Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Nghiên cứu hồ sơ hình sự 21 đinh xuân phong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.24 KB, 16 trang )

NGHIÊN CỨU HỒ SƠ 21
Môn: KỸ NĂNG THAM GIA GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
-------------I.

TƯ VẤN KHÁNG CÁO
Sau khi xét xử sơ thẩm, nhận thấy bản án sơ thẩm không thỏa đáng, chưa đúng

người đúng tội, với tư cách là Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ
của mình là Đinh Xuân Phong, bị truy tố tội đánh bạc theo Khoản 1 Điều 321 BLHS,
Luật sư cần tiến hành tư vấn phương án kháng cáo tiếp theo cho khách hàng theo trình
tự cụ thể như sau:
1. Tư vấn về các quy định của pháp luật liên quan tới kháng cáo.
- Luật sư cần giải thích cho khách hàng hiểu kháng cáo là một trong những quyền được
pháp luật thừa nhận. Ở đây thân chủ đang tham gia tố tụng với tư cách bị cáo, theo
điểm m khoản 2 Điều 61 BLTTHS 2015, thân chủ hồn tồn có quyền kháng cáo đối
với bản án sơ thẩm.
- Phạm vi kháng cáo: Căn cứ khoản 1 Điều 331 BLTTHS 2015, thân chủ là anh Phong
với tư cách bị cáo trong vụ án hình sự, có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ
thẩm.
- Thời hạn kháng cáo: Căn cứ Điều 333 BLTTHS, thời hạn kháng cáo đối với bản án
sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đối với quyết định sơ thẩm là 07 ngày. Thời
hạn kháng cáo cũng là điểm LS cần chú ý để tư vấn cho khách hàng, nếu đã có ý định
kháng cáo thì tốt hơn hết nên quan tâm tới thời hạn kháng cáo và tuân thủ đúng thời
hạn này. Điều 335 có quy định về kháng cáo quá hạn. Tuy nhiên, kháng cáo quá hạn
chỉ trong trường hợp người kháng cáo có lý do bất khả kháng, hoặc do trở ngại khách
quan. Trên thực tế, việc chứng minh thế nào là lý do bất khả kháng, thế nào là trở ngại
khách quan khơng hề dễ dàng. Vì vậy, khi thân chủ đã có ý định kháng cáo, Luật sư
cần tư vấn chuẩn bị kháng cáo đúng thời hạn, đây là lựa chọn an toàn và tối ưu nhất.
1



- Hậu quả của việc kháng cáo: Căn cứ Điều 339, Luật sư cần tư vấn cho thân chủ về
hậu quả của việc kháng cáo. Theo đó, những phần của bản án bị kháng cáo sẽ chưa
được thi hành. Khi kháng cáo toàn bộ bản án, bản án sơ thẩm này sẽ chưa được thi
hành, trừ trường hợp Điều 363. Tuy nhiên, vụ việc của Phong không thuộc trường hợp
như tại Điều 363, vì vậy khi kháng cáo tồn bộ bản án, bản án sẽ chưa được thi hành.
- Thủ tục kháng cáo.
+ Làm đơn kháng cáo
Muốn kháng cáo, thân chủ của Luật sư là anh Phong cần làm đơn kháng cáo. Các nội
dung trong đơn cần sáng rõ, đảm bảo được các nội dung cơ bản như họ tên địa chỉ
người kháng cáo, tư cách tham gia tố tụng, kháng cáo bản án của tòa nào, lý do và yêu
cầu của người kháng cáo, chữ ký. Đặc biệt cần lưu ý kèm theo đơn kháng cáo là các tài
liệu chứng cứ bổ sung nếu có để chứng minh tính đúng đắn, có căn cứ của đơn kháng
cáo. Việc thu thập các tài liệu chứng cứ này, Luật sư sẽ hỗ trợ thân chủ
Ngay cả việc soạn thảo đơn kháng cao, Luật sư cũng sẽ có trách nhiệm rà sốt, bổ
sung, chỉnh sửa tất cả các nội dung thân chủ trình bày trong đơn, sao cho đúng trọng
tâm nhất có thể. Cụ thể hình thức và nội dung tham khảo của đơn kháng cáo Luật sư đã
đính kèm theo bản tư vấn kháng cáo này, khách hàng có thể tham khảo và có ý kiến
phản hồi nếu cịn điểm nào cần làm rõ.
+ Gửi đơn kháng cáo
./ Gửi đơn tới Tòa án đã xét xử sơ thẩm hoặc tòa án cấp phúc thẩm
./ Do đã được bảo lãnh, anh Phong có thể trình bày trực tiếp với Tịa án đã xét
xử sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm về việc kháng cáo. Cần lưu ý việc kháng cáo
cần được Tòa án lập thành biên bản theo quy định tại Điều 133 BLTTHS.
2. Tư vấn về nội dung kháng cáo
Như đã đề cập tới ở trên, thân chủ có thể lựa chọn kháng cáo một phần hoặc kháng cáo
toàn bộ bản án. Trong vụ việc này, do LS là người tiếp cận vụ án ngay từ đầu, nắm rất
2


