Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

lễ hội HOA BAN của dân tộc Thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.96 MB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN LỊCH SỬ - ĐỊA LÝ - DU LỊCH


HỌC PHẦN
DÂN TỘC HỌC ĐẠI CƯƠNG
Mã số học phần: SP232

BÀI BÁO CÁO
Đề Tài

LỄ HỘI HOA BAN CỦA DÂN TỘC THÁI
Ở VÙNG TÂY BẮC
Sinh viên thực hiện:

Giảng viên hướng dẫn:

Nguyễn Thị Bích Ngân B2015933

Th.s Đặng Thị Tầm

Học kỳ I
Năm học: 2021 - 2022


MỤC LỤC
I – Giới thiệu sơ lược về dân tộc Thái (Người Thái) ........................................ 3
II – Giới thiệu về lễ hội Hoa Ban ....................................................................... 7
1.
2.



Hoa ban – biểu tượng của núi rừng Tây Bắc ....................................... 8
Sự tích hoa ban...................................................................................... 10

3. Ý nghĩa của lễ hội và đối tượng thờ cúng ............................................... 11
4. Nội dung lễ hội Hoa Ban ........................................................................... 12
4.1. Phần lễ ................................................................................................... 16
4.2.

Phần hội ........................................................................................... 18

4.3. Kết thúc hội ..................................................................................... 25
5. Tài liệu tham khảo ................................................................................ 27

2


Việt Nam – tổ quốc của nhiều dân tộc. Các dân tộc cùng là con cháu
của Lạc Long Quân – Âu Cơ, mở ra từ trăm trứng, nửa theo mẹ lên núi, nửa theo
cha xuống biển, cùng mở mang xây dựng non sông “Tam sơn, tứ hải, nhất phần
điển”, với rừng núi trùng điệp, đồng bằng sải cánh cò bay và biển Đơng bốn mùa
sóng vỗ; bờ cõi liền một dải từ chỏm Lũng Cúng (Bắc) đến xóm Rạch Tàu (Nam),
từ đỉnh Trường Sơn (Tây) đến quần đảo Trường Sa (Đông).
Cùng chung sống lâu đời trên một đất nước, các dân tộc có truyền thống
u nước, đồn kết giúp đỡ nhau trong chinh phục thiên nhiên và đấu tranh xã
hội, suốt quá trình lịch sử dựng nước, giữa nước và xây dựng phát triển đất nước.
Lịch sử chinh phục thiên nhiên là bài ca hùng tráng, thể hiện sự sáng tạo và sức
sống mãnh liệt, vượt lên mọi trở ngại thích ứng với điều kiện tự nhiên (địa mạo,
đất đai, khí hậu,…) khác nhau, các dân tộc đã tìm ra phương thức ứng xử thiên
nhiên khác nhau. Cho đến sự khác nhau về sắc phục, ẩm thực, tiếng nói và cả nền

văn hóa. Sống trên mãnh đất Đơng Dương – nơi cửa ngõ nối Đông Nam Á lục địa
và Đông Nam Á hải đảo, Việt Nam là nơi giao lưu của các nền văn hóa trong khu
vực. Ở đay có đủ ba ngữ hệ lớn trong khu vực Đông Nam Á: Ngữ hệ Nam đảo,
và ngữ hệ Hán – Tạng.
Mặc dù tiếng nói của các dân tộc thuộc nhiều nhóm ngôn ngữ khác
nhau, song do các dân tộc sống rất xen kẽ với nhau nên một dân tộc thường biết
tiếng các dân tộc khác, và dù sống xen kẽ với nhau, giao lưu văn hóa với nhau,
nhưng các dân tộc vẫn lưu giữ được bản sắc văn hóa riêng của dân tộc mình.

