Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.45 KB, 11 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>* ĐỀ 1: Cảm nhận của anh / chị về đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi …………………………………… Đất Nước có từ ngày đó”. I/ Mở bài : – Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước, nhân dân, cách mạng luôn là nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông. – “Đất nước” là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên. – Chín câu thơ đầu của đọan thơ : “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi …………………………………… Đất Nước có từ ngày đó”. Là những cảm nhận sâu sắc của nhà thơ về sự sinh thành và phát triển của Đất nước qua những hình tượng cụ thể, sinh động,gợi cảm sôi nổi và thiết tha. II/ Thân bài : * Tòan đọan thơ có chín câu, được viết theo thể thơ tự do, hình ảnh thơ giàu sức liên tưởng…, nhà thơ giúp cho người đọc có những suy nghĩ, cảm nhận về cội nguồn và sự hình thành của Đất nước một cách sâu sắc. * Trước hết,ở hai câu thơ đầu của đọan thơ, Tác giả đi tìm sự lý giải về sự sinh thành của đất nước.Đất nước có từ bao giờ ? Để trả lời cho câu hỏi này, nhà thơ đã viết : “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi, Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”. Tham vọng tính tuổi của Đất nước của nhà thơ thật khó bởi chính cái “ngày xửa ngày xưa” ( thời gian nghệ thuật thường thấy trong truyện cổ tích) có tính phiếm chỉ, trừư tượng, không xác định. Đó là thời gian huyền hồ, hư ảo, thời gian mang màu sắc huyền thoại. Song chính ở “cái ngày xửa ngày xưa” đó, nhà thơ đã giúp cho chúng ta nhận thức được : Đất Nước đã có từ rất lâu, rất xa, từ bao giờ chẳng biết .Chỉ biết rằng : khi ta cất tiếng khóc chào đời, thì Đất Nước đã hiện hữu. Không dừng lại ở khát vọng đo đếm tuổi của đất nước, nhà thơ còn nỗ lực hình dung về khởi đầu và quá trình trưởng thành của đất nước : “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn, Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” Phải chăng, khởi thủy của đất nước là văn hóa được kết tinh từ tâm hồn và tính cách anh hùng của con người Việt Nam. Ở đây,hình ảnh “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mỹ từng xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích,ca dao,tục ngữ.Bởi lẽ,“miếng trầu”là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chungcủa tâm hồn dân tộc.Từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ văn hiện đại, cây tre đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần dân tộc quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước. Và còn nữa, trong quá trình trưởng thành, đất nước còn gắn liền với với đời sống văn hóa tâm linh, bằng phong tục tập quán lâu đời còn truyền lại và bằng chính cuộc sống lao động cần cù vất vả của nhân dân : “Tóc mẹ búi sau đầu Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Cái kèo, cái cột thành tên, Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần ,sàng…”. Đọan thơ, bằng những ý thơ giàu sức liên tưởng , nhà thơ đã đưa người đọc trở về với những nét đẹp văn hóa một thời của người phụ nữ Việt Nam bằng hình ảnh “tóc mẹ búi sau đầu”, gợi tả một nét đẹp thuần phong mỹ tục của người Việt; và những câu ca dao xưa ca ngợi vẻ đẹp đậm tình nặng nghĩa trong cuộc sống vợ chồng “cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Không những vậy, hình ảnh thơ còn thể hiện sự cảm nhận về đất nước gắn với nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, lấy hạt gạo làm gia bản… * Có thể nói,đọan thơ mở đầu trả lời cho câu hỏi về cội nguồn đất nước – một câu hỏi quen thuộc, giản dị bằng cách nói cũng rất giản dị, tự nhiên nhưng cũng rất mới lạ : nhà thơ không tạo ra khỏang cách sử thi để chiêm ngưỡng và ca ngợi đất nước hoặc dùng những hình ảnh mĩ lệ , mang tính biểu tượng để cảm nhận và lý giải , mà dùng cách nói rất đỗi giản dị,tự nhiên với những gì gần gũi , thân thiết , bình dị nhất. Gịong thơ thâm trầm, trang nghiêm; cấu trúc thơ theo lối tăng cấp : Đất nước đã có; Đất Nước bắt đầu; Đất Nước lớn lên; Đất Nước có từ… giúp cho người đọc hình dung cả quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành của đất nước trong thời gian trường kỳ của con người Việt Nam qua bao thế hệ. Đặc biệt là cách nhà thơ viết hoa hai từ Đất Nước ( vốn là một danh từ chung) cũng đã giúp ta cảm nhận tình yêu và sự trân trọng của nhà thơ khi nói về đất nước , quê hương của mình. III/ Kết bài : Tóm lại, chín câu thơ mở đầu cho đọan trích “Đất Nước” đã thật sự để lại những ấn tượng và cảm xúc sâu sắc cho người đọc về sự sinh thành và trưởng thành của đất nước. Bởi lẽ, đọan thơ đã giúp cho tất cả mọi người,.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> đặc biệt là thế hệ trẻ, những ai mà còn có những nhận thức mơ hồ về đất nước mình thật sự phải suy gẫm.Bởi lẽ, đọan thơ còn cho chúng ta hiểu được đất nước thật thân thương và gần gũi biết nhường nào .Từ đó đọan thơ bồi dưỡng thêm cho chúng ta về tình yêu đất nước, quê hương mình và biến tình yêu ấy bằng thái độ, hành động dựng xây , bảo vệ đất nước ĐỀ 2: Phân tích đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất Nước” ( Trích trường ca “ Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm: “ Đất là nơi anh đến trường …………………………………. Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”. Hướng dẫn làm bài I/ Mở bài : – Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước, nhân dân, cách mạng luôn là nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông. – “Đất nước”là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên. – Có thể nói, bằng giọng thơ sôi nổi thiết tha, hình ảnh thơ sinh động và gợi cảm…đọan thơ sau đây trong “Đất Nước” có thể xem như là những định nghĩa về đất nước thật mới mẻ và độc đáo của nhà thơ : “ Đất là nơi anh đến trường …………………………………. Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”. II/ Thân bài : * Nếu như chín câu thơ đầu của đọan thơ là sự trả lời của nhà thơ cho câu hỏi : Đất nước có từ bao giờ? Thì ở 16 câu thơ này, nhà thơ tiếp tục bày tỏ sự cảm nhận của mình về đất nước để trả lời cho câu hỏi : Đất nước là gì? * Câu hỏi đã được nhà thơ trả lời bằng cách nêu ra những định nghĩa về đất nước ở hai phương diện : không gian địa lý và thời gian lịch sử . Trước hết, về không gian địa lý, đất nước là nơi sinh sống của mỗi người : “ Đất là nơi anh đến trường, Nước là nơi em tắm”. Không những vậy , đất nước còn là nơi tình yêu lứa đôi nảy nở say đắm, thiết tha .Đó là “ nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Đất nước còn là núi sông, rừng bể,là“hòn núi bạc”,là “nước biển khơi”.Và còn nữa, đất nước còn không gian sinh tồn của cộng đồng qua nhiều thế hệ với “những ai đã khuất…những ai bây giờ…” Cùng với cách cảm nhận về đất nước ở phương diện không gian địa lý, nhà thơ còn cảm nhận đất nước ở phương diện thời gian lịch sử .Ở phương diện này, đất nước có cả chiều sâu và bề dày được nhận thức từ huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ . Đọan thơ với cấu trúc ngôn ngữ “ Đất là…, Nước là…Đất Nước là…” , nhà thơ đã định nghĩa bằng cách tư duy “chiết tự” để giải thích, cắt nghĩa hai tiếng Đất Nước thiêng liêng bằng tinh thần luận lí chân xác.Nếu tách ra làm những thành tố ngôn ngữ độc lập thì Đất và Nước chỉ có ý nghĩa là không gian sinh tồn về mặt vật chất của con người cá thể.Nhưng nếu hợp thành một danh từ thì “Đất Nước” lại có ý nghĩa tinh thần thiêng liêng, chỉ không gian sinh sống của cả một cộng đồng người như anh em một nhà. * Tóm lại, bằng cách sử dụng sáng tạo các yếu tố ca dao, truyền thuyết dân gian nhà thơ đã lý giải một cách sinh động , cụ thể cho câu hỏi : Đất nước là gì? Từ đó , hình ảnh đất nước hiện lên qua đọan thơ vừa gần gũi – cụ thể, vừa thiêng liêng- khái quát trên cả bề rộng không gian địa lý mênh mông và thời gian lịch sử đằng đẵng của dân tộc. III/ Kết bài: Có thể nói, đọan thơ là những định nghĩa đa dạng, phong phú về đất nước từ chiều sâu văn hóa dân tộc, xuyên suốt chiều dài của thời gian lịch sử đến chiều rộng của không gian đất nước. Nhà thơ cũng vận dụng rộng rãi các chất liệu văn hóa dân gian để cảm nhận và định nghĩa về đất.Từ đó , đọan thơ giúp cho chúng ta hiểu và gắn bó hơn với đất nước, quê hương mình bằng một tình yêu và ý thức trách nhiệm sâu sắc . ________________________________________________ ĐỀ 3 : Phân tích đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm : “ Trong anh và em hôm nay, ……………………………… Làm nên Đất Nước muôn đời”. Hướng dẫn làm bài I/ Mở bài: – Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước, nhân dân, cách mạng luôn là.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông. – “Đất nước”là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên. – Đọan thơ sau đây là những lời nhắn nhủ tâm tình về sự gắn bó và trách nhiệm của mỗi người với đất nước : “ Trong anh và em hôm nay, Đều có một phần Đất Nước ……………………………… Làm nên Đất Nước muôn đời”. II/ Thân bài : Thật vậy, sau những cảm nhận mới mẻ và sâu sắc của nhà thơ về đất nước qua những phương diện không gianđịa lý,thời gian- lịch sử,phong tục- văn hóa …, Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến khẳng định : “ Trong anh và em hôm nay, Đều có một phần Đất Nước”. 1.Đây là một sự thực mà mỗi người Việt Nam ai cũng đều cảm thấy.Đất nước đã hóa thân vào mỗi con người, bởi chúng ta đều là con Rồng, cháu Tiên, đều sinh ra và lớn lên trên đất nước này.Mỗi người Việt Nam đều đã và đang thừa hưởng những giá trị vật chất, tinh thần của đất nước thành máu thịt, tâm hồn, nếp cảm,nếp nghĩ và cách sống của mình. 2.Từ việc khẳng định: đất nước hóa thân và kết tinh trong cuộc sống của mỗi người,nhà thơ tiếp tục nói về mối quan hệ gắn bó sâu sắc của mỗi người với đất nước bằng những dòng thơ giàu chất chính luận : “Khi hai đứa cầm tay Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm Khi chúng ta cầm tay mọi người Đất Nước vẹn tròn, to lớn”. 3.Với những cảm nhận tinh tế, mới mẻ về sự hòa quyện giữa cái riêng và cái chung, giữa tình yêu và niềm tin, đồng thời kết hợp sử dụng các tính từ “hài hòa, nồng thắm”; “vẹn tròn, to lớn” đi liền nhau; đặc biệt là kiểu câu cấu tạo theo hai cặp đối xứng về ngôn từ (“Khi /Khi; Đất Nước / Đất Nước),nhà thơ muốn gửi đến cho người đọc bức thông điệp: đất nước là sự thống nhất hài hòa giữa tình yêu đôi lứa với tình yêu Tổ quốc, giữa cá nhân với cộng đồng. 4.Không chỉ khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa Đất nước và nhân dân, giữa tình yêu cá nhân với tình yêu lớn của đất nước; nhà thơ còn thể hiện niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của đất nước : “Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang Đất Nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng”. Có thể nói, ba dòng thơ đã mở ra một tầng ý nghĩa mới, đó là niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của đất nước.Thế hệ sau “con ta lớn lên sẽ mang Đất Nước đi xa- Đến những tháng ngày mơ mộng”.Đất nước sẽ đẹp hơn, những tháng ngày mơ mộng ở hiện tại sẽ trở thành hiện thực ở ngày mai. Khi đã hiểu hết ý nghĩa thiêng liêng của đất nước, nhà thơ muốn nhắn gửi với mọi người : “ Em ơi em Đất nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời…” Bằng giọng văn trữ tình kết hợp với chính luận; bằng cách sử dụng câu cầu khiến, điệp ngữ “phải biết – phải biết” nhắc lại hai lần cùng các động từ mạnh “gắn bó, san sẻ, hóa thân” …nhà thơ như nhắn nhủ mình, nhưng cũng là nhắn nhủ với mọi người ( nhất là thế hệ trẻ) về trách nhiệm thiêng liêng của mình với đất nước. Cái hay là lời nhắn nhủ mang tính chính luận nhưng lại không giáo huấn mà vẫn rất trữ tình, tha thiết như lời tự dặn mình – dặn người của nhà thơ. III/ Kết bài: Tóm lại, đây là một trong những đọan thơ hay và sâu sắc trong “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm .Bởi lẽ, qua đọan thơ, nhà thơ đã giúp cho chúng ta hiểu hơn về sự gắn bó giữa mỗi người với đất nước.Từ đó, ý thức hơn về trách nhiệm của mỗi người với đất nước quê hương.