Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

PHÁP LUẬT VIỆT NAM về THỰC HIỆN các CÔNG ước QUỐC tế về bảo vệ môi TRƯỜNG BIỂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.39 KB, 16 trang )

1


Mở đầu
I. Lý do chọn đề tài.
Như chúng ta đã biết, khi nói đến tài nguyên của Việt Nam, người ta thường có câu
“Rừng vàng biển bạc”. Là một đất nước được bao phủ bởi 3260km đường bờ biển, Việt
Nam được xem như là một quốc gia có tiềm năng phát triển về ngành hàng hải. Cùng
với sự phát triển kinh tế, mật độ tàu thuyền cũng như các ngành cơng nghiệp khai thác
biển tăng lên, điều đó kéo theo những vấn nạn về suy thối và ơ nhiễm biển. Theo thống
kê mới nhất của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì lượng rác thải nhựa thải ra biển mỗi
năm là 0,28 tấn – 0,73 tấn, chiếm 6% và là nước xếp thứ 4 về lượng rác thải nhựa trên
biển của tồn thế giới. Ngun nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm này là do ý thức con
người cùng như sự chú trọng vào phát triển kinh tế mà bỏ mặc những vấn đề về mơi
trường. Vì vậy, những kế hoạch, quy định, hành động để bảo vệ môi trường biển là vấn
đề cấp thiết không chỉ của Việt Nam mà còn là vấn đề quan trọng trên thế giới. Tuy
nhiên, việc thực hiện các ký kết các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường của Việt
Nam chưa thực sự hiệu quả. Chúng ta chưa thực sự có những biện pháp tối ưu để giải
quyết vấn đề về những hành vi vi phạm và chưa thực sự đầu tư để thu hút sự giúp đỡ, hỗ
trợ từ các nước phát triển về vấn đề môi trường biển. Từ những hạn chế trên, em chọn đề
tài “Pháp luật Việt Nam về thực hiện các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển”
để làm bài tiểu luận cuối kỳ của mình.
II. Mục đích của đề tài.
Mục đích của bài tiểu luận là làm rõ các cơ sở lý luận cũng như pháp luật Việt Nam về
bảo vệ môi trường biển thông qua việc thực hiện các công ước quốc tế về bảo vệ mơi
trường biển. Qua đó, chỉ ra những bất cập, hạn chế của pháp luật Việt Nam để từ đó kiến
nghị những giải pháp tối ưu hóa hiệu quả thực hiện các Cơng ước quốc tế mà Việt Nam
đang và sẽ ký kết về bảo vệ môi trường biển.
III. Phương pháp nghiên cứu.
Bài tiểu luận sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng cùng với phương pháp so
sánh, phân tích, tổng hợp, thống kế để có cái nhìn tổng quan, làm rõ nội dung nghiên


cứu của đề tài.
2


Chương 1: Khái quát chung về pháp luật Việt Nam và các công
ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển.
I. Vấn đề lý luận chung về môi trường biển.
1.1. Khái niệm môi trường biển, ô nhiễm môi trường biển, bảo vệ môi trường biển.
Không chỉ ở nước ta trong những năm gần đây mà trên thế giới đều đang chung tay hoạch
định, tổ chức xây dựng những kế hoạch, văn bản pháp luật về vấn đề bảo vệ môi trường biển.
Có rất nhiều quan điểm theo nhiều phương diện khác nhau khi định nghĩa về môi trường biển.
Theo khoản 4 Điều 1 Công ước viên năm 1982 của Liên hợp Quốc tế về Luật biển thì mơi
trường biển được hiểu là môi trường bao gồm các tài nguyên sinh vật, hệ sinh thái biển và chất
lượng nước biển, cảnh quan biển. Bên cạnh đó, tại khoản 2 Điều 3 Nghị định 25/2009/NĐ – CP
về quản lý tổng hợp tài ngun và bảo vệ mơi trường biển, hải đảo có định nghĩa: “Môi trường
biển là các yếu tố vật lý, hóa học và sinh học đặc trưng cho nước biển, đất ven biển, trầm tích
dưới biển, khơng khí trên mặt biển và các hệ sinh thái biển tồn tại một cách khách quan, ảnh
hưởng đến con người và sinh vật”. Mặc dù môi trường biển được định nghĩa theo nhiều
phương diện khác nhau nhưng ta đều thấy mối liên kết giữa môi trường biển và con người. Bất
kỳ một sự suy thối nào đều ảnh hưởng đến mơi trường biển, đến sự phát triển của con người.
Ơ nhiễm mơi trường biển: Trong pháp luật Việt Nam khơng có định nghĩa cụ thể về ô nhiễm
môi trường biển. Tuy nhiên, tại khoản 8 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định: “ Ơ
nhiễm mơi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với quy chuẩn
kỹ thuật môi trường và tiêu chuẩn môi trường gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật.”.
Tuy nhiên, do định nghĩa trên chỉ là định nghĩa chung nên không chỉ rõ những tác nhân ảnh
hưởng xấu đến môi trường biển. Nhưng tại khoản 4 Điều 1 Công ước của Liên hợp quốc về
Luật biển năm 1982 lại định nghĩa ô nhiễm môi trường biển một cách khá đẩy đủ và rõ ràng
các nguồn gây ô nhiễm môi trường biển: “Ơ nhiễm mơi trường biển (Pullution du milieu
marin): là việc con người trực tiếp hoặc gián tiếp đưa các chất liệu hoặc năng lượng vào môi
trường biển, bao gồm cả các cửa sơng, khi việc đó gây ra hoặc có thể gây ra những tác hại như

gây tổn hại đến nguồn lợi sinh vật, và đến hệ động vật và hệ thực vật biển, gây nguy hiểm cho
sức khỏe con người, gây trở ngại cho các hoạt động ở biển, kể cả việc đánh bắt hải sản và các
việc sử dụng biển một cách hợp pháp khác, làm biến đổi chất lượng nước biển về phương diện
sử dụng nó và làm giảm sút các giá trị mỹ cảm của biển”
3


