Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Bài thu hoạch diễn án hồ sơ dân sự 71 cụ khoát, cụ cộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.37 KB, 11 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ

---o0o---

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
MÔN: KỸ NĂNG CƠ BẢN CỦA LUẬT SƯ KHI THAM GIA GIẢI
QUYẾT CÁC VỤ, VIỆC DÂN SỰ

HỒ SƠ VỤ ÁN: LS.DS.71/DA2/CB.CLC

Học viên

:

Ngày sinh

:

SBD

:

Lớp

:

Vai diễn án

:


Hà Nội,
1


TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN

I.

Xác định tư cách đương sự

1.

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Mai Hương (sinh năm 1963)

a.

Nơi cư trú: Libusina 151 Bechyne 39165, Cộng hòa Séc.
Địa chỉ liên lạc tại Việt Nam: số 35D ngõ 268/58 đường Ngọc Thụy, quận Long
Biên, Hà Nội.
Bị đơn: Anh Nguyễn Tiến Dũng (sinh năm 1961)

b.

Địa chỉ: số 35D ngõ 268/58 đường Ngọc Thụy, quận Long Biên, Hà Nội.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

c.

2.




Chị Nguyễn Thị Hồng Hà (sinh năm 1964) – vợ anh Dũng.



Sở Tài ngun và Mơi trường thành phố Hà Nội.

Tóm tắt nội dung tranh chấp
Chị Nguyễn Thị Mai Hương và anh Nguyễn Tiến Dũng là con của Ơng

Nguyễn Tiến Khốt (mất năm 1976) và bà Quang Thị Cộ (mất năm 1975). Khi ơng
Khốt và bà Cộ mất khơng có di chúc gì. Tài sản của ơng Khốt và bà Cộ để lại là
thửa đất có địa chỉ hiện nay tại số 10/298/26 Ngọc Lâm, phường Ngọc Lâm, quận
Long Biên, Hà Nội. Di sản chưa được phân chia theo quy định của pháp luật.
Từ lúc ơng Khốt và bà Cộ mất, chị Hương và anh Dũng sinh sống trên thửa
đất nêu trên. Năm 1988, chị Hương đi xuất khẩu lao động, lập gia đình và sinh sống
tại Cộng hòa Séc cho đến nay.
Năm 1992, anh Dũng lập gia đình với chị Hà và tiếp tục sinh sống trên thửa đất
nêu trên.
Năm 2000, anh Dũng và chị Hà kê khai để làm sổ đỏ thửa đất nêu trên và được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) với diện tích 84,82 m2.
Năm 2017, thửa đất được kê khai lại và cấp GCNQSDĐ với diện tích là 90 m2.
Sau đó, anh Dũng và chị Hà đã bán 39,4 m2, phần cịn lại được cấp với diện tích là
2
2


50,6 m2.
Ngày 15/12/2017, chị Hương làm đơn khởi kiện yêu cầu:

(1) Xác định thửa đất nêu trên là tài sản chung chưa chia của các đồng thừa kế
là chị Hương và anh Dũng.
(2) Yêu cầu hủy quyết định của Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà
Nội cấp GCNQSDĐ cho vợ chồng anh Dũng và bà Hà (số CL302733) ngày
23/11/2017.
(3) Chia di sản là quyền sử dụng đất với diện tích 90 m2:
- Chị Hương nhận phần đất hiện nay với diện tích 50,6 m2;
- Phần chênh lệch diện tích đất được chia theo phần là 5,6 m2 chị Hương trả
bằng tiền tương ứng 81.536.000 đồng với đơn giá 14.560.000 đồng/m2.

3
3


II.

KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TOÀ SƠ THẨM
Trên đây là kế hoạch hỏi được sử dụng để bảo cho Nguyên đơn là chị Nguyễn

Thị Mai Hương:
Người được hỏi

Nội dung câu hỏi

Chị Nguyễn Thị Mai

1. Bố mẹ chị ngoài chị và anh Dũng cịn người con nữa

Hương


khơng?
2. Chị sang Séc từ năm bao nhiêu? Từ khi sang Séc đến
nay chị đã về Việt Nam bao nhiêu lần và vào những
thời điểm này?
3. Chị biết việc anh Dũng và chị Hà đứng tên Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất từ thời điểm nào?

Anh Nguyễn Tiến Dũng

1. Bố mẹ anh ngoài anh và chị Hương cịn người con
nào nữa khơng?
2. Thửa đất hiện tại so với với thời điểm bố mẹ anh mất
có gì thay đổi khơng?
3. Khi làm đơn xác nhận quyền sử dụng đất vào năm
1996, anh đã khai gì? Tại sao lại khai như vậy?
4. Từ khi lấy chị Hà đến nay vợ chồng anh chị có tơn
tạo gì trên thửa đất này khơng?
5. Anh có đồng ý với u cầu chia tài sản của chị
Hương hay không?

