bất cứ giá nào,

làm giàu bất chấp đạo lý, làm giàu bằng tham nhũng, dùng mọi biện pháp, lúc
trắng trợn, lúc tinh vi, chiếm đoạt của công làm của riêng.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý càng
phải gần dân, hiểu dân, vì dân, thực hiện đúng quan điểm của Hồ Chí Minh:
Đảng, Chính phủ, cán bộ, đảng viên là cơng bộc của dân, vừa là người lãnh đạo,
vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Sức mạnh của Đảng, của cả
hệ thống chính trị; trí tuệ và xung lực của người cán bộ lãnh đạo, quản lý là lấy
từ nơi dân, cho nên dân luôn luôn là gốc của cách mạng, đúng như Hồ Chí Minh
đã nêu và sau này, Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã tổng kết. Chúng ta khơng
thể chấp nhận tình trạng hiện nay ở khơng ít nơi, khơng ít người trong bộ máy
của hệ thống chính trị xa dân, khơng tơn trọng quyền làm chủ của nhân dân, mị
dân, theo đuôi quần chúng. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải ln thấm
nhuần quan điểm của Hồ Chí Minh: việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố làm;
việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố tránh; phải làm cho dân giác ngộ; chớ có
"vác mặt quan cách mạng" để "đè đầu cưỡi cổ nhân dân"; đừng có tưởng cứ
"dán lên trán hai chữ cộng sản" là dân tin, dân yêu, dân kính, dân phục mà phải
thực sự yêu dân, kính dân.
Hồ Chí Minh cho rằng, hiếu với dân cịn bao hàm cả hiếu với cha mẹ, có
tình u thương trong gia đình, nghĩa là có một “đời tư trong sáng”. Trong khái
niệm "nhân cách" của một con người, thường người ta hiểu có điểm nhấn về mặt
này nhiều hơn. Đứng trước dân, đang ở vị trí lãnh đạo, quản lý mà người cán bộ,
đảng viên nêu gương xấu, gương mờ trong đời tư thì tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng
khơng lãnh đạo, quản lý được ai một cách thực chất; nói khơng ai nghe, làm khơng
ai theo, là đạo đức giả, gây phản cảm. Đúng như Hồ Chí Minh quan niệm: ở
phương Đơng và ở Việt Nam, một tấm gương sáng cịn có giá trị hơn một trăm bài
diễn văn tuyên truyền. Hiếu với dân không ở đâu xa, mà trước hết chính ngay ở
trong gia đình, họ tộc, xóm giềng của bản thân người cán bộ lãnh đạo, quản lý đó.
3.3. Tài của người lãnh đạo.
Nếu người lãnh đạo chỉ có tài mà khơng có đức cũng rất nguy hiểm. Chủ
tịch Hồ Chí Minh coi đức là gốc rễ. Sự vô cảm của người lãnh đạo, quản lý cũng

tức là mối hiểm họa với tổ chức, với người dân. Có đức sẽ khiến người lãnh đạo,
quản lý biết hy sinh, có trách nhiệm xã hội, biết hướng tới lợi ích cộng đồng,
biết sẻ chia, cảm thơng, biết khích lệ, động viên… Khi người lãnh đạo, quản lý


vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm mà bất chấp cả sự an toàn, ổn định, phát triển
của tổ chức, của cộng đồng thì đó thực sự là mối họa cho dân, cho nước.
Theo Hồ Chí Minh, tài của người lãnh đạo được thể hiện trên các phương
diện sau: Tầm nhìn; Năng lực tư duy; Năng lực dự báo; Năng lực ra quyết định;
Năng lực tổ chức, huấn luyện và sử dụng cán bộ; Năng lực vận động nhân dân;
Năng lực diễn đạt để quần chúng hiểu.
Những chuẩn mực về năng lực lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo với cương vị
là người đứng đầu bao gồm: Phải quyết định mọi vấn đề cho đúng; Phải tổ chức
thi hành cho đúng; Phải tổ chức sự kiểm soát cho đúng.
Người lãnh đạo là người đứng đầu phải có ba năng lực cơ bản:
Năng lực ra quyết định trên mọi vấn đề cho đúng
Năng lực tổ chức thực hiện quyết định thành cơng
Năng lực tổ chức kiểm sốt việc thi hành các quyết định đã được đề ra
Đó là ba chuẩn mực về năng lực của người lãnh đạo với vị trí là người
đứng đầu và những chuẩn mực năng lực này biểu thị sự vượt trội, sự khác biệt
của họ so với người không phải là người lãnh đạo.
3.4. Giáo dục, rèn luyện nhân cách.
Muốn giữ vững nhân cách, luôn thực hành phải: cần, kiệm, liêm, chính.
Cần, theo quan điểm của Hồ Chí Minh có hai nội dung cơ bản: ngồi việc
địi hỏi người cán bộ phải cần cù, siêng năng, chịu khó, biết vượt qua khó khăn,
gian khổ để làm việc, còn là yêu cầu tăng năng suất lao động (Lâu nay, khơng ít
người chỉ nhấn mạnh tới nội dung thứ nhất). Đây là một quan điểm hợp với
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin khi coi năng suất lao động chính là một
điều kiện cốt yếu để chủ nghĩa xã hội chiến thắng chủ nghĩa tư bản. Năng suất
lao động của mỗi cá nhân là điều kiện để tạo thành năng suất lao động xã hội