I – Giới thiệu sơ lược về dân tộc Thái (Người Thái)
Dân tộc Thái là một trong 54 dân tộc có mặt, sinh sống trên đất nước
Việt Nam từ hơn 1000 năm trước trong các cuộc thiên di trong lịch sử. Dân tộc
Thái ở Việt Nam có dân số đứng thứ 3 cả nước, với số dân 1.550.423 người
(Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 ) sau người dân tộc Kinh và dân
tộc Tày. Dân tộc Thái chủ yếu sống ở vùng núi Tây Bắc và các tỉnh Thanh Hóa,
Nghệ An, Hịa Bình,…Ngồi hai nhóm chính là Thái Trắng và Thái Đen, cịn một
ngành khác bao gồm nhiều nhóm phức tạp cư trú ở Sơn La, Hịa Bình, Thanh Hóa,
3


Nghệ An. Nhóm Thái Trắng là con cháu người Bạch Y đã cư trú lâu đời ở Tây
Bắc Việt Nam. Đến thế kỉ II họ đã chiếm được ưu thế ở dọc hữu ngạn sông Hồng
và tỉnh Lai Châu và dần dần phát triển thế lực ở các thế kỉ sau. Người Thái Đen
đến Việt nam khoảng thế kỉ XIV. Nhóm Thái Mộc Châu từ Lào di cư sang VN
khoảng thế kỉ XIV, chịu ảnh hưởng của hai ngành Thái Trắng và Thái Đen. Trải
qua hàng trăm năm sinh sống và lao động sản xuất người thái đã tạo dựng được
những nét văn hóa độc đáo và đặc sắc cho dân tộc và vùng miền, với những nét
đặc sắc về bản sắc văn hóa như kiến trúc nhà ở, trang phục thổ cẩm, văn hóa ẩm
thực, phong tục tập quán riêng biệt, ngôn ngữ, chữ viết, các lễ hội đặc trưng,…Tất
cả đã làm nên một nền văn hóa cho dân tộc Việt thêm phong phú và đa dạng.

Do địa bàn cư trú và những cuộc di dân lớn trong lịch sử, dân tộc Thái
chịu những ảnh hưởng bởi nhiều nền văn hóa và nhân chủng của các cư dân địa
phương nơi họ đi qua, nói một cách khác thì người Thái - dân tộc chủ nhân của
Tây Bắc, trong lịch sử đã có q trình hỗn dung và tiếp biến văn hóa bởi các dân
tộc anh em để tạo nên sắc thái văn hóa riêng biệt của cả vùng Tây Bắc.

Trang phục dân tộc Thái
Nguồn Internet
4


Trang phục dân tộc Thái
Nguồn Internet

Múa khăn
Nguồn Internet

5


Múa nón
Nguồn Internet

Kiến trúc nhà ở của dân tộc Thái
Nguồn Internet

6


Kiến trúc nhà ở của dân tộc Thái

Nguồn Internet

II – Giới thiệu về lễ hội Hoa Ban
Mỗi độ xuân về, những bông hoa ban của miền núi Tây Bắc lại nở xòe
rực rỡ trong ánh nắng ấm áp báo hiệu lễ hội hoa ban sắp đến. Đây là một lễ hội
nổi tiếng, thu hút rất nhiều sự quan tâm của du khách thập phương đến với núi
rừng Tây Bắc

Hoa Ban
Nguồn Internet

7


1. Hoa ban – biểu tượng của núi rừng Tây Bắc
Hoa ban là loài hoa đặc trưng của vùng núi rừng Tây Bắc. Khi hoa đào
đã tàn phai và những trận mưa xn cịn rơi rớt lại thì cũng chính là lúc mùa hoa
ban bắt đầu. Hoa ban thường nở rộ vào tháng 3 dương

lịch.

Cây ban thân mộc, không mọc thẳng mà khẳng khiu uốn khúc, chia cành phân
nhánh. Về mùa đơng cây ban tự mình trút lá, dồn nhựa vào thân, đợi sang xuân
ấm áp đâm chồi nảy lộc. Lá ban mọc cách, khơng xếp thành tán; lá hình móng bị,
rất giống hai trái tim đặt cạnh nhau. Ban có hai lồi, hoa đỏ và hoa trắng, lồi hoa
trắng chiếm đa số. Hoa ban cùng họ với hoa bướm, khơng có hương nhưng có vị,
mỗi hoa gồm từ 4-5 cánh, nhị màu hồng, gân màu tím; nhị hoa có vị ngọt.

