Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất lượng và ngược lại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.41 KB, 14 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước
thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một nước độc lập, tự do, phát triển theo
con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế sâu rộng, ngày càng có vị thế
quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta đã từ thân phận nô lệ trở
thành người làm chủ đất nước và xã hội. Nước ta có nền kinh tế nghèo nàn lạc
hậu, bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta có được những thành tựu đó là do nhận
thức đúng đắn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh
vĩ đại và vận dụng các quan điểm cách mạng và khoa học của chủ nghĩa MácLênin. Mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về chất và sự thay đổi về lượng
là một trong những quan điểm khoa học đã và đang được chúng ta vận dụng khá
triệt để trong sự nghiệp phát triển đất nước. Vì quy luật đó cho ta biết phương
thức chủ yếu của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Nhận thức
được nó sẽ có ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối với công cuộc đổi mới đất nước ta
không chỉ trong giai đoạn hiện nay mà còn cả tương lai.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề, tơi chọn đề tài nghiên cứu là:
“Phân tích nội dung, ở đâu sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi
về chất và ngược lại. Việc nhận thức và vận dụng quy luật đó vào thực tiễn,
ý nghĩa của vấn đề”.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng chắc chắn sẽ khơng tránh khỏi những sai
sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cơ và các bạn đọc.


2

NỘI DUNG
Chương 1: Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về
lượng dẫn đến sự thay đổi về chất lượng và ngược lại.
1.1 Quan niệm biện chứng về chất và lượng:
1.1.1 Quan niệm về chất và lượng của các nhà triết học cổ:
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, chất và lượng có được ý nghĩa với tư


cách là những phạm trù trong triết học của Aixtốt. Ông xem chất và lượng là tất
cả những gì làm cho sự vật là nó. Cịn lại lượng là tất cả những gì có thể phân
tích thành những bộ phận cấu thành. Ông phân lượng thành hai loại: số lượng và
đại lượng. Ông cũng là người tiến hành đầu tiên để giải quyết một vấn đề quan
trọng của quy luật: và vấn đề nhiều chất và lượng của sự vật. Từ đó, ơng phân
biệt sự khác nhau về định thức với bản chất của sự vật - cái sẽ xuất hiện hoặc
mất đi cùng với sự xuất hiện hoặc mất đi của sự vật; ông cũng đạt được thành
phần đáng kể trong tầm nhìn theo định mức, xem chế độ là hệ thống nhất, cái
không thể phân chia giữa chất và lượng.
Sau này, quan điểm phiến diện tuyệt đối hóa đặc trưng về lượng đã được
phục hồi trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt trong triết học Hêghen. Hêghen đã
phân tích một cách tỉ mỉ tối đa hệ thống, mối quan hệ qua lại, chuyển đổi lẫn
nhau giữa chất và lượng, xem xét chất lượng và nằm trong quá trình vận hành và
phát triển khơng ngừng. Với quan điểm biện hộ, họ đã xem xét chất lượng “chất
thuần túy” đến “chất được xác định”, chất lượng phát triển đến mức tối đa thì ra
đời lượng; lượng cũng khơng ngìng tiến hóa, “số lượng“ là đỉnh cao nhất trong
lịch sử tiến hóa.
Trong việc xem xét mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và thay đổi về
chất, Hềghen đặc biệt chú ý đến phạm vi bước nhảy. chính dựa trên tư tưởng của
sự suy xét, Lenin đã rút ra khỏi hệ thống luận quan trọng là: Việc thừa nhận


3
bước nhảy hay khơng là tiêu chí Cơ sở hạ tầng xem đó là người theo quan điểm
chứng minh hay siêu hình về sự phát triển.
Tất nhiên, với tư cách là nhà triết học duy tâm, Hêghen đã xem các chất
lượng, độ chỉ như những nấc thang tự phát triển của tinh thần, của “ý tưởng
tuyệt đối” chứ không phải những nấc thang nhận thức của con người đối với thế
giới bên ngoài.
1.1.1 Quan niệm biện chứng duy vật về chất và lượng:

1.1.2.1 Quan niệm biện chứng duy vật về chất:
Chất là một phạm vi triết học dùng để chỉ tính chất quy định vốn có của
các sự vật và hiện vật, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó và do
đó nó khác với cái khác.
Thuộc tính là biểu hiện một khía cạnh nào đó về chất lượng của các sự
vật trong mối quan hệ qua lại với các sự vật khác. VD: Khi cho đường vào nước
ta có tính tan, khi ném ta thấy đường có vị ngọt. vậy tính tan, vị ngọt… là thuộc
tính của đường. Tất cả các thuộc tính của đường đều là những cái vốn có của
đường, nhưng chúng chỉ lộ ra trong mối quan hệ của đường với nước hoặc trong
quan hệ của đường với vị giác của con người.
Đặc trưng khách quan nói trên quy định nhận thức của con người đối với
vật chất của sự vật. Để nhận thức được các thuộc tính, chúng ta cần nhận thức
nó trong mối quan hệ giữa các sự vật. Trong mối quan hệ cụ thể thường bộc ra
nét thuộc tính (một khía cạnh về chất) của sự vật. Do vậy, để nhận thức được
chất với tư cách là sự tổng hợp tất cả các thuộc tính của sự vật đó, chúng ta phải
nhân sự vật trong tổng hòa các mối quan hệ có hể có giữa các sự vật đó các khác
sự vật.
Mỗi sự vật có vơ vàng thuộc tính, mỗi thuộc tính của các sự vật lại có một
tổng hợp các đặc điểm về chất của mình, nên để mỗi thuộc tính trở lại thành một
chất. Điều đó cũng có nghĩa, mỗi sự vật có vơ số chất. Cho nên khi diễn đạt


4
không thể tách rời giữa các chất và các vật cũng như nhiều chất của nó,
Ăngghen đã viết: “Nhữmg chất lượng khơng tồn tại, mà các sự vật có chất
lượng hơn nữa, các sự vật có vơ tính chất lượng, mới tồn tại “.
Với tư cách là những khía cạnh của chất lượng bị lộ ra trong các mối quan
hệ, các thuộc tính của các sự vật cũng có các vị trí khác nhau thành các thuộc
tính cơ bản và các tính thuộc tính khơng cơ bản . Tổng hợp các cơ sở thuộc tính
tạo thành chất của sự vậtt. Ở mỗi sự vật chỉ có một chất cơ bản, đó là tổng hợp

các thuộc tính dặc trng cho các sự vật trong tồn bộ q trình tồn tại của các sự
vật đó; đó là loại chất mà sự tồn tại của nó hay mất đi của nó quy định sự tồn tại
hay mất đi của sự vật. VD: trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất, chất
cơ bản của nền kinh tế tư bản là sản phẩm chạy theo giá trị thặng. Khi đó đặc
trung mất đi, nền kinh tế cũng khơng cịn là kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Chất lượng của sự vật không được xác định bởi chất lượng của các cấu
trúc yếu tố thành, mà bởi liên kết phương thức giữa các cấu trúc yếu tố đó thành
sự vật đó.
Tự nhiên và cả trong xã hội, chúng tôi thấy không ù ù, mà nhìn thấy riêng
về các cấu trúc yếu tố, chúng tơi hoàn toàn đồng nhất, chẳng hạn như các sự việc
lại khác nhau về chất. VD: kim cương và hơn là những sự vật đều do cácbon tạo
ra. Nhưng kim cương là vật cứng, có thể cắt hầu hết tất cả các loại kim loại, có
giá trị kinh tế cao, cịn hơn thì khơng có các đặc điểm tương đồng. Sự khác nhau
đó được quyết định bởi sự khác nhau của liên kết phương thức của các nguyên
tố cacbon.
Chất của sự vật khơng thay đổi chỉ khi có sự thay đổi các cấu trúc yếu tố
mà nó phụ thuộc vào liên kết phương thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành sự
vật đó. Do vây, làm biển đổi chất của sự vật, chúng ta có thể cải tạo cấu hình các
phần tử, hoặc thay đổi liên kết phương thức giữa các phần tử đó.
1.1.2.2 Quan niệm biện chứng duy vật về lượng:


5
Luợng là một phạm vi triết học được sử dụng để chỉ tính tốn quy định
vốn có của sự vật, nó biểu thị số lượng của các tỉnh, số lượng bộ phận, các đại
lượng, trình độ, quy mơ, nhịp điệu của sự vận hành và phát triển.
Những đặc trưng về lượng giá trị mang tính chất lượng vốn có của sự vật:
cổ phiếu là những đặc điểm giúp ta phân tích sự vật với sự vật khác.
Các trung tâm đặc biệt về hượng cũng được biểu hiện trong các hệ thống
nhất định. Tuy nhiên, khác với những mối quan hệ là phương thức lộ thuộc tính

về chất, những mối quan hệ nhờ đó thuộc tính hư hỏng lộ ra, mang tính xác
định, chặt chẽ, nghiêm ngặt hơn rất nhiều.
Tuy nhiên, trong thực tế có những thuộc tính về lượng cảu sự vật khơng
thể biểu hiện một cách chính xác bằng số lượng hay đại lượng. VD: trình độ giác
ngộ cách mạng, phẩm chất, tư cách, đạo đức của mỗi người ... trong những
trường hợp như thế, để có những tri thức đúng đắn về lượng, địi hỏi phải có sự
trừu tượng hóa rất cao và phương pháp luận khoa học.
Khơng chỉ chất lượng, mà tất cả các thuộc tính về chất cũng có tính chất
định lượng.
Do vậy, các sự vật cũng có vơ số lượng và số lượng là hai mặt không thể
tách rời nhau trong sự vật. Trong quá trình vận hành và phát triển, chất lượng và
số lượng của sự vật khơng đứng n. Chóng ln vận hành khơng phải thiết lập
với nhau mà ln ln có hệ thống quay lại theo hệ thống pháp luật nhất định.
1.1.2 Đề tài quan hệ biện hộ họ giữ không thay đổi về lượng và thay
đổi về chất:
Lượng có thể thay đổi trong giới hạn nhất định mà không làm thay đổi
căn bản về chất lượng của sự vật. Ở thời điểm này sự vật vẫn cịn là nó mà
chưng thành cái khác. VD: khi kiểm tra các trạng thái khác nhau của nước trong
khoảng nhiệt độ 0 độ c đến 100 độ C, chất lượng của nước vẫn không thay đổi


6
(xét về cấu hình chất lượng). Như vậy, not any mét sự thay đổi về lượng còng
ngay lập tức làm thay đổi căn bản về chất lượng của sự vật.
Khuôn khổ, mà trong đó sự thay đổi về lượng khơng thay đổi về chất
lượng của sự vật, được gọi là độ.
Độ là một triết học phạm vi được sử dụng để chỉ hệ thống giữa chất và
lượng, nó là một giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng không thay đổi căn
bản về chất của sự vật.
Những giới hạn mà khi lượng đạt tới đó sẽ làm thay đổi về chất lượng của

sự vật được gọi là điểm nút. Trong ví dụ trên, nếu coi trạng thái ước tính là chất
lượng thì 0 độ C và 100 độ C là điểm nút.
Sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút sẽ ra đời mới chất lượng với mới
tương ứng với mở rộng. sự thống nhất giữa lượng và chất mới tạo thành một độ
mới và điểm nút mới. Sự vận hành và phát triển là không giống nhau. Do đó, sự
vận hành, sự thay đổi của sự vật sẽ hình thành một đường nút của các quan hệ về
độ.
Sự thay đổi về chất làm những sự thay đổi về hrợ trong tnước đó được gọi
là bước nhảy: Buớc nhảy là một phạm vi triết học được sử dụng để chỉ thời gian
chuyển đổi của các sự vật làm những thay đổi về lượng trước đó gây ra, là quá
trình chuyển từ chất này sang chất khác một cách căn bản.
Thế giới là mn hình mn vẻ, nên sự thay đổi về chất lượng cũng hết
sức mạnh mẽ với nhiều hình thức khác nhau. Chất lượng của bước nhảy được
quyết định trước bởi tính chất của sự vật, bởi những vốn mẫu. Với những vật có
tính chất khác nhau và với nhữmg khác nhau mẫu sẽ có những bước nhảy khác
nhau. Hạn chế, bước nhảy trong tự nhiên dẫn đến đời sống của các loài động vật,
mới vật thực phải trải qua hàng ngàn năm hoặc nhiều hơn. Nhưng tự nhiên,
chúng ta vẫn quan sát được cả những quá trình thay đổi về chất lượng diễn ra
nhanh chóng. VD: hiện tượng phóng xạ trong tự nhiên của một số nguyên tố hóa
học ...