Đồng thời, đọan thơ cũng giúp ta thấy được vẻ đẹp trong phong cách thơ trữ tình- chính luận của nhà thơ. ________________________________________________ ĐỀ 4: Phân tích đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm : “ Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi vọng phu, ………………………………………………………………………… Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”. Hướng dẫn : I/ Mở bài : – Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước, nhân dân, cách mạng luôn là.
<span class='text_page_counter'>(4)</span> nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông. – “Đất nước”là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên. – Đọan thơ sau đây là sự khẳng định của nhà thơ về vai trò của nhân dân trong việc làm nên không gian địa lý – bức tranh văn hóa đất nước muôn màu muôn vẻ : “ Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi vọng phu, ………………………………………………………………………… Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”. II/ Thân bài : Thật vậy, đây là 12 câu thơ mở đầu phần hai của đọan thơ “Đất Nước” với nội dung ngợi ca, khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân. 1.Trước hết, tác giả nêu ra một cách nhìn mới mẻ,có chiều sâu địa lý về những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Nhà thơ đã kể, liêt kêmột loạt kì quan thiên nhiên trải dài trên lãnh thổ từ Bắc vào Nam như muốn phác thảo tấm bản đồ văn hóa đất nước.Đây là những danh lam thắng cảnh do bàn tay tự nhiên kiến tạo nhưng từ bao đời nay, ông cha ta đã phủ cho nó tính cách, tâm hồn, lẽ sống của dân tộc.Những ngọn núi, những dòng sông kia chỉ trở thành thắng cảnh khi nó gắn liền với con người, được cảm thụ qua tâm hồn, qua lịch sử dân tộc. Trong thực tế, bao thế hệ người Việt đã tạc vào núi sông vẻ đẹp tâm hồn yêu thương thủy chung để ta có những “núi Vọng Phu”, những “hòn Trống mái” như những biểu tượng văn hóa .Hay vẻ đẹp lẽ sống anh hùng của dân tộc trong buổi đầu giữ nước để ta có những “ao đầm”…như những di tích lịch sử về quá trình dựng nước và giữ nước hào hùng… “ Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh” Thật sự, nếu không có những người vợ mòn mỏi chờ chồng cả thời chinh chiến thì không có sự cảm nhận về núi Vọng Phu.Cũng như nếu không có truyền thuyết Hùng Vương dựng nước thì không thể có sự cảm nhận nét hùng vĩ của núi đồi quanh đền Hùng.Nói cách khác, những núi Vọng Phu, những hòn Trống Mái, những núi Bút, non Nghiên không còn là những cảnh thiên nhiên thuần túy nữa, mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người không tên, không tuổi. 2.Thiên nhiên đất nước, qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân .Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này,đã đặt tên, ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này.Từ những hình ảnh, những cảnh vật, hiện tượng cụ thể, nhà thơ đã “quy nạp” thành một khái quát sâu sắc: “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”. Với cấu trúc quy nạp ( đi từ liệt kê các hình ảnh, địa danh…đến khái quát mang tính triết lý) , dường như nhà thơ không thể kể ra hết những danh lam thắng cảnh và những nét đẹp văn hóa dân tộc vô cùng phong phú, đa dạng trên khắp đất nước.Nên cuối cùng, nhà thơ đã khẳng định : trên không gian địa lý đất nước, mỗi địa danh đều là một địac chỉ văn hóa được làm nên bằng sự hóa thân của bao cuộc đời, bao tâm hồn người Việt. III/ Kết bài: Đoạn thơ thể hiện được đặc điểm tiêu biểu của trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm : chất chính luận hài hòa chất trữ tình, giọng thơ tự sự ; ngôn từ, hình ảnh đẹp, giàu sức liên tưởng. Viết về đề tài đất nước – một đề tài quen thuộc, nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn mang những nét riêng, mới mẻ, sâu sắc . Những nhận thức mới mẻ về vai trò của nhân dân trong việc làm nên vẻ đẹp của đất nước ở góc độ địa lý-văn hóa càng gợi lên lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm với đất nước cho mỗi người. ________________________________________________ ĐỀ 5: Cảm nhận của anh/ chị về đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất Nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm : “ Em ơi em Hãy nhìn rất xa …………………… Có nội thù thì vùng lên đánh bại”. Hướng dẫn làm bài I/ Mở bài : – Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước, nhân dân, cách mạng luôn là nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông. – “Đất nước”là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên. – Đọan thơ sau đây là sự khẳng định của nhà thơ về vai trò của nhân dân trong việc làm nên lịch sử và truyền thống dựng nước và giữ nước : “ Em ơi em Hãy nhìn rất xa …………………… Có nội thù thì vùng lên đánh bại”. II/ Thân bài : Thật vậy, sau khi đã khẳng định vai trò của nhân dân làm nên bức tranh địa lý- văn hóa muôn màu muôn vẻ, nhà thơ tiếp tục baỳ tỏ những suy tư, nhận thức của mình về vai trò của nhân dân trong việc làm ra lịch sử và truyền thống của đất nước. Trước hết, nghĩ về bốn ngàn năm của đất nước, nhà thơ đã nhận thức được một sự thật đó là : người làm nên lịch sử không chỉ là những anh hùng nổi tiếng mà còn là những con người vô danh bình dị.Thật sự trong bề dày bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước, có biết bao thế hệ cha anh dũng cảm, chiến đấu, hy sinh và trở thành anh hùng mà tên tuổi của họ “cả anh và em đều nhớ”: “ Nhiều người đã trở thành anh