Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Tài liệu Chương 4-Đảng lãnh đạo xây dựng XHCN ở miền Bắc ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.08 KB, 23 trang )

BÀI IV
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC
VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954-1975)
I. ĐƯỜNG LỐI CHIẾN LƯC CÁCH MẠNG CỦA CẢ NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN
MỚI
1. Đặc điểm nước ta sau tháng 7-1954
Sau khi ký kết Hiệp đònh Giơ-ne-vơ 1954 về Đông Dương, nhiệm vụ của nhân dân
ta trong thời kỳ đầu là đấu tranh đòi đối phương phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp
đònh vừa ký, trong đó có hai điều cơ bản là:
- Quân viễn chinh Pháp phải rút khỏi miền Bắc từ vó tuyến 17 trở ra trong thời gian
300 ngày.
- Các nhà cầm quyền ở hai miền Nam-Bắc mở hội nghò hiệp thương để tổ chức tổng
tuyển cử thực hiện thống nhất đất nước trong thời gian hai năm.
Mặc dù Pháp rất ngoan cố, nhưng do tinh thần kiên quyết của nhân dân ta, nên đến
ngày 10-10-1954 tên lính Pháp cuối cùng đã rút khỏi Hà Nội và ngày 16-5-1955,
toàn bộ quân đội viễn chinh Pháp đã phải rút khỏi miền Bắc. Ta đã tiếp quản toàn
bộ những khu vực quân Pháp rút đi đúng thời hạn. Tình hình chính trò-xã hội trên
miền Bắc đã nhanh chóng được ổn đònh, tạo tiền đề đưa miền Bắc từng bước quá độ
lên chủ nghóa xã hội.
Miền Bắc nước ta đã được giải phóng, nhưng sự nghiệp thống nhất đất nước chưa
thực hiện được.
Lợi dụng sự thất bại của đế quốc Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy vào miền Nam gạt
Pháp để thay chân, thực hiện âm mưu biến miền Nam thành thuộc đòa kiểu mới và
căn cứ quân sự của Mỹ.
Thực hiện âm mưu trên, trước khi Hiệp đònh Giơ-ne-vơ được ký kết, ngày 7-7-1954,
Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về Sài Gòn làm Thủ tướng Chính phủ bù nhìn thay Bửu
Lộc. Ngày 17-7-1955, theo chỉ đạo của Mỹ, Diệm tuyên bố không hiệp thương tổng
tuyển cử thống nhất đất nước.
Ngày 23-10-1955, Chính phủ bù nhìn đã tổ chức cái gọi là “trưng cầu dân ý” để phế
truất Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống.
Đứng trước thảm họa đất nước bò chia cắt lâu dài. Tình hình đó đặt ra cho Đảng ta


phải vạch ra một đường lối chiến lược đúng đắn để đưa cuộc cách mạng cả nước ta
tiến lên phù hợp với tình hình mới của đất nước và phù hợp với xu thế phát triển
chung của thời đại.
Qua nhiều hội nghò của Trung ương Đảng và Bộ Chính trò, đường lối chiến lược của
giai đoạn cách mạng mới chung cho cả nước từng bước được hoàn thành và đến Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9 năm 1960) được nhất trí thông qua.
Download tài liệu này tại :

1
Phân tích đặc điểm tình hình cách mạng nước ta từ sau khi cuộc kháng chiến chống
Pháp kết thúc. Đảng ta nhận đònh như sau:
Miền Bắc nước ta sau ngày được hoàn toàn giải phóng và thực hiện xong cải cách
ruộng đất đã cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và đang
chuyển sang đònh hướng xã hội chủ nghóa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Còn ở miền
Nam, đế quốc Mỹ đã hất cẳng thực dân Pháp, dựng lên một chính quyền tay sai độc
tài, hiếu chiến, biến miền Nam thành thuộc đòa kiểu mới và căn cứ quân sự làm bàn
đạp tấn công miền Bắc. Sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta bò phá hoại,
đất nước đứng trước thực trạng bò chia cắt lâu dài.
Từ đó, đặc điểm tình hình đất nước ta từ cuối 1954 trở đi bò chia cắt làm hai miền,
mỗi miền với chế độ chính trò-xã hội khác nhau và đối lập nhau.
2. Nội dung đường lối chiến lược cách mạng nước ta trong giai đoạn mới
Với đặc điểm cơ bản nêu trên, Đảng ta xác đònh cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn này có hai chiến lược cách mạng khác nhau:
- Cách mạng xã hội chủ nghóa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững
mạnh của cách mạng cả nước.
- Cách mạng dân tộc-dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm giải phóng miền Nam
khỏi ách thống trò của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện hòa bình, thống nhất nước
nhà, hoàn thành độc lập dân tộc và dân chủ trong cả nước.
Trong hai chiến lược cách mạng khác nhau đó, mỗi chiến lược có vò trí quan trọng
quyết đònh của nó và nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể riêng của từng miền.

Cuộc cách mạng xã hội chủ nghóa ở miền Bắc giữ vai trò quyết đònh nhất đối với sự
phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự sự nghiệp thống nhất nước
nhà.
Cuộc cách mạng dân tộc-dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ một vò trí rất quan
trọng. Nó có tác dụng “quyết đònh trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam
khỏi ách thống trò của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất
nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc-dân chủ nhân dân trong cả
nước”
1
Hai chiến lược cách mạng khác nhau tiến hành đồng thời ở hai miền có mối
liên hệ gắn bó mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau cùng phát triển và đều hướng
vào mục tiêu chung trước mắt của cả nước là thực hiện hòa bình thống nhất nước
nhà.
Đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà là nhiệm vụ thiêng liêng của nhân dân cả
nước ta. Đó là một quá trình đấu tranh gian khổ, phức tạp và lâu dài nhằm chống đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam.

1
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội III, tập I, Nxb. Chính trò Quốc gia, Hà Nội, tr.34.
Download tài liệu này tại :

2
Thực tiễn lòch sử nước ta chứng minh rằng đường lối trên đây đã phản ánh đúng quy
luật vận động cách mạng ở nước ta trong giai đoạn 1954-1975, đồng thời phù hợp
với xu thế phát triển chung của thời đại. Vì vậy cách mạng nước ta đã phát huy được
sức mạnh tổng hợp của cả nước và của thời đại để chiến thắng đế quốc Mỹ xâm
lược, giải phóng miền Nam và thống nhất Tổ quốc.
II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO CUỘC CÁCH MẠNG VÀ CHIẾN TRANH CÁCH
MẠNG Ở MIỀN NAM
1. Thời kỳ 1954-1960: Từ thế giữ gìn lực lượng chuyển dần sang thế tiến công, đánh

bại chiến tranh đơn phương của đế quốc Mỹ.
Sau khi hất cẳng Pháp, trực tiếp can thiệp vào miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ đã
biến miền Nam thành thuộc đòa kiểu mới, lập phòng tuyến để ngăn chặn ảnh hưởng
của chủ nghóa xã hội xuống Đông Nam Á, thiết lập căn cứ quân sự để tiến công
miền Bắc xã hội chủ nghóa.
Để thực hiện mục tiêu đó, đế quốc Mỹ đã nhanh chóng xây dựng bộ máy ngụy
quyền đứng đầu là Ngô Đình Diệm, xây dựng lực lượng ngụy quân gần nửa triệu
người cùng hàng vạn cảnh sát, mật vụ được trang bò, vũ khí phương tiện chiến tranh
hiện đại của Mỹ.
Bộ máy ngụy quyền, ngụy quân đã làm công cụ tay sai đắc lực của Mỹ trong việc
thi hành chính sách thực dân mới vừa dụ dỗ, lừa bòp, vừa đàn áp, khủng bố với nhiều
thủ đoạn thâm độc, dã man. Chúng tự mạo danh là “cách mạng quốc gia”, nêu chiêu
bài “đả thực”, “bài phong” để che đậy bộ mặt buôn dân, bán nước. Chúng ráo riết
thi hành quốc sách “tố cộng”, “diệt cộng”, lập “khu trù mật” nhằm mục đích bắt bớ,
trả thù tất cả những người yêu nước kháng chiến cũ; thẳng tay đàn áp phong trào
đấu tranh đòi hiệp thương với miền Bắc, gây nên các cuộc tàn sát đẫm máu ở miền
Nam.
Về phía lực lượng cách mạng, sau khi chuyển quân tập kết ra miền Bắc theo Hiệp
đònh Giơ-ne-vơ, tương quan lực lượng giữa ta và đòch ở miền Nam có sự thay đổi
lớn: ta tuy có ưu thế về chính trò và lực lượng quần chúng nhân dân đông đảo nhưng
không còn lực lượng vũ trang, không còn chính quyền. Trong khi đó, kẻ thù có đủ
sức mạnh về kinh tế và quân sự, nắm trong tay cả bộ máy ngụy quân, ngụy quyền
đồ sộ. Chúng thẳng tay đàn áp, tiêu diệt phong trào cách mạng, gây cho ta nhiều tổn
thất nặng nề.
Những năm 1954-1956, xuất phát từ so sánh lực lượng giữa ta và đòch không có lợi
cho ta, và từ mục tiêu trước mắt của cả nước là đấu tranh đòi thi hành Hiệp đònh
Giơ-ne-vơ, Đảng chủ trương thực hiện ở miền Nam thế giữ gìn lực lượng bằng cách
sử dụng các hình thức đấu tranh thích hợp nhằm hạn chế tổn thất và duy trì cho được
phong trào cách mạng.
Download tài liệu này tại :