Nguồn Internet


8


Nguồn Internet
Khơng biết có phải vì thế mà hoa ban theo tiếng Thái, có nghĩa hoa
ngọt. Hằng nǎm, vào đầu tháng hai (âm lịch) hoa ban lác đác nở và rộ nhất, đẹp
nhất là đầu tháng ba, đến đầu tháng tư thì hoa bắt đầu tàn. Lúc nở rộ, trơng cây
ban như chỉ có hoa mà khơng có lá. Người dân nơi đây coi hoa ban như thể nông
lịch của mình, họ phát nương vào lúc hoa nở và tra hạt vào lúc hoa tàn; dùng hoa
ban như một loại thức ăn: nấu canh, làm nộm, đồ lên chấm với dấm ớt mǎng
chua.... và làm thuốc, trị ho, kiết lỵ.
Hoa ban cũng rất tự nhiên đi vào đời sống vǎn hóa - tâm linh của người
dân nơi đây, nhất là bà con thuộc nhóm ngơn ngữ Tày - Thái. Với đồng bào Thái,
có lẽ khơng ai là khơng trải qua tuổi thanh xuân nồng cháy, với những trò chơi
thú vị hái hoa ban và hát giao duyên. Trong ký ức của người đi xa, cùng với nỗi
nhớ mường nhớ bản, nhớ người thân u, cịn có nỗi nhớ da diết hoa ban vào mỗi
độ xuân về. Có người bảo hoa ban nở như giục mầm mǎng mọc, như báo hiệu cho
mùa lễ truyền thống “Xên lẩu nó” bắt đầu. Để cho hoa ban mãi đẹp trên những
mảnh đất ấy. Từ nhiều năm nay, tỉnh Điện Biện đã tổ chức trồng trên 5.000 cây
dọc tuyến đường từ thành phố Điện Biên Phủ đến đỉnh đèo Pha Đin-cửa ngõ của
tỉnh.
9


2. Sự tích hoa ban
Thưở ấy, ở bn làng người Thái có một chàng trai tên là Khum đem
long yêu cơ gái tên Ban. Khum giỏi làm nương, lại có tài săn bắn. Ban thì khéo
tay dệt vải lại có giọng hát say đắm nhiều chàng trai. Buôn làng vẫn tưởng rằng
hai người ấy sinh ra là đẻ dành cho nhau. Thế nhưng, có ai ngờ rằng, cha nàng
Ban vì ham giàu, ham của mà đem nàng gả cho con trai nhà tạo mường, vốn à một

thanh niên lười nhác, lại có tật gù lưng xấu xí. Mặc cho đơi trai gái hết lời van
xin, người cha vẫn không từ bỏ ý địnhvà ông đã bàn bạc cùng với nhà tọa mường
sửa soạn làm lễ cưới cho hai người.
Trong bước đường cùng, nàng Ban đã chạy sang bản của Khum gặp
chàng để cầu cứu. Nhưng chẳng may khi đến nhà Khum, thì được tin chàng đã
theo cha đi mua trâu ở bản xa. Nàng bèn lấy chiếc khăn piêu của mình, buộc vào
nơi cầu thang nhà người yêu rồi bươn bả đi tìm chàng. Nàng đi hết núi này, rừng
khác, gọi tên người yêu đến khản cả giọng, nhưng chàng ở xa nào có nghe thấy.
Đến khi kiệt sức nàng ngã gục sau khi vượt qua một dãy núi cao.
Nơi nàng nằm xuống sau đó mọc lên một cây hoan mang búp trắng như
búp tay người con gái sắc son. Và chẳng bao lâu, loài hoa ấy mọc lan ra khắp núi
rừng Tây Bắc, và hằng năm cứ mỗi độ xuân về, hoa nở trắng như bông. Người ta
đặt tên lồi hoa đó là hoa Ban để tưởng nhớ để tưởng nhớ người con gái bất hạnh
ấy.
Về phần Khum, sau khi về đến nha, thấy chiếc khăn piêu của người yêu
vắt ơi cầu thang, biết là có chuyện chẳng lành, chàng vội vã lao đi tìm nàng. Dị
hỏi bà con bên bản người yêu, Khum biết được nàng đã bỏ nhà ra đi, cịn đi đâu
thì khơng rỗ. Thế là chàng lên đường tìm người yêu, đi mãi hết mường này, bản
khác mà mãi vẫn khơng tìm thấy bóng dáng của nàng. Rồi chàng cũng kiệt sức,
ngã xuống. Chàng hóa thành con chim sống lẻ loi trong rừng và cứ đến mùa hoa
Ban nở, lại hót vàn như tiếng gọi người yêu tha thiết từ năm nào.
Hoặc cũng có sự tích kể ngắn lại rằng: nàng Khum (tiếng Thái là nghèo,
cay đắng) và chàng Tào Lu (nghĩa là giàu có) u nhau nhưng khơng được gia
đình chấp thuận. Mùa xn, hai người rủ nhau lên chơi hang Thẩm Đông Ngoạng
10