7
Tính đa dạng trong cấu trúc thay đổi về chất và được quy định bởi điều
kiện trong đó diễn ra sự thay đổi về chất. Chằng hạn chế, cũng là vấn đề thay đổi
quyền chính trị trong q trình phát triển xã hội, chẳng hạn như thuộc tính của
lịch sử điều kiện - cụ thể mà sự thay đổi đó có thể diễn ra bằng con đường hịa
bình hoặc bạo lực mạng. Khi đi theo con đường thứ 2, bước nhảy được thực hiện
trong khoảng thời gian tương tác ngắn, “một ngày bằng hai mươi năm”.
Trong thực tế, sự thay đổ về chất lượng thông qua các bước nhảy hết sức

mạnh mẽ và phong cách. Nhìn chung, các bước nhảy có thể hiện qua các cách
thức co bản sau:
Bước nhảy biến và bước nhảy theo cách dần dần:
Sự phân chia như vậy được dựa trên thời gian của sự thay đổi về chất, mà
còn dựa trên cả chất lượng của bản thân sự thay đổi đó. Các biến nhảy bước, khi
chất lượng của sự vật được biến đổi một cách nhanh chóng. Thời hạn, sự
chuyển đổi của các cơ bản ... dần dần các tiền tố của cũ. Hạn chế, q trình
chuyển hóa từ bạn thành người ... Như vậy, sự khác nhau giữa hai loại bước
nhảy vừa nêu không chỉ ở thời điểm diễn ra sự thay đổi về chất, và cả ở cơ chế
thay đổi đó. Khi nói về bước nhảy dần dần, ngoài tốc độ nhân tố, chúng ta cịn
nói đến cơ chế của cơng việc tạo ra chất mới. Ở đây, chất mới được tạo thành
không ngay lập tức, mà được tạo thành từng phần. Mặt khác, cũng cần phản hồi
bước nhảy dần dần với sự thay đổi dần dần về lượng. nhưng sự thay đổi dần dần
về lượng diễn ra liên tục trong khuông khổ của chất lượng đang tồn tại; bước
nhảy dần dần là sự chuyển hóa chất này sang chất khác, là đoạn thẳng của tính
liên tục, là bước quyết định trong quá trình phát triển.
Bước nhảy tồn bộ và nhảy cục bộ.
Bước nhảy toàn bộ là kiểu nhảy làm thay đổi chất lượng của tất cả các
mặt, các bộ phận, tổ chức nhân sự thành sự vật. Bước nhảy cục bộ là kiểu nhảy
thay đổi đồng hồ đo mặt, đồng hồ đo hệ số, số bộ phận của sự vật. Đối với tạp
chí về tính chất, cấu trúc nhân tố, cấu trúc giải tích thành .. Bước nhảy thường


8
xảy ra theo con đường từ sự thay đổi chất lượng cục bộ sang chất lượng tổng
thể. Quá trình thủ tục giải phóng dân tộc ở cấp độ thuộc địa (kiểu cị) trên thế
giới cũng như q trình cách mạng xã hội chủ nghĩa .. đã diễn ra theo phương
thức như vậy.
Khi xem xét sự thay đổi về chất và sự thay đổi về chất trong xã hội, điều
quan trọng là phải chú ý đến chiều sâu và ý nghĩa của chúng. Từ cách tiếp cận

đó, cả thay đổi định lượng và thay đổi chất lượng có thể được phân tách thành
những thay đổi mang tính cách mạng hoặc tiến hóa.
Cách mạng là sự thay đổi mà trong q trình đó, q trình tiến hóa sẽ loại
bỏ những phẩm chất cơ bản của sự vật, diễn đàn để cải thiện cơ bản chất lượng
của sự vật đó, bất kể sự cải tiến đó diễn ra như thế nào. Bất kỳ tình huống nào
(diễn ra dưới dạng thay đổi hoặc dần dần)
Tiến hóa là sự thay đổi, trong đó điều cơ bản của sự vật được duy trì.