Bảo vệ môi trường biển: Biển cũng như tài nguyên của biển có vai trị rất quan trọng đối với
đời sống con người. Tuy nhiên, con người hiểu rằng biển là vô tận nên cùng với sự phát triển
của khoa học công nghệ, môi trường biển lại càng trở nên đáng báo động. Do đó, vấn đề bảo vệ
mơi trường biển là một vấn đề cấp thiết hiện nay. Tại khoản 3 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường
2014 quy định: “Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ gìn, phịng ngừa, hạn chế các
tác động xấu đến mơi trường; ứng phó sự cố mơi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, cải
thiện, phục hồi môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên nhằm giữ môi
trường trong lành.”. Theo Luật bảo vệ môi trường năm 2014, mức độ, cách thức bảo vệ môi
trường gồm: (i) giữ gìn, phịng ngừa, hạn chế các tác động xấu đến mơi trường biển; (ii) ứng
phó sự cố mơi trường; (iii) khắc phục ơ nhiễm, suy thối, cải thiện, phục hồi môi trường biển;
(iv) khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên. Điều 3 khoản 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014.
thiên nhiên biển nhằm giữ môi trường trong lành. Định nghĩa này là một định nghĩa mở bởi
không nhấn mạnh các nguồn ô nhiễm và cũng không hạn chế phạm vi điều chỉnh đối với các
hành vi đang diễn ra. Pháp luật Việt Nam cũng phân biệt hai hoạt động ơ nhiễm mơi trường
biển và suy thối môi trường biển. Tuy nhiên, dựa vào mức độ thay đổi về chất lượng và số
lượng thành phần môi trường sẽ là thước đo để xác định hiện tượng ô nhiễm hay suy thối mơi
trường biển để có thể kiểm soát phù hợp theo như định nghĩa khoản 8 và 9 Điều 3 Luật Bảo vệ
môi trường năm 2014.
1.2. Các nguồn gây ô nhiễm môi trường biển.
Tại Điều 207 đến Điều 212 Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982, các nguồn gây ô
nhiễm môi trường biển bao gồm:
- Ô nhiễm bắt nguồn từ đất, kể cà các ô nhiễm xuất phát từ các dịng sơng, ngịi, cửa sơng, ống
dẫn và các thiết bị thải đổ cơng nghiệp.

- Ơ nhiễm do các hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài phán quốc gia gây ra hay
xuất phát từ các đảo nhân tạo, thiết bị và cơng trình thuộc quyền tài phán của mình.
- Ơ nhiễm do các hoạt động tiến hành trong Vùng gây ra.
- Ô nhiễm do sự nhấn chìm.
- Ơ nhiễm do tàu thuyền gây ra.
- Ơ nhiễm có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay qua bầu khí quyển.
Qua những tác nhân gây ơ nhiễm môi trường biển, ta thấy một điểm chung là đêu xuất phát
từ những hoạt động của con người. Việc phân loại những tác nhân gây ô nhiễm môi trường biển
giúp cho việc xác định nguyên nhân từ đó nêu ra những biện pháp ngăn ngừa cũng như giải
pháp khắc phục một cách dễ dàng hơn. Việt Nam – quốc gia có đường bờ biển dài 3260 km,
4


hoạt động khai thác biển chiếm một tỷ trọng không hề nhỏ trong nền kinh tế nước ta. Tuy
nhiên, việc khai thác biển dẫn tới nguy cơ ô nhiễm môi trường biển ngày càng tăng cao.
II. Các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển.
Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 được xem là một bộ luật hoàn chỉnh
nhất về biển cho đến thời điểm hiện nay. Việt Nam tham gia Công ước đã giúp việc bảo vệ và
giữ gìn mơi trường biển trở nên thuận lợi hơn cũng như đẩy mạnh hợp tác quốc tế về bảo vệ,
ngăn ngừa những tác động tiêu cực đến môi trường biển. Công ước dành phần XII (từ Điều 192
đến Điều 237) quy định việc bảo vệ và giữ gìn mơi trường biển. Đó là cơ sở pháp lý khuyến
khích các quốc gia áp dụng các biện pháp cần thiết ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển cũng
như hợp tác thông qua các tổ chức quốc tế nhằm bảo vệ môi trường biển. Điểm nổi bật của
Công ước là xác định rõ quyền hạn cũng như nghĩa vụ của các quốc gia ven biển trong vấn đề
bảo vệ môi trường biển khỏi ô nhiễm.
Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu biển MARPOL năm 1973 (Công ước MARPOL
73/78): Công ước ra đời năm 1973 và được sửa đổi bổ sung Nghị định thư 1978 kèm thêm 5
phụ lục mới, đến năm 1997 được sửa đổi bổ sung bằng Nghị thư 1997 và có thêm một phụ lục
là phụ lục thứ sáu. MARPOL 73/78 bao gồm “hệ thống các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật –
pháp lý nghiêm ngặt trong thiết kế, vật liệu, trang bị, tài liệu của tàu biển nhằm phịng ngừa,