rõ những điểm có lợi, bất lợi cho thân chủ của mình. Vì vậy, LS đề xuất phương án

kháng cáo tồn bộ bản án sơ thẩm, do có những căn cứ tương đối vững chắc (được LS
đề cập và phân tích chặt chẽ trong bản luận cứ bào chữa trong phiên tịa phúc thẩm)
khẳng định thân chủ của mình khơng có tội, bởi các lẽ:
1. Hội đồng xét xử đã kết tội Đinh Xuân Phong dựa trên những lời khai của chính
Phong và Qn, là những căn cứ khơng thỏa mãn Điều 86 quy định Về chứng cứ
của Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. về xử lý vật chứng: Trong Bản án sơ thẩm số 35/2019/HS-ST, Hội đồng xét xử
căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ Luật Hình sự và điểm a khoản 2, điểm a
khoản 3 điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu của Đinh Xuân Phong số
tiền 2 triệu đồng là không đúng quy định pháp luật.
Với những tình tiết trên, LS tư vấn cho thân chủ kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm
của Tòa án nhân dân Huyện Hải Hậu ".

II.

Soạn thảo Đơn kháng cáo
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
ĐƠN KHÁNG CÁO
( Đối với bản án số 35/2019/HS-ST ngày 25/06/2019
của TAND huyện Hải Hậu)

Kính gửi: - Tồ án nhân dân tỉnh Nam Định
- Tồ án nhân dân huyện Hải Hậu
Tơi tên là : Đinh Xuân Phong

Sinh năm: 1988

Nơi cư trú: Tổ dân số 01, thị trấn Thịnh Long, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định
3



Tôi là bị cáo trong vụ án phạm tội đánh bạc. Vụ án được TAND huyện Hải Hậu
đưa ra xét xử sơ thẩm ngày 25/06/2019 về tội danh đánh bạc với mức án là 10 tháng 12
ngày cải tạo không giam giữ và tịch thu của tôi 2 triệu đồng.
Thưa q tịa tơi thấy rằng bản án TAND huyện Hải Hậu đã xét xử thiếu khách
quan vì trong quá trình điều tra tơi đã bị định hình lời khai. Tơi khơng hề đánh bạc
cũng như khơng thỏa thuận gì với anh Quân về việc đánh bạc. TAND Huyện Hải Hậu
tuyên phạt tôi không đúng tội danh khiến tôi bị oan, thủ tục tố tụng có nhiều điểm
khơng đúng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của tơi.
Tơi mong muốn Tịa án tỉnh Nam Định tun hủy tồn bộ Bản án hình sự sơ
thẩm số 35/2019/HS-ST ngày 25/06/2019 của TAND huyện Hải Hậu.
Trên đây là nội dung và u cầu kháng cáo, kính mong Q tịa xem xét.
Tơi xin chân thành cảm ơn.
Nam Định, ngày 26 tháng 06 năm 2019
Người làm đơn
(Đã ký)
Đinh Xuân Phong

III.