Chương 2: Nhận thức và vận dụng nội dung quy luật từ sự
thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại trong thực
tiễn.
Chúng ta sẽ điểm qua công tác nhận thức và vận dụng nội dung của quy
luật này vào công việc ở nước ta qua hai phương diện:
2. 1 Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta:
Ở nước ta, lịch sử đặt vấn đề lựa chọn của Con đường phát triển bỏ qua
chế độ đã có ý nghĩa quan trọng kể từ những năm 20 của thế kỷ XX, khi chủ
nghĩa yêu nước là truyền thống Việt Nam bắt gặp con đường Cách mạng Tháng
Mười Nga, hòa nhập vào xu hướng chung của nhân loại: quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Thực hiện đấu tranh cách mạng và nhất là từ
khi tiếp cận với bản thảo luận cương lĩnh của VI Lenin về các vấn đề dân tộc và
thuộc địa, Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận: Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc
khơng có con đường nào khác con đường mạng vô sản; rằng chỉ có chủ nghĩa xã


9
hội và chủ nghĩa cộng sự mới được giải phóng các dân tộc được áp dụng và
những người lao động trên thế giới khỏi ách nơ lệ. Để có một bước nhảy cách
mạng đó để đưa cách mạng Việt Nam sang một trang khác (“chấtť” khác) là đất
nước xã hội chủ nghĩa, cương lĩnh đầu tiên (1930) của Đảng ta đã định sẵn: Sau
khi hoàn thành thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, nước ta sẽ tiến lên

chủ nghĩa xã hội. Đó là sự lựa chọn của nhà thờ chính và sự đúng đắn của Đảng,
đáp ứng nguyện vọng đời sống của dân tộc, phản ánh xứng đáng. thế của đại
thời đại, phù hợp với quan điểm mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê nin.
Cả một q trình tích lũy về đủ chất lượng để có những biến đổi về chất
lượng, chất lượng mới được tạo ra, nhưng nó trở lại đồng thời nó lại tạo nên một
lượng. Chúng ta cứ tưởng rằng sau khi chiến thắng đế quốc Mỹ, chúng ta sẽ có
một nước xã hội chủ nghĩa đích thực; thắng đé quốc, thực dân thì thắng nghèo,
lạc hậu cũng chỉ là vấn đề thời gian; rằng chúng ta có thể dễ dàng tiến tới xã hội
chủ nghĩa bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Có thể nói, nhận thức
của chúng ta về sự phát triển qúa độ lên chủ nghĩ a xã hội là trĩ, sai lạc và duy ý
chí. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải hiểu rõ ràng mới ở đây là chúng ta phải có
một thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ này chúng ta sẽ có những
thay đổi phát triển về mọi mặt kinh tế, xã hội nghị, văn hóa, giáo dục ... Chính vì
nhận thức được điều đó Đảng ta đã có chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ chủ nghĩa, tạo ra sự biết đổi về chất của xã hội trên tắt tất cả các lĩnh
vực là sự nghiệp rất khó, phức tạp, cho nên phải trải qua thời gian quá lâu với
nhiều đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá mức.
Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra đan xen và đấu tranh giữa cái
mới và cái cũ.
Với tinh thần thay đổi mới tư duy, thay đổi mới nhưmg không thay đổi
mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà còn lại, làm cho mục tiêu đó thực hiện một cách
có kết quả tốt hơn trên cơ sở chính thức về chủ nghĩa xã hội, đề ra các hình thức
và bước đi thích hợp, thẩm định đơn, siêu hình, giáo dục điều, duy ý chí, trái quy
định. Trên cơ sở pháp lý đúng về chủ nghĩa xã hội, với tinh thân phê bình cách


10
mạng, với sự định hướng mục tiêu và một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đẩm
đà bản sắc dân tộc, tương lai tươi sáng sự thay đổi mới vì mục tiêu dân giàu,
mước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và sẽ từng bước thực hiện

