Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Ảnh hưởng liều lượng phân chuồng đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của cây bí ngồi vụ xuân 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 67 trang )

20

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Ở nước ta hiện nay việc áp dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất, chọn
giống mới, luân canh tăng vụ, đã góp phần tăng năng suất bí một cách vượt bậc.
Bí Ngồi (Cucubita pepo L.) là loại giống mới được du nhập vào Việt Nam vài
năm trở lại đây. Những năm gần đây nông dân đã triển khai trồng giống bí ngồi Hàn
Quốc tương đối rộng rãi, giống được sử dụng phổ biến tên là Bulam House.
Đây là giống bí khơng đẻ nhánh, bí mọc thẳng cao 30 - 40 cm, bí ngồi sinh
trưởng mạnh và kháng sâu bệnh tốt, trồng được trên chân đất khô, đất cát pha chủ
động tưới, tiêu nước. Giống có năng suất, chất lượng cao, thường cho thu nhập 80
triệu đồng / ha / vụ [18].
Bí ngồi có hàm lượng dinh dưỡng cao, quả bí thường dùng để ăn non các bộ
phận được sử dụng để nấu canh, luộc, xào, làm bánh mứt, phơi khô để ăn dần, dễ
chế biến, ăn ngon miệng nên được người tiêu dùng ưa chuộng.
Bí có khả năng cất giữ và có thể góp phần giải quyết tình trạng giáp vụ rau.
Trong quả bí rất giàu nước, quả non chứa 90,7 % nước, 0,7 % đạm, 0,2 %
chất béo, 6,3 % chất bột đường, 1,5 % chất xơ, 0,6 % chất khoáng, VitaminC( 5-22
mg), prôtêin 1% và potasium 230 (mg). Tỉ lệ chất dinh dưỡng cao, quả non có tác
dụng phịng chống bệnh tật rất tốt được xem là loại rau lợi tiểu, giúp cơ thể loại bỏ
chất độc hại, giúp hệ tiêu hóa hoạt động có hiệu quả [19].
Trong y học bí được coi là dược liệu chữa bệnh sốt, nhuận tràng, lợi tiểu,…
có tác dụng rất tốt với hệ tiêu hóa, tăng cường sự tiết dịch của dạ dày, tăng sức sống,
chống độc, mát ruột [4].
Để góp phần đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất
hàng hóa, hướng sử dụng đất, thâm canh đạt giá trị sản lượng cao cho các vùng sản
xuất rau chuyên canh ở nước ta. Tiến Sĩ Phạm Văn Hà đã nêu được những đặc điểm


20



nổi bật của giống bí ngồi để khuyến cáo đưa vào sản xuất đại trà ở các vùng chuyên
canh rau 4 mùa [23].
Bí Ngồi cũng như nhiều loại cây trồng khác muốn đạt năng suất và mang lại
hiệu quả kinh tế cao đòi hỏi phải đáp ứng đủ các điều kiện cần thiết như: Nhiệt độ,
ánh sáng, nước, phân bón cho q trình sinh trưởng, phát triển.
Bên cạnh đó, phân bón có vai trị rất quan trọng trong việc thâm canh tăng
năng suất, bảo vệ cây trồng và nâng độ phì nhiêu của đất. Để có một nền nơng
nghiệp bền vững chúng ta phải chuyển từ nông nghiệp truyền thống "Dựa vào đất"
sang nông nghiệp thâm canh "Dựa vào phân bón".
Vì vậy chúng ta cần sớm ứng dụng một số giải pháp bền vững cho nông nghiệp,
bằng cách sử dụng các loại phân hữu cơ (phân chuồng, phân xanh, phân vi sinh). Cơng
nghệ phân bón mới này đã làm phong phú và thay đổi hệ thống phân bón cho cây trồng,
vừa bảo vệ cây trồng ít bị nấm bệnh, vừa cải thiện và bảo vệ đồng ruộng, làm phong phú
hệ vi sinh vật đất và ảnh hưởng tốt đến đời sống cây trồng [9].
Để tăng sử dụng phân bón có hiệu qủa phải xác định được liều lượng, tỷ lệ giữa
các loại phân, phù hợp với từng loại cây trồng, trên từng loại chân đất khác nhau.
Đối với cây bí ngồi cũng như các loại cây trồng khác phân chuồng đóng vai
trị rất quan trọng trong sự phát triển của bộ rễ, thân cây, tăng tỷ lệ hoa hữu hiệu và
sự tổng hợp các chất dinh dưỡng có ở trong quả.
Số quả đạt trên cây nhiều hay ít, to hay nhỏ còn phụ thuộc vào yếu tố thâm
canh, điều kiện sinh thái khí hậu của từng vùng.
Ở nước ta diện tích trồng bí ngày càng tăng nhưng năng suất vẫn cịn thấp và
khơng ổn định, so với năng suất trung bình của thế giới thì năng suất bí ở nước ta chỉ
đạt 40 - 45%. Trong những năm gần đây, để tăng sản lượng bí cho nhu cầu trong
nước và chế biến xuất khẩu, bên cạnh không ngừng mở rộng diện tích, sử dụng các
giống mới cho năng suất cao, trồng bí trái vụ,... thì việc sử dụng các loại phân bón


20


đặc biệt việc sử dụng phân chuồng hoai mục có ảnh hưởng rất lớn và đóng vai trị
quan trọng để tăng năng suất của bí.
Xuất phát từ thực tiễn trên chúng tôi tiến hành đề tài ‘‘Ảnh hưởng liều lượng phân
chuồng đến sinh trưởng, phát triển và năng suất bí ngồi vụ Xuân 2008”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá ảnh hưởng của liều lượng phân chuồng đến sinh trưởng, phát triển
và năng suất giống bí ngồi Hàn Quốc F1 TN220.
- Xác định liều lượng bón phân chuồng thích hợp mang lại năng suất và mang
lại hiệu quả kinh tế cao.
3. Yêu cầu của đề tài
- Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng phân chuồng đến một số chỉ tiêu sinh
trưởng, phát triển của giống bí ngồi Hàn Quốc F1TN220.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng phân chuồng đến sâu bệnh của
giống bí ngồi Hàn Quốc TN220.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng phân chuồng đến các yếu tố cấu
thành năng suất và năng suất chất lượng của giống bí ngồi Hàn Quốc F1TN220.