hùng Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ” Nhưng cũng có hàng triệu , hàng triệu người cũng trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước đã ngã xuống , họ đã “sống và chết, không ai nhớ mặt đặt tên”, nhưng tất cả, họ đều có công “ làm ra Đất Nước”. Có thể nói, đây là một quan niệm mới mẻ về đất nước của nhà thơ.Và từ quan niệm này, Nguyễn Khoa Điềm đã hết lời ca ngợi và tôn vinh lòng yêu nước của nhân dân : “Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh…’ Với tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”, tác giả đã khẳng định tất cả những gì do nhân dân làm ra, những gì thuộc về nhân dân như “hạt lúa, ngọn lửa, giọng nói, tên xã tên làng”…cũng như chính những con người vô danh bình dị đó đã góp phần giữ và truyền lại cho thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước. Chính họ đã tạo dựng nền móng sự sống cho đất nước, cho nhân dân.Không những vậy, họ còn luôn sẵn sàng vùng lên chống ngoại xâm, đánh nội thù để giữ gìn sự sống đó và bảo vệ đất nước thân yêu của mình. “Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm Có nội thù thì vùng lên đánh bại”. Ở đây, nhận thức về đất nước và lòng yêu nước của nhà thơ đã gắn liền với lòng biết ơn nhân dân, bởi nhân dân mới là những chủ thể đích thực làm ra đất nước và bảo vệ đất nước. Tóm lại, với hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc, giọng thơ vừa tự sự vừa trữ tình…đọan thơ vừa là lời tâm tình,vừa là lời nhắn nhủ của nhà thơ với tất cả mọi người phải nhận thức đúng vai trò to lớn của nhân dân trong việc làm nên truyền thống lịch sử, văn hóa của đất nước bằng chính lòng biết ơn của mình. III/ Kết bài : Chủ đề về đất nước, quê hương không phải là một chủ đề mới lạ trong văn học Việt Nam.Bởi lẽ, trước Nguyễn Khoa Điềm đã có nhiều bài thơ về đất nước của nhiều nhà thơ có tên tuổi…Nhưng,có thể nói “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định được vai trò to lớn của nhân dân với đất nước một cách dễ hiểu, dễ cảm, dễ nhớ và sâu sắc.Đọan thơ đã thức tỉnh được nhận thức của tuổi trẻ Miền Nam thời chống Mỹ và tuổi trẻ hôm nay khi họ đang lún sâu vào lối sống ngoại lai .Từ đó, đọan thơ đã làm sống lại truyền thống yêu nước hào hùng trong mỗi chúng ta. ________________________________________________ ĐỀ 6 Cảm nhận đọan thơ sau đây trong đọan trích “ Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm “ Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân ………………………………………… Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”. Hướng dẫn làm bài. I/ Mở bài : – Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước, nhân dân, cách mạng luôn là nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông. – “Đất nước”là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên. – Đọan thơ sau đây là sự thể hiện sâu sắc những suy tư, nhận thức về đất nước của nhà thơ trên cơ sở tư tưởng Đất nước của Nhân dân : “ Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> ………………………………………… Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”. II/ Thân bài : Có thể nói, “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là một khúc ca – sự nhận thức về nguồn gốc sâu xa của nhà thơ về đất nước về trí tuệ, tâm hồn và ý chí của nhân dân.Để từ đó, nhà thơ khẳng định : Nhân dân chính là người – là chủ thể .làm nên đất nước. Trước hết, câu thơ mở đầu đọan thơ “ Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân” chính là sự thể hiện cảm hứng chủ đạo bao trùm lên tòan đọan trích và cả Chương V của bản trường ca “Mặt đường khát vọng”. Đây chính là lời kết, là sự khái quát từ những gì đã được nhà thơ triển khai trên cả chiều dài của trang thơ và trong cả chiều sâu của dòng cảm hứng trữ tình- chính luận. Nhân dân sáng tạo ra mọi giá trị văn hóa như ca dao, thần thoại.Như vậy cũng chính là đã sáng tạo ra đất nước. Để khẳng định điều này, Nguyễn Khoa Điềm đã lấy ý từ ba câu ca dao có nội dung sâu sắc để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân : “Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi” Biết quý công cầnm vàng những ngày lặn lội Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù mà không sợ dài lâu”. .Đó là vẻ đẹp giàu lòng yêu thương ân tình của người Việt đã bắt nguồn từ thời xa xưa với những lời dân ca ngọt ngào “Yêu em từ thuở trong nôi, Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru” Và đó là vẻ đẹp của lối sống đậm nghĩa, vẹn tình, quý trọng tình nghĩa hơn cả vật chất ngàn vàng.Ở đây, ý thơ của nhà thơ được gợi lên từ chính những câu ca dao một thời đi vào đời sống tâm hồn của dân tộc : “ Cầm vàng mà lội qua sông Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng” Và đó còn là sự thể hiện của truyền thống kiên cường, bất khuất của trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta.Vẻ đẹp của truyền thống anh hùng ấy cũng được làm nên từ những câu ca dao từng ca ngợi tinh thần quật khởi của dân tộc : “ Thù này ắt hẳn còn lâu Trồng tre nên gậy , gặp đâu đánh què” Từ đó có thể khẳng định: nhân dân đã làm ra văn hóa, làm ra đất nước bằng chính tinh cách, lẽ sống tâm hồn mình. Có thể nói, tuổi trẻ thế hệ Nguyễn Khoa Điềm đã nhận thức được một cách sâu sắc Nhân dân là người làm nên lịch sử, làm ra văn hóa đất nước bằng tất cả tình cảm trân trọng và yêu thương . Suy tư và nhận thức này của nhà thơ là tư tưởng nghệ thuật đã trở thành truyền thống trong văn học Việt Nam.Từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu …đã từng nói lên nhận thức về vai trò của nhân dân trong lịch sử.