một cách sinh động trên đất nước.
2.2 Về sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta:
Bên cạnh việc nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước
ta một cách đúng đắn cũng là việc nhận thức về sự phát triển nước nên nước ta
trong năm qua có nhữmg thay đổi mới và phát triển rõ ràng.
Thập niên bảy mươi, với nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lại chiến
trường tàn phá nặng nề, chủ yếu bằng việc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tổ chức lại
sản xuất và mở rộng quy mô tác động xã, áp dụng mơ hình chủ nghĩa xã hội của
Liên Xơ, với hy vọng nhanh chóng vó nhiều chủ nghĩa xã hội hơn, chúng ta đã
bộc lộ tư tưởng chủ quan, nóng vé, duy ý chí cả về vấn đề trong lý luận lẫn trong
chỉ đạo thực tiễn. Điều đó đã làm cho các mục tiêu của Đại Hội IV của Đảng,
các chủ đề đều không đạt. Và tiếp theo đó Đại Hội V đề ra những chủ trương
lớn: tập trung phát triển nông nghiệp, nông nghiệp được xem là mặt hàng đầu; ra
sức mạnh mẽ sản xuất tiêu chuẩn; tiếp tục xây dựng hệ thống đo lường công
việc quan trọng ... Tuy nhiên, Đại Hội V vẫn tiếp tục đường ngắn do Đại Hội IV
vạch ra, không phản ánh được toàn bộ nên sẽ thay đổi. Điều đó làm cho tình
hình kinh tế xã hội của Việt Nam vào những thập niên 80 như càng lao nhanh
vào khủng hoảng. Từ đầu năm 1985 đến cuối năm 1986, tình hình trở nên
nghiêm trọng hơn. Nơng nghiệp sản xuất vẫn tiếp tục trì trệ, lương thực khơng
đủ sử dụng. Các xí nghiệp lng trong trạng thái “lãi giả lỗ thật”. Nhà nước bao
cấp tràn lan. Lưu thông, ách tắc phân phối. Đời sống nhân dân khó khăn đến
cùng cực. Tiêu cực xã hội có điều kiện sinh sơi, nảy nở. Nhân dân bất bình; Họ
cảm thấy khơng thể tiếp tục sống như cũ được nữa. Đảng và Nhà nước cũng
khơng thể duy trì các cũ chính sách và cơ chế. Khủng hoảng kinh tế xã hội đã
đến độ nguy hiểm. Chính thời điểm này là điểm nút của thay đổi về chất (kinh tế
xã hội) sau mét quá trình thay đổi dài và tích lũy đủ về “lượng”. Và bước nhảy


11
của sự thay đổi này do sự sáng tạo và nhận thức đúng đắn của Đảng, Nhà mước

và nhân dân khi thực hiện cơng việc mới. Việc đó nêu rõ trong Đại Hội VI tháng
12 năm 1986 đó là: chuyển đổi nền kinh tế của nước ta nhập vào mô hình kế
hoạch hóa tâpọ trung, quan liêu, bao cấp, dựa trên ché độ của chủ sở hữu về tư
liệu sản xuất sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Thay đổi mới là đường sáng tạo độc đáo, độc lập, tự chủ của Việt Nam,
phù hợp với hoàn cảnh sử dụng cụ thể của dân tộc Việt Nam. Và cũng bởi vì
cơng việc thực hiện đúng đắn, q trình thay đổi mới trên từng lĩnh vực của đời
sống xã hội sẽ trở lại từng bước nhảy về chất lượng trong phạm vi tương ứng.
Thực hiện thành cơng q trình thay đổi mới toàn diện tất cả các bề mặt của đời
sống xã hội sẽ tạo bước nhảy về chất lượng của tồn bộ xã hội nói chung. cũng
như trong các máy tính thay đổi về chất lượng khác, những bước nhảy trong q
trình thay đổi cũng chỉ có thể là quá trình thay đổi về lượng hợp tác nên Đảng,
Nhà nứoc và nhân dân năm tháng bắt được những công thức trong cuộc đổi mới
để từ đó có những người đi đúng hướng có thể thơng qua việc thực hiện các tiêu
chí của các kỳ Đại Hội VII, VII, IX. Công ty mới 15 năm thay đổi của đất nước
ta đã được tạo ra những thành công lớn:
Kinh tế tăng trưởng khá, GDP tăng bình qn hàng năm 7%. Nơng
nghiệp phát triển mạnh, giá trị sản xuất cơng nghiệp bình qn năm 13,5%. Hạ
tầng hệ thống, thơng tin chính thức, đường sá ... được tăng cường. Các dịch vụ
và xuất khẩu đều được phát triển.
Văn hóa xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục được cải
thiện.
Tình hình kinh tế chính trị xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng an ninh
được tăng cường.
Dự án xây dựng, chỉnh sửa Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được
củng cố ...