20

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cở sở lí luận và thực tiễn của đề tài
1.1.1.Cở sở lí luận
Bón phân là biện pháp kỹ thuật có ảnh hưởng quyết định đến năng suất, chất
lượng sản phẩm cây trồng, hiệu quả và thu nhập của người sản xuất, vì vậy bón phân
là một yếu tố đầu tư rất được quan tâm và thường chiếm một tỷ lệ đáng kể trong
tổng chi phí sản xuất của người tiêu dùng [6].
Phân chuồng là loại phân hữu cơ quý, có đầy đủ tác dụng phân hữu cơ như

cải tạo lý tính, hóa tính, sinh tính và nguồn cung cấp mùn cho đất. Giai đoạn đầu
phân chuồng cung cấp chất dinh dưỡng dễ tiêu cho cây con phát triển, tạo điều kiện
thuận lợi cho vi sinh vật đất phát triển mạnh, trong đó có cả vi khuẩn nốt sần. Phân
chuồng tạo kết cấu lấy ra nhiều dinh dưỡng ở dạng tiềm tàng trong đất.
Phân chuồng làm tăng năng suất cây trồng, giúp cây hấp thu dinh dưỡng tốt
hơn, tăng hiệu lực phân hóa học, cải tạo đất, giữ pH đất ở mức độ trung hòa hợp lý,
tăng chất mùn cho đất, chứa các kích thích tố giúp rễ cây phát triển nhanh hơn, chứa
các chất kháng sinh, các vi sinh vật đối kháng hay các vitamin để tăng khả năng
chống chịu của cây trồng trong những điều kiện bất lợi
Phân chuồng là nguồn dinh dưỡng phong phú của cây trồng, trong phân chứa các
chất hữu cơ có trong thành phần của cây. Ngồi ra trong phân có đầy đủ các yếu tố đa
lượng, vi lượng, trung lượng và trung bình có chứa 0,3% N, 0,2 % P205, 0,4% K205. Nếu
bón phân với lượng 10 tấn/ha sẽ cung cấp cho đất 30 kg N, 20 kg P205, 40 kg k20 [7].
Phân chuồng bón vào liên tục phân giải nhả khí CO 2 vào bầu khí quyển sát
mặt đất có lợi cho quang hợp của thân cây bò và thân thấp. Phân chuồng còn đưa
vào đất một số hoocmon có tác dụng kích thích sự phát triển của rễ và quá trình
sống của cây.


20

Ngồi các ngun tố đa lượng, phân chuồng cịn có các nguyên tố vi lượng, tỉ
lệ các nguyên tố vi lượng biến động nhiều theo thành phần đất đai và kỹ thuật chăn
thả gia súc từng vùng [13].
Phân chuồng không những là nguồn dinh dưỡng của cây trồng mà còn là
nguồn thức ăn dồi dào cho vi sinh vật đất. Bón phân chuồng rất giàu vi sinh vật 10g
phân chuồng có 90 – 109 cá thể vi sinh vật, khi bón vào đất đã bổ sung cho tập đồn
vi sinh vật một khối lượng đáng kể. Phân chuồng có tác dụng làm hoạt tính của vi
sinh vật cố định đạm, vi sinh vật amon hóa, nitrat hóa và một số loại khác.
Phân chuồng bón đồng thời với phân hố học tác dụng lẫn nhau rất rõ, phân

hoá học thúc đẩy sự phân giải của phân chuồng, phân chuồng giữ cho phân hố học
khỏi bị trơi mất và kích thích việc hút khống của cây làm tăng hiệu lực của phân
hóa học.
Từ những cở sở trên, có thể lấy đó làm cơ sở khoa học cho việc bón phân cân
đối và hợp lí, để đạt được hiệu quả kinh tế cao.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn việc bón phân cho cây bí
Khi việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng được đẩy mạnh thì cây bí là cây mang
lại hiệu quả kinh tế cao, đem lại thu nhập đáng kể cho người dân, tuy nhiên năng
suất bí vẫn cịn thấp và là một trong những ngun nhân chính do việc bón phân tuỳ
tiện, không cân đối về tỷ lệ NPK.
Mặt khác, trong điều kiện nhiệt độ cao, từ 25 – 30C như ở vụ Xn của tỉnh
Nghệ An, q trình khống hóa diễn ra mạnh mẽ, đồng thời mưa bão kéo dài ra từ
giai đoạn ra hoa tạo quả cho đến khi thu hoạch làm rửa trôi chất dinh dưỡng dẫn đến
cây trồng bị thiếu chất dinh dưỡng cần thiết cho thời kì cuối.
Bón phân chuồng liên tục nhiều lần để làm tăng độ màu mỡ trong đất, tăng
chất mùn, làm tơi xốp và giảm độ chua của đất.
Phân chuồng cung cấp một lượng keo mùn lớn làm kết cấu của đất tơi xốp
hơn, bộ rễ cây trồng phát triển mạnh, tăng khả năng chống chịu của cây trồng với


20

điều kiện ngoại cảnh bất thuận như rét, xói mịn, hạn,... Vì vậy người ta gọi phân
chuồng là phân cải tạo hóa lý tính đất [6].
Các chất dinh dưỡng trong phân chuồng 1 phần ở dạng dễ tiêu, cây trồng có
thể hấp thu trực tiếp, phần lớn được dự trữ trong phân ở dạng hữu cơ có thể cung
cấp từ từ mà không bị trửa trôi đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng các loại phân
khoáng và hiệu quả lâu bền [12].
Cây bí được trồng bằng phân chuồng phát triển rất tốt, vì phân chuồng ln
giữ cho đất tơi xốp và giữ được ẩm hơn. Cây bí trồng xen phát triển tốt, cây dày cho

năng suất cao, đất ẩm, ánh sáng ít nên hạn chế sâu bệnh, cỏ dại, thuốc trừ sâu vi sinh
diệt trừ được một số loại sâu bệnh. Làm nông nghiệp theo phương pháp sử dụng bón
phân chuồng là phương pháp tốt để cho ra các sản phẩm an tồn khơng độc hại,
đồng thời phân chuồng không những làm cho đất màu mỡ, cây trồng khỏe mạnh mà
cịn bảo vệ sức khỏe con người và mơi trường thiên nhiên xung quanh [24].
Cây bí cũng như các loại cây trồng khác, đều phải cạnh tranh nguồn phân
chuồng với các cây trồng khác cùng thời vụ như ngô, lạc, đậu, vừng,... Do đó việc
xác định mức bón phân chuồng hợp lý cho năng suất cao, cải tạo đất, mang lại hiệu
quả kinh tế là rất cần thiết.
Khi gieo trồng, người dân thường bón ít phân chuồng, hoặc có hộ khơng bón
phân chuồng. Số hộ bón phân chuồng theo khuyến cáo cịn rất thấp.
Qua nghiên cứu, có thể tìm ra được sự cần thiết của phân chuồng, từ đó có
thể giúp người nơng dân có cơng thức bón phân hợp lí nhằm giảm chi phí đầu vào
nhưng có thể cho năng suất cao, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Đối với nhà cung cấp phân bón có thể làm căn cứ triển khai những nghiên
cứu thêm về nhu cầu phân bón của địa phương, từ đó sản xuất loại phân bón có
thành phân thích hợp hơn đối với cây trồng, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế
của việc sử dụng phân bón.