Đến các nhà thơ, nhà văn trong thời kì kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ , nhận thức ấy đã được nâng lên thành một tư tưởng có tầm cao mới. III/Kết bài : Bằng giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết, trang trọng; ý thơ giàu chất chính luận, ngôn ngữ thơ mộc mạc, cách sử dụng sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học dân gian…từ những suy tư cảm xúc của nhà thơ, đọan thơ đã khắc sâu cho chúng ta những nhận thức sâu sắc và mới mẻ về đất nước nhân dân.Từ đó, đọan thơ bồi dưỡng thêm tình yêu Tổ quốc và niềm tự hào về con người Việt Nam cho mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ trong thời đaị hôm nay. Đề bài: Phân tích bài thơ Đàn ghi- ta của Lor-ca của Thanh Thảo Dàn ý I. Mở bài – Thanh Thảo thuộc thế hệ các nhà thơ chống Mĩ có thành tựu, có tiếng nói thơ riêng được công chúng chú ý, kể cả thơ viết về chiến tranh và thời hậu chiến. – Là một ngòi bút thơ luôn tìm tòi cái mới, nổ lực cách tân thơ Việt, ông khước từ lối biểu đại dễ dãi, tìm kiếm những cách biểu đạt mới và đề xuất một mĩ cảm hiện đại chơ thơ. Đàn ghi -ta của Lor- ca rất tiêu biểu cho nỗ lực cách tâm thơ Việt của Thanh Thảo, mặc dầu bài thơ còn khó hiểu vì ít nhiều muốn màu sắc tượng trưng và siêu thực mà ông học tập ở chính nhà thơ hiện đại Tây Ban Nha: Ga-xi-a Lor-ca. TPO - Chuyên đề này giúp học sinh củng cố các nội dung xung quanh bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca: - Hình tượng tiếng đàn biểu trưng cho thế giới nghệ thuật Lor-ca, tinh thần Lor-ca. - Niềm cảm thương và suy tư của Thanh Thảo trước sự hi sinh của một nghệ sĩ, chiến sĩ tiên phong. - Nghệ thuật thơ mang màu sắc tượng trưng, siêu thực. KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Vài nét về tác giả, tác phẩm a. Tác giả.
<span class='text_page_counter'>(7)</span> - Đạt thành tựu chủ yếu trên lĩnh vực: thơ và trường ca. - Nội dung: tiếng nói của người trí thức nhiều suy tư, trăn trở về các vấn đề xã hội và thời đại > cảm nhận cuộc sống ở bề sâu, dựa trên sự “nghiền ngẫm hiện thực”. b. F.G.Lorca - Một trong những tài năng sáng chói của văn học, nghệ thuật Tây Ban Nha hiện đại, dẫn đầu cho phong trào cách tân thơ ca lúc bấy giờ với phong cách thơ tượng trưng, siêu thực. - Sống dưới sự cai trị của chế độ độc tài Pri-nô đê Ri-vê-ra > nhà thơ quyết liệt chống bạo tàn, ca ngợi tự do, cổ vũ tinh thần đấu tranh của nhân dân. - Bị phát xít bắt giam và bắn chết năm 38 tuổi> trở thành biểu tượng, lá cờ tập hợp các nhà văn hoá đấu tranh cho hoà bình, tiến bộ. c. Tác phẩm + Xuất xứ: Rút trong tập Khối vuông ru bích + Vị trí văn học sử: tiêu biểu cho tư duy thơ Thanh Thảo: giàu suy tư, mãnh liệt, phóng túng trong xúc cảm, ít nhiều nhuốm màu sắc tượng trưng, siêu thực. + Cảm nhận chung: - Cảm hứng: bắt nguồn từ cái chết không chỉ gây phản ứng mãnh liệt với người đương thời mà dư chấn của nó còn mãi tới nhiều năm sau > phục sinh thời khắc bi tráng của cái chết, bày tỏ thái độ ngưỡng mộ, xót đau, xây dựng biểu tượng nghệ thuật bất tử Lor-ca thông qua hình ảnh đàn ghi ta. a. Đoạn 1:Hình ảnh Lor-ca trong bối cảnh chính trị Tây Ban Nha những tiếng đàn bọt nước Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt li-la li-la li-la đi lang thang về miền đơn độc với vầng trăng chuếnh choáng trên yên ngựa mỏi mòn. + Hình ảnh Lor-ca được phác qua những nét chấm phá > những mảng màu dường như không đồng chất đồng tông họa nên diện mạo con người và số phận Lor-ca. + “những tiếng đàn bọt nước”: cấu tạo hình ảnh bằng sự ánh chiếu của nhiều kênh cảm giác. - Tiếng đàn: âm thanh > cảm nhận bằng thính giác. - Bọt nước: hình ảnh > cảm nhận bằng thị giác. Dùng cả thị giác và thính giác để cảm nhận tiếng đàn: • Gợi vẻ đẹp của tiếng đàn dựa trên những liên tưởng ngoài thơ (bọt nước tạo nên từ bong bong trời mưa, lúc nào cũng như phập phồng, thổn thức) > tiếng đàn trong trẻo, dường như cũng mang tình cảm, có linh hồn. • Bọt nước dường như dựng hình số phận tiếng đàn: mong manh, ngắn ngủi, dễ vỡ. + Áo choàng đỏ gắt: - Mở ra không gian văn hoá Tây Ban Nha (xứ sở của Tây Ban cầm, những cuộc đấu bò tót, những kiếm sĩ can đảm,…) - Gợi bối cảnh chính trị ngột ngạt, căng thẳng, đẫm máu của Tây Ban Nha thời đó: đấu trường của cuộc đấu tranh giữa một bên là khát vọng dân chủ của nhân dân nói chung, của Lor-ca nói riêng với nền chính trị độc tài. Xét trong lĩnh vực nghệ thuật, đó là cuộc xung đột giữa khát vọng cách tân của nhà thơ với nền nghệ thuật già nua. + 4/6 câu thơ kết thúc bằng tiếng mang thanh trắc (nước, gắt, độc, choáng) > cảm nhận về số phận, cuộc đời không bình yên, đầy bất trắc. + Hệ thống hình ảnh: lang thang miền đơn độc, vầng trăng, yên ngựa > những hình ảnh gắn với thế giới nghệ thuật Lor-ca, những biểu tượng của thơ ca Lor-ca > tạo ra một miền Lor-ca, mĩ cảm Lor-ca trong đoạn thơ đầu tiên. b. Đoạn 2: Cái chết của Lor-ca Tây Ban Nha hát nghêu ngao bỗng kinh hoàng áo choàng bê bết đỏ Lor-ca bị điệu về bãi bắn Chàng đi như người mộng du tiếng đàn ghi ta nâu bầu trời cô gái ấy tiếng ghi ta lá xanh biết mấy tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> + “Bỗng kinh hoàng”: 3 tiếng ngắn ngủi > đặc tả trạng thái bất ngờ, sửng sốt > cái chết gây chấn động Tây Ban Nha vẫn còn chưa tỉnh “hát nghêu ngao”. + Áo choàng đỏ gắt - Áo choàng bê bết đỏ > Màu đỏ của máu > Lor-ca như một đấu sĩ đang bị hành hình trên đấu trường chính trị Tây Ban Nha. + Tiếng ghi ta: lặp đi lặp lại (4 lần) nhưng biến hoá, thay màu chuyển gam, thay phông chuyển cảnh: - ghi ta nâu: màu sắc, thị giác > ngay trong một màu sắc cũng có sự biến ảo nhiều nét nghĩa (màu nâu của chất liệu làm nên cây đàn, màu của đồng đất, màu của nước da, màu của nỗi buồn từ nay sẽ phủ kín cuộc đời cô gái…) - ghi ta lá xanh: màu sắc, thị giác > màu của sự sống. “ Biết mấy” thốt lên như sự nuối tiếc ngậm ngùi cho một vẻ đẹp đang bị phá huỷ. - những tiếng đàn bọt nước- tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan: hình ảnh - thị giác, âm thanh – thính giác> sự vận động của hình tượng thơ: những cảm nhận về số