3
Thực hiện chủ trương chuyển hướng của Đảng, hàng trăm tổ chức quần chúng công
khai, trong đó có các ủy ban đấu tranh đòi hòa bình được thành lập ở miền Nam.
Phong trào đấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử, chống bầu cử lừa bòp, chống
cướp đất, dồn dân, chống khủng bố, chống bắt lính v.v… được phát triển mạnh mẽ ở
cả nông thôn và đô thò.
Để giữ gìn lực lượng và duy trì hoạt động trong điều kiện kẻ thù khủng bố dã man,
các đảng bộ ở miền Nam đã sắp xếp lại tổ chức và rút vào hoạt động bí mật.
Trước tình hình đó, Đảng ta nhận đònh rằng: chính sách phát xít hóa của Mỹ-Diệm
một mặt gây khó khăn to lớn cho cách mạng miền Nam, song mặt khác, đó là thể
hiện thế yếu của kẻ thù. Chính sách đó, khoét sâu thêm mâu thuẫn giữa Mỹ-Diệm
với nhân dân miền Nam: “Tức nước ắt sẽ vỡ bờ”, nhân dân miền Nam nhất đònh sẽ
vùng lên đánh đổ chúng. Nhiều nơi quần chúng lấy vũ khí chôn giấu từ năm 1954,
cướp súng đòch, dùng vũ khí tự tạo để tự vệ, chống lại khủng bố, tiêu diệt những tên
phản động, ác ôn.
Tháng 10-1957, tại chiến khu D, đại đội 250 – đơn vò vũ trang đầu tiên được thành
lập. Đến cuối năm 1957, ở Nam bộ có 37 đại độ vũ trang, ở Liên khu V nhiều đội vũ
trang cũng được thành lập. Sự xuất hiện lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang hỗ
trợ phối hợp với đấu tranh chính trò đã tạo nên sức mạnh mới trong cuộc chiến đấu
một mất một còn của nhân dân miền Nam chống Mỹ-Diệm.
Tháng 1 năm 1959, Hội nghò lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa
II) đã thông qua Nghò quyết về đường lối cách mạng miền Nam. Tư tưởng chỉ đạo
cực kỳ quan trọng của Nghò quyết là nhân dân miền Nam phải dùng con đường cách
mạng bạo lực để tự giải phóng mình, ngoài ra, không còn con đường nào khác.
Phương hướng phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là chuẩn bò để tiến lên
khởi nghóa giành chính quyền. Phương thức khởi nghóa được dự kiến là “dựa vào lực
lượng chính trò của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh
đổ chính quyền thống trò của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách
mạng của nhân dân”. Tiến lên khởi nghóa giành chính quyền trong một quá trình

cách mạng lâu dài, gian khổ kết hợp nhiều hình thức đấu tranh từ thấp lên cao,
chuẩn bò súc tích lực lượng, khi có thời cơ đến sẽ phát động toàn dân nổi dậy giành
chính quyền. Nghò quyết còn dự kiến thêm rằng, cuộc khởi nghóa có thể chuyển
thành đấu tranh vũ trang lâu dài, nhưng cuối cùng thắng lợi nhất đònh sẽ đến với
nhân dân ta.
Dưới ánh sáng của Hội nghò Trung ương lần thứ 15, từ năm 1959 đến 1960, cách
mạng miền Nam đã có sự phát triển nhảy vọt.
Cuối năm 1959, Nghò quyết Hội nghò lần thứ 15 của Trung ương Đảng mới đến được
các tỉnh ở Trung bộ và Nam bộ. Tuy nhiên có áp bức t
hì có đấu tranh, ngay từ những
tháng đầu năm 1959 đã có những cuộc nổi dậy, một số thôn ấp thuộc các huyện Bác
Download tài liệu này tại :

4
Ái, Vónh Thạnh, An Khê, Hoài Nhơn (thuộc Liên Khu V) đã phá vỡ ách kìm kẹp của
đòch, tổ chức chống càn quét. Tháng 8 năm 1959, đồng bào các dân tộc ở huyện Trà
Bồng (miền Tây Quảng Ngãi) được sự lãnh đạo của Đảng bộ đòa phương đã nổi dậy
khởi nghóa, quét sạch bộ máy ngụy quyền ở hầu hết các xã trong huyện.
Cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng ở miền Nam đã tiếp thu nghò quyết
của Trung ương một cách phấn khởi, nhạy bén và đầy sáng tạo. Ở Nam bộ, cuộc
khởi nghóa bắt đầu ở Mỏ Cày, vào đêm 17 tháng 1 năm 1960, sau đó lan đến các
huyện, các xã trong tỉnh Bến Tre, rồi nhanh chóng mở rộng ra các tỉnh ở đồng bằng
sông Cửu Long, Tây Nguyên và một số nơi thuộc các tỉnh Trung Trung bộ. Hệ thống
chính quyền của đòch ở xã, ấp bò tan vỡ từng mảng lớn.
Như vậy, bước sang năm 1960 khi được Nghò quyết Hội nghò Trung ương lần 15 soi
sáng, các cuộc khởi nghóa đã phát triển thành một cao trào “đồng khởi” trong toàn
miền Nam Việt Nam. Vùng giải phóng được ra đời trên phạm vi rộng lớn nối liền từ
Tây Nguyên đến miền Đông, miền Tây Nam bộ và đồng bằng Liên khu V. Từ thắng
lợi của cao trào “đồng khởi”, ngày 20 tháng 12 năm 1960, Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam ra đời.

Thắng lợi của phong trào “đồng khởi” của quần chúng miền Nam là bước nhảy vọt
có ý nghóa lòch sử của cách mạng miền Nam, đồng thời cũng là cột mốc đánh dấu sự
thất bại đầu tiên và có ý nghóa chiến lược đối với chính sách xâm lược thực dân mới
của Mỹ.
2. Thời kỳ 1961-1965 : Đảng lãnh đạo nhân dân ta đánh bại chiến lược “chiến tranh
đặc biệt” của đế quốc Mỹ.
Do thất bại nặng nề trong chiến tranh “đơn phương”, đế quốc Mỹ phải đối phó bằng
cách chuyển sang chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam. Chiến lược “chiến
tranh đặc biệt” là một trong ba loại chiến tranh xâm lược trong chiến lược “phản
ứng linh hoạt” của Tổng thống Ken-nơ-đi. Trong chiến lược chiến tranh này, Mỹ đã
tăng cường lực lượng ngụy quân và khả năng cơ động của chúng với các phương tiện
chiến tranh hiện đại do Mỹ trực tiếp chỉ huy trong các cuộc hành quân nhằm đẩy
mạnh quốc sách “ấp chiến lược” nhằm dồn dân, tách lực lượng cách mạng ra khỏi
nhân dân để bình đònh miền Nam. Với những thủ đoạn trên, Mỹ-Diệm hy vọng sẽ
nhanh chóng làm thay đổi tương quan lực lượng để dễ bề tiêu diệt cách mạng miền
Nam.
Đánh giá tình hình và phân tích một cách khoa học so sánh lực lượng giữa ta và đòch
ở miền Nam từ sau ngày “đồng khởi”, Bộ Chính trò của Đảng ta trong những cuộc
họp tháng 1 năm 1961 và tháng 2 năm 1962 đã đề ra chủ trương chỉ đạo chính xác
là: tiếp tục giữ vững tư tưởng chiến lược tiến công, đưa đấu tranh vũ trang phát triển
lên song song với đấu tranh chính trò, tiến công đòch trên cả ba vùng chiến lược: đô
thò, nông thôn đồng bằng và nông thôn rừng núi, thực hiện phương châm đánh đòch
Download tài liệu này tại :

5
bằng ba mũi giáp công, tức là tiến công phối hợp bằng ba mặt: quân sự, chính trò và
binh vận.
Để tăng cường sự chỉ đạo của Trung ương Đảng đối với cách mạng miền Nam,
Trung ương Cục miền Nam đã được thành lập vào tháng 1-1961. Đồng chí Nguyễn
Văn Linh được cử làm Bí thư Trung ương Cục. Đảng bộ miền Nam được kiện toàn