ngăn chặn ơ nhiễm từ tàu” 1. Điểm nổi bật của công ước là quy định các tàu phải có giấy chứng
nhận thỏa mãn quy định của cơng ước. Bên cạnh đó, cơng ước cũng được coi là đầu tiên đề cập
đến vấn đề ô nhiễm môi trường biển do rác thải sinh hoạt.
Ngồi hai cơng ước trên, trên thế giới có khoảng 300 cơng ước quốc tế về bảo vệ mơi trường
nói chung, các công ước về bảo vệ môi trường biển bao gồm:
- Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm biển do chất thải và những vật liệu khác (London 1972).
- Cơng ước quốc tế về An tồn sinh mạng con người trên biển 1974 (SOLAS).
- Công ước quốc tế sẵn sàng ứng phó và hợp tác đối với việc xử lý ô nhiễm dầu năm 1990
(OPRC).
- Công ước về trách nhiệm và bồi thường thiệt hại gắn liền với việc vận chuyện bằng đường
biển các chất nguy hiểm và độc hại 1996 (HNS), ….
Các cơng ước trên đã góp phần quan trọng trong việc ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển.
Các công ước về bảo vệ môi trường biển đều xác định rõ quyền cũng như nghĩa vụ của các
thành viên. Bên cạnh đó, khuyến khích sự hợp tác, giúp đỡ của các nước phát triển đến những
nước kém phát triển hơn. Việt Nam là một nước tham gia nhiều công ước về bảo vệ môi trường
1 Nguyễn Bá Diến (2006), Chính sách, pháp luật biển của Việt Nam và chiến lược phát triển bền vững, Nxb Tư pháp, Hà
Nội.
5


nói chung. Điều này mang lại lợi ích về kinh tế, xã hội, chính trị, ngoại giao và đặc biệt là mơi
trường cho Việt Nam. Khơng chỉ vậy, nó cịn giúp hệ thống luật pháp Việt Nam trở nên hoàn
thiện, tiến bộ hơn để phù hợp với các cam kết quốc tế. Từ đó, giúp chúng ta thu hút được vốn
đầu tư của nước ngoài cũng như sự hỗ trợ từ các nước phát triển không chỉ về môi trường mà
còn nhiều lĩnh vực khác. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của thế giới nói chung, Việt Nam
nói riêng, công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển càng trở nên quan trọng cũng như ngày
càng được sửa đổi, xây dựng nhiều. Nhưng việc thực thi các công ước này lại chưa thực sự hiệu
quả.

Chương 2: Pháp luật Việt Nam về thực hiện các công ước quốc

tế về bảo vệ mơi trường biển. Giải pháp hồn thiện pháp luật.
I. Pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường biển.
Trước thực trạng môi trường biển Việt Nam ngày càng suy thối, ơ nhiễm, việc xây dựng
phát triển hệ thống các chính sách và pháp luật về bảo vệ mơi trường biển là vô cùng cần thiết.
Vấn đề bỏa vệ môi trường biển được ghi nhận lần đầu tiên trong bản Hiến pháp năm 1992. Tiếp
đó, các nhà làm luật Việt Nam đã xây dựng những văn bản luật, dưới luật nhằm bảo vệ, ngăn
ngừa tình trạng suy thối mơi trường biển như: Luật Dầu khí 1993 sửa đổi bổ sung năm 2000
và 2008, Luật Thủy sản 2003, Luật biển Việt Nam 2012, Luật Bảo vệ môi trường 2014, … Từ
những văn bản pháp luật trên, ta thấy những chính sách phát triển kinh tế cùng với bảo vệ môi
trường được xây dựng từ trung ương đến địa phương, khung pháp lý cơ bản, tồn diện về bảo
vệ mơi trường biển cùng với đó là việc nơi luật hóa, thực hiện các công ước quốc tế mà Việt
Nam đã tham gia ký kết về bảo vệ môi trường biển. Luật bảo vệ môi trường 2014 bên cạnh
những hoạt động bảo vệ mơi trường nói chung, văn bản luật cũng đưa ra những nguyên tắc
riêng đối với bảo vệ môi trường biển. Văn bản dành Chương V đề cập đến vấn đề bảo vệ môi
trường biển và hải đảo. Tại điều 49 nêu ra những quy định chung mang tính định hướng cho
hoạt động bảo vệ môi trường biển cùng với việc phát triển kinh tế.
Bên cạnh những văn bản luật, dưới luật về bảo vệ môi trường biển, hệ thống pháp luật Việt
Nam cịn ban hành những chính sách nhằm kết hợp giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi
trường biển. Nghị quyết số 36-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khóa
XII về Chiến lược phát triền bền vững kinh tế biển Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
đã nêu: “Đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền
vững kinh tế biển; hình thành văn hố sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu,
6


nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thối mơi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển
và biển xâm thực; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng. Những thành tựu khoa
học mới, tiên tiến, hiện đại trở thành nhân tố trực tiếp thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển.
Đến năm 2030, phát triển thành công, đột phá về các ngành kinh tế biển theo thứ tự ưu tiên: (1)
Du lịch và dịch vụ biển; (2) Kinh tế hàng hải; (3) Khai thác dầu khí và các tài ngun khống

sản biển khác; (4) Nuôi trồng và khai thác hải sản; (5) Công nghiệp ven biển; (6) Năng lượng
tái tạo và các ngành kinh tế biển mới”. Trên cơ sở Nghị quyết về Chiến lược kinh tế biển, do
chịu ảnh hưởng của dịch Covid 19, du lịch biển Việt Nam đã chuyển hướng sang khách hàng
nội địa và đa dạng hóa sản phẩm du lịch. Bên cạnh đó, để hỗ trợ thực hiện Nghị quyết, Đảng đã
đề ra các dự án, đề án, nhiệm vụ nhằm triển khai một cách hiệu quả, phù hợp. Cùng với những
dự án nhằm phát triển nền kinh tế, chiến lược đã đề cao nhiệm vụ bảo vệ môi trường biển cũng
như những giải pháp nhằm khắc phục và bảo vệ tài nguyên biển.
Ngoài những văn bản nêu trên, nhà nước còn ban hanh những văn bản, chương trình, …
nhằm bảo vệ, bảo tồn đa dạng sinh vật biển, …. cũng như những chiến lược phát triển trong
tương lai như: quyết định số 188/QĐ – TTg về Chương trình Bảo vệ và phát triển nguồn lợi
thủy sản, quyết định 28/QĐ – TTg Phê duyệt Chương trình trọng điểm điều tra cơ bản tài
nguyên, môi trường biển và hải đảo đến năm 2030, …
Bên cạnh những quy định về phương hướng bảo vệ môi trường biển, pháp luật về bảo vệ
môi trường cũng quy định về trách nhiệm pháp lý đối với những hành vi vi phạm. Nghị định
155/2016/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Nghị định này quy định về các hành vi vi phạm cũng như mức độ vi phạm và mức độ chịu
trách nhiệm hành chính hay hình sự. Ngồi những hình phạt về hành chính cũng như hình sự,
văn bản trên cịn quy định về các biện pháp cũng như hình thức xử lý đối với hậu quả gây ra.
Như vậy, hệ thống pháp luật Việt Nam tương đối toàn diện về lĩnh vực bảo vệ mơi trường
nói chung và bảo vệ mơi trường biển nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh những tích cực thì những
quy định trong hệ thống pháp luật vẫn cần được điều chỉnh, sửa đổi để hoàn thiện, phù hợp với
hiện tại như về vấn đề hợp tác quốc tế trong các cơng ước quốc tế, nội luật hóa các cơng ước,

II. Một số Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển Việt Nam đã và xem xét tham gia.
2.1. Công ước Luật biển năm 1982.
Công ước Luật biển năm 1982 được thơng qua vào ngày 11/12/1982 và có hiệu lực vào
năm 1994. Đây được coi là “Bản hiến chương của nhân loại về biển”. Công ước Luật biển năm
7



1982 là cơ sở phát lý hoàn chỉnh, toàn diện nhất về biển và đại dương. Công ước gồm 17 phần,
320 điều, 9 phụ lục, 4 nghị thư, trong đó đó 11 mục và 46 điều (từ Điều 192 đến Điều 237) quy
định về bảo vệ và giữ gìn mơi trường biển. Bên cạnh đó, cơng ước khẳng định các quốc gia có
nghĩa vụ bảo vệ và giữ gìn mơi trường biển. Nghĩa vụ này không đi ngược lại với lợi ích của
các quốc gia ven biển trong hoạt động khai thác của mình mà nó làm cho quyền chủ quyền
được phát huy một cách hiệu quả. Vấn đề ô nhiễm môi trường biển ngày càng trở nên nghiêm
trọng, vượt ngồi tầm kiểm sốt của các quốc gia. Vì vậy, việc hợp tác giữa các quốc gia để xây
dựng một khung pháp lý chung nhằm bảo vệ môi trường biển là một điều cần thiết. Nhận thức
rõ vấn đề quan trọng về lĩnh vực bảo vệ môi trường biển, các quốc gia đang và sẽ tăng cường
hợp tác, nỗ lực đề ra những giải pháp hiệu quả trong việc giữ gìn mơi trường biển. Việt Nam là
một trong 107 quốc gia tham gia ký kết Công ước này. Điều này thể hiện sự thiện chí, coi trọng
cũng như kỳ vọng vào những trật tự về pháp lý mới về biển và đại dương. Đồng thời, việc tham
gia Công ước Luật biển năm 1982 làm khung pháp lý hoàn chỉnh vào việc xây dựng hệ thống
luật pháp về lĩnh vực bảo vệ mơi trường nói chung và mơi trường biển nói riêng. Bên cạnh
những lợi ích về vấn đề mơi trường, hệ thống pháp luật, việc tham gia ký kết công ước đã đẩy
mạnh ngoại giao Việt Nam với những quốc gia có chung mục đích hướng tới bảo vệ mơi
trường biển. Cùng với đó là sự hỗ trợ, giúp đỡ của các quốc gia phát triển trong vấn đề môi
trường biển tại Việt Nam. Sau hơn 30 năm kể từ khi ra đời, không thể phủ nhận được ý nghĩa to
lớn và vai trị quan trọng của Cơng ước Luật biển 1982 trong việc điều chỉnh các hoạt động của
cộng đồng quốc tế trên biển.
2.2. Công ước Marpol 73/78 về ngăn ngừa ô nhiễm biển do dầu gây ra.
Công ước Marpol 73/78 được thông qua vào năm 1973, sửa đổi bổ sung năm 1978 và có
hiệu lực vào năm 1983. Công ước gồm 6 phụ lục và 2 Nghị thư. Công ước đề ra nhằm ngăn
chặn những vụ ô nhiễm môi trường biển gây ra bởi tai nạn tàu biển. Đồng thời công ước xác
định quyền hạn, nghĩa vụ đối với các quốc gia tham gia công ước nhằm đảm bảo an tồn khi
vận chuyển những hàng hóa có nguy cơ gây ảnh hưởng đến môi trường biển. Cùng với đó là
nghĩa vụ hợp tác về kỹ thuật và phối hợp trong việc phát hiện các ô nhiễm, vi phạm, có nghĩa
vụ thơng tin khi xảy ra vi phạm và lắp đặt các thiết bị tiếp nhận theo quy định của công ước.
Cùng với sự phát triển kinh tế, lượng tàu thuyền lưu thông trên biển ngày càng nhiều, việc quy
định nghiêm ngặt về an toàn tàu thuyền là điều vô cùng cần thiết để giảm thiểu ô nhiễm cũng