phận mong manh của tiếng đàn - nghệ sĩ Lor-ca đã hiện thực hoá qua cái chết “vỡ tan”. - tiếng ghi ta ròng ròng/ máu chảy: thị giác, cảm giác mạnh > Âm thanh như một cơ thể, có sinh mệnh, có trái tim, biết quặn đau, biết chảy máu. > Nhận xét: • Âm thanh vỡ ra thành màu sắc, hình khối, thành dòng máu chảy > liên tục chuyển kênh để cảm nhận tiếng đàn. • Điệp từ “tiếng đàn” > nhịp thơ dồn dập, nghẹn ngào> như từng tiếng nấc, như nỗi uất xót trào lên. • Sự chuyển đổi của các kênh cảm giác gần như nhiễu loạn > diễn đạt chính xác dòng chảy của cảm xúc, của vô thức. c. Đoạn 3: Niềm xót thương không ai chôn tiếng đàn tiếng đàn như cỏ mọc hoang giọt nước mắt vầng trăng long lanh trong đáy giếng + Lời đề từ: “Khi tôi chết, hãy chôn tôi với cây đàn” > có thể hiểu theo nhiều nghĩa: - Sự gắn bó của Lor-ca với cây đàn > di nguyện ra đi với vật thể thiêng liêng theo mình suốt cuộc đời. - Sự thấu hiểu qui luật của sáng tạo và khát vọng cách tân nghệ thuật được tiếp nối. • Qui luật sáng tạo: sự tiếp thu và đổi mới > nghệ sĩ chỉ có thể sáng tạo nếu chôn vùi được cái bóng tiền nhân chùm lên sáng tác. • Cây đàn là biểu tượng của nghệ thuật Lor-ca > ước nguyện: có những tài năng nghệ thuật mới sẽ thay thế Lorca, vượt qua Lor-ca để tiếp tục công cuộc cách tân. + “Không ai chôn cất tiếng đàn/ Tiếng đàn như cỏ mọc hoang”: gợi nhiều liên tưởng - Không có ai tiếp nối sự nghiệp cách tân mà Lor-ca để lại > xót thương cho hành trình nghệ thuật chưa hoàn tất, khát vọng nghệ thuật còn dang dở > nghệ thuật Lor-ca thành “cỏ mọc hoang”, không người chăm bón > mãi là người nghệ sĩ độc hành trên miền sáng tạo. - Cỏ mọc hoang: có sức sống hoang dại, mãnh liệt, lan toả > nghệ thuật Lor-ca bất tử. - Hình ảnh đẹp và buồn được tổ chức theo nghệ thuật sắp đặt: giọt nước mắt- vầng trăng- long lanh trong đáy giếng > hệ hình ảnh gắn với thế giới nghệ thuật Lor-ca> vừa gần gũi vừa lạ lung > giao thoa, ánh xạ nhiều chiều > phức hợp cảm giác và suy tưởng về tiếng đàn Lor-ca, nghệ thuật Lor-ca, cái chết Lor-ca... d. Đoạn 4: Suy tư về cuộc giải thoát và cách giã từ của Lor-ca đường chỉ tay đã đứt dòng sông rộng vô cùng Lor-ca bơi sang ngang trên chiếc đàn ghi ta màu bạc chàng ném bùa cô gái Di-gan vào xoáy nước chàng ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt li-la li-la li-la… - Cái chết được diễn đạt qua: “đường chỉ tay đã đứt” “bơi sang ngang”, (con sông trở ngăn trở hai cõi: âm – dương), “lặng yên bất chợt” (cõi vĩnh hằng) - “ném” > hành động kiên quyết > tâm thế, tư thế của người chiến sĩ: sẵn sàng đón nhận cái chết. Nhưng đó không phải là cái chết “về với cát bụi” mà là cái chết hồi sinh, gieo mầm sự sống. - li-la-li-la: âm thanh là linh hồn của cây đàn > giai điệu li-la-li-la ngọt ngào xuất hiện 3 lần và khép lại bài thơ mở ra những liên tưởng vô tận. • Âm thanh tha thiết luyến láy > linh hồn của tiếng đàn còn vương mãi > sức sống nghệ thuật Lor-ca, tinh thần Lor-ca. • Tạo vùng văn hoá Tây Ban Nha, thế giới nghệ thuật Lor-ca..
<span class='text_page_counter'>(9)</span> Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh. A. MỞ BÀI Xuân Quỳnh là một gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ trẻ chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là một tiếng thơ trẻ trung, tươi mát, đầy nữ tính. Đặc điểm đặc sắc trong thơ tình yêu của Xuân Quỳnh là: vừa khát khao một tình yêu lí tưởng, vừa hướng tới hạnh phúc thiết thực của đời thường. Tất cả những điều ấy được thể hiện trong một hồn thơ giản dị, tự nhiên và hồn nhiên. Có thể nói, cùng với “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối mùa thu”, bài thơ “Sóng” đã kết tinh được tất cả những gì là sở trường nhất của hồn thơ Xuân Quỳnh. B. THÂN BÀI 1. Hình tượng “sóng” - Hình tượng trung tâm và nổi trội trong bài thơ, bao trùm cả bài thơ là hình tượng: Sóng + Sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ cũng như mọi sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ đều gắn liền với hình tượng sóng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình của một người phụ nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả. + “Sóng” là một hình tượng ẩn dụ, nó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của Xuân Quỳnh. “Sóng” và “em”, vừa hòa hợp là một, lại vừa phân đôi để soi chiếu, cộng hưởng. Tâm hồn người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng để biểu hiện những trạng thái của lòng mình. → Với hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã tìm được một cách thể hiện thật xác đáng tâm trạng của người phụ nữ trong tình yêu. - Hình tượng sóng được gợi ra trong cả bài thơ bằng âm điệu: Bài thơ có một âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng, lúc sôi nổi trào dâng, lúc thì thầm sâu lắng, gợi âm hưởng của những đợt sống miên man, vô tận. Âm hưởng ấy được tạo nên bởi thể thơ năm chữ, với những câu thơ liền mạch, từng không ngắt nhịp, các khổ thơ được gắn kết với nhau bằng cách nối vần (“Khi nào ta yêu nhau”... “Con sóng dưới lòng sâu”) →Nhịp sóng đó cũng chính là nhịp lòng của tác giả, một tâm trạng đang xao động, trào dâng, miên man và chất chứa những khát khao, rạo rực. 2. Khổ thơ là một khám phá về sóng, mỗi khổ thơ sóng lại hiện ra một ý nghĩa khác. Khổ 1: Mở đầu bài thơ, sóng hiện ra với một ý nghĩa rất đặc biệt: sóng mang nữ tính “Dữ dội và dịu êm”... “Sóng tìm ra tận bể”. - Xuân Quỳnh thấy sóng mang trong mình khí chất của người phụ nữ. Khổ thơ thứ nhất là tiếng nói đầu kiêu hãnh về giới mình của người phụ nữ này. Trong khí chất của sóng có sự hài hoà của các đối cực: vừa dữ dội nhất vừa dịu êm nhất, vừa ồn ào nhất vừa lặng lẽ nhất. - Mỗi con sóng nhỏ lại mang trong mình một khát vọng lớn. Vì mang khát vọng lớn mà sóng trở nên quyết liệt: khi “sóng không hiểu nổi mình”, thì “sóng tìm ra tận