(hang rừng ve, tức hang Thẩm Lé bây giờ). Ít lâu sau, chàng cảm chết, biến thành
con Tô Mánh Lú (màu đen, to hơn con ve). Nàng Khôm không muốn bị ép duyên
với chàng trai khác đã bỏ trốn vào rừng. Nàng chạy, chạy mãi, kiệt sức rồi chết ở

trong rừng. Nơi nàng nằm xuống mọc lên một loại cây có hoa trắng, có hương
thơm, mật ngọt. Người dân gọi đó là hoa Ban. Theo tiếng Thái thì "ban" có nghĩa
là ngon, đẹp đẽ. Tất cả những gì ngon ngọt, đẹp đẽ đều gọi là "ban". Một cô gái
xinh, người ta bảo cô ấy "ban" quá!

Nguồn Internet
3. Ý nghĩa của lễ hội và đối tượng thờ cúng
Ý nghĩa của lễ hội hoa ban Thái thể hiện tấm lịng tơn kính của nhân
dân, và cũng là sự tri ân tới những cơng lao to lớn của các vị thần. Nhờ có sự phù
hộ, giúp đỡ của họ mà bản mường quanh năm no ấm, cầu mưa thuận gió hịa, quốc
thái dân an. Đối với đồng bào dân tộc Thái thì lễ hội thể hiện được văn hóa tâm
linh trong đời sống tinh thần của người dân. Trong lễ hội, người dân thỉnh báo vị
thần tối cao trong hàng ngũ hành theo quan niệm người Thái là ‘Then’ và ‘nàng
Ban’ – biểu tượng của trinh trắng của người thiếu nữ Thái. Họ sẽ cầu khấn để các
vị thần phù hộ cho mưa thuận gió hịa, lứa đơi hạnh phúc và bn làng luôn yên
vui, đầm ấm.

11


Nguồn internet
4. Nội dung lễ hội Hoa Ban
Lễ hội Hoa Ban hiện đã trở thành sự kiện văn hóa, du lịch mang tính
cộng đồng và xã hội. Nó khơng chỉ là ngày hội của riêng dân tộc Thái mà trở
thành ngày hội của cộng đồng các dân tộc tỉnh Ðiện Biên.
Lễ hội Hoa (Ở Điện Biên) ban còn gắn liền với ý nghĩa lịch sử Chiến
dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Sở dĩ, Điện Biên chọn ngày 13.3 hàng năm là ngày
tổ chức Lễ hội Hoa ban vì đây là thời điểm hoa ban nở trắng rừng Tây Bắc và
cũng chính ngày Điện Biên Phủ nổ phát súng đầu tiên khai màn trận đánh
(13.3.1954); để tạo nên một Điện Biên Phủ huyền thoại, lừng lẫy năm châu trấn

động địa cầu và gắn liền với tên tuổi vị tướng tài ba Võ Nguyên Giáp.
Cho đến hiện tại, Lễ hội Hoa Ban đã được tổ chức quy mô, bài bản hơn
và được xây dựng thành sản phẩm du lịch mang thương hiệu trên cả nước, bởi đây
chính là dịp để mọi người dân cùng ôn lại truyền thống và tri ân những người con
của quê hương, những người anh hùng đã làm nên Chiến thắng lịch sử Ðiện Biên
Phủ.
Nổi tiếng từ năm 2014, thế nhưng không nhiều người biết rằng, Lễ hội
Hoa Ban đã có từ xa xưa. Trước đây, Lễ hội chỉ có phần lễ, mang đậm yếu tố văn
12


hóa tâm linh, tín ngưỡng của dân tộc Thái và một số dân tộc có sự giao thoa với
nền văn hóa Thái. Do vậy, tín ngưỡng này khơng chỉ có ở riêng Ðiện Biên mà còn
hiện diện trong đời sống văn hóa tâm linh của đồng bào nhiều nơi thuộc khu vực
Tây Bắc như: Sơn La, Lai Châu, Yên Bái…