Chuẩn bị công việc trước khi ra phiên tòa phúc thẩm

1. Nghiên cứu hồ sơ vụ án
Ở giai đoạn này, sau khi nhận được bản án sơ thẩm, luật sư cần chuẩn bị và
nghiên cứu lại hồ sơ vụ án để chuẩn bị kháng cáo.
- Thứ nhất, xác định yêu cầu kháng cáo của Đinh Xuân Phong là hợp lệ đúng
quy định của pháp luật.
- Thứ hai, cần xác định bản án sơ thẩm đang không đủ căn cứ để xác định tội
danh của Đinh Xuân Phong.

4


- Thứ ba, cần bám vào tài liệu: hồ sơ vụ án không thu giữ được kỳ “Tiền hoặc
hiện vật dùng đánh bạc” nào của Phong để chứng minh cho hành vi phạm tội bị khởi
tố.
Từ đó, để căn cứ chứng minh Định Xuân Phong vô tội ở giải đoạn phúc thẩm
2. Thu thập thêm tài liệu mới
Luật sư cần lưu ý vào những mâu thuẫn trong hồ sơ vụ án mà tịa án sơ thẩm
chưa phân tích rõ như: Những mâu thuẫn ở bút lục 52-54; sự thay đổi lời khai của
Phong; mâu thuẫn khoảng cách của Phong và quân về khoảng cách chỗ ngồi…Luật sư
cần tìm hiểu bổ sung các tình tiết chứng cứ chưa được xem xét trong bản án sơ thẩm.
Việc thu thập và giao nộp thêm chứng cứ, đồ vật, tài liệu mới luật sư cần bảo đảm tính
hợp pháp về mặt hình thức và tính xác thực tính liên quan về mặt nội dung bằng những
cách thức và những biện pháp mà pháp luật không cấm.
3. Gặp trao đổi với bị cáo.
Sau khi bản án sơ thẩm,luật sư cần trao đổi với Đinh Xuân Phong về việc giữ
đúng lời khai. Nếu có tình trạng bức cung, nhục hình thì phải thơng tin với luật sư để
kiến nghị lên cơ quan chức năng có thẩm quyền.
4. Trao đổi đề xuất với Viện kiểm sát, Tòa án.
Trong trường hợp này, bản án sơ thẩm chưa đủ căn cứ để buộc tội Đinh Xuân
Phòng, luật sư đề xuất với Viện kiểm sát, về bản luận cứ bào chữa của mình ở giai
đoạn phúc thẩm. Từ đó để nắm được quan điểm của cơ quan chức năng có thẩm quyền.
5. Chuẩn bị bản bào chữa
Bản luận cứ bào chữa trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự chính là
văn bản để luật sư thể hiện được quan điểm của mình khi bào chữa cho thân chủ trong
vụ án hình sự tại Tồ án, bởi thế luật sư phải chuẩn bị cho mình những hoạt động và kỹ
năng cần thiết để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ của mình.

5



Bản bảo chữa tại phiên tòa phúc thẩm mà luật sư chẩn bị cần đảm bào ba phần
chính; đó là phần mở đầu, phần quan điểm pháp lý (Phần đánh giá chứng cứ, các dấu
hiệu của tội phạm căn cứ áp dụng pháp luật) và phần đề xuấn giải pháp, kết luận. Tùy
theo định hướng bào chữa của luật sư mà nội dung từng phần có thể điều chỉnh cho
phù hợp với bản bào chữa.
Trong vụ án lần này, quan điểm bào chữa của .... cho bị cáo Đinh Xuân Phong là
không phạm tội danh “ Đánh bạc” – quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS theo truy tố
của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu, cụ thể như sau:
Xét về mô tả tội danh, khoản 1 Điều 321 BLHS quy định về tội Đánh bạc như
sau “Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay
hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000
đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định
tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều
322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm ……”. Theo đó, để cấu
thành tội Đánh bạc, người phạm tội cần thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu sau:
 Về mặt chủ thể: Phải là người có đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy
định tại Điều 12 BLHS và khơng thuộc tình trạng khơng có năng lực trách
nhiệm hình sự được quy định tại Điều 21 BLHS.
 Trong vụ án này, bị cáo Phong sinh năm 1988 ( tính đến thời điểm xác định có
hành vi phạm tội theo quan điểm của cơ quan CSĐT và VKS là ngày
12/07/2018) thì Phong đã đủ tuổi chịu TNHS và khơng thuộc tình trạng khơng
có năng lực TNHS ( do hồ sơ không đề cập và tại các lời khai của Phong đều thể
hiện rõ được nội dung này).
 Về mặt khách thể: Khách thể của tội đánh bạc là việc xâm phạm vào trật tự an
tồn cơng cộng, trật tự an toàn xã hội.
 Về mặt chủ quan: Lỗi của người phạm tội trong tội đánh bạc là lỗi cố ý.
6



