Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Tài liệu Chương 2-quá trình đấu tranh giành chính quyền(1930-1945) docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.06 KB, 14 trang )

Download tài liệu này tại :

1
Chương II

QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930-1945)


I. PHONG TRÀO CÁCH MẠNG 1930-1935:
1. Hội nghò Ban Chấp Hành TW Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ nhất (10/1930) - Luận
cương chính trò của Đảng:
Hội nghò Ban Chấp Hành TW Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ nhất họp tại Hương
Cảng vào tháng 10 năm 1930 do đồng chí Trần Phú chủ trì. Thực hiện chỉ thò của Quốc Tế
cộng sản, hội nghò quyết đònh: Đổi tên Đảng thành Đảng Cộng Sản Đông Dương. Hội nghò
cử ra Ban chấp hành Trung ương do đồng chí Trần Phú làm Tổng bí thư, Hội nghò thảo luận
Luận cương chính trò tháng 10 năm 1930 do đồng chí Trần Phú khởi thảo và thông qua điều
lệ Đảng, điều lệ các tổ chức quần chúng.
Nội dung chủ yếu của Luận cương tháng 10 năm 1930:
Luận cương xác đònh mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Đông Dương,
“Giữa một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì đòa chủ, phong
kiến, tư bản và đế quốc chủ nghóa”.
Tính chất của cách mạng Đông Dương lúc đầu là cách mạng tư sản dân quyền có
tính chất đòi ruộng đất và chống đế quốc, sau khi làm cách mạng tư sản dân quyền thành
công sẽ tiếp tục phát triển bỏ qua thời kỳ tư bản mà tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội .
Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải tranh đấu để đánh đổ
phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất, đánh đổ đế quốc Pháp làm cho Đông Dương
độc lập. Hai nhiệm vụ đó gắn bó chặt chẽ với nhau, cách mạng ruộng đất là cốt lõi của
cách mạng tư sản dân quyền, là cơ sở để Đảng lãnh đạo dân cày.
Giai cấp vô sản và nông dân là động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền,
trong đó là giai cấp lãnh đạo.Luận cương cho rằng “Tư bản thương mại, tư bản công nghệ
khi phong trào quần chúng nổi lên cao thì bọn này sẽ theo đế quốc”và tiểu tư sản không


tích cực cách mạng.
Luận cương xác đònh vai trò lãnh đạo của Đảng: Đảng là đội tiền phong của giai cấp
vô sản, lấy chủ nghóa Mác-Lênin làm nền tảng. Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của
cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng Sản có một đường lối chính trò
đúng, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải tranh đấu mà
trưởng thành.
Quan hệ quốc tế: “Vô sản Đông Dương phải liên lạc mật thiết với vô sản trên thế
giới, nhất là vô sản Pháp để làm mặt trận cho mẫu quốc và thuộc đòa, cho sức đấu tranh
của cách mạng mạnh lên”.
Phương pháp cách mạng: Phải dùng bạo lực cách mạng của quần chúng để tiến hành
đấu tranh cách mạng, khi chưa có tình thế cách mạng thì đấu tranh đòi quyền dân sinh dân
chủ chủ yếu hàng ngày mà dẫn dắt, huấn luyện quần chúng, đến khi có tình thế cách mạng
Download tài liệu này tại :

2
thì “Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chính phủ của đòch nhân và giành
chính quyền cho công nông ”Khởi nghóa vũ trang để giành chính quyền là một nghệ thuật,
phải tiến hành theo “khuôn phép nhà binh”.
Luận cương tháng 10/1930 về cơ bản kế thừa những luận điểm tư tưởng của Nguyễn
Ái Quốc trong Chính cương sách lược vắn tắt như: đã xác đònh được đường lối chiến lược
của cách mạng là từ cách mạng tư sản dân quyền tiến lên cách mạng xã hội chủ nghóa; xác
đònh được nhiệm vụ của cách mạng là chống đế quốc và chống phong kiến, chỉ rõ lực
lượng chủ lực của cách mạng là công nhân và nông dân, xác đònh rõ vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng Sản; về phương pháp cách mạng, Luận cương tháng 10/1930 có sự bổ sung
phát triển khá quan trọng, đã đi sâu phân tích phương pháp đấu tranh trong thời kỳ giành
chính quyền.
Tuy vậy, luận cương tháng 10/1930 còn bộc lộ những hạn chế: Hạn chế lớn nhất là
luận cương chưa xác đònh được trong xã hội thuộc đòa mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn
giữa dân tộc và đế quốc, do đó luận cương chưa coi nhiệm vụ chống đế quốc là nhiệm vụ
hàng đầu Luận cương có phần nghiêng về chống phong kiến, coi cách mạng ruộng đất là

“cốt lõi của cách mạng tư sản dân quyền” là “cơ sở để Đảng lãnh đạo dân cày”. Do không
thấy được nhiệm vụ chủ yếu là chống đế quốc, nên luận cương tháng 10/1930 đã tập hợp
lực lượng cách mạng không đầy đủ, chỉ thấy vai trò của công nông mà không thấy vai trò
của các tầng lớp khác, đánh giá sai thái độ chính trò của giai cấp tiểu tư sản, cường điệu
hóa mặt tiêu cực của giai cấp tư sản, không thấy được mặt tích cực và yêu nước của tư sản
dân tộc; không nhận ra khả năng tranh thủ, lôi kéo những người yêu nước trong hàng ngũ
đòa chủ phong kiến cho công cuộc giải phóng dân tộc. Những hạn chế của luận cương cũng
là hạn chế của hội nghò Ban chấp hành trung ương tháng 10 năm1930, khi hội nghò này đã
thông qua một án nghò quyết phê phán những quan điểm đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc
trong Chính cương sách lược vắn tắt. Những hạn chế của luận cương đã được Đảng khắc
phục trong quá trình lãnh đạo cách mạng .
2. Phong trào cách mạng Việt Nam những năm 1930-1935:
a) Cao trào cách mạng 1930-1931:
- Hoàn cảnh lòch sử:
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) trong hệ thống tư bản chủ nghóa đã
tàn phá nghiêm trọng nền kinh tế của các nước tư bản. Để chống đỡ những khó khăn về
kinh tế ,giai cấp tư sản của các nước đế quốc đã trút gánh nặng khủng hoảng lên vai nhân
dân lao động trong nước và nhân dân lao động ở các nước thuộc đòa .
Ở Đông Dương, kinh tế vốn đã nghèo nàn và phụ thuộc, thời gian này càng suy sụp
hơn bởi khủng hoảng kinh tế của nước Pháp chính quốc, Chính quyền thực dân Pháp đã rút
vốn đầu tư về các ngân hàng Pháp và dùng tiền của Ngân Hàng Đông Dương tài trợ cho
các công ty của Pháp đang có nguy cơ phá sản. D
o đó, hàng loạt nhà máy xí nghiệp ở
Đông dương đã đóng cửa, phạm vi sản xuất bò thu hẹp, công nhân bò sa thải. Nông dân
cũng điêu đứng vì giá lúa hạ, họ không thể duy trì sản xuất Ruộng đất phải bỏ hoang. Các
tầng lớp khác như tiểu thương, tiểu chủ rơi vào cảnh khó khăn cùng cực. Đòa chủ nhỏ cũng
sa sút, một số tư sản dân tộc phá sản. Đã vậy, Thực dân Pháp đặt thêm các thứ thuế và các
thứ phụ thu làm đời sống của mọi tầng lớp nhân dân càng thêm kiệt quệ Mâu thuẫn giữa
Download tài liệu này tại :