Chị Nguyễn Thị Hồng Hà

1. Chị cho HĐXX biết nguồn gốc thửa đất số 249 do
đâu mà có?
2. Sau khi kết hơn và sinh sống với anh Dũng đến nay,
chị và anh Dũng có nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất nào liền kề xung quang thửa đất này không?

4
4



Đại diện Sở Tài nguyên và

1. Ông cho HĐXX biết nguồn gốc của thửa đất số 249

Môi trường

trước khi UBND cấp cho vợ chồng anh Dũng vào năm
1996?
2. Diện tích thửa đất vào năm 1954 là bao nhiêu?
3. Tại sao lại có sự khác nhau về diện tích đất 90 m2 và
84,82 m2? Nguồn gốc diện tích đất tăng thêm từ đâu?

5
5


III.

BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CHO NGUYÊN ĐƠN

VĂN PHÒNG LUẬT SƯ A&F

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 17 tháng 04 năm 20…


BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ

Kính thưa Hội đồng xét xử thành phố Hà Nội,
Thưa vị Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội,
Thưa các vị luật sư đồng nghiệp và tất cả quý vị có mặt tại phiên tồ hơm
nay!
Tơi tên là ..., thuộc Văn phịng Luật sư A&F, là Luật sư thuộc Đoàn Luật sư
Thành phố Hà Nội. Nhận được lời mời của Nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Mai
Hương, đồng thời được sự chấp thuận của Hội đồng xét xử (HĐXX), tơi tham gia
phiên tồ hơm nay với vai trị là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Mai Hương trong vụ án dân sự “tranh chấp yêu cầu
chia thừa kế”.
Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới các cơ quan tiến hành tố
tụng thành phố Hải Dương đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi được kịp thời tiếp cận
và nghiên cứu hồ sơ, tài liệu, chứng cứ của vụ án để có cơ sở vững chắc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ tơi.
I. Luận cứ bảo vệ
Kính thưa HĐXX, qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, các chứng cứ đã được
thẩm định tại phiên tòa, căn cứ theo nội dung tại phần xét hỏi cơng khai tại phiên
tồ ngày hơm nay tơi xin được trình bày ý kiến bảo vệ cho thân chủ tơi là bà
Nguyễn Thị Mai Hương như sau:
6
6


1.

Về tư cách tham gia tố tụng


Đối với nội dung vụ tranh chấp này, tơi kính đề nghị HĐXX xem xét lại tư cách
tham gia tố tụng của chị Nguyễn Thị Hồng Hà, cụ thể chị Hà chỉ là người có quyền
và nghĩa vụ liên quan chứ khơng phải Bị đơn bởi lý do: việc tranh chấp ở đây là tài
sản thừa kế của cụ Khoát và cụ Cố là bố mẹ của bà Hương và ơng Dũng. Bên cạnh
đó việc thừa kế này đã được mở từ trước khi ông Dũng lấy bà Hà, tức trước năm
1992 (tôi sẽ phân tích ở những nội dung sau về thời điểm mở thừa kế). Do đây là tài
sản mà ông Dũng được thừa kế trước khi lấy chị Hà, do vậy phải được xác định là
tài sản riêng của ông Dũng. Tuy nhiên, do Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối
với thừa đất số 249 hiện nay đứng tên cả ông Dũng và chị Hà vì vậy chị Hà phải là
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Kính thưa HĐXX, việc xác định tư cách tham gia tố tụng chính xác giúp đảm bảo
quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp của các bên tại vụ tranh chấp này do vậy kính mong
HĐXX xem xét.
2.

Về yêu cầu chia tài sản thừa kế

Kính thưa HĐXX, yêu cầu của bà Hương về việc được chia tài sản thừa kế là
thửa đất số 249 tờ bản đồ số 330-2 có địa chỉ tại số 10/298/26 Ngọc Lâm, quận
Long Biên, thành phố Hà Nội tính theo diện tích tổng 90 m2 là hồn tồn có căn cứ,
bởi những lý do sau đây:
Thứ nhất, thời hiệu khởi kiện về việc yêu cầu chia tài sản thừa kế vẫn cịn.
Cụ Khốt và cụ Cộ - bố mẹ của bà Hương và ông Dũng đã mất lần lượt từ năm
1975 và 1976 (Giấy chứng tử tại Bút lục số 09) mà không để lại di chúc. Căn cứ
theo quy định tại khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại
Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao hướng dẫn một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, xác định rằng, đối
với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10/9/1990, thì thời hiệu khởi kiện chia tài
sản thừa kế là bất động sản được tính từ ngày 10/9/1990.
Căn cứ theo điểm d khoản 1 Điều 688 BLDS 2015, khoản 4 Điều 4 Nghị quyết