 Về mặt khách quan: Theo tinh thần tại Nghị quyết 01/2010/ NQ-HĐTP ngày
22/10/2010 thì hành vi khách quan của tội Đánh bạc được hiểu là “hành vi đánh
bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền
hay hiện vật mà khơng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng
với quy định trong giấy phép được cấp”. Tuy nhiên, chỉ được khởi tố khi có một
trong các trường hợp sau xảy ra:
 Tiền hay hiện vật được sử dụng để đánh bạc có trị giá từ 5.000.000 đồng
đến dưới 50.000.000 đồng; hoặc
 Tiền hay hiện vật được sử dụng để đánh bạc có trị giá dưới 5.000.000
đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành
vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc
tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà cịn
vi phạm.
Trong vụ án này, theo quan điểm của nhóm 1, hành vi của bị cáo Phong chưa
thoả mãn được đầy đủ mặt khách quan của hành vi đánh bạc, bởi các lý do sau:
Căn cứ theo giải thích tại khoản 3 Điều 1 Nghị quyết 01/2010/ NQ-HĐTP ngày
22/10/2010 thì:
“3. “Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc” bao gồm:
a) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc;
b) Tiền hoặc hiện vật thu giữ được trong người các con bạc mà có căn cứ xác
định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc;
c) Tiền hoặc hiện vật thu giữ ở những nơi khác mà có đủ căn cứ xác định đã
được hoặc sẽ được dùng đánh bạc.”
Cả 03 phân loại trong giải thích “Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc” đều nhắc
đến cụm từ “ thu giữ”, theo đó, có thể hiểu rằng, để được coi là tiền hoặc hiện vật
7



được dùng để đánh bạc thì tiền và hiện vật đó phải được cơ quan chức năng thu giữ
được và chứng minh được mục đích sử dụng là “đã hoặc sẽ được dùng đánh bạc”.
Tuy nhiên, căn cứ theo hồ sơ vụ án, thực tế, cơ quan cảnh sát điều tra công an
huyện Hải Hậu không thu giữ được bất kỳ “Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc” nào của
Phong để chứng minh cho hành vi phạm tội bị khởi tố. Tại bản kết luận điều tra, cơ
quan công an thu giữ của Phong 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F5 nhưng
“là tài sản hợp pháp và khơng liên quan đến hành vi cá độ bóng đá”, do đó, có cơ sở để
chứng minh cho luận điểm này.
Đồng thời, tại Biên bản hỏi cung bị can ngày 04/09/2018 tại trụ sở Công an thị
trấn Thịnh Long, Hải Hậu, Nam Định, khi được hỏi “ Nay CQĐT yêu cầu anh giao nộp
số tiền 2.000.000đ mà anh đã thoả thuận cá độ bóng đá với Quân ở trên, ý kiến anh thế
nào ?” thì Phong đã trả lời “Thưa hiện nay tơi khơng có tiền …”. Bởi vậy, có căn cứ để
luật sư cho rằng bị cáo Phong không đáp ứng được điều kiện về mặt khách quan của
tội đánh bạc bị truy tố.
Việc Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Hải Hậu kết luận và Viện kiểm sát
nhân dân huyện Hải Hậu truy tố bị cáo Phong về tội Đánh bạc khi không chứng minh
được đầy đủ mặt khách quan của tội danh là không phù hợp với quy định tại Điều 98
BLTTHS 2015 là “Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy
nhất để buộc tội, kết tội”.
Mặt khác, cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Hải Hậu cũng chưa làm rõ
được có hay khơng sự kiện Phong và Quân cùng thống nhất chơi cá độ bóng đá, tại
Biên bản đối chất ngày 27/12/2018, Quân lại không có bằng chứng nào để chứng minh
cho lời nói của mình về các nội dung bàn bạc, nói chuyện với Phong. Đồng thời, cơ
quan cảnh sát điều tra cũng chưa làm rõ được việc Qn có nói/ trao đổi gì với Phong
khi đang gọi điện cho Tân không.