như bảo vệ, giữ gìn mơi trường biển. Cơng ước Marpol 73/78 có vai trị vơ cùng quan trọng,
8


góp phần bảo vệ mơi trường biển từ tàu, những hoạt động có nguy cơ gây ơ nhiễm cao từ tàu.
Hiện Việt Nam đã gia nhập các Phụ lục I, II của Marpol 73/78 từ năm 1991. Kể từ khi gia nhập
Phụ lục I, II Công ước MARPOL, Việt Nam đã nâng cao việc khắc phục tình trạng ơ nhiễm
biển, xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật.
2.3. Cơng ước Basel 1989 về kiểm sốt việc vận chuyển qua biên giới chất thải nguy hại và
viêc tiêu hủy chúng.
Cơng ước có hiệu lực năm 1992, điều chỉnh mọi hoạt động vận chuyển chất thải nguy hại
giữa các quốc gia, trong đó có vận chuyển qua đường biển. Công ước quy định nghĩa vụ cũng
như trách nhiệm liên quan đến bảo vệ mơi trường nói chung, mơi trường biển nói riêng. Bên
cạnh đó, cơng ước đưa ra những nguyên tắc, phạm vi áp dụng công ước để hiệu quả kiểm soát
cũng như xử lý các chất thải nguy hại được áp dụng tối ưu. Công ước Basel 1989 là một trong
những công ước quan trọng về lĩnh vực bảo vệ môi trường biển được các quốc gia quan tâm,
ủng hộ, tham gia. Cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội, các công ước luôn được bổ sung,
sửa đổi để phù hợp với hiện tại. Vấn đề môi trường biển ngày càng được các quốc gia quan tâm
nhằm bảo vệ, giữ gìn mơi trường biển.
2.4. Các cơng ước khác mà Việt Nam đã và đang xem xét tham gia liên quan đến môi
trường biển.
Bên cạnh những công ước trên, các công ước liên quan khác cũng không kem phần quan
trọng. Để ngăn chặn tình trạng ngày càng suy thối của mơi trường biển, ngồi nhưng cơng ước
đã nêu trên, Việt Nam đã và đang xem xét tham gia các công ước:
a) Các công ước Việt Nam đã tham gia:
- Cơng ước quốc tế về an tồn tính mạng trên biển SOLAS 1974.
- Công ước về các quy tắc quốc tế phòng tránh dâm va trên biển COLREG 1972.
- Công ước về tiêu chuẩn cấp chứng chỉ cho thuyền viên 1978/1995 (STCW)….
b) Các công ước Việt Nam đang xem xét tham gia.
- Công ước Quốc tế về trách nhiệm hình sự đối với thiệt hại do ơ nhiễm dầu 1969.

- Cơng ước về phịng ngừa ơ nhiễm biển do đổ chất thải và các chất khác 1971.
- Công ước về phịng ngừa ơ nhiễm biển do đổ chất thải và các chất khác 1972.
- Công ước Quốc tế về sự sẵn sàng, ứng phó và hợp tác đối với ô nhiễm dầu.
- Công ước Quốc tế liên quan tới can thiệp vào các biểu vĩ độ cao trong trường hợp thiệt hại
do ô nhiễm dầu 1969.
Với độ dài đường bờ biển 3260km, diện tích vùng biển Việt Nam gấp 3 lần diện tích đất
liền. Cùng với đó là nguồn tài nguyên biển vô cùng phong phú, thuận lợi cho việc phát triển
kinh tế biển. Nhưng biển Việt Nam đang dần bị suy thối, ơ nhiễm từ các nguồn khác nhau
như: đất liền, tàu thuyền, …. Việc tham gia các công ước quốc tế về lĩnh vực bảo vệ môi
9