(Hiện nay, sự tăng trưởng nhanh GDP hằng năm của Việt Nam tuy đứng thứ hai
ở châu á (sau Trung Quốc), nhưng mới chỉ nói lên phần nào sự phát triển kinh tế,
chứ chưa phản ánh được nhiều tăng năng suất lao động xã hội). Đức tính "cần"
của người cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay là phải chú ý tới hiệu quả, chất
lượng cơng tác, khơng có gì là trừu tượng, mà phải đo được bằng kết quả cụ thể
của từng người, từng ngành, từng địa phương, từng đơn vị.
Kiệm, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đó là tiết kiệm. Đáng chú ý là
tình trạng lãng phí ở nước ta hiện nay diễn ra khá nặng và đang có chiều hướng
nghiêm trọng hơn. Đại hội X của Đảng chỉ ra một điều nghịch lý rằng, nước ta


cịn nghèo nhưng cịn lãng phí, do đó khơng dành được nhiều nguồn lực cho đầu
tư phát triển. Hồ Chí Minh chỉ rõ: cần phải đi đôi với kiệm; cần mà khơng kiệm
thì tiền như “gió vào nhà trống”. Hiện nay, lãng phí biểu hiện ở nhiều mặt: lãng
phí tiền của trong đầu tư; lãng phí trong chi tiêu (cả ở phạm vi cá nhân, tập thể
và ngân sách Nhà nước); lãng phí thì giờ, v.v. Điều đáng chú ý nhất, đáng nhấn
mạnh nhất trong quan điểm này của Hồ Chí Minh là ở chỗ, kiệm khơng có nghĩa
là bủn xỉn, mà là việc gì đáng chi thì phải chi, việc gì chưa đáng chi thì khoan
hẵng chi, việc gì khơng đáng chi thì dứt khốt khơng chi. Đây chính là bài học
cơ bản nhất, lâu dài nhất, cần phải học cả đời người, đối với mọi đối tượng, từ
con người bình thường và càng đặc biệt hơn đối với người cán bộ lãnh đạo, quản
lý. Đành rằng tiết kiệm ngày nay khác với sinh thời của Hồ Chí Minh; lúc đó đời
sống cịn rất nhiều khó khăn. Ngày nay, đời sống đã được cải thiện đáng kể so
với trước đây, nhưng những nội dung cơ bản mà Hồ Chí Minh nêu ra trên đây
còn nguyên giá trị, kể cả sau này khi nước ta đã trở nên giàu có, mỗi người, mỗi
gia đình đều khá giả hơn. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý là những người nắm
quyền, nắm tiền (có người vừa nắm tiền vừa nắm quyền), nếu khơng chịu rèn
luyện đức tính tiết kiệm theo quan điểm và tấm gương của Hồ Chí Minh thì rất
dễ bị tha hố về nhân cách.
Liêm, Hồ Chí Minh coi đức "liêm" của con người ta là điểm để phân biệt

con người với con vật. Liêm là liêm khiết, là trong sạch, khơng tham ơ, tham
lam. Rõ ràng, đức tính liêm khiết là một biểu hiện rất rõ của nhân cách con
người. Trong hoàn cảnh hiện nay, người cán bộ lãnh đạo, quản lý khơng những
cần rèn cho mình đức tính khơng tham lam, khơng tham nhũng mà cịn phải đấu
tranh không khoan nhượng chống lại những biểu hiện tham nhũng. Hồ Chí Minh
gọi tham ơ, lãng phí, quan liêu với đúng nghĩa của nó là "giặc nội xâm". ở đây,
chúng ta cần chú ý cách gọi của Người; nếu coi tham nhũng là "nạn" hay mạnh
hơn là "quốc nạn", thì phải dùng phương pháp chống nạn, quốc nạn; còn đã gọi
đó là giặc thì phải dùng phương pháp chống giặc. Điều đáng chú ý nữa trong
vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề này là phải đề phòng và khắc
phục bệnh tham danh vọng, địa vị. Trong thực tế, đã có khơng ít người tìm mọi
cách "hạ bệ" nhau, nói xấu nhau, kèn cựa, níu kéo nhau, nịnh bợ, cơ hội,... trong
công tác cán bộ, công tác nhân sự để kiếm chác chức vụ. Nếu có chí tiến thủ,
bằng tài năng và đức độ phấn đấu đạt được chức vụ cao một cách chính đáng để
phục vụ Đảng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân thì đó là điều đáng mừng, nó
tơ đẹp thêm cho nhân cách của con người. Còn ngược lại, bằng những biện