IV.

Theo dõi, đề xuất, hỏi và tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm
8



1. Kế hoạch hỏi
KẾ HOẠCH THAM GIA XÉT HỎI


Số người cần hỏi:
- Bị cáo: Đinh Xuân Phong
- Người làm chứng: Nguyễn Văn Quân
- Người làm chứng: Trần Văn Tân
- Người làm chứng: Trần Ngọc Sơn – ngồi xem bóng đá cùng Tân



Phạm vi hỏi
1. Hỏi bị cáo Đinh Xuân Phong để làm rõ việc bị cáo có biết và tham gia cùng
Quân cá độ bóng đá vào ngày 12/7/2018 hay khơng?

Làm rõ Phong có bị

“định hình” lời khai khơng? Phong có bỏ trốn khơng?
- Ngày 12/7/2018, anh đến nhà anh Quân để làm gì? Vì sao lại đến đây?
- Mấy giờ anh Quân về tới kiot?
- Anh có thấy anh Quân nói chuyện điện thoại với ai trong lúc đang xem bóng
đá khơng?
- (Nếu có) Anh có biết anh Qn gọi cho ai không? Anh nghe thấy nội dung
cuộc hội thoại khơng? Đó là gì?
- Khi Qn về đến kiot thì ngồi cách anh bao xa?
- Anh Qn có nói gì với anh trong lúc gọi điện khơng?
- Anh có tham gia cá độ bóng đá cùng anh Qn khơng?

- Anh bị cơ quan công an triệu tập lên làm việc lần đầu vào thời điểm nào?
- Vì sao anh lại thay đổi lời khai trong các biên bản lấy lời khai từ thời điểm
lần đầu được triệu tập và bây giờ?
9


- Khi được triệu tập lên Đồn Công An, cán bộ cơng an đã nói gì với anh? Tại
sao anh ln nói mình khơng có tội nhưng trong những biên bản hỏi cung
ban đầu anh lại khai mình tham gia cá độ?
- Anh khai mình bị “định hình” lời khai, vậy điều đó diễn ra khi nào?
- Anh có được cán bộ cơng an thơng báo gì sau khi kết thúc làm việc không?
2. Hỏi người làm chứng Quân để làm rõ thời gian diễn ra các sự kiện (đảm bảo
cuộc nói chuyện diễn ra có tại kiot hay khơng), hỏi về cuộc đối thoại (để đảm
bảo sự thống nhất giữa các lần khai).
- Mục đích anh tới nhà nghỉ Ngọc Linh là để làm gì?
- Mấy giờ anh trở về kiot?
- Khi trở về kiot anh ngồi cách Phong khoảng cách bao nhiêu?
- Anh gọi diện cho Tân lúc mấy giờ?
- Cuộc hội thoại của anh và Tân diễn ra như thế nào?
- Anh đã nói gì với Phong?
- Mấy giờ anh được cơ quan đưa về đồn làm việc?
3. Hỏi Tân để làm rõ thời điểm và nội dung cuộc hội thoại giữa Tân và Quân khi
cá độ bóng đá.
- Quân tới nhà nghỉ Ngọc Linh có phải để tìm anh khơng?
- Mấy giờ anh Qn gọi điện cho anh? (xem xét sự thống nhất giữa lời khai
của Quân và của Tân, để xem Quân cá cược lúc về kiot chưa?)
- Anh Qn nói gì trong cuộc hội thoại?
- Anh có nghe thấy ai khác nói ở phía Qn khi hai người đang nói chuyện
khơng? (để ý: vì trong các lời khai trước đó Tân ln khai chỉ nghe Qn nói
với ai đó và khơng nghe thấy gì khác)