20

1.2. Tình hình nghiên cứu và tác dụng của phân chuồng đối với cây bí trên thế
giới và ở Việt Nam
1.2.1. Trên thế giới
Trong các nguyên tố dinh dưỡng thì phân chuồng được coi là ngun tố có
vai trị rất lớn đối với sự sinh trưởng và phát triển của cây bí. Hiệu lực của phân
chuồng phụ thuộc vào loại đất trồng bí, lượng bón, tỷ lệ, phương pháp bón và dạng
phân được sử dụng.
Theo Teruo Higa (1980) ở Nhật Bản đã nghiên cứu về phân chuồng trong

nhiều lĩnh vực như cây trồng, thuỷ sản,... Nhiều nước đã sản xuất khối lượng lớn
phân bón này để sử dụng trong nơng nghiệp và được coi là giải pháp cho việc phát
triển nông nghiệp bền vững, tăng năng suất chất lượng cây trồng [22].
Tại Trung Quốc, kết quả nghiên cứu về tác dụng của việc bón phân chuồng
trên cây bí và các loại cây trồng khác cho thấy, năng suất tăng lên 10 – 20 % so với
khơng bón phân chuồng [32].
Trong những năm 1970 - 1989. Ở Châu Á có tới 75% sản lượng bí tăng lên là
do sử dụng lượng phân chuồng
Nghiên cứu hiệu quả của phân chuồng trên một số cây trồng ở Indonesia,
G.N.Wididana và T.Higa (1995) [31] cho biết phân chuồng có ảnh hưởng rõ rệt đến
sinh trưởng phát triển, năng suất, phẩm chất của một số cây ăn quả và các loại rau
màu như: cà chua, bầu bí, dưa chuột, khoai tây.
Theo báo cáo của C.C.Ting, J.sami, A.B.Rahman và H.A.Sharfuddin (1995),
tại Malaixia phân chuồng ảnh hưởng rất rõ rệt đến các giống lúa và rau màu như rau
cải, cà chua, bầu bí, dưa chuột, làm tăng năng suất lúa lên 10 -14 %, năng suất rau
màu lên 26 % [29].
Jong Hoon Lee (1992) ở Hàn Quốc, khi nghiên cứu hiệu quả bón phân
chuồng đối với bí ngồi, bí đỏ, bí đao, bí xanh đã đưa ra kết luận: Khi bón loại phân


20

này làm cho cây sinh trưởng tốt hơn, sâu hại giảm, tăng độ Brix, tăng hàm lượng
đường và làm tăng năng suất lên 20 - 40 % [30].
Trên cây bí phân chuồng được bón nhằm kích thích phát triển của bộ rễ, sự
đậu hoa, quả, từ đó làm tăng năng suất cây trồng một cách đáng kể.
Tác giả R.K Toora thuộc Đại Học Lincon, Centerbury và đồng nghiệp đã
xem xét “Ảnh hưởng của các loại phân bón khác nhau đối với các liều lượng chất
chống oxi hóa chính trên cây “bầu bí” và đưa ra kết luận: hàm lượng chất dinh
dưỡng trong bầu bí khi bón phân vơ cơ thấp hơn 40% so với khi bón phân chuồng,

phân hữu cơ, các chế phẩm sinh học [21].
1.2.2. Ở Việt Nam
Trong những năm qua Việt Nam đã có những cố gắng trong việc nghiên cứu
áp dụng khoa học kỹ thụât vào sản xuất bí, trong đó có những chương trình hợp tác
và tổ chức thế giới nhằm đánh giá tình hình sản xuất, tìm hiểu những hạn chế và cải
tiến sản xuất.
Việc sử dụng phân chuồng làm phân bón mang tính truyền thống trong quản
lý đất đai cho một nền nông nghiệp bền vững. Phân chuồng sử dụng có hiệu quả
nhất khi kết hợp với các biện pháp khác như luân canh, trồng cỏ phủ mặt đất để làm
phủ xanh, sử dụng vôi bột và các nguyên liệu tự nhiên khác.
Phân chuồng là loại phân bón cho các loại cây trồng rất tốt vì nó có đầy đủ
chất dinh dưỡng có tỷ lệ C/N cân đối, hợp lý từ 20 – 25%. Nếu phối trộn thêm lượng
lân, kali theo yêu cầu của từng loại cây trồng để bón lót hoặc bón thúc cho rau màu,
cây ăn quả đều rất tốt, cho hiệu quả kinh tế cao [25].
Hiệu quả sử dụng phân chuồng không chỉ cung cấp trực tiếp dinh dưỡng cho
cây mà cịn năng cao tính chất vật lý của đất tăng cường hoạt động của tập đoàn vi
sinh vật trong đất, đồng thời tiết kiệm trong sử dụng các loại phân hóa học.
Theo "Quy trình kỹ thuật trồng bí" một hec ta cần 15 - 20 tấn phân chuồng
hoai và phân chuồng được bón lót vào hố trước khi gieo trồng [24].


20

Kĩ sư Bùi Đình Dinh (1994) đã nghiên cứu ảnh hưởng của phân chuồng đến năng
suất lúa trên đất bạc màu ở Đồng Bằng Sông Cửu Long kết quả cho thấy như sau [5].
Bảng 1.1. Ảnh hưởng của phân chuồng đến năng suất lúa trên đất bạc màu
Năng suất

Công thức


(tấn / ha)

Tăng NS so với ĐC (%)

NPK (Đ/ C)

3,63

-

NPK + 8 tấn PC

4,03

11,02

NPK + 1 tấn PC

3,94

8,54

NPK + 4 tấn PC

3,97

9,37

Kết quả nghiên cứu cho thấy bón 1 tấn phân chuồng làm bội thu ở đất phù sa
Sông Hồng 80 - 120 kg thóc, ở đất bạc màu 40 - 60 kg thóc, ở đất phù sa Đồng Bằng

Sơng Cửu Long 90 - 120 kg thóc [20].
Thành phần dinh dưỡng của phân chuồng được thể hiện ở bảng sau [7].
Bảng 1.2. Thành phần dinh dưỡng của phân chuồng
Đơn vị : %
Loại

H2 O

N

P2O5

K2 O

CaO

MgO

Lợn

82,0

0,80

0,41

0,26

0,09


0,10

Trâu Bị

83,1

0,29

0,17

1,00

0,35

0,13

Ngựa

75,7

0,44

0,35

0,35

0,15

0,12




56,0

1,63

1,54

0,85

2,40

0,74

Vịt

56,0

1,00

1,40

0,62

1,70

0,35

phân


Trên các loại đất, phân đạm có mối quan hệ rất chặt chẽ với phân chuồng.
Bón phân chuồng làm tăng hiệu suất sử dụng phân đạm. Năng suất lúa đạt cao nhất
khi tỷ lệ đạm hữu cơ trong tổng lượng đạm bón khoảng 30 - 40 % (Bón 10 tấn phân