3
các tầng lớp nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp ngày càng gay gắt.
Sau khởi nghóa Yên Bái (2/1930) Thực dân Pháp lập Hội đồng đề hình thường trực,
khủng bố đẫm máu những chiến só và quần chúng tham gia phong trào yêu nước. Chính
sách kinh tế và chính sách cai trò dã man tàn bạo của thực dân Pháp đã làm bùng nổ cuộc
đấu tranh chống Pháp quyết liệt của nhân dân ta.
Trong bối cảnh đó Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời (3-2-19300), Đảng trở thành hạt
nhân lãnh đạo cuộc đấu tranh và đưa phong trào đấu tranh lên một tầm vóc mới với quy
mô toàn quốc.
- Diễn biến cao trào 1930-1931 và Xô viết Nghệ Tónh.
Từ tháng 1 đến tháng 4 năm 1930 là bước khởi đầu của phong trào. Phong trào cách
mạng mở đầu bằng các cuộc bãi công của công nhân ở nhà máy xi măng Hải Phòng, ở đồn
điền Phú riềng, ở nhà máy sợi Nam Đònh, nhà máy diêm Bến Thủy. Kết hợp với công
nhân là phong trào đấu tranh của nông dân diễn ra ở nhiều nơi như Hà Nam, Thái Bình,
Nghệ An, Hà Tónh. Phong trào đấu tranh đặc biệt mạnh mẽ bắt đầu từ tháng 5-1930, trong
ngày quốc tế lao động 1-5-1930 lần đầu tiên công nông và nhân dân Đông Dương dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã tỏ ra dấu hiệu đoàn kết với vô sản thế giới và biểu dương lực lượng
của mình. Phong trào phát triển với qui mô rộng lớn của cả nước, tập trung ở các nhà máy,
xí nghiệp, hầm mỏ và các đô thò lẫn nông thôn ở cả ba miền Trung, Nam, Bắc. Hầu hết các
cuộc đấu tranh đều thắng lợi, thực dân Pháp và bọn tay sai mộât mặt tăng cường đàn áp
khủng bố một mặt phải thực hiện những nhượng bộ nhất đònh như thả người bò bắt, cải
thiện điều kiện làm việc của công nhân, hoãn thuế cho nông dân.
Tháng 9/1930, phong trào phát triển đến đỉnh cao.từ khẩu hiệu đấu tranh đòi dân sinh
dân chủ ban đầu quần chúng đã tiến lên đấu tranh chính trò, từ những cuộc đấu tranh đòi
giảm sưu giảm thuế ban đầu môt số nơi chuyển sang hành động trừng trò bọn cường hào ác
bá, đốt ấn triêïn, phá ngục tù của thực dân Pháp. Trong nhiều cuộc biểu tình, quần chúng
nhân dân đã tổ chức được các đội vũ trang để tự vệ để chống đàn áp. Bên cạnh các cuộc
đấu tranh đòi dân sinh dân chủ còn xuất hiện các cuộc biểu tình ủng hộ Công Xã Quảng
Châu và kỷ niệm cách mạng tháng 10 Nga. Cao trào cách mạng của công nông đã lôi cuốn
nhiều trí thức tham gia.

Đặc biệt là ở Nghệ An - Hà Tónh, trước khí thế đấu tranh của quần chúng, bộ máy
chính quyền của đế quốc và tay sai ở nhiều huyện đã bò tê liệt, tan rã. Các tổ chức Đảng ở
đòa phương đã chỉ đạo quần chúng tiến hành quản lý đời sống và trật tự xã hội, mặc nhiên
làm nhiệm vụ của một chính quyền nhân dân. Chính quyền Xô viết Nghệ Tónh đã tuyên bố
xóa bỏ chính quyền cũ và các luật lệ bất công của bọn thực dân phong kiến, ban bố quyền
tự do dân chủ cho nhân dân. Chính quyền đã chia la
ïi công điền, công thổ một cách công
bằng, thủ tiêu các thứ thuế vô lý, giải quyết nạn đói, củng cố đê điều, vận độâng nhân dân
hỗ trợ nhau tăng gia sản xuất. Về văn hóa xã hội, chính quyền tổ chức đời sống mới, mở
lớp dạy Quốc ngữ cho nhân dân, xóa bỏ các tệ nạn xã hội và các hủ tục mê tín dò đoan,
xây dựng tình thân ái đoàn kết đồng cam cộng khổ giúp đỡ nhau của người lao động. Xô
Viết Nghệ Tónh trở thành nguồn cỗ vũ mạnh mẽ cho lực lượng công nông trên cả nước.
Khắp nơi trong các cuộc đấu tranh ngoài các khẩu hiệu đòi tăng lương ,giảm giờ làm,
chống khủng bố đàn áp, còn xuất hiện các khẩu hiệu ủng hộ Xô Viết Nghệ Tónh.
Download tài liệu này tại :

4
Khi Xô Viết Nghệ Tónh ra đời cuộc đấu tranh của nhân dân ta và thực dân Pháp diễn
ra càng quyết liệt hơn. Thực dân Pháp điên cuồng đàn áp khủng bố nhân dân Nghệ An -
Hà Tónh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương nhân dân ta vẫn kiên quyết
đấu tranh bảo vệ và duy trì ảnh hưởng của chính quyền Xô Viết công nông đầu tiên của
dân tộc. Tuy vậy, khi phong trào phát triển đến đỉnh cao ở một số đòa phương đã xuất hiện
khuynh hướng “tả”, khuynh hướng này làm cho phong trào chỉ mang màu sắc công nông
mà chưa thể hiện được là phong trào của dân tộc. Đây cũng là một điều cần phải uốn nắn.
Ở nước ngoài Nguyễn Ái quốc theo dõi sát sao diễn tiến của phong trào cách mạng
1930-1931, Từ tháng 9-1930, Người đã gởi thư báo cáo cho Quốc Tế Cộng Sản yêu cầu
Quốc tế Cộng sản , Quốc tế Công hội, Quốc tế Nông dân hãy làm tất cả những gì có thể
làm được để giúp đở và ủng hộ phong trào cách mạng ở Đông Dương. Tháng 4-1931,
Nguyễn Ái Quốc viết thư gởi Ban Chấp Hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương,
nhấn mạnh phải xây dựng Đảng về chính trò tư tưởng và tổ chức. Người chỉ rõ những điểm