về tổ chức, tập trung từ Trung ương đến các chi bộ cơ sở. Ngày 15 tháng 2 năm
1961, các lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam được thống nhất với tên gọi
Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.
Cách mạng miền Nam đã có bước phát triển mới. Trên mặt trận quân sự ta đã thu
được nhiều thắng lợi quan trọng. Trong ba năm 1961-1963, ta đã đánh hơn 50 trận
lớn nhỏ với những chiến thắng vang dội như Ấp Bắc (Mỹ Tho), Cái Nước-Đầm Dơi
(Cà Mau). Phong trào đấu tranh phá “ấp chiến lược”phát triển mạnh mẽ. Nửa triệu
quân ngụy dưới sự chỉ huy trực tiếp của 2,5 vạn cố vấn Mỹ đã tỏ ra bất lực, không
đủ sức làm công cụ chủ yếu của “chiến tranh đặc biệt”. Hệ thống “ấp chiến lược”,
lập ra đã bò tan rã về cơ bản. Cuộc khủng hoảng trong bộ máy ngụy quân, ngụy
quyền ngày càng trầm trọng. Ngày 1 tháng 11 năm 1963, dưới sự chỉ đạo của quan
thầy Mỹ, lực lượng quân đảo chính đã giết chết anh em Diệm-Nhu. Từ tháng 11
năm 1963 đến tháng 6 năm 1965 đã diễn ra 10 cuộc đảo chính quân sự nhầm lật đổ
lẫn nhau trong nội bộ ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn.
Tháng 9 năm 1964, Bộ Chính trò họp và chủ trương giành thắng lợi quyết đònh ở
miền Nam trong một vài năm tới. Bộ Chính trò cử Đại tướng Nguyễn Chí Thanh –
Ủy viên Bộ Chính trò vào miền Nam trực tiếp lãnh đạo phong trào, chỉ đạo cuộc
kháng chiến.
Được sự chi viện to lớn của miền Bắc thông qua tuyến đường Trường Sơn trên đất
liền và trên biển, quân và dân miền Nam đã mở nhiều chiến dòch với nhiều trận
đánh lớn nhỏ ở các chiến trường, như ở An Lão, Đèo Nhông, Dương Liễu, Việt An,
Ba Gia (Khu V và khu vực Tây Nguyên, Trò Thiên), Bình Giã (12-1964), Đồng Xoài
(6-1965).
Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ được triển khai đến mức cao nhất đã hoàn
toàn bò phá sản.
Đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ là một thắng lợi to lớn
nữa có ý nghóa chiến lược của quân và dân ta ở miền Nam. Thắng lợi này tạo cơ sở
vững chắc để đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên.
3. Thời kỳ 1965-1968: Phát động toàn dân chống Mỹ cứu nước, đánh bại chiến lược
“chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ ở miền Nam.

Bò thất bại trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ vội vã đổ quân viễn
chinh ồ ạt vào miền Nam với quy mô ngày càng lớn để tiến hành “chiến tranh cục
bộ”, nhằm cứu cho ngụy quân-ngụy quyền Sài Gòn đang trên đà sụp đổ. Đồng thời,
Download tài liệu này tại :

6
đế quốc Mỹ còn liều lónh gây chiến tranh phá hoại bằng lực lượng không quân và
hải quân ở miền Bắc nhằm ngăn chặn sự chi viện to lớn của miền Bắc đối với miền
Nam, phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghóa xã hội ở miền Bắc và hòng làm lung
lay quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam, từ đó buộc ta phải kết
thúc chiến tranh theo điều kiện do Mỹ đưa ra.
Để chống lại cuộc “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, Ban chấp hành Trung ương Đảng
đã họp các Hội nghò lần thứ 11 (3-1965) và lần thứ 12 (12-1965) để đánh giá tình
hình mới, và đề ra nhiệm vụ để lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn
kết, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền
Bắc, thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà.
Trên cơ sở phân tích tình hình trong nước và tình hình quốc tế, so sánh tương quan
lực lượng giữa ta và đòch cả thế và lực, Trung ương Đảng nhận đònh: mặc dầu đế
quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, nhưng so sánh lực
lượng giữa ta và đòch vẫn không thay đổi lớn, cuộc chiến tranh trở nên gay gắt, ác
liệt, nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững thế chủ động trên chiến
trường; cuộc “chiến tranh cục bộ” mà Mỹ đang tiến hành ở miền Nam vẫn là cuộc
chiến tranh xâm lược thực dân mới. Cuộc chiến tranh đó được đề ra trong thế thua,
thế thất bại và bò động, vì thế nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược; đế quốc
Mỹ không thể nào cứu vãn được tình thế nguy khốn, bế tắc của chúng ở miền Nam.
Từ sự phân tích và nhận đònh trên, Trung ương Đảng chỉ rõ: chống Mỹ, cứu nước là
nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam chí Bắc. Kiên quyết đánh bại cuộc
chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, nhằm bảo vệ
miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.

Phương châm chiến lược chung trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là: đánh
lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh, cần phải cố gắng đến
mức cao, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở những đợt tiến công lớn, tranh
thủ thời cơ giành thắng lợi, quyết đònh trong thời gian tương đối ngắn trên chiến
trường miền Nam.
Phương châm đấu tranh vẫn là tiếp tục kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh
chính trò, triệt để thực hiện ba mũi giáp công.
Đối với miền Bắc, Đảng chủ trương phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghóa xã hội, đồng thời tích cực chuẩn bò
đề phòng để đánh bại đòch trong trường hợp chúng liều lónh mở rộng chiến tranh cục
bộ trong cả nước, cần thực hiện chuyển hướng kinh tế, đảm bảo tiếp tục xây dựng
miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh phá
hoại, động viên sức người, sức
của ở mức cao nhất để chi viện đắc lực cho cách
mạng miền Nam.
Download tài liệu này tại :

7
Về mối quan hệ và nhiệm vụ cách mạng của hai miền Nam-Bắc, Trung ương Đảng
chỉ rõ: Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền
tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Phải nắm vững mối quan hệ giữa nhiệm vụ
bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam.
Dưới ánh sáng của đường lối chống Mỹ, cứu nước của Đảng ta tại chiến trường miền
Nam, được sự chi viện to lớn của miền Bắc, quân và dân ta đã liên tiếp bẻ gãy các
cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình đònh” của Mỹ-ngụy. Những trận đọ sức trực tiếp
đầu tiên, với quân viễn chinh Mỹ ở Núi Thành (Quảng Nam), tháng 5 năm 1965,
Vạn Tường (Quảng Ngãi) tháng 8 năm 1965 đã giành được thắng lợi vang dội, tạo
thêm niềm tin của quân và dân ta về khả năng có thể đánh Mỹ và thắng Mỹ trong
cuộc chiến tranh cục bộ của chúng.
Mọi cố gắng điên cuồng của đế quốc Mỹ trong cuộc phản công, chiến lược mùa khô

thứ nhất (1965-1966) và thứ hai (1966-1967) đều đã lần lượt bò thất bại. Mặc dù số
quân Mỹ và ngụy ngày càng tăng, chúng vẫn không sao xoay chuyển được cục diện
chiến tranh.
Cuộc phản công chiến lược mùa khô thứ hai, số quân Mỹ tăng lên 38 vạn so với 20
vạn ở mùa khô trước, cùng với 5 vạn quân chư hầu và 54 vạn quân ngụy. Thế
nhưng, tất cả các cuộc hành quân quy mô lớn của đế quốc Mỹ đều bò quân và dân
miền Nam bẻ gãy. Từ chiến lược phản công chúng phải chuyển sang chiến lược
phòng ngự, cố thủ trong suốt mùa mưa 1967 để đề phòng các trận đánh lớn của quân
ta.
Vào cuối năm 1967, cuộc chiến tranh cục bộ của Mỹ đã được đẩy đến đỉnh cao, số
quân viễn chinh đổ vào miền Nam đã lên 48 vạn, thế nhưng Mỹ vẫn không sao thực
hiện được những mục tiêu chính trò và quân sự đã đề ra.
Bộ Chính trò của Đảng trong cuộc họp tháng 12-1967 nhận đònh rằng những thất bại
và khó khăn của đòch cùng với những thắng lợi to lớn của ta vừa giành được cả về
quân sự lẫn chính trò, về chiến thuật lẫn chiến lược và sự phát triển vững mạnh cả
về thế và lực của ta đã mở ra cho cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam những
triển vọng to lớn. Từ đó, Bộ Chính trò trong Hội nghò tháng 12 năm 1967 đã ra một
Nghò quyết lòch sử, chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang thời kỳ mới,
thời kỳ tiến lên giành thắng lợi quyết đònh bằng phương pháp tổng công kích, tổng
khởi nghóa. Yêu cầu trước mắt của tổng công kích và tổng khởi nghóa là giáng cho
đòch những đòn tiến công quyết đònh, làm thay đổi cục diện chiến tranh, làm lung
lay hơn nữa ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải thay đổi chiến lược,
phải xuống thang chiến tranh. Nghò quyết đó của Bộ Chính trò đã được Hội nghò toàn
thể lần thứ 14 của Trung ương Đảng thông qua tháng Giêng năm 1968.
Thực hiện chủ trương trên của Đảng, đêm 30 rạng ngày 31 tháng 1 năm 1968, vào
dòp tết Mậu Thân, thừa lúc đòch sơ hở và hoàn toàn bất ngờ, các lực lượng vũ trang
Download tài liệu này tại :

8
và nhân dân miền Nam cùng lúc tấn công và nổi dậy ở Sài Gòn và 64 căn cứ của

đòch ở các thành phố, thò xã, thò trấn, huyện lỵ, chi khu quân sự, sân bay, bến cảng,
kho tàng, khu hậu cần của đòch, cùng nhiều vùng nông thôn rộng lớn. Tại Sài Gòn –
Chợ Lớn, trung tâm chính trò của đòch, quân ta đã tiến công vào sứ quán Mỹ, dinh
tổng thống ngụy, sân bay Tân Sơn Nhất, giành quyền làm chủ ở nhiều khu phố. Tại
Huế, quân và dân ta đã làm chủ suốt 25 ngày đêm…
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt tết Mậu Thân (1968) ta đã giáng cho đòch
một đòn bất ngờ, làm cho chúng hoang mang, dao động mạnh. Mặc dù lúc này Mỹ
đã có 50 vạn quân viễn chinh và hơn 70 vạn quân ngụy và quân chư hầu. Thất bại
đó làm cho ý chí xâm lược của Mỹ bò lung lay mạnh. Thế chiến lược của Mỹ đã bò
đảo lộn, buộc chúng phải thay đổi chiến lược quân sự ở miền Nam. Mỹ đã phải chòu
xuống thang chiến tranh, chấm dứt không điều kiện cuộc chiến tranh phá hoại ở
miền Bắc. Đầu năm 1969, Mỹ phải chấp nhận cuộc đàm phán với Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, có sự tham gia của đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam (sau đổi là đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam).
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân (1968) có ý nghóa chiến lược to lớn
trong tiến trình phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta. Tuy
nhiên, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo chúng ta đã phạm sai lầm chủ quan trong
việc đánh giá tình hình, đã đề ra yêu cầu chưa sát với thực tế. Đặc biệt là sau đợt
tấn công trong Tết Mậu Thân, ta đã không kiểm điểm, rút kinh nghiệm kòp thời, chủ
trương tiếp tục mở các đợt tiến công vào đô thò – khi không còn điều kiện và yếu tố
bất ngờ “là sai lầm về chỉ đạo chiến lược, để đòch gây cho ta nhiều khó khăn, tổn
thất”
2