trường biển đã góp phần hạn chế các nguồn dẫn đến ơ nhiễm mơi trường biển. Ngồi việc
giảm thiểu ơ nhiễm tại vùng biển Việt Nam, việc tham gia, thực thi các cơng ước góp phần
bảo vệ mơi trường biển thế giới.
III. Thực trạng thực hiện các công ước quốc tế trong pháp luật Việt Nam.
Hệ thống pháp luật về lĩnh vực bảo vệ môi trường nước ta tương đối hoàn chỉnh với những
văn bản luật, dưới luật cụ thể: Luật Bảo vệ mơi trường 2014, Luật Dầu khí, … Đặc biệt, nước
ta đang xem xét thực hiện chính sách mới là Luật Các vùng biển Việt Nam. Việc ban hành Luật
Các vùng biển Việt Nam giúp nội luật hóa những quy định tại Công ước Luật biển 1982, việc
thực hiện những quy định trở nên hiệu quả hơn. Luật Các vùng biển Việt Nam xác định khung
pháp lý cơ bản cho việc tiến ra biển của đất nước, phù hợp với pháp luật và thực tiễn quốc tế,
tạo điều kiện phát triển và xây dựng đất nước 2. Cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội, hệ
thống lập pháp nói chung và các quy định về bảo vệ mơi trường nói riêng đã có những tiến bộ
nhất định. Điều đó giúp cho vấn đề ơ nhiễm mơi trường biển dần được cải thiện qua mọi khía
cạnh của xã hội. Bên cạnh những tiến bộ trong luật pháp, trên thực tế việc thi hành những chính
sách cịn gặp nhiều khó khăn do chưa phù hợp với thực tế, hiệu lực thi hành thấp, chưa hiệu
quả. Ngoài ra, vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường xảy ra phổ biến ở nhiều lĩnh vực như xả
thải trực tiếp chất thải không qua xử lý, nhập khẩu trái phép chất thải, … Việc xử lý những vi
phạm lại chưa hiệu quả do kinh phí dành cho việc bảo vệ mơi trường còn hạn chế khiến việc

xác minh vi phạm cũng như các thiết bị kiểm tra, phân tích ơ nhiễm cùng với trong hệ thống
pháp luật Việt Nam chưa có quy định về các tiêu chuẩn môi trường biển khiến cho việc xác
định vi phạm gặp nhiều khó khăn. Một nguyên nhân khác là do chế tài chưa thực sự nghiêm
khắc khi xử lý vi phạm.
Hệ thống pháp luật Việt Nam đang nỗ lực trong việc nội lực hóa những quy định công ước
đến gần với người dân. Việc tham gia các công ước đã giúp cho việc xây dựng khung pháp lý
về bảo vệ mơi trường trong đó có mơi trường biển hồn thiện, tiến bộ hơn, phù hợp với các quy
định của công ước mà Việt Nam đã tham gia và cam kết. Bên cạnh việc xây dựng hệ thống
pháp luật, bộ máy quản lý môi trường, các hoạt động về tuyên truyền, hội thảo, nghiên cứu
khoa học cùng được chú trọng và khuyến khích. Tuy nhiên, việc thực hiện các cơng ước cịn
gặp nhiều khó khăn bất cập như sự chồng chéo giữa các văn bản luật, các cơ quan quản lý.
Năm 2008, Chính phủ đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện chức năng quản lý tổng
2 TS. Nguyễn Hồng Thao, Luật Các vùng biển Việt Nam: Cơng cụ thực hiện chính sách trong tình hình mới, Tạp chí nghiên
cứu lập pháp.
10


hợp và thống nhất về biển và hải đảo (1). Tuy nhiên việc ra đời của Tổng cục Biển và hải đảo
khó có thể khắc phục được việc quản lý biển còn chồng chéo, chưa hiệu quả trên thực tế do
chức năng, nhiệm vụ quản lý biển cũng được giao cho nhiều bộ, ngành khác nhau 3. Sự phối
hợp giữa các cơ quan quản lý và cơ quan thực hiện điều ước còn hạn chế, nhiều quy định trong
luật pháp Việt Nam chưa phù hợp với quy định trong công ước, sự trao đổi, chia sẻ thông tin
liên quan đến điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cịn tản mát, chưa có sự tổ chức ở
quy mơ quốc gia, …. Bên cạnh những vấn đề về việc xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với
các quy định quốc tế, việc thực hiện các công ước trong thực tế cũng là vấn đề khó khăn, nhiều
vướng mắc. Với tư cách là thành viên của các công ước quốc tế, Việt Nam nỗ lực nội luật hóa
các quy phạm để phù hợp với quy định quốc tế cụ thể ngay khi ký kết tham gia Công ước Luật
biển năm 1982 thì Quốc hội đã gấp rút ban hành quyết định soạn thảo những văn bản phù hợp
quốc tế như Luật về Các vùng biển Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế văn bản quy phạm pháp
luật đang được thi hành lại chưa thực sự hoàn thiện, phù hợp với bối cảnh ngày càng phát triển