pháp, thủ đoạn khơng chính đáng để có được chức vụ này nọ thì đó là điều đáng
báo động về nhân cách.
Chính, theo quan điểm của Hồ Chí Minh là không tà, là thẳng thắn; việc
thiện dù nhỏ cũng cố làm, việc ác dù nhỏ cũng cố tránh. Rèn luyện đức tính
"chính" theo quan điểm của Hồ Chí Minh cũng có nghĩa là người cán bộ lãnh
đạo, quản lý phải có thái độ rõ ràng, trong cuộc sống và cơng tác luôn yêu cái
thiện, ghét cái ác; luôn hành động, làm gương cho mọi người. Điều này đúng
như Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: "Tự mình phải chính trước, mới giúp được
người khác chính. Mình khơng chính mà muốn người khác chính là vơ lý".
Chí cơng vơ tư là một đức tính nữa của nhân cách người cán bộ, đảng viên
mà Hồ Chí Minh đề cập. Chí cơng vơ tư là chống chủ nghĩa cá nhân - một thứ
bệnh mà Hồ Chí Minh cho đó là "bệnh mẹ" đẻ ra muôn vàn "bệnh con". Người

chỉ ra tác hại của chủ nghĩa cá nhân, như: việc gì cũng nghĩ đến cá nhân trước;
ngại gian khổ, khó khăn; tham ơ, lãng phí, xa hoa; tham danh, trục lợi; thích địa
vị, quyền hành; tự cao, tự đại; coi khinh quần chúng; độc đoán, chuyên quyền,
coi thường tập thể; quan liêu, mệnh lệnh; kém tinh thần trách nhiệm; khơng chấp
hành chính sách của Đảng và Nhà nước;v.v. Rèn đức tính này theo gương Hồ
Chí Minh, cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay phải ln có ý thức và hành động
chăm lo đến lợi ích của Đảng, của Tổ quốc; phải "dĩ công vi thượng"; phải coi
chức vụ, quyền hạn của mình trong bộ máy của hệ thống chính trị là do dân trao
cho và phải luôn luôn phục vụ nhân dân... Bản thân Hồ Chí Minh coi chức Chủ
tịch nước của mình là do dân uỷ thác và mình phải có bổn phận làm trịn cái sự
uỷ thác đó. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân khơng phải là giày xéo lên lợi ích cá nhân. Và, trong điều kiện hiện nay,
người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải vừa tôn trọng tập thể, bảo đảm dân chủ
trong công việc, vừa dám làm, dám chịu trách nhiệm, có tính quyết đốn vì cơng
việc hơn lúc nào hết.
Như vậy bản thân mỗi người lãnh đạo cần tích cực rèn luyện bản thân, rèn
luyện ý chí, tích cực học để làm việc, làm người, làm cán bộ.
Rèn luyện nhân cách phải gắn với mục đích, biện pháp và hành động thiết
thực “Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực
hành. Học với hành phải kết hợp với nhau”,…
Rèn luyện nhân cách phải gắn chặt giữa rèn luyện đạo đức cách mạng với
rèn luyện tri thức.


Bên cạnh đó, nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý địi hỏi phải
thường xun nói đi đơi với làm, trở thành tấm gương sáng cho những người
xung quanh noi theo. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng khơng phải cứ tự
nhiên có được, mà phải là kết quả của sự rèn luyện tự giác, thường xuyên, suốt
đời, như “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Tự giác, tự
nguyện, tự tu dưỡng, bồi dưỡng nhân cách phải trở thành nếp sống hằng ngày