7
7


02/2016/NQ-HĐTP, từ ngày 01/01/2017 tức ngày BLDS 2015 có hiệu lực thi hành,
Toà án áp dụng khoản 1 Điều 623 BLDS năm 2015 về thời hiệu thừa kế để thụ lý,
giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp về thừa kế tài sản”, theo đó thời hiệu để người
thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa
kế.
Như vậy, từ các căn cứ nêu trên, thời hiệu khởi kiện đối với việc tranh chấp tài
sản thừa kế của bà Hương được tính từ ngày 10/9/1990 và có thời hạn 30 năm, tức
10/9/2020, hay nói cách khác yêu cầu chia tài sản thừa kế của nguyên đơn vẫn còn
thời hiệu.
Thứ hai, bà Hương có quyền được chia tài sản thừa kế.
Trước hết, cần khẳng định thửa đất số 249 là tài sản thuộc quyền sử dụng hợp
pháp của cụ Khoát và cụ Cộ, căn cứ theo lời khai của ông Dũng, bà Hương (BL 2
và BL 13), trước nay ở cũng khơng hề xảy ra tranh chấp gì.
Bên cạnh đó, dựa theo lời khai của ông Dũng và bà Hương (BL 2 và BL 13) và
Giấy khai sinh của bà Hương (BL 4) cùng lời khai của các đương sự ngay tại phiên
tồ ngày hơm nay có thể khẳng định rằng bà Hương là con ruột của cụ Khoát và cụ
Cộ, bên cạnh đó cụ Khốt và cụ Cộ chỉ có hai con là ơng Dũng và bà Hương. Cụ
Khốt và cụ Cộ qua đời mà không để lại di chúc, vì vậy căn cứ theo điểm a khoản 1
Điều 651 BLDS 2015, bà Hương và ông Dũng thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Căn cứ
khoản 2 Điều 651 BLDS 2015, bà Hường và ông Dũng được hưởng phần di sản
bằng nhau, tức là ½ giá trị quyền sử dụng thửa đất số 249 nêu trên.
Thứ ba, diện tích thửa đất được xác định bằng 90m2 là hồn tồn có căn cứ.
Tại Bút lục số 44, Biên bản kiểm tra hiện trạng sử dụng đất, cơng trình là nhà ở
và các cơng trình khác phụ vụ sinh hoạt đã xác định tổng diện tích của thửa đất số
249 là 90m2. Bên cạnh đó, ơng Dũng – bị đơn cũng đã khẳng định tại Bút lục số 14
rằng “mảnh đất này từ khi bố mẹ còn sống cho đến khi cấp theo Giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ... là
ngun trạng khơng hề thay đổi về diện tích và có biến động gì với diện tích là
8
8


90m2”.
Bên cạnh đó, ngay trong hồ sơ xin cấp đất ban đầu của ông Dũng cũng đã thể
hiện tại Biên bản kiểm tra và giám định mốc giới nhà đất được Ban kiểm tra nhà dất
của UBND thị trấn Gia Lâm lập ngày 27/4/1991 với diện tích 84,82 m2 được ghi rõ
sơ đồ, vị trí, diện tích của mảnh đất tiếp giáp được xác định là “Phía Bắc giáp ngõ đi
chung nhà chị Q, bà Dỗn; phía Đơng giáp móng nhà chị Thuỷ - Ngạn; phái Nam
giáp mương tiêu ra hồ cơng viên; phía Tây giáp đất nhà anh Hảim bà Dỗn”. Biên
bản này có sự chứng kiến của hàng xóm giám sát các mốc, có chữ ký của những
người có tên nêu trên. Tại Biên bản cắm mốc giới đi chung tại tổ 7 cụm 8 lập
08/8/1997 cũng xác định vị trí, sơ đồ kích thước tương tự như Biên bản kiểm tra và
giám định mốc giới nhà đất lập vào ngày 27/4/1991. Sơ đồ kỹ thuật thửa đất số
1392 do Cơng ty cổ phần địa chính Thăng Long lập ngày 06/10/2017 thì vị trí thửa
đất vẫn khơng thay đổi giáp cận với các hộ lân cận xung quanh, khơng hề có việc
mua bán, chuyển nhượng nào diễn ra và chưa từng có bất kỳ tranh chấp này tại
mảnh đất do cụ Khoát và cụ Cố để lại.
Từ những căn cứ, tài liệu, chứng cứ nêu trên có thể khẳng định thửa đất số 249 có
diện tích là 90 m2.
Thứ tư, về cách thia tài sản thừa kế.
Trong bản tự khai của Bị đơn (BL 14), và ngay tại lời khai trong phiên tồ ngày
hơm nay, ơng Dũng đã khẳng định đồng ý chia tài sản theo quy định của pháp luật
và đồng ý theo cách chia của bà Hương, tức bà Hương sẽ nhận phần đất hiện nay
mà vợ chồng ông Dũng, bà Hà đang đứng tên với diện tích 50,6 m2. Phần chênh
lệch diện tích được chia theo phần là 5,6 m2, bà Hương sẽ trả bằng tiền cho ông
Dũng và bà Hương.