bể”→Sóng từ bỏ chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến sự lớn lao, bao dung, khoáng đạt. Khổ 2:Biển là hình ảnh của sự bất diệt. Đối diện với sự bất diệt có thực của biển, Xuân Quỳnh liên tưởng đến sự bất diệt khác: sự bất diệt của khát vọng tình yêu. Biển ngàn đời vẫn cồn cào, xáo động, cũng như tình yêu muôn đời vẫn bồi hồi vỗ sóng “trong ngực trẻ: “Ôi con sóng... ngực trẻ”(khổ 2) Khổ 3 + 4: Đến khổ thứ ba, sóng lại hiện lên với một ý nghĩa khác: Nguồn gốc của sóng cũng là nguồn gốc bí ẩn của tình yêu. Đứng trước biển, người phụ nữ muốn cắt nghĩa về nguồn gốc của sóng để tìm lời đáp cho câu hỏi về sự khởi nguồn của tình yêu trong trái tim mình. “Sóng bắt đầu... ta yêu nhau” (Khổ 3) → Mọi nỗ lực để cắt nghĩa về tình yêu của Xuân Quỳnh cuối cùng trở nên bất lực. Nhà thơ “thú nhận” thành thực, hồn nhiên mà không kém ý nhị, sâu sắc: “Em cũng không biết nữa - Khi nào ta yêu nhau”. Khổ 5: Tình yêu đi liền với nỗi nhớ. Tâm hồn đang yêu ở đây lại soi vào sóng để diễn tả cái sâu sắc, bao la của nỗi nhớ trong lòng mình, nó choán đầy cả tầng sâu và bề rộng, nó chiếm lĩnhtrọn cả thời gian, cả ngày lẫn đêm: “Con sóng dưới... không ngủ được” - Sóng như nỗi lòng của người con gái: “Lòng em nhớ đến anh - Cả trong mơ còn thức” →Em “thức” cả trong mơ →Nỗi nhớ không chỉ chiếm lĩnh ý thức mà còn thấm sâu vào tiềm thức. Khổ 6 + 7:Tình yêu sôi nổi, nồng nhiệt của Xuân Quỳnh cũng lại là một tình yêu chân thành trong sáng, một tình yêu đòi hỏi sự gắn bó thủy chung. Như mọi con sóng dù “muôn vời cách trở” nhưng vẫn hướng vào bờ và nhất định tới bờ, thì lòng em cũng thế: “Dẫu xuôi về... một phương” Khổ 8: Sóng là niềm thấp thỏm, lo âu về sự hữu hạn của đời người và sự mong manh của hạnh phúc. Những nỗi niềm ấy xuất phát từ một khát vọng mãnh liệt về sự vĩnh cửu của tình yêu. “Cuộc đời... bay về xa” Khổ 9: Cứ thế lời thơ triền miên cùng sóng... Cuối cùng sóng hiện ra trong khát khao hạnh phúc mãnh liệt nhất: khao khát bất tử. “Làm sao được... ngàn năm còn vỗ”. → Đứng trước biển, cũng là đối diện với sự vô cùng vô tận của không gian, sự vô thủy vô chung của thời gian và thấy đời người thật ngắn ngủi... Xuân Quỳnh muốn được có mặt mãi trên cõi đời này. Để được sống, được bất tử trong tình yêu. Sống trong tình yêu là hạnh phúc, là khát vọng vĩnh hằng..
<span class='text_page_counter'>(10)</span> => Bài thơ kết thúc, nhưng những con sóng trong trái tim say đắm của Xuân Quỳnh vẫn cồn cào trong ngực, trong lồng ngực của những đôi lứa yêu nhau... Con sóng tình yêu không bao giờ ngừng nghỉ. Mãi mãi dào dạt, “bồi hồi trong ngực trẻ”. C. KẾT BÀI I. MỞ BÀI Thơ Tố Hữu dễ đến với mọi tấm lòng, không chỉ vì nội dung mà còn do giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc. Điều này được bộc lộ khá rõ trong phần đầu bài thơ Việt Bắc. II. THÂN BÀI 1. Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết của Tố Hữu trong Việt Bắc a) Bài thơ nói đến nghĩa tình cách mạng nhưng thi sĩ lại dùng giọng của tình thương, lời của người yêu để trò truyện, giãi bày tâm sự. Cả bài thơ được viết theo lối đối đáp giao duyên của nam nữ trong ca dao, dân ca, và phần đầu này cũng thế - nó là lời giãi bày tâm sự giữa người đi (người về xuôi) với người ở lại là đồng bào Việt Bắc. Mười lăm năm cách mạng thành mười lăm năm ấy tha mặn nồng, người đi người ở thành mình - ta, ta mình quấn quýt bên nhau trong một mối ân tình sâu nặng. Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn. b) Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết ấy tạo nên âm hưởng trữ tình sâu đậm của khúc hát ân tình cách mạng Việt Bắc, từ khúc hát đạo đầu Mình về mình có nhớ ta... đến những lời nhắn gửi, giãi bày Mình đi có nhớ những ngày - Mình về rừng núi nhớ ai... Ta đi ta nhớ những ngày - Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi..., đến những nỗi nhớ da diết sâu nặng: Nhớ gì như nhớ người yêu, Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương. Nhớ từng băn khói cùng sương, Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. …..Nhớ người mẹ nắng cháy lưng, Dịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô. 2. Nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc trong Việt Bắc a) Thể thơ: Trong phần đầu (cũng như cả bài thơ), Tố Hữu đã sử dụng thể thơ dân tộc, đó là thể thơ lục bát. Thi sĩ đã nhuần nhuyễn thể thơ này và có những biến hoá, sáng tạo cho phù hợp với nội dung, tình ý câu thơ. Có câu tha thiết sâu lắng như bốn câu mở đầu, có câu nhẹ nhàng thơ mộng (Nhớ gì như nhớ người yêu...) lại có đoạn hùng tráng như một khúc anh hùng ca (Những đương Việt Bắc của ta... Đèn pha bật sáng như ngày mai lên) b) Kết cấu: Kết cấu theo lối đốì đáp giao duyên của nam nữ trong ca dao dân ca là kết cấu mang đậm tính đân tộc. Nhờ hình thức kết cấu này mà bài thơ có thể đi suốt một trăm năm mươi câu lục bát không bị nhàn chán. c) Hình ảnh: Tố Hữu có tài sử dụng hình ảnh dân tộc một cách tự nhiên và sáng tạo trong bài thơ: Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn; mưa nguồn suối lũ; bước chân nát đá (sáng tạo từ câu ca dao: trông cho chân cứng đá mềm) . Có những hình ảnh chắt lọc từ cuộc sống thực cũng đậm tính dân tộc: miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai; hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son và đặc biệt là tình đậm đà của tình giai cấp: Thương nhau chia củ sắn lùi, Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. d) Ngôn ngữ: Tính dân tộc được thể hiện rõ nhât trong cặp đại từ nhân xưng ta - mình, mình - ta quấn quýt với nhau và đại từ phiến chỉ ai. Đây là một sáng độc đáo và cũng là một thành công trong ngôn ngữ thơ ca của Tố Hữu. nhạc điệu: Trong bài thơ là nhạc điệu dân tộc với thể thơ lục bát nhịp nhàng, thiết, ngọt ngào, sâu lắng nhưng biến hoá, sáng tạo, không có đơn điệu (có hùng tráng như cảnh "Việt Bắc ra quân", trang nghiêm như cảnh buổi họp trung ương, chính phủ...) III. KẾT BÀI Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân của Tố Hữu đã góp phần quan trọng vào thành công của bài thơ Việt Bắc, cho nó nhanh chóng đến với người đọc và vẫn sống mãi trong lòng nhân ta từ khi ra đời cho đến hôm nay. Văn mẫu phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng Cuộc kháng chiến chống Pháp đi qua để lại những dâu ấn không thể phai mờ trong tâm hồn dân tộc. Đó là điểm hội tụ của muôn triệu tấm lòng yêu nước môi trường thử thách tinh thần chiến đấu ngoan cường, bất khuất của nhân dân ta. Cuộc kháng chiến còn làm nảy sinh biết bao hình ảnh đẹp mà đẹp nhất là hình ảnh người lính. Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên..., Tây Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc. Đoàn quân Tây Tiến quy tụ một lực lượng đông đảo đủ mọi tầng lớp thanh niên từ khắp phố phường Hà Nội. Có nhiều thanh niên học sinh thuộc tầng lớp trí thức tiểu tư sản vừa rời trang sách nhà trường để tham gia vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Tất cả những con người ấy ra đi với lí tưởng chung của dân tộc chiến đâu bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Họ ra đi không hẹn ngày trở về chiến đấu với.
<span class='text_page_counter'>(11)</span> mục đích "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" Cái tinh thần ấy là hào khí của cả một thế hệ, đã từng được phản ánh trong một bài hát thời đó: Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi, Nào có sá chi đâu ngày trở về. Trong đoàn người nô nức lên đường đi chiến đấu, trong hàng ngũ những thanh niên trí thức ngày hôm qua có khi là những tự vệ chiến đấu trên phố phường, chiến lũy Hà Nội, mà hôm nay đã có mặt trong đoàn quân Tây Tiến, thấp hoáng xuất hiện một khuôn mặt: Quang Dũng, tác giả của bài thơ. Như bao thanh niên trí thức của Hà Nội ngày ấy, Quang Dũng cũng háo hức gia nhập đoàn quân Tây Tiến với một niềm say mê của tuổi trẻ và một chút lãng mạn của những người thanh niên "nho sĩ quý tộc" ảnh hưởng trong Chinh phụ ngâm: Giã nhà đeo bức chiến bào hay Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao. Cũng chính vì thế mà những thanh niên như Quang Dũng sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hi sinh để chiến đấu đến ngày thắng lợi cuối cùng. Vào Tây Tiến, Quang Dũng cùng sống và chiến đấu một thời gian với đơn vị này và sau đó chuyển sang đơn vị khác. Một ngày ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ về những người đồng đội, nhớ về những tháng ngày chiến đấu gian nan nhưng hào hùng, nhớ đơn vị cũ, nhớ những con đường hành quân mà ông cùng đơn vị từng đi qua. Nỗi nhớ ấy dần lớn lên trong Quang Dũng, bật ra thành hai câu thơ: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi. Cuộc sống chiến đấu của Tây Tiến cùng những nơi mà đơn vị đã đi qua hẳn là những kỉ niệm hết sức sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ. Hẳn một phần quãng đời Quang Dũng gắn bó với Tây Tiến là cuộc sống hoạt động trong vùng rừng núi. Bởi thế, nhà thơ nhớ về Tây Tiến là nhớ ngay về sông Mã, nhớ về rừng núi với bao kỉ niệm vui buồn, ấn tượng về một miền rừng núi khắc nghiệt đã để lại trong tâm hồn nhà thơ dấu ẩn chẳng phai mờ. Vì thế, Quang Dũng nhớ về những tháng ngày đã qua với một tình cảm yêu thương lắm nhưng chẳng biết gọi lên chính xác nỗi nhớ ây. Nhớ chơi vơi! hai liếng chơi vơi dùng ở đây thật là đắc địa. diễn tả một nỗi nhớ không có hình, không có lượng nhưng hình như rất nặng và mênh mang đầy ắp. Cái tâm trạng nhớ ấy ta đã bắt gặp không chỉ một lần trong ca dao: Ra về nhớ bạn chơi vơi, hoặc: Nhớ ai bổi hổi bồi hồi, Như đứng đống lửa, như ngồi đống than. Quang Dũng lấy nỗi nhớ trong ca dao để tượng trứng thêm cho nỗi nhớ chơi vơi của mình, thật là chi tiết đắt giá! Ngay từ đầu bài thơ, ông đã miêu tả vùng rừng núi ấy thiết tha như thế làm cho người đọc chú ý ngay. Nhớ Tây Tiến, nhớ về sông Mã và núi rừng trùng điệp, nhớ con đường hành quân: Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi. Con đường hành quân điệp trùng với bao cái khắc nghiệt, dữ dội của mỗi vùng rừng biên ải. Đọc đoạn thơ, chưa cẩn suy ngẫm nội dung bên trong, chúng ta đã có thể hình dung ra con đường mà Quang Dũng miêu tả. Kết câu đoan thơ cứ thanh bằng thanh trắc đan chéo nhau, trải dài ra miên man, vô tận như con đường xa thẳm khấp khểnh. Nhạc điệu êm ả, triền miên. Đoàn quân Tây Tiến đi trong lớp sương dày của núi rừng, tất cả lung linh trong lớp sương khói mờ ảo, như thực, như mộng. Thế nhưng, mỗi địa danh đều gợi lên trong người đọc về hình ảnh của một xứ lạ, phương xa; nếu ta chỉ thử thay Sài Khao bằng một tên gọi khác là lớp sương huyền ảo ấy lan biến ngay. Đoàn quân Tây Tiến cất bước , trên con đường xa vạn dặm, với cái trắc trở, gập ghềnh của con đường. Đã dốc lên khúc khuỷu mà còn dốc thăm thẳm, đã ngàn thước lên cao rồi lại ngàn thước xuống thì đúng là đến độ cao chất ngất, ngoằn ngoèo khó đi. Tất cả những đặc điểm ấy diễn tả nổi khó khăn của đoàn quân Tây Tiến khi hành quân. Nó ghi lại ấn tượng về một miền rừng núi thật là dữ dội và khắc nghiệt Quang Dũng có những cách dùng từ rất tinh tế mà cũng hết sức tinh nghịch: núi cao chạm mây nổi thành cồn heo hút, và để diễn tả chiều cao của núi thì chỉ ba chữ súng ngửi trời nghe thật ngộ nghĩnh. Phải chăng đó là cách gọi của lính mà Quang Dũng ghi lại với tư cách một người trong cuộc? Dù sao, qua những từ ngữ, chi tiết và cách kết hợp thanh điệu của đoạn thơ cũng đã vẽ lên trước mát ta hình ảnh một miền rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến đã từng đi qua. Có những câu thơ dùng toàn vần bằng rất hay: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
<span class='text_page_counter'>(12)</span>