của người cán bộ. Đã đành, người cán bộ sống trong môi trường giáo dục của
tập thể, nhưng cái chính vẫn là tự mình, như Hồ Chí Minh thường hay đề cập,
người cán bộ phải thường xuyên xử lý ba mối quan hệ: đối với người, đối với
việc và đối với bản thân mình, trong đó tự mình xử lý với chính mình là điều
quan trọng nhất và khó nhất. Hồ Chí Minh quan niệm: một con người hôm qua
là vĩ đại, được mọi người u mến thì hơm nay khơng cịn là vĩ đại nữa, nếu
lịng mình khơng trong sáng. Trong Phật giáo, người ta gọi những người đi tu
thành công là người đắc đạo, tu đã thành chính quả, chứ khơng phải "giữa chừng
đứt gánh", phá giới. Mọi sự so sánh đều khập khiễng. Nhưng, cái giá trị bền lâu
cho quốc thái dân an chính là trơng chờ vào nhân cách nhất quán, xuyên suốt cả
cuộc đời của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị nước ta.
Nhân cách của người cán bộ lãnh đạo, quản lý còn biểu hiện ở mối quan hệ
thống nhất giữa nói và làm, điều mà trong tác phẩm Đường cách mệnh xuất bản từ
năm 1927, ở điều thứ 10, phần Tư cách của một người cách mệnh, Hồ Chí Minh đã
nêu rõ: "Nói thì phải làm". Hiện nay, có khơng ít người chỉ nói mà khơng làm, nói
nhiều làm ít, nói một đằng làm một nẻo. Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về nói
và làm đi đơi với nhau; có khi Người cịn làm nhiều hơn nói. Người cán bộ lãnh đạo,
quản lý mà nói khơng đi đơi với làm thì sẽ bị sa vào lối đạo đức giả, tạo ra sự phản
cảm cản trở việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị...
III. NHÂN CÁCH NGƯỜI LÃNH ĐẠO TRONG TÌNH HÌNH
THỰC TIỄN HIỆN NAY.
1. Thực trạng nhân cách của cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay.
Thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay đa phần có
trình độ chun mơn, lý luận chính trị và năng lực để thực hiện các nhiệm vụ
được giao, góp phần nâng cao các mặt cơng tác, khơi dậy được các nguồn lực
của nhân dân, nâng cao trình độ dân sinh, dân trí, đời sống nhân dân được nâng
lên đáng kể, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng,
chính quyền, đảm bảo an ninh, chính trị, quốc phịng ở cơ sở.



Tuy vậy, vẫn còn một số cán bộ lãnh đạo, quản lý có hiện tượng gây phiền
hà cho dân; nói không đi đôi với làm; năng lực yếu kém, chưa mạnh dạn tự
phê bình và phê bình. Cá biệt cịn có cán bộ lãnh đạo, quản lý lợi dụng chức
quyền để thu vén lợi ích cá nhân, làm mất lịng tin của nhân dân. Về tình
trạng này, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay” đã chỉ ra, “Một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên,
trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ
cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu
hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ
hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ tham
nhũng, lãng phí, tùy tiện, vơ ngun tắc…
Bối cảnh hiện nay đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao về quản lý, điều
hành phát triển kinh tế - xã hội, trước thực trạng trên, đòi hỏi đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải không ngừng học tập về chun mơn, lý luận
chính trị và rèn luyện đạo đức cách mạng để hoàn thiện nhân cách, đáp ứng yêu
cầu của thực tiễn.
2. Những yêu cầu về nhân cách người lãnh đạo tại tỉnh Vĩnh Phúc
trong giai đoạn hiện nay.
Nhân cách của người cán bộ, lãnh đạo, quản lý là sự tổng hòa giữa tài và
đức, giữa phẩm chất và năng lực. Trong đó, đạo đức được coi là gốc của nhân cách
và tài giữ vai trò quan trọng. Vì vậy, đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý khi rèn
luyện phát triển nhân cách phải phát triển cả tài và đức, phẩm chất và năng lực.
Người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp phải mang những phẩm chất của
người cán bộ cách mạng:
Bản lĩnh chính trị vững vàng, giữ lập trường giai cấp công nhân, tuyệt đối
trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác –Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Gương mẫu trong thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước.
Gần gũi, tận tụy, chăm lo đời sống của nhân dân, biết phát huy sức dân
thực hiện đúng quan điểm: Đảng, Chính phủ, cán bộ, đảng viên là công bộc của

dân, vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Đó là những người tự tin, nhất quán, dám nghĩ, dám làm, dám dân thân vào
việc khó, quyết tâm vượt qua thử thách, thực hiện mục tiêu đã đặt ra, không dao
động trước những khó khăn, tác động bên ngồi, lời nói và hành động đi đôi với