còn thiếu sót trong việc tổ chức lực lượng của Đảng và các đoàn thể quần chúng ở các khu
vực thuộc Trung kỳ và Bắc kỳ. Dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Trung ương Đảng và
sự chỉ dẫn của Nguyễn Ái Quốc, Đảng ta đã có những chỉ thò cụ thể cho phong trào cách
mạng như chỉ thò về vấn đề thành lập “Hội phản đế đồng minh”; chỉ thò về phát triển đội
tự vệ công nông; chỉ thò về việc chống âm mưu của thực dân Pháp ép buộc nông dân Nghệ
An Hà tónh ra đầu thú; chỉ thò uốn nắn chủ trương thanh Đảng sai lầm của xứ ủy Trung kỳ.
Nhờ vậy phong trào vẫn phát triển đúng hướng và tránh được nhiều tổn thất.
Cao trào 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tónh là cuộc tổng diễn tập đầu tiên
của quần chúng nhân dân để đi đến cách mạng tháng 8-1945. Cao trào đã giáng một đòn
mạnh mẽ vào chế độ thực dân, phong kiến mở ra trận đòa cho cách mạng. Trong thực tế
đấu tranh với quân thù, khối liên minh công nông đã được hình thành, đội ngũ cán bộ Đảng
viên đã được rèn luyện và thử thách, bản lónh chính trò, chủ nghóa anh hùng cách mạng,
phẩm chất và khí tiết của những chiến só cộng sản được thể hiện. Tuy cao trào cách mạng
1930-1931 bò thực dân Pháp đàn áp dữ dội song thực dân Pháp không thể xóa được một
thành quả của cao trào cách mạng 1930-1931 là quyền lãnh đạo cách mạng đã thuộc về
Đảng Cộng Sản Việt Nam.
b. Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh khôi phục tổ chức Đảng và phong trào
cách mạng 1932-1935
Cuối năm 1931 cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ phát triển khó khăn. Cơ quan
lãnh đạo của Đảng ở Trung ương và đòa phương lần lượt bò phá vỡ. Phong trào có xu hướng
lắng xuống.
Đầu năm 1932, theo chỉ thò của Quốc Tế Cộng sản, Lê Hồng Phong và một số đồng
chí trong ngoài nước đã tổ chức ra Ban lãnh đạo Trung Ương Đảng và công bố “Chương
trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương” và của
các đoàn thể cách mạng.
Chương trình hành động năm 1932 phù hợp với điều lòch sử lúc bấy giờ, nhờ vậy phong
trào cách mạng và hệ thống tổ chức của Đảng từng bước được phục hồi.
Trong nhà tù, các đảng viên và quần chúng cách mạng vẫn nêu cao khí phách kiên
cường bất khuất, “biến nhà tù thành trường học“ và liên hệ với các cơ sở Đảng bên ngoài.
Đảng viên ở bên ngoài nhà tù được quần chúng bảo bọc che chở, bí mật gây dựng lại

Download tài liệu này tại :

5
cơ sở và tổ chức của Đảng. Cuộc đấu tranh của đảng viên và quần chúng để giữ vững cơ sở
Đảng và phong trào cách mạng những năm 1932-1933 diễn ra bằng các hình thức tổ chức
thích hợp và đầy sáng tạo.
Đầu năm 1934, Ban chỉ huy ở hải ngoại của Đảng Cộng Sản Đông Dương được thành
lập do đồng chí Lê Hồng Phong đứng đầu, hoạt động như một Ban chấp hành Trung ương
lâm thời, từ cuối năm 1934 đến đầu năm 1935 hệ thống tổ chức Đảng trong nước đã được
khôi phục, xứ ủy Nam kỳ, Trung kỳ, Bắc kỳ lần lượt được lập lại.
3. Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng (3/1935 tại Ma Cao - Trung Quốc)
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng (3/1935 tại Ma Cao - Trung Quốc) do Ban
chỉ huy ở hải ngoại của Đảng quyết đònh triệu tập. Dự đại hội có 13 đại biểu của các tổ
chức Đảng trong và ngoài nước. Đại hội bầu Ban Chấp hành trung ương mới do đồng chí
Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư. Đại hội đã đánh dấu sự thắng lợi căn bản của cuộc đấu
tranh khôi phục hệ thống tổ chức Đảng từ cơ sở đến trung ương, từ trong nước ra nước
ngoài đồng thời đánh dấu sự thống nhất phong trào cách mạng của quần chúng dưới sự
lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Sau 4 năm đấu tranh chống khủng bố trắng
vô cùng gian khổ để khôi phục phong trào cách mạng, Đảng ta không những đứng vững mà
còn được tôi luyện thử thách thêm. Đảng đã nhanh chóng trưởng thành, tích lũy được nhiều
kinh nghiệm đấu tranh quý báu, chuẩn bò đầy đủ những điều kiện cho phong trào cách
mạng mới.
II. CAO TRÀO DÂN CHỦ 1936-1939

1. Hoàn cảnh lòch sư
û:
Những năm đầu của thập kỷ 30,cuộc khủng hoàng kinh tế 1929-1933 đã kết thúc
nhưng hậu quả của nó vẫn còn tác động nặng nề trong hệ thống các nước tư bản. Mùa thu
năm 1937 cuộc khủng hoảng kinh tế mới lại nổ ra. Trong khi đó, Liên bang Xô Viết vẫn
trên đà phát triển, phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc bùng nổ nhiều

nơi. Để tìm lối thoát, giai cấp tư sản một số nước đi vào con đường phát xít hóa nhằm phân
chia lại thò trương thế giới và tiêu diệt Liên Xô. Các thế lực phát xít liên kết với nhau
thành một khối Nguy cơ chủ nghóa phát xít và chiến tranh thế giới đe dọa nền hòa bình và
an ninh của nhân loại. Trước hiểm họa phát xít, phong trào chống phát xít chống chiến
tranh diễn ra. Phong trào này do Liên xô làm trụ cột. Tháng 7-1935, Đại hội lần thứ VII
của Quốc tế Cộng Sản được triệu tập tại Mác cơ va gồm 65 đoàn Đại biểu của các nước,
trong đó có đoàn đại biểu của Đảng Cộng Sản Đông Dương do đồng chí Lê Hồng Phong
làm trưởng đoàn. Đại hội đã phân tích tình hình thế giới và xác đònh: kẻ thù chính lúc này
của nhân dân lao động toàn thế giới chưa phải là chủ nghóa tư bản nói chung mà là chủ
nghóa phát xít. Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân trên thế giới chưa phải là đánh
đổ chủ nghóa tư bản mà là đấu tranh chống chủ nghóa phát xít và chống chiến tranh đế
quốc, giành độc lập dân chủ và bảo vệ hòa bình. Đại hội chủ trương tập hợp mọi lực lượng
yêu nước và dân chủ trên thế giới.
Ở Pháp, mặt trận nhân dân chống phát xít được thành lập bao gồm nhiều đảng phái
và đoàn thể, trong đó Đảng Cộng sản Pháp giữ vai trò trụ cột. Tháng 5-1936 mặt trận nhân
dân Pháp thắng cử và lập ra chính phủ nhân dân Pháp. Chính phủ này vẫn nằm trong
khuôn khổ của chính quyền tư sản, song trước phong trào chống phát xít và áp lực đấu
Download tài liệu này tại :