về các hoạt động trên biển khi chưa đáp ứng được các quy phạm giải quyết tranh chấp trên
biển. Khi tham gia Công ước Basel 1989, Việt Nam xây dựng văn bản Luật Bảo vệ môi trường
đầu tiên vào năm 1994. Việc thi hành Luật Bảo vệ môi trường 1994 xảy ra nhiều mâu thuẫn
giữa các văn bản pháp luật trong công tác quản lý chất thải. Tuy nhiên, những vấn đề khó khăn,
bất cập của Luật Bảo vệ môi trường 1994 cũng như việc đáp ứng nhu cầu của công ước Basel
1989 ngày càng được hoàn thiện qua những văn bản luật: Luật Bảo vệ môi trường 2005, Luật
Bảo vệ môi trường 2014, Nghị định 12/2006/NĐ-CP về tạm nhập tái xuất hàng hóa, Nghị định
40/2019/NĐ-CP về quản lý chất thải và phế liệu, … Bên cạnh đó, Bộ Tài ngun và Mơi
trường được giao nhiệm vụ đảm nhiệm chức năng Cơ quan có thẩm quyền Việt Nam của Công
ước Basel và là đầu mối thực hiện Công ước Basel ở Việt Nam giúp cho việc đào tạo cán bộ
chuyên môn, nghiên cứu được hiệu quả hơn. Tuy nhiên, vấn đề về “nhập khẩu rác thải” vẫn cịn
là vấn đề khó khăn của nước ta. Việc quản lý, kiểm soát nhập khẩu chưa chặt chẽ, các quy định
lỏng lẻo, năng lực xử lý chất thải nguy hại thấp đã khiến cho vấn đề trên cịn là một khó khăn
lớn ở Việt Nam. Bên cạnh những nguồn ơ nhiễm biển từ chất thải thì nguồn ô nhiễm từ tàu
cũng là một vấn đề quan trọng. Việc tham gia Công ước Marpol 73/78 đã giúp cho việc kiểm
tra, giám sát trong cơng tác đóng tàu và các đối tượng khác được thực hiện một cách dễ dàng
3 TS. Nguyễn Hồng Thao, Luật Các vùng biển Việt Nam: Cơng cụ thực hiện chính sách trong tình hình mới, Tạp chí nghiên
cứu lập pháp.
11


hơn. Tuy nhiên, khoa học – công nghệ Việt Nam chưa đáp ứng được các yêu cầu phù hợp với
công ước. Việt Nam đang nỗ lực thực thi các công ước nhưng hiệu quả mang lại còn thấp, việc
nội luật hóa các quy định chưa thực sự phù hợp với hiện tại của đất nước. Do đó, Việt Nam cần
nâng cao công tác chuyên môn, quản lý về bảo vệ mơi trường biển, đồng thời hồn thiện hệ
thống pháp luật về bảo vệ môi trường biển phù hợp với thực trạng đất nước, …
IV. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Trong thời gian qua, pháp luật về bảo vệ môi trường biển Việt Nam đã góp phần giảm thiểu
ơ nhiễm mơi trường biển. Tuy nhiên vẫn còn xuất hiện nhiều bất cập, khó khăn. Do đó, địi hỏi
Việt Nam cần hồn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về bảo vệ mơi trường biển nói

riêng. Xuất phát từ thực trạng, tính cấp thiết của vấn đề này, em có nhưng đề xuất hồn thiện
pháp luật về bảo vệ mơi trường biển như sau:
Thứ nhất, Luật Bảo vệ Môi trường 2014 có những quy định cơ bản quan trọng về bảo vệ môi
trường biển cùng với các văn bản khác luật khác có liên quan cũng có những quy định cụ thể
về bảo vệ môi trường biển tạo ra một khung pháp lý tồn diện về bảo vệ mơi trường biển.
Thứ hai, cần đưa ra những chế tài nghiêm khắc cho những hành vi vi phạm công tác bảo vệ
môi trường biển. Đồng thời nâng cao hiệu quả kiểm tra, giám sát hoạt động trên biển nhằm kịp
thời phát hiện vi phạm.
Thứ ba, giải quyết vấn đề chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản luật, các cơ quan quản lý
liên quan đến mơi trường biển nói riêng, mơi trường nói chung.
Thứ tư, tăng cường tuyên truyền về vấn đề ơ nhiễm mơi trường biển. Đồng thời có những
chương trình, hội thảo nhằm khắc phục những sự cố ảnh hưởng đến hệ sinh thái biển.
Thứ năm, khuyến khích tổ chức đầu tư cải thiện môi trường biển cũng như nỗ lực phát huy hiệu
quả từ sự giúp đỡ, hỗ trợ từ các nước phát triển, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về biển, ….
Bên cạnh những giải pháp trên, trong xu thế hội nhập quốc tế, Việt Nam cần nỗ lực hơn
trong việc tham gia các điều ước quốc tế về môi trường. Việc tham gia các Công ước quốc tế về
bảo vệ môi trường biển mang lại cho Việt Nam lợi ích trong nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, việc
tham gia các công ước cũng cần được xem xét kỹ lưỡng về vấn đề cân bằng đáp ứng yêu cầu
của cơng ước, nghĩa vụ với lợi ích mà nó mang lại. Để những cơng ước mà Việt Nam tham gia
có hiệu quả, cơ quan có thẩm quyền cần chú ý tới:
Thứ nhất, xây dựng, hồn thiện các chính sách và pháp luật về bảo tồn đa dạng sinh học và
ngăn ngừa kiểm sốt ơ nhiễm biển.
Thứ hai, củng cố, nâng cao năng lực của cơ quan đầu mối trong việc thực hiện công ước quốc
tế.
12