nhau, từ đó tạo lịng tin cho cấp dưới. Phải có khả năng vượt qua những cám dỗ, tiêu
cực của chức quyền và lợi lộc, giữ vững phẩm chất trong sáng của người cán bộ.
Phải gương mẫu về đạo đức, lối sống, thực hiện lời Chủ tịch Hồ Chí Minh
dạy “cần kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư”, tích cực đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác; đấu tranh với lối sống thực dụng, lối sống
trái với đạo đức truyền thống của dân tộc, giữ gìn đồn kết, thống nhất trong
Đảng, gắn bó với nhân dân. Đồng thời có trái tim nhân hậu, có khát vọng cống
hiến. Những phẩm chất này sẽ góp phần tạo nên uy quyền của người cán bộ lãnh
đạo, quản lý đối với thuộc cấp và hình ảnh đẹp trong mắt quần chúng nhân dân.
Người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải là người có năng lực (tài):
Phải giàu trí tuệ, năng lực nhận thức cần phải đạt đến trình độ tư duy lý
luận. Năng lực tư duy lý luận góp phần tích cực vào việc xây dựng, ban hành,
sửa đổi, bổ sung triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách cảu
Đảng, Nhà nước một cách có hiệu quả. Tư duy lý luận còn giúp người cán bộ
lãnh đạo, phân tích, đánh giá mức độ thực hiện nhiệm vụ và chỉ ra khó khăn,
thuận lợi, những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung, những hệ quả trước mắt và lâu dài,
những điều kiện, nguồn lực cần thiết để thực hiện nhiệm vụ; phân tích, đánh giá
được các vấn đề đưa ra có phù hợp với điều kiện trong nước và quốc tế hiện nay
không. Năng lực nhận thức của người cán bộ lãnh đạo, quản lý thể hiện ở khả
năng nhìn xa, trơng rộng, khả năng tiên đốn và phân tích các yếu tố để hoạch
định bước đi cho tương lai.
Có năng lực chun mơn là năng lực vận dụng kiến thức chuyên môn để
phục vụ công tác lãnh đạo. Cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở lãnh đạo, quản lý mọi
mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng trên địa bàn. Để chỉ

huy, điều khiển, phát huy khả năng của cấp dưới trong thực thi nhiệm vụ, đòi hỏi
người lãnh đạo phải am hiều cơng việc mình đảm trách để khi cần thiết, biết dồn
tiềm lực vào những khâu trọng yếu nhất. Trình độ chun mơn giỏi sẽ giúp
người lãnh đạo biết đánh giá và giúp đỡ công việc của cấp dưới.Kiến thức
chuyên môn càng uyên bác, chuyên sâu sẽ phục vụ tốt công việc, đồng thời sử
dụng hiệu quả đội ngũ chuyên gia.
Có năng lực lãnh đạo, quản lý bao gồm một hệ thống như: Năng lực thực
tiễn, năng lực quản lý, năng lực dự báo, định hướng phát triển, năng lực tổng kết
thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật, năng lực thuyết
phục và tổ chức nhân dân thực hiện, đặc biệt đối với một người lãnh đạo, quản


lý giỏi cần phải có năng lực phát hiện và bố trí, sử dụng cán bộ: phải phát hiện
những người giỏi có phẩm chất tốt để bố trí vào những vị trí quan trọng; theo
dõi, bồi dưỡng để đề bạt, tạo nguồn cán bộ thay thế… Bên cạnh đó, người cán
bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở còn phải biết sử dụng cơng nghệ thơng tin, có
kiến thức xã hội. Những kiến thức này ngày càng quan trọng.
Những năm qua, vượt qua nhiều khó khăn trở ngại trong điều kiện suy
thoái kinh tế chung của cả nước cũng như trên thế giới, Vĩnh Phúc đã giành
nhiều thành quả to lớn về phát triển các mặt kinh tế xã hội, đem lại cuộc sống
vật chất và tinh thần ngày càng cao cho người dân địa phương. Để có được điều
đó, không thể không nhắc đến công tác cán bộ của tỉnh. Làm tốt công tác này,
tỉnh đã tạo được hiệu ứng xã hội hết sức tích cực, xây dựng được vị thế và niềm
tin to lớn trong nhân dân các dân tộc trên địa bàn, trở thành động lực quan trọng
đưa Vĩnh Phúc từng bước vươn lên một tầm cao mới.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XVII nhiệm kỳ 2020
– 2025 nêu rõ, tỉnh sẽ tập trung vào 4 nhiệm vụ trọng tâm và 3 khâu đột phá.
Trong 3 khâu đột phá, có một khâu về công tác cán bộ và tổ chức bộ máy, trước
hết là đổi mới trong công tác đánh giá cán bộ bằng “sản phẩm”.
Coi kết quả đánh giá cán bộ là tiêu chí quan trọng nhất để thực hiện quy

hoạch, điều động, bổ nhiệm. Đề bạt, sử dụng người có đức, có tài, dám nghĩ,
dám làm, dám chịu trách nhiệm; không bổ nhiệm, sắp xếp, điều chuyển, thay thế
kịp thời những cán bộ yếu kém, năng lực hạn chế, uy tín thấp...
Cơng tác cán bộ được đưa vào nghị quyết, đã vậy lại là 1 trong 3 khâu đột
phá của cả nhiệm kỳ. Nghĩa là nó có vị trí và ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nguyên
nhân bắt nguồn từ việc, nhiệm kỳ trước, tỉnh triển khai công tác này khá nghiêm
túc và thu được nhiều kết quả đáng khích lệ.
Trước tiên, xác định công tác quy hoạch cán bộ là nền tảng, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ vừa là yêu cầu trước mắt, vừa là nhiệm vụ lâu dài trong công tác
cán bộ, tỉnh đã thực hiện nhiều giải pháp trong quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng
xây dựng đội cán bộ đáp ứng yêu cầu.
Quy hoạch lãnh đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh nhiệm kỳ 20202025, các đơn vị giới thiệu quy hoạch 361 lượt cán bộ. Số lượng, chất lượng và
cơ cấu giữa các độ tuổi đưa vào quy hoạch bảo đảm quy định, nhất là tăng tỷ lệ
cán bộ trẻ, cán bộ nữ. Quy hoạch cán bộ giai đoạn 2020-2025: Ban chấp hành
Đảng bộ tỉnh, tỷ lệ cán bộ trẻ 14,8%, nữ 25,9%. Do công tác quy hoạch thực