6
tranh của Đảng cộng sản Pháp, Chính phủ nhân dân Pháp buộc phải thi hành một số quyết
đònh và cải cách xã hội ở thuộc đòa. Ở Đông Dương ,sau một thời kỳ đấu tranh gian khổ để
khôi phục tổ chức và lực lượng, Đảng cộng sản Đông Dương đã phục hồi kòp thời lãnh đạo
nhân dân ta bước vào một thời kỳ mới. Thời kỳ đấu tranh vì dân sinh dân chủ ở Đông
Dương.
. Chủ trương mới của Đảng
: (Thể hiện ở các Hội nghò BCHTW Tháng 7/1936;
tháng 3/1937; tháng 9/1937; tháng 3/1938)
Các Hội nghò đã chuyển hướng mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể trước mắt của cách
mạng. Tạm thời chưa nêu ra khẩu hiệu chống đế quốc, chống phong kiến mà đưa ra khẩu

hiệu “Ủng hộ mặt trận nhân dân Pháp” và “Ủng hộ chính phủ nhân dân Pháp”, nhiệm vụ
cụ thể trước mắt là chống phát xít, chống chiến tranh và mục tiêu cụ thể trước mắt là: đòi
tự do, cơm áo, hòa bình. Mục tiêu đấu tranh đó không chỉ thống nhất với mục tiêu đấu
tranh của nhân dân thế giới mà còn đáp ứng nhu cầu nguyện vọng bức thiết của nhân dân.
Kẻ thù cụ thể trước mắt là: Bọn phản động thuộc đòa và tay sai.
Đảng chủ trương thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương dưới sự lãnh đạo của
Đảng, lấy liên minh công nông làm nồng cốt, tập hợp mọi lực lượng không phân biệt dân
tộc, tôn giáo, đảng phái nhằm mục đích chống phát xít.
Hình thức tổ chức để tập họp lực lượng cũng thay đổi cho phù hợp với yêu cầu mới
của hoàn cảnh lòch sử. Đảng chủ trương phải linh hoạt và thực tế trong cách tổ chức lực
lượng quần chúng, không nhất thiết là các tổ chức quần chúng đều phải mang một màu sắc
là đoàn thể cứu quốc, ngoài các đoàn thể cứu quốc Đảng tổ chức nhiều đòan thể đơn sơ,
không điều lệ, gần gũi với nhân dân như các hội tương tế, hội ái hữu, hội cày, hội cấy, hội
hiếu hỉ…Các tổ chức này hoạt động công khai hoặc nửa công khai để thu hút đông đảo các
tầng lớp nhân dân.
Hình thức tổ chức đấu tranh cũng có sự thay đổi ,từ tổ chức lực lượng một cách bí
mật và đấu tranh bất hợp pháp là chủ yếu chuyển sang hình thức đấu tranh công khai, hợp
pháp hoặc bán công khai, bán hợp pháp là chủ yếu .
Những chủ trương mới của Đảng và sự chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc giúp cho phong
trào phát triển mạnh mẽ, lực lượng cách mạng được mở rộng đến mọi tầng lớp nhân dân
và gắn kết với phong trào đấu tranh cách mạng chung của thế giới.
Cùng với chủ trương mới và phương thức tổ chức đấu tranh mới của Đảng, trong các
Hội nghò Ban Chấp hành Trung ương từ tháng 7-1936 đến tháng 3-1938, vấn đề dân tộc và
dân chủ đã được bàn lại, được đặt lại theo một tương quan khác theo hướng ưu tiên hơn
cho nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc. Đảng Cộng Sản Đông Dương đã thể
hiện sự nâng cao nhận thức về nhân tố dân tộc ở một nước thuộc đòa, nhận thức và quan
điểm này phù hợp với tinh thần của Chính cương, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc
thông qua trong ngày thành lập Đảng. Song, do nhiệm vụ trước mắt và yêu cầu trước mắt
là chống phát xít, chống chiến tranh nên những nhận thức đó chưa được triển khai thành
nghò quyết.

3. Đảng lãnh đạo cao trào dân chủ dân sinh 1936-1939
Phong trào dân chủ 1936-1939 diễn ra sôi nổi và đa dạng dưới sự lãnh đạo của Đảng
Download tài liệu này tại :

7
Cộng Sản Đông Dương .
Cao trào cách mạng 1936-1939 của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm
mục tiêu trước mắt là chống phát xít, chống chiến tranh ,đòi tự do dân chủ hòa bình và
đạt được những thắng lợi đáng kể. Thực hiện mục tiêu đòi dân sinh dân chủ là một bước đi
trong tiến trình thực hiện mục tiêu chiến lược của Đảng là chống đế quốc và phong kiến để
giành độc lập dân tộc . Đánh giá và phân tích đúng tình hình thực tiễn lúc bấy giờ, Đảng
đã mở rộng được khả năng hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp để đấu tranh với kẽ thù,
đã tổ chức được lực lượng quần chúng, tạo điều kiện cho Chủ nghóa Mác - Lênin ,tư tưởng
Hồ chí Minh cũng như đường lối và chính sách của Đảng được phổ biến, tuyên truyền và
giáo dục sâu rộng trong quần chúng nhân dân.
Cao trào cách mạng 1936-1939 là một bước phát triển mới của Đảng và lực lượng
cách mạng trên mọi mặt hoạt động. Qua thực tế đấu tranh chính trò và đấu tranh tư tưởng
,lực lượng cách mạng đã được mở rộng hơn .Lực lượng này bao gồm hàng triệu quần chúng
công nông cùng với đông đảo tầng lớp trí thức ,tiểu tư sản ,tư sản và những thân só thuộc
tầng lớp trên.Đó chính là đội quân chính trò hùng hậu của quần chúng do Đảng lãnh đạo để
chuẩn bò cho cuộc đấu tranh giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Phong trào dân chủ 1936-1939 là cuộc Tổng diễn tập lần thứ 2của Đảng.Qua thực
tế của phong trào ,Đảng Cộng Sản Đông Dương đã thu được nhiều bài học kinh nghiệm :
Một là, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ
thể trước mắt, xác đònh đúng kẻ thù và nhiệm vụ cụ thể để phát triển dần lực lượng cách
mạng của quần chúng nhân dân.
Hai là, kết hợp hoạt động bất hợp pháp và họat động công khai hợp pháp, sử dụng
mọi hình thức tổ chức đấu tranh, kết hợp các mặt đấu tranh kinh tế, chính trò, văn hóa, kết
hợp đấu tranh của quần chúng và đấu tranh nghò trường để giành thắng lợi trên từng mặt
trận. Sẵn sàng về tư tưởng và tổ chức để chuyển hướng hoạt động khi tình hình thay đổi đột

ngột.
Ba là, có đường lối sách lược liên minh đúng đắn trên cơ sở phân tích chính xác thái
độ chính trò của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân. Trên cơ sở lấy liên minh công nông
làm nền tảng, Đảng xây dựng một Mặt trận Dân chủ rộng rãi và phù hợp với yêu cầu của
nhiệm vụ chính trò. Đảng đã xây dựng mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận thống nhất,
trong đó Đảng vừa là thành viên vừa là lực lượng lãnh đạo của Mặt trận, hoạt động theo
nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Bốn là, giữ vững sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng, xây dựng Đảng vững
mạnh về chính trò, tư tưởng và tổ chức, đề cao năng lực tự động công tác và tinh thần trách
nhiệm của từng đảng viên trong mọi lónh vực hoạt động .
III. PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, K
HỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH
QUYỀN (1939 – 1945)
1. Hoàn cảnh lòch sử:
Ngày 1/9/1939 phát xít Đức tấn công Ba Lan, ngày 3/9/1939 Anh, Pháp tuyên chiến
với Đức. Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ. Chiến tranh chi phối đời sống kinh tế, chính
trò, xã hội của tất cả các nước, khách quan tạo điều kiện cho phong trào cách mạng của các
nước phát triển.
Download tài liệu này tại :