20

chuồng thường cho khoảng 30 - 35 kg đạm nguyên chất tương đương 65 - 75 kg
urê). Phân chuồng ảnh hưởng rất lớn đến hiệu lực phân kali. Bón 10 tấn phân
chuồng cung cấp cho đất lượng kali tương đương 50 – 60 kg kali [22].
Sở khoa học và công nghệ tỉnh Nam Định đã giúp nông dân sử dụng rơm rạ ủ
trong phân chuồng sau thời gian 1 tháng sẽ cho một loại phân bón rất tốt được bón
trước khi đem cây ra trồng, phân chuồng giúp giảm 20 - 30% lượng phân hóa học và
tăng năng suất cây trồng lên 5 - 7% [26].
Nguyễn Xuân Thúy, Nguyễn Văn Bộ, Bùi Huy Hiền (2001). Kết quả nghiên
cứu cho thấy, bón phân chuồng cho cây bí làm tăng năng suất rất lớn, mức bội thu
đạt 29 - 34 tấn/ha, 22 - 23 tấn /ha khi bón rơm rạ và bón kali 16 - 22 tấn/ha [23].
Theo báo cáo của sở Nông Nghiệp và PTNT Thành Phố Hà Nội (1997) khi
thử nghiệm bón phân chuồng ủ hoai trên các loại rau thuộc họ bầu bí có nhận xét,
các loại rau có màu lá xanh hơn, hoa mơn mỡn và đậu quả nhiều hơn so với bón các
loại phân hóa học [15].
Phân chuồng khơng những có ảnh hưởng tốt đến các loại cây lương thực, rau
màu mà cịn có tác dụng tốt trên các loại cây ăn quả, hoa và cây cảnh.
Ở Miền Nam, thí nghiệm ở trại Long Khánh ( 1963) và ở trại Eakmat (1964)
thấy trên đất latosoi nâu đỏ, phân chuồng bón lượng 10 tấn/ha làm tăng năng suất 13
- 27% so với khơng bón phân [10].
Theo Hồng Ming Châu, lượng phân chuồng tối thiểu cần duy trì hoạt động
tối ưu của đất là khoảng 3 - 5 tấn/ ha [2].
Theo PGS.TS Trần Đình Mấn, phó viện trưởng Viện CNSH cho biết khi sử
dụng phân chuồng bón cho cây bí làm tăng năng suất lên 20 - 30% so với việc bón

các loại phân hóa học.
Báo cáo thử nghiệm phân chuồng cho lúa qua 2 vụ năm 1998. Vũ Văn Liết,
Nguyễn Văn Trung (1999) đã chỉ ra rằng sử dụng phân chuồng hoai mục có tác
dụng làm tăng năng suất lúa từ 8 – 15,5% (giống CR203), và 3,4 – 18,5% (giống


20

C70). Đồng thời sử dụng phân chuồng hoai mục có thể làm giảm lượng phân bón vơ
cơ mà khơng ảnh hưởng đến năng suất và có thể rút ngắn thời gian sinh trưởng từ 5
– 13 ngày (chủ yếu vụ mùa) [8].
PGS.TS. Lưu Hồng Mẫn (2005) khi bón phân chuồng thì năng suất khơng
khác biệt so với bón hồn tồn phân hóa học mà tiết kiệm được nhiều chi phí. Nếu
bón tồn bộ số phân chuồng ngay ở vụ đầu tiết kiệm được 40% lượng phân NPK/ha,
nếu bón liên tục 10 vụ tiết kiệm 80% lượng phân NPK/ha [17].
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến sinh trưởng, phát triển và năng
suất bí vụ Đơng Xn 2004 – 2005, Đào Châu Thu cho rằng khi bón loại phân này
làm tăng năng suất bí từ 14,76 – 18,26 tạ /ha [11].
Năm 2004, Viện KHKTNN Việt Nam đã sản xuất thành công chế phẩm vi
sinh vật chức năng và phân chuồng hoai mục trên cây bí. Kết quả chế phẩm sinh vật
chức năng và phân chuồng hoai mục làm tăng năng suất bầu bí lên 15 – 20 %[17].
Trần Nga (2008). Khi nghiên cứu ảnh hưởng của phân chuồng đến họ bầu bí
ở Hải Phịng kết quả rút ngắn thời gian sinh trưởng của rau, thu hoạch sớm hơn 3 - 4
ngày và tăng năng suất 15 - 20%, sản phẩm đẹp, chất lượng tốt, giảm từ 20 – 25%
chi phí bón phân hóa học [16].
Các nhà nghiên cứu đã phân tích một số loại rau trong họ bầu bí có hàm
lượng dinh dưỡng như sau [19].


20


Bảng 1. 3. Thành phần hóa học thức ăn Việt nam (1990)
Dưa

Dưa

hấu

leo

95,5

96,2

93,6

27

16

11

15

0,3

0,3

1,9


0,8

1,2

2,9

2,4

6,2

3,0

2,0

2,5

Ca(mg)

21

26

24

23

25

8


P(mg)

25

23

16

27

37

13

Fe (mg)

0,2

0,3

0,5

1,0

0,4

1,0

B1 (mg)


0,02

0,01

0,06

0,03

0,04

0,04

Vitamin C(mg)

12

16

8

5

4

7

Caroten(mg)

0,01


0,01

0,02

0,03

0,26

0,2

Chất dinh dưỡng

Bí đao

Bầu

Bí đỏ

Bí ngồi

Nước ( % )

95,1

95,5

92,0

Năng lượng (cal)


14

12

Chất đạm ( g)

0,6

Chất bột đường(g)

1.3.Tình hình sản xuất bí trên thế giới và trong nƣớc
1.3.1. Tình hình sản xuất bí trên thế giới
Trên thế giới, bí được trồng rộng rãi từ vùng nhiệt đới ẩm và nóng khơ, tới
vùng ơn đới tương đối ẩm và có nhiều mưa. Cây bí khơng địi hỏi nghiêm ngặt về
đất, thậm chí cả các loại đất bị rửa trơi thối hóa vẫn trồng được bí, chỉ cần thành
phần cơ giới của đất tương đối nhẹ, có đủ độ ẩm và trong thời gian sinh trưởng của
cây bí có đủ nhiệt độ và lượng mưa cần thiết. Khoảng 80% diện tích trồng bí thế
giới tập trung chủ yếu ở lục địa Á Phi, ở Châu Á (62,6%) và Châu Phi (15,8 %).
Theo số liệu thống kê của FAO (2007) diện tích trồng bí trên thế giới là 1.503.336
ha, năng suất đạt 13,50 tấn/ha, sản lượng đạt 20.296.443 tấn, trong đó có 2 nước tập trung
trồng bí nhiều nhất là: Ấn Độ đạt 360.000 ha, Trung Quốc đạt 328.000 ha.