4. Thơi kỳ 1969-1975: Đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc
Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam Việt Nam, vào đầu
năm 1969, Tổng thống Mỹ Níchxơn đã đề ra chiến lược toàn cầu mới mang tên
“Học thuyết Níchxơn” với chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Đây là một

chính sách rất thâm độc của Mỹ nhằm “dùng người Việt Nam đánh người Việt
Nam” để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới ở miền Nam.
Thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, từ năm 1969, đế quốc Mỹ một
mặt buộc phải rút quân ra khỏi miền Nam để sắp xếp lại lực lượng cho phù hợp với
yêu cầu điều chỉnh của “học thuyết Níchxơn” trên phạm vi thế giới. Mặt khác,
chúng rất ngoan cố không chòu rút hết quân ngay, mà rút nhỏ giọt, tận dụng số quân

2
Bộ chính trò Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam , Kết luận về Tổng kết cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước (ngày 25/5/1994)
Download tài liệu này tại :

9
Mỹ còn lại rất lớn trên chiến trường cùng với quân ngụy được gấp rút tăng lên hơn
một triệu, để tiếp tục kéo dài cuộc chiến tranh ở miền Nam: chúng còn tăng cường
mở rộng chiến tranh sang Lào và Căm Pu Chia, mở rộng “Việt Nam hóa chiến
tranh” thành “Đông Dương hóa chiến tranh”.
Sự phản kích ác liệt của đòch trong các chiến dòch bình đònh cấp tốc, xây dựng lại cơ
sở hạ tầng của chủ nghóa thực dân mới ở nông thôn đã gây cho ta nhiều khó khăn
tổn thất trong hai năm 1969-1970.
Tháng 1 năm 1970 Trung ương Đảng họp hội nghò toàn thể lần thứ XVIII để đònh ra
những chủ trương mới nhằm chống lại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của
đế quốc Mỹ.
Thực hiện chủ trương chỉ đạo của Trung ương Đảng, trong những năm 1970-1971,
cách mạng miền Nam đã vượt qua khó khăn gian khổ, kiên trì xây dựng và phát
triển lực lượng tiến công đòch trên cả ba vùng chiến lược, đánh bại từng bước chiến
lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh”.
Tháng 3 năm 1970 quân và dân ta đã phối hợp với quân dân Căm Pu Chia đánh bại
cuộc hành quân quy mô lớn trên 10 vạn quân ngụy do Mỹ chỉ huy đánh sang Căm
Pu Chia nhằm cứu nguy cho Chính phủ Lon-non vừa mới được Mỹ dựng lên sau khi

đã làm cuộc đảo chính lật đổ chế độ Xi-ha-nuc. Đồng thời chúng còn thực hiện ý đồ
khóa cửa biên giới Tây Nam, để bóp nghẹt cuộc kháng chiến của nhân dân ta ở
miền Nam.
Trong thời gian ngắn, các lực lượng vũ trang của ta đã phối hợp với quân và dân
nước bạn kòp thời phản công đòch, đánh bại cuộc hành quân của chúng, giải phóng
được vùng Đông-Bắc Căm Pu Chia, buộc Mỹ phải tuyên bố rút quân khỏi Căm Pu
Chia (6-1970).
Ở miền Nam Việt Nam, chấp hành chỉ thò của Bộ Chính trò, nhân lúc Mỹ-ngụy đưa
quân vượt biên giới sang Căm Pu Chia, các hoạt động tác chiến của ta nhằm tiêu
diệt đòch và đánh phá kế hoạch “bình đònh” của chúng có nhiều thuận lợi, thu được
kết quả quan trọng.
Năm 1971, quân dân ta phối hợp với quân và dân Lào chủ động đánh bại cuộc hành
quân quy mô lớn “Lam Sơn 719” của Mỹ-ngụy đánh vào đường 9-Nam Lào nhằm
chặt đứt đường mòn Hồ Chí Minh, chặn đứng con đường tiếp tế quan trọng của miền
Bắc đối với miền Nam và phong trào kháng chiến Căm Pu Chia. Cũng vào thời gian
này, quân và dân ta cùng với quân dân Căm Pu Chia đập tan cuộc hành quân “Toàn
thắng 1-1971” của Mỹ-ngụy đánh vào hậu cứ kháng chiến tại đông-bắc Căm Pu
Chia.
Những thắng lợi quân sự nói trên, cùng với những thắng lợi của nhân dân miền Nam
trong việc đánh phá kế hoạch “bình đònh” của đòch đã mở ra khả năng thực tế đánh
bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ. Quân ngụy Sài Gòn,
Download tài liệu này tại :

10
cái “xương sống” của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đã bò suy yếu nghiêm
trọng.
Bước vào năm 1972, nhằm giành thắng lợi quyết đònh trong năm bầu cử Tổng thống
Mỹ, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng ở thế thua, quân ta đã
mở cuộc tiến công chiến lược với quy mô lớn vào cuối tháng 3 năm 1972. Chỉ trong
thời gian ngắn, quân dân ta đã phá vỡ ba tuyến phòng ngự mạnh nhất của đòch tại

các đòa bàn xung yếu Quảng Trò, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, tiêu diệt được
nhiều sinh lực đòch, tạo điều kiện cho nhân dân nổi dậy giành chính quyền làm chủ.
Trước tình hình đó, đế quốc Mỹ, đã điên cuồng đối phó bằng cách vội vã “Mỹ hóa”
trở lại cuộc chiến tranh ở miền Nam, đánh phá trở lại miền Bắc lần thứ hai bằng
những thủ đoạn chiến tranh có tính chất hủy diệt, tàn bạo; Song, chúng lại bò thất
bại, không sao cứu vãn nỗi tình thế. Chỉ trong vòng 5 tháng tiến công đòch (từ cuối
tháng 3 năm 1972 đến tháng 8 năm 1972) ta đã tiêu diệt 28 vạn quân đòch, tiêu diệt
và làm thiệt hại nặng 7 trong số 13 sư đoàn chủ lực của đòch. Được sự hỗ trợ của lực
lượng vũ trang, đồng bào miền Nam đã nổi dậy phá vỡ ách kềm kẹp của đòch trên
nhiều đòa bàn rộng lớn ở nông thôn, làm cho kế hoạch “bình đònh” của Mỹ-ngụy bò
thất bại nặng nề.
Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 đã giành được thắng lợi to lớn và toàn diện.
Cùng với chiến thắng oanh liệt của quân và dân miền Bắc đã đập tan cuộc tập kích
chiến lược bằng pháo đài bay B52 của Mỹ trong 12 ngày đêm (từ 18 đến 30-12-
1972), nhân dân ta đã làm cho chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc
Mỹ bò thất bại nặng nề. Đầu năm 1973, Mỹ buộc phải chấm dứt vô điều kiện ném
bom miền Bắc lần thứ hai và phải ký Hiệp đònh Pa-ri ngày 27 tháng 1 năm 1973 về
“chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”.
Việc ký kết Hiệp đònh Pa-ri đánh dấu thắng lợi có ý nghóa quyết đònh của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Nhân dân ta đã đè bẹp được ý
chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải rút hết quân đội viễn chinh và chư hầu
ra khỏi miền Nam nước ta. Tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân ta tiến lên “đánh
cho ngụy nhào” giải phóng hoàn toàn miền Nam và thống nhất Tổ quốc.
Mặc dù đã bò thất bại nặng nề, phải ký Hiệp đònh Pa-ri, nhưng đế quốc Mỹ vẫn
ngoan cố, không chòu từ bỏ dã tâm xâm lược Việt Nam, tiếp tục tiến hành chiến
tranh để áp đặt chủ nghóa thực dân mới và chia cắt lâu dài đất nước ta.
Một trong những mục tiêu chiến tranh mà Mỹ-ngụy đề ra trong kế hoạch 3 năm
(1973-1976) là chiếm lại toàn bộ vùng giải phóng của ta, xóa bỏ hình thái “da báo”
ở miền Nam, nhằm biến miền Nam thành một quốc gia riêng biệt, lệ thuộc vào Mỹ.
Ngay sau khi Hiệp đònh Pa-ri được ký kết, dưới sự chỉ huy của Mỹ, chính quyền tay

sai Nguyễn Văn Thiệu đã ngang ngược phá hoại Hiệp đònh, liên tiếp mở các cuộc
hành quân lấn chiếm vùng giải phóng của ta. Chỉ riêng năm 1973, chúng đã tiến
Download tài liệu này tại :