8
Ở Đông Dương, chính phủ Pháp thủ tiêu những quyền tự do dân chủ mà Đảng và
nhân dân đã đấu tranh giành được trong thời kỳ 1936 – 1939, Ngày 4-1-1940 Toàn quyền
Đông Dương tuyên bố phải “đánh mau chóng và toàn diện vào các tổ chức cộng sản, phải
tiêu diệt cộng sản thì Đông Dương mới yên ổn và trung thành với nước Pháp “.Chính
quyền thực dân thực hiện chính sách thời chiến, tuyên bố đặt Đảng cộng sản Đông Dương
ra ngoài vòng pháp luật. Thực dân Pháp thẳng tay đàn áp Đảng cộng sản Đông Dương,
thực hiện chính sách kinh tế chỉ huy, giải tán các hội ái hữu, các nghiệp đoàn và tòch thu
tài sản cuả các tổ chức này, Thực dân Pháp đã tăng thuế, trưng thu, trưng dụng các xí
nghiệp tư nhân cho hoạt động quân sự Thanh niên Đông Dương bò tổng động viên, bò

sung vào quân đội để đưa sang Pháp làm bia đỡ đạn cho đế quốc Pháp Tháng 9-1940, khi
phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, thực dân Pháp đầu hàng phát xít Nhật và cấu kết với
Nhật để thống trò ø bóc lột và đàn áp nhân dân Đông Dương.
Chính sách tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã đẩy nhân dân Đông
dương lâm vào cảnh ngột ngạt vè chính trò, bần cùng về kinh tế.Mâu thuẫn giữa toàn thể
dân tộc Việt Nam và bọn xâm lược ngày càng gay gắt.

2. Chủ trương chiến lược mới của Đảng: (thể hiện trong các nghò quyết Hội nghò Trung
Ương lần thứ 6-11/1939; lần thứ 7 - 11/1940 và lần thứ 8 -5/1941):
* Hội nghò TW lần thứ 6 của Đảng vào tháng 11/1939 tại Hóc Môn - Bà Điểm, do đồng
chí Nguyễn Văn Cừ chủ trì.

+ Xác đònh mục tiêu chiến lược trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế
quốc và tay sai. nhiệm vụ chống phong kiến giải quyết từng bước, phục tùng nhiệm vụ chống
đế quốc.
+ Tạm gác khẩu hiệu: “Cách mạng ruộng đất” và đề ra khẩu hiệu “Tòch thu ruộng đất
của đế quốc và đòa chủ phản bội quyền lợi dân tộc”, “Chống tô cao, lãi nặng”.

+ Chủ trương lập chính phủ cộng hòa dân chủ thay chính quyền Xô Viết công nông
binh.
+ Chủ trương lập Mặt Trận Thống Nhất Dân Tộc Phản Đế Đông Dương.
+ Xây dựng những tổ chức hợp pháp, đơn giản để tập hợp lực lượng đồng thời xây
dựng những tổ chức bí mật nhằm vào nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Hội nghò TW lần thứ 6 đã đánh dấu sự điều chỉnh lớn về chiến lược CMTSDQ, đưa
nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu ,chuẩn bò cho thời kỳ đấu tranh giải phóng dân
tộc.
* Hội nghò TW lần thứ VII (11/1940) tại Đình Bảng - Bắc Ninh.

Tháng 4/1940, Đức - Ý xâm lược Châu u=>Pháp mất nước.
Đầu năm 1941, Đức

chiếm hầu hết Tây Âu - Đông Âu.
Nhật nhanh chóng chớp lấy thời cơ chiếm đoạt các thuộc
đòa ở Châu Á - Đông Nam Á.
Ngày 12/9/1940, Nhật chính thức tiến vào Lạng Sơn và đổ bộ
vào Hải Phòng
23/9/1940 Pháp ký hiệp đònh chấp nhận yêu cầu chiếm đóng Đông Dương của Nhật-
Hiệp đònh đầu hàng này được ký ở Hà Nội.
- Ngày 27/9/1940, Nhân dân Bắc Sơn dưới sự lãnh đạo của Đảng Bộ đòa phương đã khởi
nghóa.Quânkhởi nghóa đã chiếm đồn Mõ Nhài,làm chủ châu lỵ Bắc Sơn.
-11/1940,Xứ ủy Nam kỳ xin lệnh của TW khởi nghóa.
Download tài liệu này tại :

9
Nội dung của Hội nghò TW lần thứ VII:
+ Xác đònh kẻ thù là phát xít Pháp - Nhật.
+ Quyết đònh duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn,
+ Đặt vấn đề khởi nghóa vũ trang vào chương trình nghò sự.
+ Quyết đònh hoãn khởi nghóa Nam Kỳ.
Qyết đònh đình hõan khởi nghóa chưa được triển khai thì cuộc khởi nghóa đã bùng nổ ngày
23/11/1940, ngay sau đó ngày 13-1-1941 cuộc binh biến ở đồn Chợ Rạng, huyện Đô Lương
đã diễn ra.Ngày 28-1-1941,NAQ quyết đònh về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách
mạng.Tại Cao BằngNAQ xúc tiến các hoạt động chuẩn bò cho Hội nghò TW lần thứ 8.
Hội nghò lần TW thứ 8 (5/1941) của Đảng tại Pắc Bó, Cao Bằng- Nguyễn Ái Quốc chủ trì.