20

Bảng 1.4. Tình hình sản xuất bí thế giới (2007)
Nước
Chỉ tiêu
Diện Tích
(Nghìn/ha)

Năng suất
(Tấn/ ha)
Sản lượng
(Triệu tấn)

Châu Đại

Châu Phi

Châu Mĩ

Châu Âu

237,97

175,06

433,44

15,15

7,06

12,62

21,61

17,12

14,08


1,68

2,21

13,26

2,88

0,26

Châu Á

Dương

941,70

( Nguồn: w.w.w.Fao. org.stat) [27].
Qua bảng số liệu 1.5.cho thấy Trung Quốc là nước đạt năng suất cao nhất
(631,50 tấn/ha), năng suất đạt thấp nhất Colombia (6,00 tấn/ha) trong năm 2007.
Bảng1. 5. Sản xuất bí tồn thế giới ( 2005 - 2007)
Nước

Australia

Canada

Chile

China


Colombia

2005

5,35

4,32

5,05

307,99

3,51

2006

5,00

5,24

5,10

317,80

3,60

2007

5,20


5,07

5,20

328,00

3,65

2005

0,17

0,15

0,20

0,19

0,17

2006

0,16

0,14

0,21

0,19


0,16

2007

0,16

0,13

0,21

0,19

0,16

2005

8,99

6,32

10,25

575,34

5,84

2006

8,00


7,15

10,50

606,03

5,90

2007

81,00

6,51

11,00

631,50

6,00

Chỉ tiêu
Diện tích
(Nghìn/ha)

Sản lượng
(Triệu tấn)

Năng suất
(tấn/ha)


( Nguồn: w.w.w.Fao. org.stat) [27].


20

1.3.2. Tình hình sản xuất bí ở Việt Nam
Nước ta nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa nên có điều kiện thuận
lợi cho việc trồng bí. Sản xuất bí được phân bố trên khắp các vùng sinh thái của
nước ta, diện tích trồng bí chiếm khoảng 30% so với các loại cây trồng khác.
Cây bí có tính thích nghi trên diện rộng và khơng địi hỏi điều kiện chăm sóc
nên được người dân ưa thích và gieo trồng ở nhiều vùng khác nhau vì thế đã hình
thành nhiều vùng tập trung trồng bí lớn ở Việt Nam.
Năng suất bí ở nước ta nói chung cịn rất thấp, chỉ khoảng 30% so với năng
suất của toàn thế giới. Những tỉnh có diện tích trồng bí lớn: Hải Dương, Bắc Giang,
Nam Định, Thanh Hoá, Nghệ An, Lâm Đồng,… đều là những nơi có năng suất khá
cao đạt trên 21 - 23 tấn/ ha.
Hiện nay ở nước ta có 3 loại giống bí chủ lực được bà con áp dụng triển khai
rộng rãi đó là các giống bí xanh, bí ngồi, bí đao.
Bên cạnh cơng tác nghiên cứu về giống thì việc áp dụng các biện pháp kĩ
thuật thâm canh như: thời vụ trồng, mật độ gieo, chế độ bón phân, chế độ tưới
tiêu,… cũng rất được quan tâm trong sản xuất. Trong đó việc sử dụng phân bón đối
với cây bí đã trở thành một yếu tố cực kỳ quan trọng trong việc tăng năng suất, chất
lượng và nâng cao khả năng chống chịu của cây.
Năm 2006, diện tích bí ngồi ở Hải Dương là 2.138 ha, năng suất đạt 21,1 tấn,
sản lượng 45,169 tấn.
Theo Tiến Sĩ Đào Xuân Thảng, phó Viện Trưởng Viện cây lương thực nước
ta cây bí ngồi rất phù hợp cả 2 vụ Xuân Hè và Thu Đông. Giống cho năng suất cao,
vụ Xuân hè đạt 50 - 55 tấn/ ha, vụ Thu Đông 45 - 48 tấn/ ha, bí là cây trồng có giá
trị kinh tế cao và có giá trị đa dạng về nhiều mặt [23].

Diện tích và sản lượng bí cũng tăng lên đáng kể và bí thường tập trung được
ở nhiều vùng khác nhau.


20

1.2.3. Tình hình sản xuất bí ở Nghệ An
Qua bảng 1.7 ta thấy, năm 2002 diện tích bí ở Nghệ An chỉ đạt 40 ha, đến
năm 2007 đã tăng lên 578 ha gấp 16 lần, điều đó cho thấy cây bí ngày càng được
quan tâm và ưa chuộng. Năng suất bí đạt 135tạ/ha (2002) đã tăng lên 150,67tạ/ha
(2007) nhờ áp dụng các phương thức sản xuất tiến bộ và sự đầu tư của người nơng
dân. Nhìn chung so với diện tích trồng bí cả nước, Nghệ An là tỉnh trồng nhiều bí
với diện tích 587ha.
Với diện tích như vậy thì Nghệ An đã đạt được được sản lượng 8709 tấn,
mang lại thu nhập lớn cho người nông dân và xuất khẩu của tỉnh.
Trong những năm gần đây, cây bí được trồng phân bố khắp các Huyện trong
tỉnh như: Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Thanh Chương, Nam Đàn, Nghi Lộc.
Theo số liệu thống kê ở Nghệ An từ năm (2002 - 2007) như sau:
Bảng 1.6. Tình hình sản xuất bí ở Nghệ An
Năm
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(tấn)

2002

2004


2005

2006

2007

40

295

235

238

578

135

143,90

146,81

138,61

150,67

540

2950


3450

3299

8709

( Nguồn: Tổng cục thống kê Nghệ An, 2007) [14].