11
hành hàng ngàn cuộc hành quân quy mô lớn và đã chiếm lại hầu hết các vùng giải
phóng mới của ta, trong đó có cảng Cửa Việt (Quảng Trò) bò chiếm ngay đêm 27-1-
1973. Chúng gấp rút xây dựng thêm lực lượng ngụy quân, kể cả không quân và hải
quân, để có đủ sức thay quân viễn chinh Mỹ phải rút lui hết, cố giành lại quyền chủ
động trên chiến trường. Hiệp đònh Pa-ri vừa ký chưa ráo mực đã bò phá. Quân dân ta
phải đương đầu với nhiều khó khăn mới.
Trước tình hình nghiêm trọng nói trên, tháng 7-1973, Hội nghò lần thứ 21 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (Khóa III) đã chỉ rõ con đường cách mạng của nhân dân
miền Nam là con đường bạo lực cách mạng và nhấn mạnh: bất kể trong tình huống
nào cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công. Nhiệm vụ
giành dân, giành quyền làm chủ, phát triển thực lực của cách mạng là yêu cầu vừa
bức thiết vừa cơ bản trong giai đoạn mới. Tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng là
tích cực phản công, chuẩn bò tiến lên hoàn toàn giải phóng miền Nam thống nhất Tổ
quốc.
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo trên, trong hai năm đấu tranh kể từ sau ngày ký Hiệp
đònh Pa-ri, quân và dân ta ở miền Nam đã liên tiếp giành được những thắng lợi to
lớn trên khắp các chiến trường, từ Trò Thiên đến Tây Nguyên Nam bộ và vùng ven
Sài Gòn, phá vỡ từng mảng lớn kế hoạch “bình đònh” của đòch, tiêu diệt nhiều cụm
cứ điểm, chi khu, quân lỵ của đòch ở Thượng Đức, Minh Long, Chư Nghé, Đắc-Pét.
Đầu năm 1975, quân ta đánh chiếm thò xã Phước Long (6-1-1975) giải phóng toàn
tỉnh Phước Long.
Với những thắng lợi trên, đã tạo ra một cục diện mới về thế và lực giữa ta và đòch
trên chiến trường miền Nam, một thời cơ thuận lợi hơn bao giờ hết để quân dân ta
tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Hội nghò Bộ Chính trò tháng 1 năm 1975 đã nhận đònh “chưa bao giờ ta có điều kiện

đầy đủ về quân sự, chính trò, có thời cơ chiến lược to lớn như hiện nay để hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ
quốc”. Từ nhận đònh đó, Bộ Chính trò đề ra “quyết tâm chiến lược giải phóng miền
Nam với kế hoạch hai năm 1975-1976” mà tinh thần là: năm 1975 tranh thủ bất ngờ
tấn công lớn và rộng khắp, tạo điều kiện để đến năm 1976 tiến hành tổng công
kích-tổng khởi nghóa, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Ngoài kế hoạch nói trên, Bộ
Chính trò còn dự kiến một phương án khác là “nếu thời cơ đến, vào đầu hoặc cuối
năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975”.
Chấp hành quyết đònh trên, ngày 10 tháng 3 năm 1975, quân dân ta tiến công thò xã
Buôn Mê Thuột, tiến lên giải phóng Tây Nguyên và tiếp đó, ngày 26 tháng 3 năm
1975 giải phóng Huế và giải phóng Đà Nẵng vào ngày 29 tháng 3 năm 1975. Quân
ngụy đứng trước nguy cơ sụp đổ hoa
øn toàn, còn Mỹ thì tỏ ra bất lực, dù chúng có can
thiệp thế nào cũng không thể cứu nguy cho quân ngụy được.
Download tài liệu này tại :

12
Ngày 31 tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trò đã có nhận đònh cực kỳ quan trọng: “Từ
giờ phút này, trận quyết chiến cuối cùng của quân dân ta đã bắt đầu nhằm hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và thống nhất Tổ quốc” và
hạ quyết tâm giải phóng Sài Gòn trong tháng 4 năm 1975.
Chiến dòch Hồ Chí Minh lòch sử mở màn ngày 26 tháng 4 năm 1975 và kết thúc toàn
thắng vào ngày 30-4-1975. Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975,
quân dân ta đã tiêu diệt và làm tan rã hơn một triệu quân ngụy, xóa bỏ bộ máy
chính quyền tay sai của Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, đưa sự nghiệp chống
Mỹ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.
5. Ý nghóa, nguyên nhân thắng lợi và kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước
a) Ý nghóa lòch sử và nguyên nhân thắng lợi
Đánh giá thắng lợi lòch sử của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, Báo cáo Chính trò tại

Đại hội lần thứ IV của Đảng đã ghi rõ: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của
nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào
lòch sử dân tộc như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về
sự toàn thắng của chủ nghóa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lòch
sử thế giới như một chiến công vó đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng
quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”
3
Với thắng lợi này, nhân dân ta đã quét
sạch bọn đế quốc xâm lược, chấm dứt ách thống trò tàn bạo hơn một thế kỷ của chủ
nghóa thực dân cũ và mới trên đất nước ta. Tổ quốc ta đã hoàn toàn độc lập và thống
nhất. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành trên phạm vi cả
nước, mở đường cho cách mạng Việt Nam chuyển sang bước ngoặt lòch sử mới – cả
nước tiến lên theo đònh hướng xã hội chủ nghóa.
Bằng thắng lợi vó đại của mình, nhân dân ta đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược
quy mô lớn nhất, dài ngày nhất của chủ nghóa đế quốc kể từ sau chiến tranh thế giới
lần thứ hai, mở đầu sự sụp đổ không thể tránh khỏi của chủ nghóa thực dân mới, góp
phần tăng cường lực lượng của các nước xã hội chủ nghóa, phong trào độc lập dân
tộc, dân chủ và hòa bình thế giới.
Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam, người đại biểu trung thành cho những lợi ích sống còn
của dân tộc.
Thắng lợi đó là kết quả của cuộc chiến đầu đầy gian khổ hy sinh của nhân dân và
quân đội cả nước, đặc biệt là của cán bộ, chiến só và hàng chục triệu đồng bào yêu
nước ở miền Nam, xứng đáng với danh hiệu “thành đồng Tổ quốc”.

3
Báo cáo Chính trò Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam tại Đại hội toàn quốc lần thứ IV,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977, tr.5-6.
Download tài liệu này tại :


13
Thắng lợi đó cũng là kết quả của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghóa ở miền
Bắc, của đồng bào miền Bắc vừa chiến đấu vừa xây dựng, hoàn thành xuất sắc
nghóa vụ của hậu phương lớn và hết lòng hết sức chi viện cho tiền tuyến lớn miền
Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Thắng lợi đó là kết quả tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân Việt Nam, Lào, Căm
Pu Chia và kết quả của sự ủng hộ hết lòng và sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội
chủ nghóa anh em, sự ủng hộ nhiệt tình của phong trào công nhân và nhân dân tiến
bộ trên toàn thế giới cũng như của nhân dân Mỹ.
b) Những kinh nghiệm lòch sử
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kéo dài 21 năm đã để lại nhiều bài học kinh
nghiệm hết sức quý báu.
Một là, giương cao cùng một lúc ngọn cờ độc lập, dân tộc và chủ nghóa xã hội.
Với đường lối đó, Đảng ta đã động viên được đến mức cao nhất lực lượng hùng hậu
của nhân dân cả nước, kết hợp tiền tuyến lớn với hậu phương lớn, kết hợp sức mạnh
của nhân dân ta với sức mạnh ba dòng thác cách mạng của thời đại tạo nên sức
mạnh tổng hợp để chiến đấu và chiến thắng giặc Mỹ xâm lược.
Hai là, Đảng ta hết sức coi trọng việc xây dựng lực lượng cách mạng ở miền Nam,
đi đôi với việc tổ chức xây dựng lực lượng chiến đấu trong cả nước.
Lực lượng cách mạng đó là các đảng bộ miền Nam được tôi luyện thành các bộ
tham mưu dày dạn trên tiền tuyến lớn, là khối liên minh công-nông được Đảng dầy
công xây đắp trong suốt quá trình cách mạng dân tộc, dân chủ, là đội quân chính trò
quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân, hai lực lượng cơ bản hùng hậu trong
chiến tranh cách mạng, là Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cùng
với Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã động viên, tập
hợp ngày càng rộng rãi, đông đảo các tầng lớp nhân dân, không phân biệt giai cấp,
tôn giáo, dân tộc vào cuộc kháng chiến, cứu nước, đồng thời tranh thủ được sự ủng
hộ ngày càng to lớn của nhân dân và chính phủ nhiều nước yêu hòa bình và công lý
trên thế giới, đi đôi với việc tổ chức lực lượng chiến đấu trong cả nước.
Ba là, Đảng ta đã tìm ra được phương pháp đấu tranh cách mạng đúng đắn, sáng tạo.