12

Với những thành tựu đạt được nước ta sẽ có những đề tài để bước vào giai
đoạn mới đó là giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa nước, xây
dựng nên kinh tế độc lập tự chủ, đưa mước ta trở thành một mước công nghiệp;
ban đầu phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng hệ thống sản xuất phù
hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh
thủ nguồn bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh,
có hiệu quả và bề mặt vững chắc, tăng trưởng kinh tế đi liến với phát triển văn
hóa, từng bước cải tiến thiện nguyện nhân dân, thực hiện tiến độ và công khai xã
hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng
cường quốc tế an ninh.
2.3. Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu
Qua thực tế chứng minh chúng ta dễ dàng thấy được việc nhận thức được
mối quan hệ biện chứng giữa thay đổi về lượng và thay đổi về chất sẽ mang lại
cho chúng ta ý nghĩa của phương pháp luận quan trọng mà công việc vận động
sẽ cho phép chúng ta nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động nhận thức cũng
như thực tiễn.
Vì sự thay đổi về lượng và thay đổi về chất lượng có mối quan hệ hợp tác
với nhau, nên trong hoạt động thực hiện phải dựa trên sự hiểu biết về mối quan
hệ đó; phải dựa trên việc hiểu đúng đắn vị trí, vai trị và ý nghĩa của từng loại
thay đổi nói trên trong sự phát triển xã hội, phải biết thời gian chuyển sang sự
thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính
tiến bộ sang mang tính cách mạng. Xem xét tiến độ và các mạng trong mối
quan hệ biện hộ là thước đo trong những phương pháp luận trong xây dựng
chiến lược và sách lược của Đảng nhằm cải tạo xã hội bằng cách mạng. Hiểu
đúng về mối quan hệ đó là tạo ra cơ sở chống lại chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa
xet lại hữu khuynh cũng như chủ nghĩa vơ chính phủ hữu khuynh.
Việc nắm vững nội dung quy định về mối quan hệ biện pháp chứng minh
giữa những người thay đổi về chất lượng và những thay đổi về chất lượng cũng



13
như những ý nghĩa của phương pháp luân chuyển của nó có vai trị lớn trong
việc xem xét và giải quyết những vấn đề đặt ra do công cuộc đổi mới vì chủ
nghĩa xã hội của nước ta hiện nay.

KẾT LUẬN
Nhận thức là cả một q trình, thơng qua hoạt động thực thi, những yêu
cầu và câu hỏi của cuộc sống nảy sinh và cùng với đó những phương thức giải
quyết cũng sẽ xuất hiện. Việc nhận thức và vận dụng nội dung luật từ những
thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất lượng và ngược lại cũng như vậy.
Từ những nhận thức về Quy luật trên, chúng ta phải biết vận dụng một cách
sáng tạo và phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đát nhước thì lúc đó chúng
ta mới nắm bắt được sự chuyển hóa của mọi sự vật hay một hiện tượng trong sự
phát triển của nó một cách rõ ràng và triệt để.
Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng điều đó cho cách mạng giải phóng dân
tộc, xây dựng, phát triển và tổ chức bảo vệ tổ quốc trong những thập kĩ qua đã
tạo nên những thành tự to lớn. Chính vì vậy chúng ta càng có những quan điểm
về cách mạng và khoa học của Mác - Lenin ln là những người có tư tưởng
đúng đắn để chúng ta vận dụng cho sự phát triển của đát nước. Đặc biệt, đó là
quy luật về mối quan hệ biện hộ giữa sự thay đổi về chất và giữa sự thay đổi về
lượng, đó là những sự chuyển đổi tạo nên sự phát triển của sự vật hay hiện
tượng. /.

MỤC LỤC TRỜI NẰM ĐẦU NỘI DUNG
Chương 1: Phân tích nội dung luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự
thay đổi về chất lượng và ngược lại:
1.1 Quan điểm chứng minh về chất và lượng
1. 1. 1 Quan điểm về chất và hượng của các nhà triết học cổ
1. 1. 2 Quan điểm biên của chúng tôi về chất và lượng
1. 1. 2. 1 Quan điểm biên của chúng tôi về chất



14
1.1.2. 2 Quan điểm biện hộ về lượng
1. 2 Quan hệ biện pháp chứng minh giữa những thay đổi về chất lượng và
giữa những thay đổi giả lượng
Chương 2: Nhận thức và vận dụng luật vào trong thực tiễn, ý của vấn đề
nghiên cứu.
2. 1 Về con đường đi lên xã hội chủ nghĩa của đất nước ta
2. 2 Vờ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
2. 3 Ý nghĩa của vấn đề Nghiên cứu.
KÉT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học – Lenin.
2. Triết học Mác - Lenin, Học viện quốc gia HCM.
3. Văn kiện Đại hội Đảng VII, VIII, IX 4 Tạp chí triết học, số 3/2002: số
2/2003.



×