20

CHƢƠNG 2
VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng phân chuồng đến q trình sinh trưởng,
phát triển của bí ngồi Hàn Quốc F1TN 220.
Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng phân chuồng đến các yếu tố cấu thành
năng suất và năng suất của bí ngồi Hàn Quốc F1TN 220.
2.2. Vật liệu, địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.2.1. Vật liệu nghiên cứu
Giống bí ngồi Hàn Quốc F1TN 220: Là giống nhập nội từ Hàn Quốc được
Viện KHKTNN Việt Nam bồi dưỡng và chọn lọc từ 1995, được đưa vào sản xuất tại
Nghệ An từ vụ Xuân năm 2000.
* Giống có đặc điểm.
Giống khơng đẻ nhánh, thân đứng thẳng, sinh trưởng mạnh và kháng sâu bệnh tốt,
trồng được ở chân đất khơ, đất cát pha chủ động tưới tiêu, thích nghi với độ ẩm cao, trồng
được quanh năm. Tỷ lệ đậu quả từ 5 - 7 quả, trọng lượng mỗi quả từ 2 – 3 kg.
Thời gian sinh trưởng của giống từ 60 - 70 ngày, giống được gieo trồng
1000m2 là 160 - 170g. Giống có thể trồng được quanh năm, mức độ chịu rét cao, thích

ứng rộng. Thâm canh tốt, đầu tư cân đối cho năng suất 20 – 25 tấn/ha [18].
* Phân bón.
Thí nghiệm sử dụng các loại phân bón.
Phân chuồng hoai mục. Là phân bị có nguồn gốc ở địa phương, sử dụng chất
độn chuồng là rơm rạ, phân đã được ủ hoai hai tháng. Thành phần của phân chuồng
được tính theo thành phần chung của trâu bị trong đó: nước chiếm 83%, chất hữu cơ
14,5%, đạm chiếm 0,32%, P205 chiếm 0,25%, K20 chiếm 0,15% và 0,34% CaO [1].
Phân đạm urê: (NH2)2 CO.
Phân lân: Super lân Ca(H2PO4)2.


20

Phân kali: KCl.
2.2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Thí nghiệm được tiến hành Tại Trại thực nghiệm Nông học - Xã Nghi Phong
- Huyện Nghi Lộc - Nghệ An.
Đất đai: Thí nghiệm được tiến hành trên đất cát pha.
Độ pH 4,9.
Một số chỉ tiêu sinh trưởng, các yếu tố cấu thành năng suất được tiến hành
trong phịng thí nghiệm bộ môn Nông học - Khoa Nông Lâm Ngư - Đại học Vinh.
Điều kiện thí nghiệm.
Thời gian tiến hành thí nghiệm.
- Ngày 12/2/2008: Tiến hành triển khai làm đất.
- Ngày 1/3/ 2008: Đem cây con ra trồng.
- Ngày 6/5/2008: Ngày thu hoạch.
2.2.3. Thời tiết khí hậu trong vụ
Trong q trình sinh trưởng, phát triển các loại cây trồng nói chung và cây bí ngồi
nói riêng đều ảnh hưởng điều kiện khí hậu: nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, chế độ nước.
Khí hậu cung cấp năng lượng chủ yếu cho quá trình tạo thành chất hữu cơ,

tạo năng suất cho cây trồng, có đến 90 - 95% chất hữu cơ của cây trồng là do quá
trình quang hợp với sự cung cấp năng lượng của ánh sáng mặt trời, cơ cấu cây trồng
tận dụng cao nhất điều kiện khí hậu sẽ cho tổng sản phẩm và kinh tế cao nhất.
Thời tiết khí hậu là những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nơng
nghiệp, cây bí sinh trưởng, phát triển thích hợp nhất ở nhiệt độ 25 - 300C.
Trong thời kỳ nảy mầm của cây bí, yêu cầu nhiệt độ thích hợp của bí là 25 300C tối đa 30 - 350C, nhiệt độ dưới 200C hoặc trên 350C đều ảnh hưởng tới quá
trình nảy mầm, kéo dài thời gian sinh trưởng hoặc ngừng sinh trưởng.
Nhiệt độ, lượng mưa và ánh sáng là yếu tố cực kỳ quan trọng và là nguyên nhân
trực tiếp ảnh hưởng tới khả năng sinh trưởng, phát triển và cho năng suất của bí sau này.


20

Ngoài ra nước là yếu tố ảnh hưởng đến các giai đoạn sinh trưởng của cây bí. Ở
giai đoạn từ khi trồng đến khi ra hoa cây cần có đủ lượng nước để giữ độ ẩm cho đất
tạo điều kiện cho cây sinh trưởng, phát triển mạnh, tăng năng suất sau này vì vậy so
với các thời kỳ khác thì cây bí cần lượng nước nhiều nhất ở giai đoạn này.
Diễn biến khí hậu ở Nghệ An rất phức tạp, khí hậu vụ Xn 2008 có những
bất lợi cho sản xuất nơng nghiệp nói chung và sản xuất bí nói riêng.
Đầu vụ (mọc mầm đến cây con): Trời rét kéo dài, nhiệt độ và độ ẩm thuận lợi
nên thời gian mọc mầm nhanh và tỷ lệ mọc mầm khá cao. Giữa vụ (thời kỳ ra hoa,
hình thành quả): nhiệt độ và độ ẩm thuận lợi cho quá trình hình thành quả sau này.
Thời kỳ thu hoạch thời tiết bất lợi tạo điều kiện nhiều loại sâu bệnh phá hại.
Bảng 2.1. Diễn biến thời tiết, khí hậu vụ Xuân 2008.
Chỉ tiêu

Lượng

Nhiệt độ (ºC)


mưa

Ẩm độ ( %)

Số
ngày

Tºtb

Tº max

Tº min

(mm)

TB

Min

mưa

2

13,8

19,8

9,8

32,9


87

75

20

3

20,8

25,6

15,1

32,7

87

73

11

4

25,2

31,4

19,8


32,6

86

66

13

5

27,7

32,4

22,9

73,8

80

60

9

Tháng

Nguồn: Đài khí tượng Thuỷ Văn Bắc Trung Bộ [28 ].
Số liệu diễn biến khí tượng thuỷ văn thu được qua các tháng có ảnh hưởng tới
cây bí như sau:

Về nhiệt độ: Nhiệt độ tăng dần từ tháng hai đến tháng năm là điều kiện thuận
lợi cho cây bí sinh trưởng và phát triển. Từ tháng 3 đến tháng 4 thời kì cây bí ra hoa
và hình thành quả nhiệt độ trung bình 25,2ºC là điều kiện thuận lợi để cây bí hình
thành quả cho năng suất sau này.
Về lượng mưa và độ ẩm: Lượng mưa từ tháng 2 đến tháng 3 khá lớn ảnh
hưởng đến tốc độ ra hoa của bí.