Đó là, phương pháp sử dụng bạo lực cách mạng tổng hợp bao gồm: lực lượng chính
trò quần chúng kết hợp với lực lượng vũ trang nhân dân, bắt đầu khởi nghóa từng
phần ở nông thôn và từ khởi nghóa phát triển thành chiến tranh cách mạng; kết hợp
chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trò, và đến một giai đoạn nào đó thì
kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trò với đấu tranh ngoại giao, kết
hợp khởi nghóa của quần chúng với chiến tranh cách mạng, kết hợp nổi dậy với tiến
công, tiến công với nổi dậy; đánh đòch trên cả ba vùng: rừng núi, nông thôn đồng
bằng và đô thò, đánh đòch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trò và binh vận; kết
hợp ba thứ quân: bộ đội chủ l
ực, bộ đội đòa phương và dân quân du kích, kết hợp
Download tài liệu này tại :

14
chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh lớn, đánh vừa, đánh
nhỏ; thực hiện làm chủ để tiêu diệt đòch, tiêu diệt đòch để làm chủ; nắm vững
phương châm chiến lược đánh lâu dài, đồng thời biết tạo thời cơ và nắm vững thời
cơ mở những cuộc tiến công chiến lược làm thay đổi cục diện chiến tranh, tiến lên
thực hiện tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt, đè bẹp quân đòch giành thắng lợi cuối
cùng.
Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã kế thừa tài đánh giặc đầy
mưu lược của tổ tiên, đồng thời phát huy kinh nghiệm phong phú của cuộc cách
mạng tháng Tám và cuộc kháng chiến chống Pháp. Tất cả những hình thức, phương
pháp đấu tranh trên đây là một thể thống nhất, có quan hệ hữu cơ với nhau, tạo
thành chiến lược tổng hợp và nghệ thuật quân sự của chiến tranh cách mạng Việt
Nam.
Bốn là, sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn của Trung ương Đảng và công tác tổ chức
chiến đấu tài giỏi của Đảng qua các cấp bộ Đảng và các cấp chỉ huy quân đội.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng miền Nam và chiến tranh chống Mỹ cứu nước,
Trung ương Đảng luôn luôn theo dõi âm mưu đòch, đánh giá đúng so sánh lực lượng,
đề ra những chủ trương chỉ đạo chính xác, sắc bén, linh hoạt, kòp thời, nhằm đánh

bại từng bước âm mưu và hành động của đòch, tạo điều kiện để tiến lên giành thắng
lợi cuối cùng. Một trong những bài học về chỉ đạo chiến lược mà Đảng ta rút ra là
trên cơ sở phương hướng chiến lược đúng, hãy làm đi, rồi thực tế sẽ cho phép ta hiểu
rõ sự vật hơn nữa.
III. ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC
Trung thành với đường lối cách mạng đã vạch ra từ ngày Đảng mới ra đời – cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi sẽ chuyển sang cách mạng xã hội chủ
nghóa, Đảng ta đã đưa miền Bắc được hoàn toàn giải phóng tiến lên theo đònh hướng
xã hội chủ nghóa. Miền Bắc đi lên chủ nghóa xã hội trong một bối cảnh lòch sử hết
sức đặc biệt. Đó là:
- Đất nước tạm thời bò chia cắt và có chiến tranh với những hình thức và mức độ
khác nhau ở hai miền. Ở miền Bắc đã phải trải qua hai cuộc chiến tranh phá hoại có
tính chất hủy diệt bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ. Nhân dân ta vừa
phải xây dựng, lại vừa phải bảo vệ và phải ba lần khôi phục kinh tế, vừa phải bảo
đảm yêu cầu đời sống của nhân dân và yêu cầu chiến đấu bảo vệ miền Bắc, lại vừa
phải giành một phần ngày càng to lớn nhân lực và vật lực cho cuộc chiến đấu để
giải phóng miền Nam, thực hiện vai trò hậu phương lớn của cuộc chiến tranh.
- Trong công cuộc xây dựng chủ nghóa xã hội ở miền Bắc cũng như kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước trên cả nước, nhân dân ta đã được sự ủng hộ hết lòng và sự
viện trợ to lớn về mọi mặt của các nước xã hội chủ nghóa anh em (từ giữa những
năm 50 đến đầu những năm 70).
Download tài liệu này tại :

15
Bên cạnh mặt thuận lợi đó, còn có một số khó khăn và hạn chế do xảy ra sự bất
đồng, rạn nứt và đi đến chia rẽ sâu sắc giữa các nước xã hội chủ nghóa anh em, nhất
là giữa Liên Xô và Trung Quốc.
- Miền Bắc nước ta, đặc điểm lớn nhất là từ sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghóa
xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghóa. Không thể nắm bắt ngay được
những quy luật vận động đi lên chủ nghóa xã hội, nếu không phải trải qua một thời

gian cần thiết để tìm tòi, khảo nghiệm, từng bước rút ra những bài học cần thiết qua
những thành công và qua cả những thất bại, vấp váp và sai lầm để từ đó đưa miền
Bắc tiến lên theo đònh hướng xã hội chủ nghóa.
1. Thời kỳ 1954-1957: thực hiện kế hoạch khôi phục kinh tế sau chiến tranh và hoàn
thành về cơ bản những nhiệm vụ còn lại của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ.
Ngay sau khi hòa bình được lập lại, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc khôi phục
kinh tế và hoàn thành cải cách ruộng đất. Ngay từ những ngày đầu được giải phóng,
cùng với quá trình khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương trong chiến tranh, ổn đònh
đời sống nhân dân, nhiệm vụ cấp bách của miền Bắc là tiếp quản những vùng đòch
tạm chiếm theo quy đònh của Hiệp đònh Giơ-ne-vơ, vận động quần chúng đấu tranh
chống đòch cưỡng ép di cư nhằm ổn đònh tình hình.
Trong khôi phục kinh tế, Đảng đặt trọng tâm là sản xuất nông nghiệp. Việc khôi
phục sản xuất nông nghiệp được kết hợp với cải cách ruộng đất và vận động đổi
công, giúp nhau sản xuất, đồng thời, chăm lo xây dựng cơ sở vật chất cho nông
nghiệp.
Nhờ hoàn thành cải cách ruộng đất cùng với một loạt biện pháp của nhà nước giúp
đỡ nông dân sau khi được chia ruộng đất, trâu bò, nông cụ, công cuộc khôi phục
nông nghiệp đã nhanh chóng hoàn thành. Đến cuối năm 1957, đã có 85% ruộng
hoang được khôi phục, nhiều công trình thủy lợi được sửa chữa, tăng thêm diện tích
nước tưới. Sản lượng lương thực hàng năm đạt gần 4 triệu tấn, vượt mức trước chiến
tranh (năm 1939 chỉ đạt 2,4 triệu tấn).
Công cuộc khôi phục công nghiệp, giao thông vận tải cũng hoàn thành; hầu hết các
xí nghiệp quan trọng đã khôi phục và tăng thêm thiết bò, một số nhà máy mới được
xây dựng. Mọi hoạt động ở miền Bắc đã ổn đònh. Các lónh vực giáo dục, văn hóa, y
tế được phát triển.
Hệ thống chính trò từ Trung ương đến cơ sở được xây dựng và củng cố trên toàn
miền Bắc.
2. Thời kỳ 1958-1960: thực hiện kế hoạch cải tạo xã hội chủ nghóa, bước đầu phát
triển kinh tế và văn hóa. Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng năm 1960 thông
qua đường lối cách mạng xã hội chủ nghóa ở miền Bắc.

Trên cơ sở thắng lợi của kế hoạch khôi phục kinh tế, Đảng đã tổ chức thực hiện kế
hoạch cải tạo xã hội chủ nghóa, bước đầu phát triển kinh tế-văn hóa (1958-1960) do
Download tài liệu này tại :

16
Hội nghò lần thứ 14 của Trung ương Đảng vạch ra. Đảng đã đặt vấn đề cải tạo xã
hội chủ nghóa đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và đối
với thành phần kinh tế tư bản tư doanh là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt, cần phải
tiến hành ngay để thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền sản xuất.
Nhiệm vụ cải tạo và phát triển nông nghiệp được xem là trọng tâm. Để giải quyết
vấn đề phát triển nông nghiệp, lúc đó Đảng ta cho rằng giải pháp chiến lược thích
hợp nhất đối với nước ta là con đường hợp tác hóa, thực hiện hợp tác hóa trước khi
cơ giới hóa, và từ nền kinh tế nông nghiệp hợp tác hóa mà thúc đẩy việc cải tạo và
phát triển các ngành kinh tế khác.
Thực hiện chủ trương của Đảng, phong trào hợp tác hóa được đẩy mạnh vào năm
1958 và nhanh chóng thành cao trào. Chỉ sau hơn 2 năm, hợp tác hóa nông nghiệp
được đánh giá như hoàn thành về cơ bản, sớm hơn dự kiến ban đầu. Có 85,8% hộ
nông dân tham gia hợp tác xã, chủ yếu là hợp tác xã bậc thấp, chiếm 76% ruộng đất
của nông dân ở miền Bắc. Như vậy đến cuối 1960, trong nông thôn miền Bắc, quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghóa đã được xác lập dưới hình thức hợp tác xã.
Phong trào hợp tác hóa phát triển nhanh, nhưng không vững, vì những điều kiện cần
thiết cho nó tồn tại chưa hình thành: cơ sở vật chất-kỹ thuật hầu như chưa có gì, sản
xuất hàng hóa chưa có, cán bộ quản lý thiếu và yếu, quần chúng chưa được chuẩn
bò… Hậu quả là làm cho các hợp tác xã trong buổi đầu thành lập không có đủ sức
sống, không đủ cơ sở để phát triển vững chắc.
Việc cải tạo xã hội chủ nghóa đối với thợ thủ công và những người buôn bán nhỏ
cũng diễn ra trong tình trạng tương tự: vội vàng, nôn nóng, mệnh lệnh, gò ép, không
tính đến yêu cầu xã hội và hiệu quả thực tế. Vào cuối năm 1960, đã có 88% thợ thủ
công miền Bắc gia nhập các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp bậc thấp và bậc cao;
45% người buôn bán nhỏ được tổ chức vào các hợp tác xã mua bán, gần 5 vạn người