Lễ hội Hoa Ban 2015
Nguồn Internet

Lễ hội Hoa Ban 2016
Nguồn Internet
13


Lễ hội Hoa Ban 2017
Nguồn Internet

Lễ hội Hoa Ban 2018
Nguồn Internet


14


Lễ hội Hoa Ban 2019
Nguồn Internet
Người Thái ở huyện Mai Châu (Hồ Bình) lại có thủ tục mở hội Xên
bản, Xên mường. Hội mở vào dịp hoa ban nở, nên cịn có tên gọi là hội Hoa Ban.
Hội tổ chức định kỳ hàng năm, nhưng quy mô to hay nhỏ cịn tuỳ thuộc vào thời
tiết có liên quan đến sự được, mất của mùa màng năm đó. Vào khoảng tháng
giêng, người Thái rất chú trọng đến tiếng sấm đầu năm. Theo quan niệm lâu đời
của đồng bào ở đây, tiếng sấm là dấu hiệu linh thiêng, là “lời phán quyết của vua
trời” có liên quan đến cuộc sống của bản mường, của mùa màng năm đó. Người
Thái Mai Châu cho rằng, hễ năm nào nghe tiếng sấm rền từ phía thượng nguồn
sơng Mã, thì năm đó ắt có đại hạn; mọi người phải lo tích nước để làm mùa cũng
như cho sinh hoạt đời sống, lại phải chuẩn bị phương tiện như cuốc, thuổng, gàu…
để đào mương, đào giếng chống hạn. Do đó, hội Xên bản xên mường năm này chỉ
tổ chức nhỏ và đơn sơ. Người ta mổ ít lợn, gà làm lễ tế thần để cầu mưa, “rửa lá
lúa” (xua đuổi thần trùng). Các cuộc vui chơi, đàn hát coi như bị xếp lại. Các ngã
đường dẫn vào bản đều có buộc cành cây xanh - dấu hiệu “cấm người ngoài vào
bản, kiêng người ngoài lên thang” – trong một số ngày “kiêng kỵ”. Nhà nào nhà
nấy đóng cửa im ỉm và có cài lá xanh. Khơng khí sinh hoạt của bản trong những
15


ngày này chùng xuống, đượm vẻ lo âu, buồn tẻ. Ngược lại, hễ nghe tiếng sấm đầu
năm rền ở phía thượng nguồn sơng Đà, thì mọi người đều phấn khởi, tươi vui. Họ
tin rằng năm đó sẽ mưa thuận gió hồ, triển vọng mùa màng sẽ bội thu, thóc ngơ
đầy bồ, đầy kho, mọi người khoẻ mạnh, ít ốm đau. Trẻ già cùng rủ nhau ra suối
tắm, giặt, gội đầu. Những đồ dùng nấu ăn hàng ngày như nồi, chõ đồ xôi cũng
được đem ra cạo rửa. Và tất nhiên, hội Xên bản, xên mường của năm đó cũng

được tổ chức lớn hơn, nhộn nhịp hơn. Cả bản cùng mổ trâu, mổ heo, ăn uống, vui
chơi nhiều ngày.
4.1. Phần lễ
Hàng năm, cứ đến lễ hội hoa ban của dân tộc Thái cũng chính là ngày
vui của họ hàng, là dịp để nam nữa gặp gỡ, hẹn hò. Nghe những người già ở
Mường Lay, Tuần Giáo kể lại, Lễ hội Hoa Ban xưa còn được gắn với lễ hội Xên
Mường hay lễ hội Cầu mùa, thường được tổ chức vào dịp tháng 2 Âm lịch hàng
năm, khi hoa ban bắt đầu nở trắng khắp các sườn đồi. Ðây là dịp để người dân thể
hiện tấm lịng tơn kính tri ân với tổ tiên và các vị thần núi, thần sông và cũng là
dịp để cầu cho quốc thái, dân an, bản mường no ấm, quanh năm mưa thuận gió
hịa, mùa màng tươi tốt…Lễ hội thường được tổ chức vào tháng 2 âm lịch hàng
năm. Ở phạm vi của bản thì tổ chức lễ hội Xên bản 2 năm/lần nhằm cầu thần phù
hộ, chứ khơng có nhiều trị chơi. Nếu các bạn muốn tham dự lễ hội với nhiều trò
chơi đa dạng thì nên tham gia lễ hội Xên mường được tổ chức 3 năm/1 lần. Rất
nhiều người tài giỏi của toàn mường sẽ tham gia vào những trò chơi ở đây.