+ Hội nghò phân tích tình hình chiến tranh thế giới dự báo Đức đangchuẩn bòđánh Liên
Xô và chiếntranh khu vực TBD sẽ bùng nổ.Chiến tranh sẽ làm cho các nước đế quốc bò suy
yếu,Liên xô nhất đònh thắng,phongtrào cách mạng thế giới sẽ pháttriển nhanh chóng , quân
Đồng minh sẽ thắng lợi, “Cách mạng nhiều nước sẽ thành công”,hệ thống XHCN sẽ ra đời.
+Hội nghò xác đònh sự điều chỉnh chiến lược, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu của Hội Nghò TW lần thứ 6, thứ 7 là đúng. tiếp tục đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên

hàng đầu.
“Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc
lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chòu mãi kiếp
ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được” .
.Tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổđòa chủ,chia ruộng đất cho dân cày”thay bằng khẩu
hiệu tòch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian.
+ Đảng chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc giải phóng trong phạm vi của từng nước.
Trước đây, khi thành lập mặt trận nhằm tập hợp lực lượng cho các nhiệm vụ cách
mạng của từng giai đoạn, Đảng ta chủ trương giải quyết vấn đề trên phạm vi Đông Dương
(Mặt trận dân chủ Đông Dương 1936 – 1939, Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông
Dương, Chính phủ cộng hòa dân chủ Đông Dương-11/1939). Đến Hội nghò Trung ương lần
8 (5-1941) do Nguyễn i Quốc chủ trì, Hội nghò đã chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc
giải phóng trong khuôn khổ mỗi nước. Do đó ta chủ trương mỗi dân tộc phải có một mặt
trận riêng: Việt Nam lập “Mặt trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh”, giúp lập mặt trận
“Ai Lao Độc Lập Đồng Minh” và giúp Campuchia lập “Cao Miên Độc Lập Đồng Minh”.
Các mặt trận khi phát triển sẽ tiến đến thành lập mặt trận “Đông Dương Độc Lập Đồng
Minh”.
Giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc trong phạm vi từng nước nhằm phát huy tinh
thần dân tộc của mỗi nước là một đóng góp lớn của Nguyễn i Quốc , chủ nghóa dân tộc
chân chính là một nhân tố mà ngay ở năm 1924 Nguyễn i Quốc đã từng coi đó là động
lực chủ yếu của các dân tộc và đã từng khẳng đònh. “Người ta sẽ không thể làm gì cho
người An Nam, nếu không dựa trên động lực vó đại và duy nhất của đời sống xã hội của
họ”. Giải quyết vấn đề dân tộc
trong phạm vi từng nước còn thể hiện sự tôn trọng nguyên
tắc quyền dân tộc tự quyết trong mỗi dân tộc của Đảng ta. Chỉ trên cơ sở phát huy sức
mạnh của dân tộc mình để tự giải phóng, các dân tộc trên bán đảo Đông dương mới góp
phần tích cực nhất vào sự nghiệp giành độc lập chung của Đông dương.
+ Chủ trương đoàn kết rộng rãi lực lượng của toàn dân tộc chống đế quốc.
Ở Hội nghò Trung ương lần thứ 6 (11/1939) Đảng đã quyết đònh thành lập Mặt trận
Download tài liệu này tại :


10
thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương và các “Hội phản đế” để tập hợp lực lượng.
Trong Hội nghò Trung ương lần thứ 8 (5/1941), Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Việt
Nam Độc Lập Đồng Minh (gọi tắt là Việt minh) – Một mặt trận của tất cả các tầng lớp
nhân dân Việt Nam không phân biệt giai cấp, đảng phái, tôn giáo, chính kiến. Tôn chỉ của
Mặt trận là phấn đấu cho một nước Việt Nam độc lập. Đảng chủ trương xây dựng các tổ
chức quần chúng lấy tên là “Hội cứu quốc”. Hội cứu quốc được tổ chức thích hợp với mọi
tầng lớp để tất cả mọi người dân Việt Nam đều có thể dễ dàng tham gia và đóng góp sức
mình cho công cuộc cứu nước giải phóng dân tộc.
Hình thức tổ chức chính quyền sau khi Cách mạng giành được thắng lợi cũng được
Hội nghò Trung ương lần thứ 8 vạch ra : Đó là “Chính phủ nhân dân của Việt Nam dân
chủ cộng hoà”. Chính phủ nhân dân là chính phủ đại diện cho lợi ích của tất cả các tầng
lớp nhân dân trong xã hội Việt Nam, tính đại diện của chính phủ nhân dân cao hơn chính
quyền Xô Viết công nông binh, do đó khả năng đoàn kết tập hợp lực lượng dân tộc để
phấn đấu cho việc thành lập chính phủ này sẽ rộng lớn hơn trước.
+ Vấn đề khởi nghóa vũ trang:
Vấn đề đấu tranh vũ trang và khởi nghóa vũ trang đã được vạch ra trong những
Cương lónh đầu tiên của Đảng. Khi Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ và cách mạng nước
ta tiến gần đến nhiệm vụ giải phóng dân tộc, vấn đề chuẩn bò cho khởi nghóa vũ trang được
đặt ra một cách cụ thể và trực tiếp.
T Hội nghò Trung ương lần thứ 7 (11-1940) Đảng ta đã quyết đònh duy trì lực
lượng vũ trang của khởi nghóa Bắc Sơn và vấn đề khởi nghóa vũ trang đã được đưa vào
chương trình nghò sự. Ở Hội nghò Trung ương lần thứ 8 (5-1941) Đảng ta xác đònh khởi
nghóa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng và toàn dân và tích cực phát triển lực
lượng chính trò , tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang và các căn cứ đòa để làm hậu thuẫn
cho khởi nghóa .Nghò quyết của hội nghò ghi rõ “Phải luôn luôn chuẩn bò một lực lượng sẵn
sàng,nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù…”
Hình thái của khởi nghóa ở nước ta được Hội nghò trung ương lần thứ 8 xác đònh xác
đònh là sẽ đi từ khởi nghóa từng phần để tiến tới tổng khởi nghóa.

+ Về công tác xây dựng Đảng:
Toàn bộ công tác xây dựng Đảng nhằm theo hướng giúp Đảng có đủ năng lực lãnh
đạo cuộc cách mạng Đông Dương đi đến toàn thắng. Do đó Đảng chủ trương gấp rút đào
tạo cán bộ cho các mặt hoạt động: quân sự, công vận, nông vận, binh vận… và kiện toàn bộ
máy tổ chức của Đảng.
Chủ trương mới của Đảng trong thời kỳ này đã hoàn chỉnh việc điều chỉnh chiến
lược cách mạng tư sản dân quyền để tập trung cho mục tiêu số một là giải phóng dân tộc.
Sự điều chỉnh này là sự kế tục và pha
ùt triển hơn nữa tư tưởng cách mạng giải phóng dân
tộc của Chính cương, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, chứng tỏ sự trưởng
thành của Đảng về lãnh đạo chính trò. Chủ trương mới của Đảng có ý nghóa quyết đònh đến
chiều hướng phát triển và thành công của cách mạng Tháng Tám năm 1945.
3.Đảng xây dựng lực lượng chuẩn bò khởi nghóa giành chính quyền:
Chủ trương chiến lược mới của Đảng giai đoạn 1939 – 1945 là ngọn đuốc soi đường
cho sự chuẩn bò lực lượng của toàn Đảng toàn dân trong giai đoạn này.
Về lực lượng chính trò
Đảng Cộng Sản Đông Dương xác đònh lực lượng chính trò chính là thành lũy của
cách mạng và là áo giáp bảo vệ Đảng. Đấu tranh chính trò là hình thức đấu tranh cơ bản
Download tài liệu này tại :