được chuyển sang sản xuất.
Hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp và hợp tác xã mua bán cũng chưa chuẩn bò những
điều kiện cần thiết cho nó tồn tại, vì vậy nhiều hợp tác xã làm ăn thua lỗ đã tan rã
nhanh chóng.
Đối với giai cấp tư sản công nghiệp và thương nghiệp tư doanh, Đảng chủ trương cải
tạo hòa bình với nhà tư bản bằng chính sách “chuộc lại và trả dần” dưới hình thức
lãi suất phần trăm và sắp xếp công ăn việc làm cho người tư sản và gia đình họ.
Việc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh theo hình thức chủ yếu là công tư
hợp doanh – một hình thức của chủ nghóa tư bản nhà nước, lúc đó được đánh giá là
đạt thắng lợi căn bản. Ngày nay, theo quan điểm mới rút ra từ thực tiễn nước ta là
thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong đó có cả nền
kinh tế tư bản tư nhân hoạt động trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh,
nhằm khai thác mọi tiềm năng để làm ra nhiều của cải cho xa
õ hội, không những
Download tài liệu này tại :

17
chưa nên xóa bỏ mà còn cần được khuyến khích kinh doanh trong khuôn khổ pháp
luật nhà nước, thì việc đánh giá như trên là không thích hợp.
Tháng 9-1960, Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng được triệu tập tại thủ đô Hà
Nội. Trọng tâm Đại hội lần này là thảo luận và thông qua đường lối cách mạng xã
hội chủ nghóa ở miền Bắc và nhiệm vụ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
Xuất phát từ đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến lên
chủ nghóa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghóa, Đại hội xác
đònh rằng cuộc cách mạng xã hội chủ nghóa tiến hành ở miền Bắc là một quá trình
cải biến cách mạng về mọi mặt.
Đại hội Đảng lần thứ III đã vạch ra đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá
độ tiến lên chủ nghóa xã hội với những nội dung cơ bản sau đây:
Đònh hướng và mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghóa ở miền Bắc là: đưa miền
Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghóa xã hội, nhằm xây dựng đời

sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh
cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Các biện pháp và con đường để đạt đến đònh hướng và mục tiêu trên là:
- Sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lòch sử của chuyên chính vô
sản để tổ chức tiến hành cách mạng xã hội chủ nghóa.
- Thực hiện cải tạo xã hội chủ nghóa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương
nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh và đồng thời phát triển thành
phần kinh tế quốc doanh.
- Thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghóa bằng cách ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ.
- Đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghóa về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật.
- Yêu cầu đạt đến của công cuộc xây dựng chủ nghóa xã hội là biến nước ta thành
một nước xã hội chủ nghóa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, khoa học
tiên tiến.
Nhìn chung đường lối trên đây và cả những điều bổ sung về sau còn trên đại thể,
chưa rõ ràng và nhất là không thoát khỏi những mô hình sai trái, chệch hướng của
các nước xã hội chủ nghóa trên thế giới lúc đó. Trong thời kỳ này (và cho đến những
năm đầu khi cả nước đi lên chủ nghóa xã hội) tư duy lý luận của Đảng còn những
mặt non kém, lại thêm tư tưởng chủ quan, nóng vội, duy ý chí… nên những sai lầm
lệch lạc trong quá trình tìm con đường đi lên chủ nghóa xã hội là không tránh khỏi.
3. Thời kỳ 1961-1965: Thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
Đại hội lần III của Đảng đã vạch ra phương hướng nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm
(1961-1965) là “phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghóa
xã hội, thực hiện một bước c
ông nghiệp hóa xã hội chủ nghóa và hoàn thành công
Download tài liệu này tại :

18
cuộc cải tạo xã hội chủ nghóa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến

vững chắc lên chủ nghóa xã hội”.
Nhằm thực hiện phương hướng nhiệm vụ đã đề ra, Trung ương Đảng đã liên tiếp mở
nhiều hội nghò toàn thể Ban Chấp hành chuyên bàn và giải quyết nhiều vấn đề
nhằm cụ thể hóa đường lối của Đại hội III như: về xây dựng Đảng để đảm bảo vai
trò lãnh đạo thực hiện đường lối chủ trương của Đảng trong giai đoạn mới (tháng 4-
1961), về phát triển nông nghiệp (tháng 7-1961), về phát triển công nghiệp (tháng
6-1962), về công tác thương nghiệp và giá cả (tháng 12-1964)… Qua các Hội nghò
nói trên, Đảng đã nghiên cứu, phân tích, tìm hiểu sâu về mối quan hệ giữa ba mặt
của cuộc cách mạng xã hội chủ nghóa ở nước ta: cách mạng về quan hệ sản xuất,
cách mạng về khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa (được gọi là ba
cuộc cách mạng), cũng như nhiều vấn đề quan trọng khác như: tích lũy vốn ban đầu,
mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa xây dựng kinh tế và củng cố quốc
phòng, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa công nghiệp nặng và công nghiệp
nhẹ, giữa công nghiệp Trung ương và công nghiệp đòa phương.
Trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, nhiều cuộc vận động và
phong trào thi đua được triển khai sôi nổi ở các ngành và các đòa phương. Trong
nông nghiệp có phong trào thi đua theo gương của hợp tác xã Đại Phong (Quảng
Bình), trong công nghiệp có phong trào thi đua với Nhà máy Cơ khí Duyên Hải (Hải
Phòng), trong tiểu thủ công nghiệp có phong trào thi đua với Hợp tác xã thủ công
nghiệp Thành Công (Thanh Hóa), trong ngành giáo dục có phong trào thi đua học
tập Trường Cấp II Bắc Lý (Hà Nam), trong quân đội có phong trào thi đua “Ba
nhất” v.v…
Đặc biệt, phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào
miền Nam ruột thòt”, theo Lời kêu gọi của Chủ tòch Hồ Chí Minh tại Hội nghò Chính
trò đặc biệt tháng 3-1964 đã làm tăng thêm không khí phấn khởi, hăng hái vươn lên
hoàn thành kế hoạch năm năm lần thứ nhất.
Kế hoạch này mới thực hiện được bốn năm thì phải chuyển hướng do phải đối phó
với chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất do đế quốc Mỹ gây ra, kể từ ngày 5-
8-1964. Mặc dù vậy, những mục tiêu chủ yếu của kế hoạch đã cơ bản hoàn thành.
Trải qua 10 năm khôi phục, cải tạo và xây dựng chế độ mới, “miền Bắc nước ta đã

tiến những bước dài chưa từng có trong lòch sử dân tộc. Đất nước, xã hội, con người
đều đổi mới”
4
với chế độ chính trò ưu việt, với lực lượng kinh tế và quốc phòng lớn
mạnh, miền Bắc đã trở thành căn cứ đòa vững chắc cho cách mạng cả nước.
4. Thời kỳ 1965-1975:

4
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 9, Nxb. Chính trò Quốc gia, Hà Nội, 2000.
Download tài liệu này tại :

19
Trước tình hình đế quốc Mỹ chuyển sang kế hoạch “chiến lược chiến tranh cục bộ”
ở miền Nam và chiến tranh phá hoại ở miền Bắc (kể từ 5-8-1964), theo Nghò quyết
của Hội nghò lần thứ 11 và lần thứ 12 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (năm
1965), miền Bắc bước vào thời kỳ chuyển hướng xây dựng kinh tế nhằm tiếp tục
xây dựng chủ nghóa xã hội cho phù hợp với tình hình mới. Các nhiệm vụ được vạch
ra là:
Một là: kòp thời chuyển hướng xây dựng kinh tế cho phù hợp với tình hình có chiến
tranh phá hoại, bảo đảm yêu cầu chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, tích cực chi viện
cho miền Nam, đồng thời vẫn phù hợp với phương hướng lâu dài của công cuộc
công nghiệp hóa xã hội chủ nghóa và chú ý đúng mức đến các yêu cầu về đời sống
của nhân dân.
Hai là: phải tăng cường nhanh chóng lực lượng quốc phòng cho kòp với sự phát triển
tình hình có chiến tranh trong cả nước, ra sức tăng cường công tác phòng thủ, đánh
trả để bảo vệ miền Bắc. Cố gắng hạn chế tới mức thấp nhất sự thiệt hại do đòch gây
ra và gây thiệt hại cho đòch tới mức cao nhất. Nắm vững phương châm dựa vào sức
mình là chính, đồng thời chú trọng tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ
nghóa.
Ba là: ra sức chi viện cho miền Nam.