16


Nguồn Internet
Từ sáng tinh mơ của ngày hội, tiếng trống, tiếng chiêng âm vang khắp
núi rừng. Các bếp nhà sàn bập bùng lửa đỏ: đồ xôi, luộc gà, thái măng; có nhà mổ
lợn bày cỗ. Rượu cần từng vị lớn, vò nhỏ được bê ra chuẩn bị đãi khách. Những
chàng trai, cô gái áo quần, khăn váy chỉnh tề, rủ nhau đến những cánh rừng có
nhiều hoa ban nở. Họ chọn những cành hoa đẹp nhất để tặng người yêu và biếu
bố mẹ. Theo quan niệm của người Thái, hoa ban khơng chỉ tượng trưng cho tình
u, mà cịn là biểu tượng của lòng hiếu thảo, biết ơn.
Ngày thứ nhất, hội Xên bản xên mường mở đầu bằng đám rước, tiếp
theo là lễ hiến sinh cúng thần. Đám rước diễn ra từ nhà tạo mường ra đình. Dẫn
đầu đám rước là các chức sắc trong mường với trang phục đẹp may bằng the, lụa,

có cờ, lọng, chiêng trống, kèn, sáo, nhị đi kèm.
Tiếp đến, các cụ già đội khăn đỏ, mặc áo tơ tằm vàng, quần chàm sẫm,
thắt lưng xanh. Một số cụ mang theo cả cung nỏ. Một con trâu mộng to béo, được
tắm rửa sạch sẽ, da đen bóng được dắt theo, đơi sừng trâu bọc giấy màu lấp lánh;
ở giữa trán và hai bên mơng có dán giấy trắng cắt hình hoa ban to như miệng bát.
Đi sau cùng là những chàng trai trong bản, mặc áo đỏ viền xanh, quần vàng, đội

17


mũ chóp sơn dầu, chân quấn xà cạp đen đến tận đầu gối, đeo gươm hoặc giáo bên
vai.
Tại đình, vị “đẳm già” - thầy mo có uy tín - áo thụng xanh, mũ đuôi én
đỏ, quần chàm, đi hài, bước ra trước hương án làm lễ cầu thần. Lát sau, vị “đẳm
già” cầm chiếc chuông nhỏ rung lên một hồi báo hiệu là đã cáo thần xong và lệnh
cho dắt con trâu mộng ra làm lễ hiến sinh.
Trâu được dắt đến nơi bãi rộng cạnh đình để mổ thịt. Từ lúc này, các
trò vui của nam nữ thanh niên bắt đầu. Họ tổ chức múa xoè quanh nơi mổ trâu
theo nhịp chiêng trống, và cuộc vui chơi kéo dài cho đến khi pha xong thịt trâu
mới chịu dừng.
Khi những mâm cỗ được dọn lên, thì chiêng trống cùng các nhạc cụ
khác lúc này cũng được chuyển về đình. Từng đơi nam nữ luân phiên hoa tấu cho
tới lúc hạ cỗ. Đêm đến, nam nữ thanh niên vui chơi, ca hát cho đến khuya mới
chia tay.
4.2.