Thứ ba, tăng cường trao đổi và hình thành cơ chế trao đổi thông tin, phổ biến kiến thức về các
công ước quốc tế, tạo ra một mạng lưới tổ chức trao đổi thông tin quy mô các quốc gia.
Thứ tư, tuyên truyền nâng cao nhận thức về môi trường cũng như việc thực hiện các quy định

pháp luật có liên quan đến các công ước quốc tế về môi trường biển trong cộng đồng.
Thứ năm, tăng cường hợp tác, học hỏi khoa học công nghệ, kinh nghiệm của các quốc gia phát
triển về bảo vệ môi trường biển trong khu vực cũng như quốc tế.
Trên đây chỉ là những giải pháp mang ý kiến cá nhân góp phần nào đó trong việc xây dựng
hệ thống pháp luật hồn chỉnh trong lĩnh vực bảo vệ môi trường biển. Các giải pháp cần thực
hiện một cách thống nhất, đồng bộ từ trung ương đến địa phương. Việc tăng cường xem xét,
tham gia các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển là một vấn đề quan trong. Do đó, việc
xây dựng lộ trình tham gia cũng như đáp ứng các yêu cầu, nghĩa vụ được quy định trong công
ước quốc tế là một điều cần thiết.

Kết luận
Cùng với sự phát triển về mọi mặt của cuộc sống, sức ép lên tài nguyên thiên nhiên nói
chung tài nguyên biển nói riêng ngày càng lớn. Con người ngày càng có xu hướng khai thác
những tiềm năng của biển. Do đó, những hoạt động khai thác trên biển được phát huy một cách
tối đa. Điều đó khiến cho mơi trường biển nhiều nơi bị ô nhiễm nặng nề gây ra thiệt hại nghiêm
trọng. Vùng biển của Việt Nam cũng là một trong những vùng biển có mức độ ơ nhiễm đến
mức báo động. Vấn đề bảo vệ môi trường ngày càng trở thành chủ đề cấp thiết trên mọi lĩnh
vực đời sống. Các cơ quan chức năng của nước ta cũng đang nỗ lực giảm thiểu tình trạng ơ
nhiễm mơi trường biển, gần đây môi trường biển nước ta đã phần nào được cải thiện. Tuy
nhiên, hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn cần được hoàn thiện cùng với sự tuyên truyền nâng cao
ý thức người dân trong vấn đề bảo vệ môi trường biển, …. Việc bảo vệ môi trường biển là việc
làm cần thiết góp phần giúp bảo vệ trái đất trong tương lai, giúp cho cuộc sống con người tốt
đẹp hơn.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Bảo vệ môi trường 2014.
2. Nguyễn Bá Diến (2006), Chính sách, pháp luật biển của Việt Nam và chiến lược phát

triển bền vững, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
3. Công ước Luật biển năm 1982.
4. Công ước Marpol 73/78 về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu biển.
5. Cơng ước Basel 1989 về kiểm sốt việc vận chuyển qua biên giới chất thải nguy hại và
viêc tiêu hủy chúng.
6. TS. Nguyễn Hồng Thao, Luật Các vùng biển Việt Nam: Cơng cụ thực hiện chính sách
trong tình hình mới, Tạp chí nghiên cứu lập pháp.
7. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật quốc tế, Nxb Công an nhân dân.
8. PGS.TS Nguyễn Bá Diến, Giáo trình Cơng pháp quốc tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội.
9. Luận văn Thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Hồng Nhung, Pháp luật Việt Nam và các công
ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển (2012).
10. Luận văn Thạc sĩ Luật học Đoàn Thị Vân, Pháp luật về phịng chống ơ nhiễm dầu từ tàu
biển (2009).

14


Contents
Mở đầu..............................................................................................................................2
I.

Lý do chọn đề tài..............................................................................................2

II.

Mục đích của đề tài..........................................................................................2

III.


Phương pháp nghiên cứu................................................................................2

Chương 1: Khái quát chung về pháp luật Việt Nam và các công ước quốc tế về bảo vệ
môi trường biển.................................................................................................................3
I.

Vấn đề lý luận chung về môi trường biển.......................................................3
1.1. Khái niệm môi trường biển, ô nhiễm môi trường biển, bảo vệ môi trường
biển...............................................................................................................................3
1.2. Các nguồn gây ô nhiễm môi trường biển............................................................4

II.

Các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển..........................................5

Chương 2: Pháp luật Việt Nam về thực hiện các công ước quốc tế về bảo vệ môi
trường biển. Giải pháp hoàn thiện pháp luật..................................................................6
I.

Pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường biển..............................................6

II. Một số Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển Việt Nam đã và xem xét
tham gia......................................................................................................................8
2.1. Công ước Luật biển năm 1982............................................................................8
2.2. Công ước Marpol 73/78 về ngăn ngừa ô nhiễm biển do dầu gây ra.................9
2.3. Công ước Basel 1989 về kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới chất thải
nguy hại và viêc tiêu hủy chúng.................................................................................9
2.4. Các công ước khác mà Việt Nam đã và đang xem xét tham gia liên quan đến
môi trường biển...........................................................................................................9
III.


Thực trạng thực hiện các công ước quốc tế trong pháp luật Việt Nam......10

IV.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật.....................................................................12

Kết luận...........................................................................................................................14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................15
15


16



×