Bốn là: phải kòp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức đi đôi với việc chuyển
hướng kinh tế và tăng cường quốc phòng cho phù hợp với tình hình mới.
Chủ trương chuyển hướng nói trên phản ánh quyết tâm của Đảng và nhân dân ta
trong việc kiên trì con đường xã hội chủ nghóa, tiếp tục tăng cường sức mạnh của
miền Bắc làm chỗ dựa vững chắc để củng cố sức mạnh của cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam đánh Mỹ và thắng Mỹ. Quyết tâm đó đã được thể hiện
một cách tập trung trong lời kêu gọi của Chủ tòch Hồ Chí Minh ngày 17 tháng 7 năm
1966: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà
Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bò tàn phá, song nhân dân
Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do”
5

Công cuộc xây dựng chủ nghóa xã hội ở miền Bắc từ 1965 đến 1975 đã trải qua
những thời kỳ sau:
- Từ năm 1965 đến năm 1968:
Thời kỳ này, thực hiện chuyển hướng xây dựng kinh tế, chống chiến tranh phá hoại
lần thứ nhất bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ.
Trong suốt quá trình tiến hành chiến tranh phá hoại ở miền Bắc từ đầu năm 1965
đến cuối năm 1968, đế quốc Mỹ đã huy động lực lượng lớn không quân và hải quân,

5
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, Nxb. Chính trò Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.108.

Download tài liệu này tại :

20
trút hàng triệu tấn bom đạn, tàn phá, hủy hoại nhiều thành phố, thò xã, thò trấn, xóm
làng, nhiều công trình công nghiệp, giao thông, thủy lợi, nhiều bệnh viện, trường
học, nhà ở, giết hại nhiều dân thường, gây nên những tội ác tày trời với nhân dân ta.
Mặc dù trong điều kiện chiến tranh ác liệt, quân và dân miền Bắc đã dấy lên cao

trào chống Mỹ, cứu nước, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, với niềm tin tưởng và quyết
tâm thắng Mỹ cao độ.
Sau bốn năm thực hiện chuyển hướng kinh tế, miền Bắc đã đạt được những thành
tích đáng tự hào trên các mặt chính trò, kinh tế, văn hóa, xã hội, chi viện đắc lực cho
tiền tuyến lớn miền Nam.
Công cuộc xây dựng chủ nghóa xã hội vẫn tiếp tục, làm cho miền Bắc ngày càng
thêm vững mạnh. Chuyển hướng kinh tế, tiếp tục sự nghiệp xây dựng chủ nghóa xã
hội trong hoàn cảnh có chiến tranh là nét đặc biệt, chưa có tiền lệ. Sản xuất nông
nghiệp không những không giảm sút mà vẫn có bước phát triển tiến bộ. Cơ sở vật
chất-kỹ thuật trong nước được tăng cường hơn so với trước chiến tranh; có 4.655 hợp
tác xã được trang bò cơ khí nhỏ; nhu cầu thiết yếu về lương thực, thực phẩm cho toàn
xã hội vẫn đảm bảo.
Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp vẫn được duy trì mặc dù gặp nhiều
khó khăn gay gắt.
Đời sống nhân dân căn bản được ổn đònh. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế vẫn
phát triển.
Do bò thất bại nặng nề ở cả hai miền Nam-Bắc, đế quốc Mỹ phải chấm dứt không
điều kiện đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân kể từ ngày 1-11-1968.
- Từ năm 1969 đến 1975:
Đây là thời kỳ thực hiện chủ trương của Đảng về khôi phục kinh tế theo
những kế hoạch ngắn hạn từng năm, nhằm bình ổn sản xuất, cải thiện đời sống sau
chiến tranh phá hoại, tiếp tục công cuộc xây dựng miền Bắc và tăng cường lực
lượng cho miền Nam. Do đế quốc Mỹ ném bom đánh phá miền Bắc lần thứ hai (vào
ngày 18-12-1972), cuộc khôi phục kinh tế phải ngắt quãng một thời gian ngắn.
Giữa lúc nhân dân ta đang nỗ lực khôi phục kinh tế ở miền Bắc và đẩy mạnh
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam thì ngày 2-9-1969, Chủ tòch Hồ Chí
Minh qua đời, thọ 79 tuổi. Tổn thất này vô cùng lớn lao. Vónh biệt chúng ta, Người
đã để lại cho Đảng ta, toàn thể đồng bào và chiến só hai miền Nam-Bắc một bản Di
chúc lòch sử – những lời căn dặn cuối cùng, những tình cảm và niềm tin của Người
đối với chúng ta và các thế hệ mai sau.

Biến đau thương thành sức mạnh, nhân dân miền Bắc đã khẩn trương bắt tay
khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng
chủ nghóa xã hội. Sự chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến được thực hiện ở
mức cao, góp phần quyết đònh tạo nên chiến thắng vang dội trên chiến trường miền
Download tài liệu này tại :

21
Nam, trong cuộc tập kích chiến lược cuối năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải ký kết
Hiệp đònh Pa-ri về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27-1-
1973. Hiệp đònh Pa-ri được ký kết, miền Bắc thực sự có hòa bình, đây là một thuận
lợi lớn đối với chúng ta, Trung ương Đảng đã đề ra kế hoạch hai năm khôi phục và
phát triển kinh tế 1974-1975, nhân dân miền Bắc đã lao động hăng hái, khẩn trương
thực hiện có hiệu quả kế hoạch trên.
Sự lớn mạnh về mọi mặt của miền Bắc đang tiến lên chủ nghóa xã hội trong thời kỳ
này là nhân tố quyết đònh nhất bảo đảm giành thắng lợi cuối cùng trong sự nghiệp
giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước.
Quá trình đưa miền Bắc tiến lên theo đònh hướng xã hội chủ nghóa trong 21
năm, nhưng thực tế chỉ có 8 năm xây dựng trong điều kiện hòa bình, phần lớn thời
gian còn lại phải đương đầu với chiến tranh phá hoại và phải ba lần khôi phục kinh
tế, khắc phục hậu quả chiến tranh. Miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ từ một nền
kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, lại bò chiến tranh tàn phá nặng nề. Hơn
nữa, vừa xây dựng vừa phải chiến đấu, chống lại hai cuộc chiến tranh phá hoại hết
sức ác liệt của đế quốc Mỹ, miền Bắc còn phải làm nghóa vụ của hậu phương lớn,
chi viện đắc lực sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Miền Bắc đã đạt được nhiều thành tựu rất có ý nghóa. Một hình thái kinh tế
xã hội mới – hình thái kinh tế xã hội xã hội chủ nghóa quá độ buổi ban đầu được
kiến lập trong đó quan hệ sản xuất xã hội chủ nghóa chiếm vò trí chủ đạo
6
, có một
cơ sở vật chất - kỹ thuật ban đầu của chủ nghóa xã hội

7
và có một hệ thống giá trò
xã hội, đã phát huy được tính ưu việt trên nhiều mặt.:
Đảm bảo sản xuất phát triển và nâng cao trình độ sản xuất lên một bước .
Trình độ văn hoá chung của xã hội được nâng lên đáng kể.
Một đội ngũ trí thức đông đảo – cái vốn quý nhất trong công cuộc xây dựng
chủ nghóa xã hội đã được đào tạo. Mọi người trong xã hội đều có ăn, có mặc, con
cái mọi nhà đều được học hành.
Một lối sống mới đã trở thành phổ biến, người với người sống có tình nghóa,
đoàn kết thương yêu nhau. Những giá trò tinh thần của dân tộc được phát huy cao độ:
nhường cơm sẻ áo, hoạn nạn có nhau, tấm lòng hậu phương vì tiền tuyến, tinh thần
dám xã thân vì Tổ quốc…

6
Năm 1975, tỉ trọng thành phần kinh tế xã hội chủ nghóa trong tổng sản phẩm xã hội là 84,4% và trong thu
nhập quốc dân là 84,1%
7
Chỉ số phát triển tài sản cố đònh trong các ngành sản xuất vật chất nếu lấy năm 1960 = 1 thì năm 1962=2,1;
năm 1975 = 5,1. Tổng cục thống kê Việt Nam, Con số và sự kiện (1945-1989), Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr.80,
94.
Download tài liệu này tại :

22
Download tài liệu này tại :

23

Những nhu cầu thiết yếu của nhân dân được đảm bảo. Đói rách, dòch tễ
không xảy ra. Mức sống tuy còn thấp và khó khăn nhưng mọi người vẫn tin tưởng
vào tương lai.

Những thành tựu miền Bắc đạt được tuy còn thấp, nhưng đặt vào hoàn cảnh
lòch sử lúc bấy giờ, thì những thành tựu đó có giá trò thật lớn lao. Nó vừa thể hiện
tính ưu việt của chủ nghóa xã hội trong điều kiện đất nước có chiến tranh, vừa là
nhân tố tạo nên sức mạnh của hậu phương miền Bắc trong thời kỳ chống My,õ cứu
nước.
Với tiềm lực kinh tế và quốc phòng được xây dựng, cùng với việc tiếp thu và
sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ của quốc tế, miền Bắc chẳng những đứng vững
trong chiến tranh, mà còn đánh thắng oanh liệt hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng
kỹ thuật và phương tiện hiện đại nhất của đế quốc Mỹ.
Miền Bắc đã làm tròn nhiệm vụ hậu phương lớn với tiền tuyến miền Nam và hoàn
thành tốt nghóa vụ quốc tế. Đánh giá về thành tựu này của miền Bắc, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng chỉ rõ : “miền Bắc đã dốc vào chiến tranh cứu
nước và giữ vước với toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghóa và đã làm tròn
một cách xuất sắc nghóa vụ căn cứ đòa cách mạng của cả nước, xứng đáng là pháo
đài vô đòch của chủ nghóa xã hội”.
8






8
Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo Chính trò của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1997, tr.28-29.

×