20

Số ngày mưa ở tháng thứ 2 kéo dài, ảnh hưởng đến q trình nảy mầm của bí,
nhưng từ tháng thứ 3 trở đi số ngày mưa giảm dần tạo điều kiện cho bí sinh trưởng,
phát triển thuân lợi.
2.3. Phƣơng pháp bố trí thí nghiệm
2.3.1. Cơng thức thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí gồm 5 cơng thức, với 3 lần nhắc lại theo kiểu RCB (theo
khối ngẫu nhiên hồn tồn)
Cơng thức I: 0 tấn PC/ha + 20 kg N/ha + 185 kg P205/ha + 45 kg K20/ha.
Công thức II: 8 tấn PC /ha + 20 kg N/ha + 185 kg P205/ha + 45 kg K20/ha.
Công thức III: 12 tấn PC/ha + 20 kg N/ha + 185 kg P205/ha + 45 kg K20 /ha.
Công thức IV: 16 tấn PC/ha + 20 kg N/ha + 185 kg P205/ha + 45 kg K20 /ha.
Công thức V: 20 tấn PC/ha + 20 kg N/ha + 185 kg P205/ha + 45 kg K20 /ha.
2.3.2. Sơ đồ bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí theo khối ngẫu nhiên hồn tồn (RCB).
Bảng 2.2. Thí nghiệm được bố trí theo khối ngẫu nhiên hồn tồn (RCB)
Sơ đồ bố trí thí nghiệm
Dãi bảo vệ
1a

4a


3a

2a

5a

3b

5b

1b

4b

2b

2c

1c

5c

3c

4c

Dãi bảo vệ
Ghi chú: I, II, III, IV, V là các cơng thức thí nghiệm.
a, b, c lần lượt các số lần nhắc lại.



20

2.3.3. Diện tích thí nghiệm
Diện tích mỗi ơ thí nghiệm: 10 m2 (2,5m x 4m)
Diện tích bảo vệ

: 100 m2

Diện tích tồn bộ thí nghiệm: 150 m2
Tổng diện tích thí nghiệm: 250 m2
2.4. Quy trình kỹ thuật áp dụng
2.4.1. Chuẩn bị giống trƣớc khi gieo
Giống là khâu quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất cây trồng.
Vì vậy chúng ta phải chuẩn bị hạt giống cẩn thận trước khi gieo bao gồm các
khâu sau:
- Phơi hạt giống
- Chọn hạt giống: Chọn giống khoẻ mạnh, sạch sâu bệnh, năng suất cao.
- Chọn cây đủ tiêu chuẩn, trước khi đem trồng cần phun phòng bằng thuốc
sâu và thuốc bệnh trong giai đoạn vườn ươm.
- Xử lý hạt giống: Ngâm hạt bí vào nước lạnh khoảng một tiếng vớt ra gói
vào túi vải mỏng, chỉ sau 24 tiếng đồng hồ là hạt bật mầm.
2.4.2. Làm đất
Ruộng thí nghiệm được làm trên chân đất cát pha, đất trồng cần làm đất sâu,
cày bừa hoặc cuốc lật, phơi cho chết cỏ.
Lên luống: Sau khi làm đất xong thì tiến hành lên luống: Chia các ơ thí
nghiệm nhằm thốt nước tránh khi có mưa lớn.
Luống rộng: 2,5 m (cả rãnh)
Luống dài: 4 m

2.4.3. Mật độ trồng
Mật độ 8 cây/hố.
Cây - cây: 1m
Hàng - hàng: 1,25m


20

Mật độ hố/ ha: 8000 cây/ha.
Dặm bí lúc 4 - 6 lá (21 ngày sau gieo) tiến hành dặm bí để đảm bảo mật độ.
Bí trước khi dặm được xử lý theo phương pháp “ Một sôi hai lạnh”, những
hạt đã nứt nanh mới đem ra dặm.
2.4.4. Kỹ thuật bón phân
Lượng phân bón được bón theo các cơng thức thí nghiệm.
Bón phân được chia làm 3 đợt
Bón lót: Sau khi rạch hàng, bón phân trực tiếp vào rãnh, bón tồn bộ phân
chuồng, 50% đạm, toàn bộ lân, 50% KCl sau đó lấp đất để đảm bảo cho bí khi gieo
tránh tiếp xúc với phân.
Bón thúc lần 1: Sau trồng 20 - 25 ngày, bón phân lúc này cung cấp dinh
dưỡng kịp thời cho cây con sinh trưởng, phát triển. Bón 50% N + 30% KCl (bón
quanh gốc theo hình chiếu của tán lá).
Bón thúc lần 2: Sau trồng 35 - 40 ngày. Bón 50% N + 20% KCl (kết hợp tưới nước).
2.4.5. Chăm sóc
* Vun xới và làm cỏ
Lần thứ 1: Khi cây hồi xanh, xới phá váng, vun nhẹ kết hợp bón thúc lần 1.
Lần thứ 2: Khi cây ra hoa, xới nhẹ, vun cao, kết hợp bón thúc lần 2.
Sau 2 lần vun xới tiến hành làm cỏ bằng tay, không xới xáo tránh làm tổn
thương bộ rễ, tạo điều kiện cho sâu bệnh xâm nhập và phát triển.
* Tưới nước
Sau khi trồng thường xuyên tưới nước giữ ẩm cho cây 1lần/ngày, đảm bảo

cho cây hồi xanh trong tuần đầu, sau đó tùy điều kiện thời tiết mà có lượng tưới và
cách tưới khác nhau, chủ yếu áp dụng bằng phương pháp tưới rãnh hoặc tưới phun.
* Buộc cây, tỉa cành, thụ phấn bổ sung
Buộc cây nhằm hạn chế quả bí nằm sát mặt đất gây thối quả và ảnh hưởng
của các loại bệnh sinh ra từ đất.


20

Tỉa cành, giữ một thân cây chính và 1 thân cây phụ phát triển từ nhánh mọc
đến hoa thứ nhất để khi có quả bộ lá có tác dụng che nắng không cho quả bị rám
nắng, những cành bị vàng lá tỉa bỏ hết.
Thụ phấn bổ sung: Ở bí ngồi, hoa đực và hoa cái riêng biệt, nở không đồng
loạt nên khi gặp điều kiện không thuận lợi như thiếu ong bướm, mưa gió, các loại
cơn trùng,... sẽ ảnh hưởng đến đậu quả và năng suất, vì thế ta phải thụ phấn bổ sung.
Khoảng 7 - 9 giờ sáng, hái hoa đực mới nở, ngắt bỏ hết cành, cầm hoa đực
xát nhẹ lên đầu nhụy hoa cái.
* Phòng trừ sâu bệnh
Bí ngồi ít bị sâu bệnh hại, chủ yếu bị một số sâu bệnh sau:
- Sâu đất hại khi bắt đầu cây mọc mầm đến 2 - 3 lá thật, biện pháp hữu hiệu
nhất là bắt giết vào lúc sáng sớm.
- Bệnh sương mai hại chủ yếu trên lá. Bệnh dễ lây lan nhờ gió, mưa, điều
kiện thời tiết nóng ẩm,... phòng trừ chủ yếu làm sạch cỏ dại, tỉa bớt nhánh, các lá già
làm cho ruộng thơng thống, tỉa các lá bị bệnh nặng hạn chế sự lây lan, khi bệnh
xuất hiện phun thuốc kịp thời.
- Thường xuyên kiểm tra đồng ruộng phun thuốc phòng trừ các loại sâu đục quả.
2.5. Các chỉ tiêu và phƣơng pháp theo dõi
2.5.1. Các chỉ tiêu theo dõi ngoài đồng ruộng
2.5.1.1. Các giai đoạn phát triển của bí ngồi.
+ Thời gian từ trồng đến ra hoa: Tính từ ngày trồng đến khi có 30% số cây

trong ơ thí nghiệm có số hoa nở.
+ Thời gian từ trồng đến ra hoa rộ: Tính từ ngày trồng đến khi có 70 - 80% số
cây trong ơ thí nghiệm có hoa nở.
+ Thời gian từ trồng đến đậu quả: Tính từ ngày trồng đến khi có 70 - 80% số
cây trong ơ thí nghiệm đậu quả đầu tiên.