Phần hội
Vùng Tây Bắc có rất nhiều vùng đất khác nhau nên bạn có thể tham gia

lễ hội ở nhiều nơi như lễ hội hoa ban Mộc Châu, lễ hội hoa ban Sơn Lan, lễ hội

hoa ban Điện Biên,… Phần hội sẽ tổ chức nhiều trò chơi với mục đích hướng con
người đến những giá trị tốt đẹp, nhân văn.
Cũng trong ngày hội này, trên dòng Nậm Na, thường diễn ra các cuộc
hát giao duyên của nam nữ trên thuyền. Thuyền trơi nhẹ trên dịng nước; các cô
gái duyên dáng che ô ngồi ở mũi thuyền, bên cạnh những bó hoa ban tươi thắm
vừa mới hái, cất lên tiếng hát những bài dân ca mượt mà, giãi bày cảm xúc và tâm
trạng riêng tư, trong khi các chàng trai ngồi ở phía đi thuyền, vừa lái thuyền,
vừa đánh đàn tính, thổi sáo.
Rất nhiều trị chơi dân gian sẽ được tổ chức sau khi kết thúc phần lễ.
Nội dung của phần hội chủ yếu là khắp giao dun theo điệu Han Nê. Sau đó là
các trị chơi như ném còn, đi cà kheo, hát đối đáp, leo cây, múa xòe...Những âm
thanh vui tai xen lẫn tiếng cười giòn tan khắp lễ hội tạo ấn tượng sâu sắc với khách
du lịch. Các chàng trai dân tộc cùng những cô gái chơi khèn, chơi trống rồi cùng
18


nhau hái những bông hoa ban trắng muốt. Phần “Hội” được tiếp nối với những
âm thanh rộn rã của tiếng trống, tiếng chiêng, với những điệu múa vòng, múa sạp;
mọi người tay trong tay trong đêm hội điệu xòe hoa… như đưa con người xích lại
gần nhau hơn nữa.

Thi đấu môn giã bánh dày tại lễ hội Hoa Ban Điện Biên
Nguồn Internet

Giã bánh dày
Nguồn Internet
19


Trò chơi Ném Còn

Nguồn Internet

Ném Còn
Nguồn Internet

20


Thi đấu Tó má lẹ
Nguồn Internet

Hội thi bắt cá
Nguồn Internet

21


Cuộc thi “Người đẹp Hoa Ban”
Nguồn Internet

Thi thêu khăn Piêu thể hiện sự kéo léo, tỉ mỉ của các cô gái Thái.
Nguồn Internet

22


Thi cà kheo
Nguồn Internet
Càng về khuya, đêm hội càng trở nên sôi động và náo nhiệt. Tiếng nhạc,
tiếng chiêng nối tiếp nhau hòa vang, tạo nên những âm thanh rộn rã mãi khơng

dứt và những vịng xịe cứ thế tiếp nối… Múa xòe còn thể hiện giấc mơ của người
dân về cuộc sống thanh bình, ước muốn ấm no, hạnh phúc.

Múa Xòe
Nguồn Internet
23


Nguồn Internet

Các điệu múa trong lễ hội
Nguồn Internet

24


Các điệu múa trong lễ hội
Nguồn Internet
Lúc kết thúc các trị chơi trong lễ hội. Các chàng trai, cơ gái vừa đi vừa
khắp những lời chia tay nhau đầy lưu luyến hẹn đến mùa xuân mới, khi ban nở
trắng đồi lại gặp nhau trong lễ hội Hoa Ban.
4.3.

Kết thúc hội
Kết thúc cũng là lúc trai gái chia tay nhau để xuống đồng cày cấy, mùa

xuân cũng là mùa làm nương. Cho nên, ai cũng cố giắng động viên nhau đi chơi.
Dân ca Thái co đoạn rằng:
“Muốn chơi thì chơi lúc ban cịn hoa
Đùa thì đùa thời hoa ban cịn nhiều

Lát nữa hoa sẽ tàn
Con gái có chồng thì bị xích đeo tay, gông đeo cổ, không được đi nữa…”
Lễ hội Hoa Ban là một lễ hội dân gian độc đáo, là nét đẹp văn hóa truyền
thống của người Thái vùng lòng chảo Mường Lò. Nếu ai một lần được đến với
bản làng của người Thái, trong ngày hội Hoa Ban, được hịa mình trong khơng
khí nhộn nhịp giữa tiết trời của mùa xuân vùng cao, chắc hẳn sẽ giữ được những

25


×