hiện tốt các quan điểm, nguyên tắc, phương châm, phương pháp, nhất là thực
hiện rà soát, bổ sung kịp thời nên quy hoạch cán bộ đã khắc phục tình trạng
khép kín và tạo động lực cho cán bộ rèn luyện, phấn đấu. Chất lượng quy hoạch
các chức danh chủ chốt ngày càng được nâng lên. Công tác quy hoạch không
nặng về số lượng mà coi trọng nâng cao chất lượng và bổ sung khi cần thiết.
Quan tâm đến cán bộ được đào tạo chun mơn chính quy và lý luận
chính trị học tập trung, nhất là cán bộ trẻ, cán bộ nữ. Phương pháp, cách làm dân
chủ, khách quan, ngoài bảo đảm các bước theo quy định, tranh thủ ý kiến các cơ
quan theo dõi, quản lý cán bộ; các cơ quan kiểm tra, giám sát.
Trên cơ sở quy hoạch, các cấp, các ngành đã xây dựng kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng, điều động, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ và chủ động nguồn nhân sự
cho các kỳ đại hội đảng, bầu cử Quốc hội, HĐND các cấp và kiện toàn bộ máy
lãnh đạo của địa phương, cơ quan, đơn vị. Tỉnh tổ chức thực hiện nhiều chương

trình đào tạo, bồi dưỡng có trọng tâm, trọng điểm, thiết thực, hiệu quả, phù hợp
với tình hình thực tế, năng lực trình độ người học.
Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hằng năm được xây dựng
trên cơ sở quy hoạch và yêu cầu sử dụng cán bộ. Đào tạo, bồi dưỡng luôn hướng
đến mục tiêu nâng tầm năng lực tư duy, khả năng hành động của đội ngũ cán bộ,
cơng chức.
Cụ thể hóa các chủ trương, giải pháp trên, từ năm 2010 đến nay, Vĩnh
Phúc đã đào tạo chuyên mơn cho hàng nghìn cán bộ trình độ đại học, thạc sĩ,
tiến sĩ; đào tạo lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ các cấp cho hàng vạn
lượt cán bộ. Đầu tư kinh phí đào tạo nhiều giáo viên và học sinh tại các cơ sở
đào tạo uy tín trong nước và trên thế giới...
Ban thường vụ Tỉnh ủy cũng chỉ đạo tích cực đổi mới chương trình, nội
dung các loại hình đào tạo, bồi dưỡng, sáng tạo cách thức tổ chức, quản lý, phối
hợp với cơ sở đào tạo trong tổ chức thực hiện. Tăng cường kiểm tra, đánh giá,
kịp thời phát hiện những hạn chế và có kế hoạch khắc phục, sửa chữa.
Nhờ thực hiện nhiều giải pháp trong quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng gắn
với các khâu khác trong công tác cán bộ nên đội ngũ cán bộ từ tỉnh đến cơ sở
thay đổi về chất, nâng cao trình độ chun mơn.
Xác định cán bộ là “khâu then chốt của nhiệm vụ then chốt”, Tỉnh ủy đã
chú trọng sàng lọc, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển cán bộ đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ; kiên quyết, nghiêm minh trong thi hành kỷ luật, cho nghỉ hoặc chuyển


công tác khác với cán bộ hạn chế về năng lực, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ;
mạnh dạn đề bạt cán bộ có năng lực.
Một trong những nét đổi mới công tác bổ nhiệm cán bộ của Vĩnh Phúc là
chủ trương theo hướng quan tâm cán bộ nữ, cán bộ trẻ và bố trí cán bộ khơng là
người địa phương. Tỉnh cũng làm tốt việc rà soát, bổ sung và xây dựng quy
hoạch theo phương châm “động” và “mở”, tạo chủ động trong công tác cán bộ.
Công tác cán bộ được thực hiện đúng quy định, đảm bảo sự lãnh đạo trực