10


- Anh và Quân gọi điện cho nhau mấy lần?
4. Hỏi Sơn để làm rõ thời điểm và nội dung trao đổi giữa Tân và Quân.
- Anh tới nhà nghỉ Ngọc Linh lúc mấy giờ? Có thấy Quân tới nhà nghỉ Ngọc
Linh khơng?
- Tân có nhận cuộc điện thoại nào trong lúc xem bóng đá khơng?
- Anh có nghe được nội dung cuộc trị chuyện khơng? Anh có biết người gọi
điện cho Tân là những ai khơng?
- Anh có biết Tân nghe máy Quân lần đầu lúc mấy giờ không?
2. Luận cứ bào chữa
Định hướng bào chữa cho bị cáo Đinh Xn Phong là khơng có tội và đình chỉ


vụ án.


Luận cứ bào chữa phúc thẩm bị cáo Đinh Xuân Phong
ĐỒN LUẬT SƯ THÀNH

CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT

PHỐ HÀ NỘI

NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BẢN LUẬN CỨ BÀO CHỮA
Kính thưa Hội đồng xét xử tỉnh Nam Định!

Thưa vị Đại diện Viện kiểm sát tỉnh Nam Định!
Thưa các vị luật sư đồng nghiệp và tất cả quý vị có mặt tại phiên tịa ngày
hơm nay!
Tơi là Luật sư Nhóm 1 đến từ Cơng ty Luật TNHH CLC, là Luật sư thuộc Đoàn
Luật sư Thành phố Hà Nội. Nhận được lời mời của gia đình bị cáo, đồng thời được sự
chấp thuận của Hội đồng xét xử, tôi tham gia phiên tồ hơm nay với vai trị là Người
11


bào chữa cho bị cáo Đinh Xuân Phong tại phiên tịa phúc thẩm hơm nay trong vụ án
“Đinh Xn Phong đánh bạc”, bị Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu, thành phố Nam
Định xét xử sơ thẩm về tội “Đánh bạc”.
Tại bản án sơ thẩm số 35/2019/HS-ST ngày 25/6/2019, Tòa án nhân dân huyện
Hải Hậu, tỉnh Nam Định đã tuyên:
“1. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm I khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật Hình
sự
1.1 Tuyên bị cáo Đinh Xuân Phong phạm tội “Đánh bạc”
1.2 Xử phạt Đinh Xuân Phong 10 (mười) tháng 12 (mười hai) ngày cải tạo không giam
giữ, được trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/11/2018 đến
ngày 24/02/2019 là 104 (một trăm linh bốn) ngày tương ứng với 10 (mười) tháng
12 (mười hai) ngày cải tạo khơng giam giữ. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt
Cải tạo không giam giữ
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản
2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự
Tịch thu của Đinh Xuân Phong số tiền 2.000.000đ (hai triệu đồng) để sung ngân
sách nhà nước.”
Sau khi bản án sơ thẩm tuyên, bị cáo Đinh Xuân Phong có đơn kháng cáo ngày
26/6/2019, có nội dung kháng cáo là kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm của
Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Tại phiên tịa hơm nay, bị cáo vẫn
giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Với tư cách là người bào chữa cho bị cáo Đinh Xuân Phong, tôi xin phát biểu trên
cơ sở yêu cầu kháng cáo của bị cáo như sau:
I.

Về hình thức:

Đơn kháng cáo của bị cáo được làm và nộp trong thời hạn luật định, đề nghị
HĐXX chấp nhận.
12


II.