Tại đây thân chủ tôi đề xuất đưa ra đơn giá là 14.560.000 đồng/m2 là phù hợp với
giá đất hiện hành.
3. Về yêu cầu huỷ quyết định cá biệt của Sở Tài nguyên và Môi trường
thành phố Hà Nội cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CL302733 ngày
9
9


23/11/2017 cho ông Nguyễn Tiến Dũng và bà Nguyễn Thị Thu Hà.
Đầu tiên, cần khẳng định nguồn gốc của thửa đất số 249 là thuộc quyền sở hữu
hợp pháp của cụ Khoát và cụ Cộ, do UBND huyện Gia Lâm cấp vào năm 1954.
Ngoài ra, GCNQSDĐ số CL302733 được lập dựa trên cơ sở GCNQSDĐ số
CK567556 cấp ngày 20/9/2017, mà GCNQSDĐ này được cấp dựa trên GCNQSDĐ
số 101190100196 ngày 29/9/2000 bị thu hồi do GCNQSDĐ cấp không đúng đối
tượng sử dụng đất. Theo đó, ơng Dũng đã khai rằng việc mình khai trong Đơn xin
xác nhận nguồn gốc sử dụng đất ngày 20/11/1996 (BL 35) rằng “Bố mẹ tôi chỉ sinh
được mình tơi là con người duy nhất” là sai sự thật bởi “do không am hiểu về pháp
luật và do em gái ở nước ngồi q xa xơi khơng về làm thủ tục nên tôi nghĩ đơn
giản là khai như vậy cũng chỉ với mong muốn để cho xong thủ tục để được cấp giấy
chứng nhận quyền sở hữ nhà ở và quyền sử dụng đất ở”. Thời điểm này, bà Hương
là đồng thừa kế đối với thửa đất 249 đang ở Séc và khơng biết thơng tin gì về việc
cấp GCNQSDĐ này. Như vậy rõ ràng GCNQSDĐ số 101190100196 cấp ngày
29/09/2000 đã cấp không đúng đối tượng sử dụng đất và bị thu hồi.
Như vậy, yêu cầu huỷ quyết định cá biệt của Sở Tài nguyên và Môi trường thành
phố Hà Nội cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CL302733 ngày 23/11/2017
cho ông Nguyễn Tiến Dũng và bà Nguyễn Thị Thu Hà của thân chủ tôi là hồn tồn
có căn cứ và hợp pháp.
II. Kiến nghị
Kính thưa HĐXX, trên đây là toàn bộ những lập luận, quan điểm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Mai Hương. Một lần nữa tơi

kính đề nghị HĐXX chấp nhận tồn bộ u cầu của Nguyên đơn, cụ thể:
- Chấp thuận yêu cầu huỷ quyết định cá biệt của Sở Tài nguyên và Môi trường
thành phố Hà Nội cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CL302733 ngày
23/11/2017 cho ông Nguyễn Tiến Dũng và bà Nguyễn Thị Thu Hà.
- Chia tài sản thừa kế là thửa đất số 249 cho thân chủ tôi, cụ thể bà Hương sẽ
nhận phần đất hiện nay mà vợ chồng ông Dũng, bà Hà đang đứng tên với diện tích
10
10


50,6 m2. Phần chênh lệch diện tích được chia theo phần là 5,6 m2, bà Hương sẽ trả
bằng tiền cho ông Dũng và bà Hương với đơn giá là 14.560.000 đồng/m2.
Cuối cùng, tôi tin với sự công minh, sáng suốt của mình, HĐXX sẽ ban hành một
bản án hợp tình, hợp lý, phù hợp với quy định của pháp luật.
Thay mặt Nguyên đơn và nhân danh cá nhân tôi, tôi xin chân thành cảm ơn!
VĂN PHÒNG LUẬT A&F
LUẬT SƯ

11
11



×