11
được duy trì trong suốt quá trình phát triển cách mạng.
Sau Hội nghò Trung ương lần 8 (tháng 5-1941) Mặt trận Việt Minh ra đời. sau đólà sự
ra đời của các đoàn thể cách mạng như: Công nhân cứu quốc, nông dân cứu quốc, Thanh
niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Tự vệ cứu quốc… Mặt trận Việt Minh và các tổ chức cứu
quốc xây dựng rộng rãi trên cả nước để làm nhiệm vụ tổ chức và vận động quần chúng
đứng lên đấu tranh. Ở Cao Bằng , xuất hiện những xã, tổng toàn dân tham gia Mặt trận
Việt Minh. Ở Nam Kỳ, phong trào cách mạng đã phục hồi, tổ chức Việt Minh đã có cơ sở
ở Nam Kỳ, ở Sài Gòn Gia Đònh, Tây Ninh.
Về lực lượng vũ trang: Quan điểm của Đảng chỉ ra rằng chỉ có kết hợp đấu tranh

chính trò với đấu tranh vũ trang mới tiêu diệt được sinh lực của đòch, đè bẹp ý chí xâm lược
của chúng và thu hồi toàn vẹn lãnh thổ.
Ở Hội nghò Trung ương lần thứ 7 tháng 11-1940, ta quyết đònh duy trì lực lượng vũ
trang của khởi nghóa Bắc Sơn, lưc lựợng này sau đó phát triển thành đội Cứu quốc quân
Năm 1941, Nguyễn Ái Quốc quyết đònh lập đội vũ trang ở Cao Bằng nhằm thúc đẩy việc
phát triển cơ sở chính trò và phát triển lực lượng vũ trang. Ngày 22/12/1944, thực hiện chỉ
thò của Hồ Chí Minh, đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân được thành lập tại
huyện Nguyên Bình, Cao Bằng do Võ Nguyên Giáp chỉ huy, phương châm hoạt động là
chính trò trọng hơn quân sự, tuyên truyền trọng hơn tác chiến, nhằm kết hợp chặt chẽ đấu
tranh chính trò với đấu tranh vũ trang.
Căn cứ đòa là đầu não của lực lượng cách mạng, là chổ đứng chân của lực lượng vũ
trang. Vì vậy Đảng ta chủ trương xây dựng căn cứ đòa một cách toàn diện, trước hết phải
vững mạnh về chính trò, từ vững mạnh về chính trò mà từng bước hình thành và phát triển
lực lượng vũ trang. Vùng Bắc Sơn – Vũ Nhai là căn cứ đòa đầu tiên của Cách Mạng, sau đó
là vùng Cao Bằng, năm 1941 Nguyễn Ái Quốc chỉ thò mở rộng căn cứ đòa Cao Bằng.
Tháng 10/1943 hai trung tâm Cao Bằng và Bắc Sơn - Vũ Nhai được nối liền trở thành hai
vùng căn cứ đòa rộng lớn ở Việt Bắc, nhiều đội du kích ra đời.
Trên mặt trận văn hoá tư tưởng, Đảng cũng đẩy mạnh hoạt động để tuyên truyền
đường lối cứu nước và chủ trương chính sách của Đảng. Ta quyết tâm xây dựng một nền
văn hóa mới để chống lại những chính sách thủ đoạn văn hóa xảo quyệt, nô dòch và lai
căng của kẻ thù.
Năm 1943, Đảng đưa ra “Đề cương văn hóa Việt Nam” nhằm xây dựng nền văn
hóa mới với 3 nguyên tắc: “Dân tộc – Khoa học – Đại chúng”. Cuối năm 1944, Hội văn
hóa cứu quốc ra đời nhằm tập hợp đội ngũ trí thức và các nhà hoạt động văn hóa vì mục
tiêu giành độc lập tự do cho dân tộc. Tháng 6/1944, Đảng Dân chủ Việt Nam được thành
lập nhằm tập hợp trí thức yêu nước và tư sản tiến bộ. Các tổ chức này đã gia nhập Mặt trận
Việt Minh cứu nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
4. Cao trào kháng Nhật cứu nước và tổng khởi nghóa giành chính quyền:
Tháng 3-1944, Đảng đã nhận đònh mâu thuẫn Nhật và Pháp sẽ dẫn đến chỗ sống
chết “quyết liệt cùng nhau”. Ngày 9/3/1945, đúng như dự đoán của Đảng, phát xít Nhật đã

nổ súng lật đổ Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Cũng đêm đó, Ban thường vụ Trung Ương
mở rộng họp ở Đình Bảng (Bắc
Ninh) do đồng chí Trường Chinh chủ trì. Hội nghò nhận
đònh rằng “phát xít Nhật sẽ là kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể và duy nhất trước mắt của nhân
dân Đông Dương” và Hội nghò chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước
làm tiền đề cho Tổng khởi nghóa.
Từ giữa tháng 3/1945 trở đi cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rất sôi nổi,
Download tài liệu này tại :

12
mạnh mẽ và phong phú về nội dung lẫn hình thức. Khẩu hiệu “Phá kho thóc giải quyết nạn
đói” đã phát triển phong trào chống phát xít Nhật lên một bước mới.
Ngày 15/4/1945, Hội nghò quân sự Bắc Kỳ quyết đònh thống nhất tất cả các lực
lượng vũ trang với tên gọi là “Việt Nam giải phóng quân” và quyết đònh xây dựng 7 chiến
khu trong cả nước.
Ngày 16/4/1945, tổng bộ Việt Nam ra chỉ thò về việc tổ chức y ban dân tộc giải
phóng Việt Nam. Đầu tháng 5, Hồ Chí Minh chọn Tân Trào (Tuyên Quang) làm căn cứ chỉ
đạo cách mạng cả nước. Ngày 4/ 6/1945, khu giải phóng được thành lập gồm 6 tỉnh: Cao
Bằng – Bắc Cạn – Lạng Sơn – Thái Nguyên – Tuyên Quang – Hà Giang và một số vùng
lân cận. Các cuộc khởi nghóa từng phần liên tục nổ ra ở khu giải phóng và một số đòa
phương. Kết quả của các cuộc khởi nghóa từng phần là chính quyền nhân dân được hình
thành trong vùng ta làm chủ, chính quyền này đã tồn tại song song với chính quyền tay sai
của Nhật.
* Tổng khởi nghóa giành chính quyền:
Cao trào kháng Nhật cứu nước cuối tháng 7, đầu tháng 8/1945, đã chuẩn bò đầy đủ
các điều kiện để tiến đến Tổng khởi nghóa giành chính quyền. Tháng 8/1945, Hồng quân
Liên Xô đã đánh bại hơn một triệu quân Quan Đông của Nhật ở Mãn Châu. Ngày
13/8/1945 Nhật Hoàng thông qua lần cuối lệnh đầu hàng. Ở Đông Dương quân đội Nhật đã
hoang mang cực độ.
Ngày 13/8/1945 nắm được tin Nhật đầu hàng Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt

Minh đã thành lập Ủy ban khởi nghóa toàn quốc. Đồng thời hội nghò toàn quốc của Đảng
họp tại Tân Trào quyết đònh phát động tổng khởi nghóa ,giành chính quyền về tay nhân
dân. 23 giờ ngày 13/8/1945 y ban khởi nghóa ra quân lệnh số 1. Ngày 16/8/1945, đại hội
quốc dân họp ở Tân Trào ủng hộ chủ trương tổng khởi nghóa, thông qua 10 chính sách của
Việt Minh, đònh ra quốc kỳ và quốc ca. Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam được thành
lập do Hồ Chí Minh làm chủ tòch.
Trong vòng 2 tuần lễ (từ ngày 14-8 đến ngày 28-8-1945) nhân dân ta đã giành được
chính quyền trong cả nước. Thủ đô Hà Nội giành được chính quyền ngày 19-8-1945; cố đô
Huế giành được chính quyền ngày 23-8-1945, và Thành phố Sài Gòn giành được chính
quyền ngày 25-8-1945.
Ngày 2-9-1945 Hồ Chí Minh thay mặt toàn dân tuyên bố nước Việt Nam độc lập. Lễ
Tuyên ngôn độc lập được tiến hành tại Vườn hoa Ba Đình,Nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà ra đời.
I. NGUYÊN NHÂN THẮNG LI, Ý NGHĨA VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ
Nguyên nhân thắng lợi:

- Nguyên nhân khách quan: hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, quân Đồng minh đánh bại
quân Phát xít , kẻ thù trực tiếp của ta là phát xít Nhật đã bò Liên Xô và các lực lượng đồng
minh đánh bại, ở Đông Dương ,quân viễn chinh Nhật mất tinh thần , chính quyền tay sai
của phát xít Nhật hoang mang rệu rã,tạo điều kiện thuận lợi hơn cho phong trào giải phóng
dân tộc thành công.
- Nguyên nhân chủ quan:
- Đảng là người tổ chức lãnh đạo nhân dân, Đảng có đường lối đúng đắn ,có kinh
nghiệm tổ chức đấu tranh dày dạn và ngày càng gắn bó mật thiết với nhân dân , Đảng
Download tài liệu này tại :

13
được nhân dân thừa nhận tin tưởng và bảo vệ. Trong Đảng có sự đòan kết thống nhất vì
mục tiêu chung, các đảng viên của đảng kiên trung, sẵn sàng hy sinh tất cả cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc

- Cách mạng tháng Tám là kết quả của 15 năm đấu tranh của nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Lực lương cách mạng đã được xây dựng rèn luyện qua 3 cao trào 1930-
1931; 1936-1939; 1939-1945 và đã lớn mạnh trong Tổng khởi nghóa của cách mạng tháng
Tám.
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố chủ yếu nhất quyết đònh thắng lợi của
cách mạng tháng Tám 1945
Ý nghóa lòch sử:

- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của truyền thống bất khuất quật
cường của dân tộc ta được đúc kết từ hàng ngàn năm lòch sử,là kết quả của hơn tám thập
kỷ đấu tranh chống thực dân giải phóng dân tộc,và là thành quả trực tiếp của 15 năm đấu
tranh gian khổ của Đảng và nhân dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.
- Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ ách thống trò trong 87 năm của đế quốc Pháp và
lật đổ ách thống trò kéo dài 5 năm của phát xít Nhật, lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế
tồn tại ngót ngàn năm, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất
nước, nước ta từ nước thuộc đòa đã trở thành một nước độc lập.Cách mạng tháng Tám đã
lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một nhà nước dân chủ công nông đầu tiên ở
Đông Nam Á, một nhà nước mang tính chất nhân dân và mang bản chất của giai cấp công
nhân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
- - Cách mạng Tháng Tám mở ra kỷ nguyên mới, giải phóng dân tộc gắn với giải
phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH.
- Cách mạng Tháng Tám đã đưa Đảng Cộng Sản Đông Dương từ một Đảng hoạt động
bí mật, bất hợp pháp đã trở thành một Đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước.
- Cách mạng Tháng Tám chứng minh cho lý luận của Hồ Chí Minh: Cách mạng giải
phóng dân tộc có thể thành công trước khi giai cấp công nhân chính quốc giành được chính
quyền.
- Cách mạng Tháng Tám có ảnh hưởng lớn trực tiếp đến thắng lợi của cách mạng Lào
và Campuchia, góp phần mở ra thời kỳ sụp đổ, tan rã của chủ nghóa thực dân cũ trên phạm
vi toàn thế giới, thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc phát triển.

Đánh giá về ý nghóa của Cách mạng tháng Tám, Chủ tòch Hồ Chí Minh từng viết:”
Chẳng những giai cấp lao động vã nhân dân Việt Nam có thể tự hào, mà giai cấp lao động
và những dân tộc bò áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng:lần này là lần đầu tiên trong
lòch sử cách mạng của các dân tộc thuộc đòa và nửa thuộc đòa, một Đảng mới 15 tuổi đã
lãnh đạo cách mạng thành công đã nắm chính quyền trên tòan quốc “
Bài học kinh nghiệm của Đảng
:
a. Đảng đã vạch ra đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn, đã giương cao ngọn cờ độc
lập và chủ nghóa xã hội, Đảng kết hợp đúng đắn 2 nhiệm vụ chống đế quốc và chống
Download tài liệu này tại :

14
phong kiến để tập trung cho nhiệm vụ chủ yếu là chống đế quốc, giành độc lập dân tộc với
ý chí tự lực tự cường. Đảng đã đấu tranh để khắc phục sự khác nhau trong Đảng về nhận
thức chính trò và tư tưởng, mạnh dạn điều chỉnh chiến lược, thay đổi chủ trương cho phù
hợp với tình hình thực tế. Đảng đã vận dụng chủ nghóa Mác-Lênin ngày càng sát đúng với
hoàn cảnh của Việt Nam. Đây là bài học kinh nghiệm lớn có ý nghóa khoa học và thực tiễn
sâu sắc.
b. Đảng ta tập hợp lực lượng của toàn dân, dựa chắc vào công nhân và nông dân mở
rộng Mặt trận thống nhất.Đảng đã xây dựng thành công khối đòan kết dân tộc.động viên
tòan dân tổng khởi nghóa giành thắng lợi.
c. Đảng ta khai thác và lợi dụng được sự mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, tập trung vào
kẻ thù chính để giành độc lập.
d. Đảng sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng,kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng
chính trò và lực lượng vũ trang,kết hợp sự nổi dậy của quần chúng với tiến công của lực
lượng vũ trang CM ở cả nông thôn lẫn thành thò,trong đó đóng vai trò quyết đònh là các
cuộc tổng khởi nghóa ở Huế,Hà Nội &Sài gòn.
e.Đảng đã nắm vững nghệ thuật khởi nghóa,chủ động sáng tạo trong việc chọn thời
cơ, nắm vững thời cơ (giữa lúc Nhật đầu hàng quân Đồng minh và trước khi quân Đồng
minh đổ bộ vào Đông Dương) chủ động sáng tạo trong việc sử dụng các phương thức, hình

thức khởi nghóa giành chính quyền.
g. Xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức, lấy chủ nghóa Mác-Lênin làm nền tảng
,gắn bó với quần chúng

×