Về nội dung:

Đơn kháng cáo của bị cáo Phong là có cơ sở xem xét vì các lý do sau:
Trong nhiều bản hỏi cung, và ngay tại phiên tòa sơ thẩm, anh Đinh Xuân Phong
liên tục kêu oan và khẳng định có cán bộ đã “định hình” lời khai của mình.
Bản án sơ thẩm đã buộc tội bị cáo chỉ dựa vào lời khai của Nguyễn Văn Quân
trong khi đó khơng có bất kỳ chứng cứ vật chất nào.
Cụ thể:
1. Không đủ chứng cứ chứng minh anh Đinh Xuân Phong có hành vi đánh
bạc
Kính thưa HĐXX, hành vi của Đinh Xuân Phong là không đủ cấu thành tội phạm
tội Đánh bạc. Theo Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP Hướng dẫn áp dụng một số quy
định tại Điều 248 và Điều 249 của Bộ luật Hình sự:
“Điều 1. Về một số quy định tại Điều 248 của Bộ luật hình sự
3. “Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc” bao gồm:
a) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc;
b) Tiền hoặc hiện vật thu giữ được trong người các con bạc mà có căn cứ xác

định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc;
c) Tiền hoặc hiện vật thu giữ ở những nơi khác mà có đủ căn cứ xác định đã được
hoặc sẽ được dùng đánh bạc.”
Cả 03 phân loại trong giải thích “Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc” đều nhắc
đến cụm từ “ thu giữ”, theo đó, có thể hiểu rằng, để được coi là tiền hoặc hiện vật
được dùng để đánh bạc thì tiền và hiện vật đó phải được cơ quan chức năng thu giữ
được và chứng minh được mục đích sử dụng là “đã hoặc sẽ được dùng đánh bạc”. Tuy
nhiên, căn cứ theo hồ sơ vụ án, thực tế, cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Hải
Hậu không thu giữ được bất kỳ “Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc” nào của Phong để
chứng minh cho hành vi phạm tội bị khởi tố. Tại Biên bản hỏi cung bị can ngày
13


04/09/2018 (bút lục 39-41) tại trụ sở Công an thị trấn Thịnh Long, Hải Hậu, Nam
Định, khi được hỏi “ Nay CQĐT yêu cầu anh giao nộp số tiền 2.000.000đ mà anh đã
thoả thuận cá độ bóng đá với Quân ở trên, ý kiến anh thế nào ?” thì Phong đã trả lời
“Thưa hiện nay tơi khơng có tiền …”. Bởi vậy, có căn cứ để luật sư cho rằng bị cáo
Phong không đáp ứng được điều kiện về mặt khách quan của tội đánh bạc bị truy tố.
Ngoài ra cũng khơng có hình ảnh, tin nhắn chứng minh Phong đã tham gia cá độ
hay bàn bạc với những người liên quan (Biên bản mở nhật ký điện thoại – bút lục 16).
HĐXX sơ thẩm đã kết tội Đinh Xuân Phong dựa trên những lời khai của chính
Phong và Quân, là những chứng cứ không thỏa mãn Điều 86 quy định Về chứng cứ
của BLTTHS. Chứng cứ ở đây phải là những gì có thật, tuy nhiên Phong từ Biên bản
hỏi cung ngày 15/11/2018 (bút lục 52-54) đã thay đổi lời khai, khẳng định không cá
cược với ai. Đồng thời cịn vi phạm Điều 98 BLTTHS là “Khơng được dùng lời nhận
tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội”. Mâu thuẫn lời khai
giữa Phong và Quân dù đã đối chất nhưng chưa hề được làm rõ, cũng khơng có nhân
chứng chứng kiến thỏa thuận cá cược giữa Phong và Quân như Quân đã khai.
Việc Tân khai nhận tại Biên bản ghi lời khai ngày 19/3/2019 (bút lục 92-94), Bản
tường trình (bút lục 87) là nghe thấy tiếng ai đó bên ngồi “xỉu 2 ½ ăn 92 có theo