tiếp của cấp ủy. Các khâu trong công tác cán bộ được thực hiện đầy đủ, bài bản,
khoa học và chặt chẽ.
Từ năm 2016 đến nay, Ban thường vụ Tỉnh ủy đã bổ nhiệm, giới thiệu
ứng cử, bổ nhiệm lại hoặc điều động, luân chuyển hàng trăm trường hợp. Chất
lượng cán bộ được bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử được nâng lên rõ rệt; cán bộ trẻ,
cán bộ nữ được quan tâm và ngày càng có tỷ lệ cao trong các tổ chức Đảng, cơ
quan, đơn vị.
Mới đây nhất, ngày 5/2/2021, Ban tổ chức Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc đã tham
mưu với Ban thường vụ Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc ban hành Kế hoạch số 15 để làm căn
cứ trong việc triển khai thực hiện, thể hiện rõ quan điểm của Đảng về phát triển
cán bộ trẻ, cán bộ nữ ở tỉnh. Trên cơ sở kế hoạch đó, Ban tổ chức Tỉnh uỷ Vĩnh
Phúc đã tham mưu với Ban thường vụ Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc đã quyết định bổ
nhiệm nhiều cán bộ trẻ và cán bộ nữ. Với các trường hợp này, các ứng viên đều
phải ứng đầy đủ các yêu cầu, điều kiện về tiêu chuẩn chức danh quản lý, có lập
trường tư tưởng vững vàng, kiên định; chấp hành tốt mọi chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước, có đạo đức lối sống lành mạnh, gương mẫu...
Đặc biệt, các trường hợp còn phải được ghi nhận là những cán bộ có uy
tín, năng lực trong cơng tác, thể hiện qua quy trình lấy phiếu tín nhiệm tại các
hội nghị lãnh đạo mở rộng, hội nghị tập thể lãnh đạo, hội nghị cán bộ chủ chốt...
đạt kết quả cao.
Đặc biệt, với những cán bộ trẻ, có năng lực đã được ghi nhận qua thực tế,
được đồng nghiệp và nhân dân đánh giá cao về uy tín, tác phong, đạo đức, các
cơ quan tham mưu về công tác cán bộ của tỉnh thường xuyên theo dõi, chú trọng
bồi dưỡng, đào tạo và kịp thời đề xuất điều động, bổ nhiệm vào các vị trí quản lý
phù hợp để phát huy tốt nhất khả năng cửa từng người, mang lại hiệu quả thiết
thực cho xã hội.


Quán triệt quan điểm tất cả các cán bộ đều bình đẳng trước sự phát triển
của tỉnh, cơng tác đề bạt, luân chuyển, điều động, bổ nhiệm cán bộ của Vĩnh

Phúc luôn được tiến hành khách quan và minh bạch, thực hiện đúng theo quy
trình và quy định của Đảng, Nhà nước về công tác cán bộ.
3. Giải pháp chủ yếu rèn luyện, phát triển nhân cách của người cán
bộ lãnh đạo của tỉnh Vĩnh Phúc.
Một là, nâng cao chất lượng công tác cán bộ:
Cấp ủy cơ sở dựa trên cơ sở về năng lực, hiệu quả công việc của cán bộ
để đánh giá, đưa vào quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt cán bộ. Tránh việc
đánh giá cán bộ một cách chủ quan “theo dòng họ”, “bè phái” hoặc cảm tính,
“yêu nên tốt, ghét nên xấu”. Đồng thời, căn cứ vào vị trí việc làm, yêu cầu thực
tiễn để bố trí, phân cơng cán bộ theo ngun tắc “đúng người, đúng việc” nhằm
phát huy năng lực, sở trường của mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý. Cấp ủy Đảng
cần tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá cán bộ hàng năm. Thực hiện lấy
phiếu tín nhiệm theo Quy định số 165-QĐ/TW ngày 18-2-2013 của Bộ Chính trị
về việc lấy phiếu tín nhiệm hàng năm đối với thành viên lãnh đạo cấp ủy và cán
bộ lãnh đạo trong cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể
chính trị - xã hội.
Trong sinh hoạt đảng cần làm tốt cơng tác “phê bình, tự phê bình”. Qua đó
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở nhận thức, đấu tranh loại bỏ những tồn tại, hạn
chế của bản thân để rèn luyện, phát triển nhân cách ngày càng hồn thiện hơn.
Hai là, phát huy tính tích cực, tự giác của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
trong quá trình tự rèn luyện phát triển nhân cách của bản thân:
Bản thân người cán bộ lãnh đạo phải không ngừng học tập, nâng cao trình
độ, tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn thơng qua các mơ hình điển
hình, các phong trào thi đua, từ đó phát triển chun mơn, nghiệp vụ cơng tác,
trình độ lý luận chính trị, trau dồi đạo đức, lối sống. Xây dựng kế hoạch tự học
tập, tự bồi dưỡng của bản thân, thực hiện phương châm suốt đời học tập: Xây
dựngchương trình hành động, kế hoạch cụ thể rèn luyện, học tập tư tưởng tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, theo tinh thần Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15-5-2016
của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh; Quy định số 101-QĐ/TW ngày 7-6-2012 của Ban Bí Thư

trung ương Đảng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ
lãnh đạo chủ chốt các cấp.