20

+ Thời gian từ trồng đến thu hoạch: Tính từ trồng đến 30% số cây trong ơ thí
nghiệm có quả thu hoạch.
2.5.1.2. Thời gian sinh trƣởng
+ Động thái tăng trưởng chiều cao cây (cm): Đo từ gốc đến đỉnh sinh trưởng
ngọn, theo dõi 5 cây trên mỗi ơ thí nghiệm. Đo từ sau khi cây hồi xanh, sau đó 7
ngày đo 1 lần.
+ Số lá trên thân chính (lá). 7 ngày theo dõi 1 lần.
2.5.1.3. Tình hình sâu bệnh
* Sâu hại
- Sâu đục quả: Theo dõi 12 lá ngẫu nhiên/ô thí nghiệm, tính số lá bị hại. Điều
tra 3 lần nhắc lại rồi tính bình qn tỉ lệ hại.
- Sâu xanh ăn lá: Theo dõi 20 lá ngẫu nhiên/ơ thí nghiệm, tính số lá bị hại.
Điều tra 3 lần nhắc lại rồi tính bình qn tỉ lệ hại.

Số lá bị hại
Tỉ lệ sâu hại(%) =

x 100
Tổng số lá theo dõi

* Bệnh hại

- Nấm thân: Đếm số cây bị nấm trong ô thí nghiệm/ tổng số cây theo dõi, tính ra %.
Số cây bị hại
Tỉ lệ bệnh hại(%) =
x 100
Tổng số cây theo dõi
- Bệnh sương mai: Mỗi ơ thí nghiệm điều tra 5 cây bất kỳ, điều tra trên lá, trên
thân. Điều tra 3 lần nhắc lại rồi tính tỉ lệ bệnh và chỉ số bệnh.
Số cây (lá) bị hại
Tỉ lệ bệnh hại (%) =

x 100
Tổng số cây (lá) theo dõi


20

 (a.b)
Chỉ số bệnh (%) =

x 100
N.T

Trong đó:

a: Số cá thể bị bệnh ở mỗi cấp
b: Trị số cấp bệnh của mỗi cấp tương ứng
N: Tổng số lá theo dõi
T: Trị số cấp bệnh cao nhất.

2.5.1.4. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất

Tỷ lệ đậu quả: Đếm số quả đậu trên cây (quả già, quả bánh tẻ, quả non).
Đếm số hoa trên cây: Đếm cả số hoa cái, hoa đực
Đếm số quả hữu hiệu trên cây: Mỗi ô thí nghiệm theo dõi 5 cây.
Năng suất lý thuyết (NSLT) (tạ/ha) = (NSCT) x (mật độ) x 10.000 m2.
Năng suất thực thu (NSTT) (tạ/ha) = (Năng suất ô) x 10.000 m2 /10 m2.
2.5.2. Các chỉ tiêu theo dõi trong phịng thí nghiệm
Đo Brix : Mỗi ơ thí nghiệm đo 5 quả bằng máy đo Brix
+ Xác định một số chỉ tiêu sinh hố
- Hàm lượng chất khơ (%): Sấy cân trọng lượng chất khô
- Hàm lượng đường tổng số (%)
2.6. Phƣơng pháp xử lý số liệu
Xử lý bằng máy tính bỏ túi, STASTIC, EXCEL.


20

CHƢƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hƣởng liều lƣợng phân chuồng đến các giai đoạn sinh trƣởng của cây bí ngồi.
Q trình sinh trưởng, phát triển của cây là kết quả của hàng loạt các hoạt
động biến đổi sinh lí, sinh hóa trong cây cùng với sự phân chia của các mô tế bào
làm cho cây lớn lên.
Sinh trưởng là sự tạo mới các yếu tố về cấu trúc của tế bào, sự phân hóa các
mơ trong tất cả các bộ phận thân, lá, rễ của cây. Từ đó tăng nhanh về số lượng các tế
bào, các mơ,... dẫn đến sự thay đổi về kích thước, thể tích kéo theo sự tăng nhanh và
sinh khối tức là quá trình lớn lên của cây.
Phát triển là sự biến đổi về chất bên trong tế bào, mơ và tồn cây dẫn đến sự
thay đổi về hình thái và chức năng của chúng.
Bí ngồi cũng như các loại cây trồng khác để hồn thành chu kỳ sống của
mình phải trải qua các pha sinh trưởng và pha sinh thực. Các giai đoạn sinh trưởng

của bí dài hay ngắn tuỳ thuộc vào đặc tính sinh vật học của giống, điều kiện ngoại
cảnh, biện pháp kỹ thuật,... Ở mỗi giai đoạn sinh trưởng nhu cầu của bí về các yếu tố
như: nhiệt độ, nước, ánh sáng, dinh dưỡng khác nhau.
Nắm được các giai đoạn sinh trưởng của cây bí nhằm tác động các biện pháp
điều khiển sinh trưởng phù hợp với yêu cầu thực tế sản xuất, tăng năng suất cây
trồng, bố trí cơ cấu hợp lý nâng cao hệ số sử dụng của phân bón.
Trong q trình sinh trưởng của bí khi trồng gặp rét kéo dài, cuối vụ gặp
mưa, thời kỳ ra hoa thụ phấn, thụ tinh gặp điều kiện không thuận lợi nhiệt độ cao,
sâu bệnh phát triển mạnh, tỷ lệ đậu quả kém.
Do đó việc rút ngắn thời gian sinh trưởng có ý nghĩa quan trọng nhằm giảm
thiếu tối đa những ảnh hưởng xấu của sâu xanh ăn lá, sâu đục quả, bệnh virus phá hại.
Tiến hành trồng cây con 15 ngày sau gieo, khi cây có từ 2 - 3 lá thật, cây
khỏe mạnh, không sâu bệnh, phát triển tốt.


×