khơng?” ngồi ra khơng nghe thấy gì nữa. Điều này là mâu thuẫn với lời khai về
khoảng cách ngồi giữa Quân và Phong của Quân. Tại Biên bản hỏi cung bị can ngày
02/8/2018, Quân khai nhận “ Khi gọi điện cho Tân Phong ngồi đối diện bàn uống
nước cách tôi khoảng 1m nên tôi khẳng định là Phong sẽ nghe thấy rất rõ tơi nói
chuyện điện thoại với Tân.” Như vậy thì khi Phong trả lời Quân là “anh cho em theo 2
quả” Tân phải nghe thấy được. Vậy Tân có thật sự nghe được lời nói của Qn như đã
khai hay khơng? Hay có sự thống nhất nào đó giữa Quân và Tân?
2. Việc tịch thu anh Đinh Xuân Phong số tiền 2 triệu đồng là khơng có căn cứ
Kính thưa HĐXX, trong Bản án sơ thẩm số 35/2019/HS-ST, Hội đồng xét xử căn
cứ điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS để tịch thu
14


của Đinh Xuân Phong số tiền 2 triệu đồng là khơng đúng quy định pháp luật. Như đã
trình bày ở trên, Cơ quan tiến hành tố tụng chưa chứng minh được Phong đã hoặc sẽ
dùng số tiền là 2 triệu đồng để cá độ bóng đá. Do vậy khơng thể coi số tiền 2 triệu
chưa bao giờ xuất hiện là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội để tịch thu.
III.

Kiến nghị:

- Về hình thức: đơn kháng cáo của bị cáo làm trong thời hạn luật định, đề nghị HĐXX
chấp nhận.
- Về nội dung: Đề nghị HĐXX chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo, căn cứ Điều 13
BLTTHS, điểm d Khoản 1 Điều 355, Khoản 1 Điều 359 BLTTHS hủy bản án sơ thẩm
và đình chỉ vụ án.
Trên đây là quan điểm của Luật sư để bào chữa cho bị cáo, tôi rất mong được
HĐXX tham khảo. Tôi tin tưởng bản án của HĐX hơm nay sẽ có sức thuyết phục và
cơng minh, chính xác!
3. Kế hoạch tranh luận

Viện kiểm sát

Luật sư bào chữa cho bị cáo

- Đủ căn cứ để xác định bị cáo phạm tội - Không chứng minh được hành vi đánh
“Đánh bạc”.

bạc – Không đủ căn cứ để xác định bị
cáo phạm tội “Đánh bạc”.

+ Biên bản lời khai của Tân (bút lục số + Lời khai của Tân rằng Quân nói
84, số 93): khi nói chuyện điện thoại với chuyện với một người bên ngồi về việc
Qn, có nghe Qn nói chuyện với ai cá cược không thể là căn cứ xác định
người bên ngồi đó là bị cáo Phong;
đó bên ngồi;
+ Biên bản lời khai của Quân (bút lục số + Bị cáo ln khẳng định mình khơng
24, số 29, số 37, số 42, số 79, số 90): tham gia đánh bạc; trong q trình xem
Phong nói anh cho em theo 2 quả.

Phong và Qn chỉ bình luận về trận
bóng, khơng bàn luận về cá cược.
15


+ Phong cùng Quân về trụ sở công an + Sau khi xem xong trận bóng Phong về
huyện Hải Hậu làm việc (bút lục số 32)

nhà ngủ. 11h ngày 12.7.2018, Phong
được công an huyện Hải Hậu triệu tập
lên trụ sở làm việc;

+ Biên bản bắt người phạm tội quả tang
chỉ có 2 bị cáo Trần Văn Tân và Nguyễn
Văn Quân (bút lục số 47);

+ Biên bản lời khai của Phong (bút lục + Nhận tội tại bút lục số 21, số 34, số 39
số 21, số 34, số 39): anh cho em theo 2 là do bị cáo đã được “định hình” lời khai
quả.

từ cán bộ đồn cơng an Thịnh Long
- Khơng có chứng cứ vật chất để đưa ra
mức thu 2tr:
+ Tất cả số tiền được sử dụng vào mục
đích đánh bạc đều dựa vào lời khai của
các bị cáo.
+ Tại biên bản bắt người phạm tội quả
tang, không thể hiện số tiền thu giữ được
từ hành vi đánh bạc.

16



×