Nỗ lực rèn luyện và phát triển nhân cách trong thực tiễn. Chính thực tiễn
sơi động sẽ giúp cho người cán bộ ý thức được sự hạn chế, thiếu hụt của bản
thân để có kế hoạch học tập và rèn luyện. Đồng thời giúp cán bộ bổ sung, bồi
đắp thêm những thiếu hụt về kiến thức, năng lực, kinh nghiệm và kỹ năng công
tác đáp ứng với sự vận động, phát triển cách mạng trong giai đoạn mới. Theo đó,
người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải học tập ngay từ thực tiễn công tác
lãnh đạo, quản lý hàng ngày, học từ người dân, học từ đồng chí, đồng nghiệp, học
từ việc tổng kết thực tiễn, tổng kết những mơ hình mới, những cách làm hay…
Thường xun kiểm tra đánh giá kết quả thực hiện công việc của bản
thân; thực hiện tốt việc “tự phê bình”, qua đó khắc phục những sai lầm, hạn chế
của bản thân và nâng cao bản lĩnh trước những cám dỗ, tiêu cực mặt trái của
kinh tế thị trường.
Như vậy, việc rèn luyện, phát triển nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý
hiện nay là nhiệm vụ cấp thiết để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo có bản lĩnh
chính trị vững vàng, tài năng, tâm huyết, trách nhiệm, nói đi đôi với làm, mạnh dạn
dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm, khơng ngại khó, ngại khổ, có “Tâm –
Tầm –Tài”, là những cán bộ của nhân dân, được nhân dân tin u, kính trọng và
góp phần hồn thành sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
C. KẾT LUẬN
Hiện nay, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân
các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026 đang đến gần, sự nghiệp đổi mới đất nước ta
đang cần lắm những tấm gương mẫu mực, theo đúng đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh, khơng chút bụi mờ, có tác dụng nhân lên sức mạnh của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta nhằm thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Người giữ chức vụ càng cao, trọng trách càng lớn thì càng địi hỏi tấm
gương phải trong hơn, sáng hơn. Tự mình khơng là tấm gương trong sáng thì

khơng thể nào lãnh đạo được quần chúng, đó là điều hiển nhiên, sơ đẳng trong
tiến trình cách mạng nước ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh. “Người lãnh đạo
khơng nên kiêu ngạo, mà nên hiểu thấu. Sự hiểu thấu và kinh nghiệm của mình
cũng chưa đủ cho sự lãnh đạo đúng đắn. Ngồi kinh nghiệm của mình, người
lãnh đạo cịn phải dùng kinh nghiệm của đảng viên, của dân chúng, để thêm cho
kinh nghiệm của mình... lắng tai nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân” (Chủ
tịch Hồ Chí Minh).


Việc rèn luyện hoàn thiện nhân cách cho cán bộ nói chung và đội ngũ cán
bộ lãnh đạo nói riêng là một nội dung đặc biệt quan trọng trong xây dựng con
người mới nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước ta hướng đến
trong giai đoạn hiện nay.
Rèn luyện hoàn thiện nhân cách cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo hiện nay là
vấn đề cấp bách cả về mặt lý luận và thực tiễn. Trong rèn luyện hoàn thiện nhân
cách cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thì giáo dục bản lĩnh chính trị, mục
tiêu lý tưởng, đạo đức cách mạng là vấn đề cốt lõi, xun suốt.
Trong q trình rèn luyện hồn thiện nhân cách cho đội ngũ cán bộ lãnh
cần áp dụng kết hợp nhiều biện pháp. Trong đó, giáo dục đào tạo giữ vai trị chủ
đạo trong việc định hướng hình thành và phát triển nhân cách còn tự tu dưỡng và
rèn luyện của bản thân mỗi người giữ vai trò quyết định việc hình thành và phát
triển nhân cách. Cuộc đấu tranh khắc phục sự suy thoái nhân cách người lãnh
đạo quản lý không tách rời việc giáo dục nhân cách và sự tự tu dưỡng, tự rèn
luyện nhân cách.
Trong thời đại ngày nay, dù ở trong cương vị nào, tài năng và đức độ vẫn
là những phẩm chất cần thiết cho kết quả của cơng tác quản lý. Vì vậy mỗi cán
bộ lãnh đạo cần ln ln tự hồn thiện bản thân, tự học tập, trau dồi kiến thức
thông qua sách vở và thực tiễn để tự nâng cao trình độ, năng lực quản lý của bản
thân, đáp ứng nhu cầu công tác lãnh đạo và quản lý./.




×