Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Tài liệu Luận văn Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 1998 - 2001 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 52 trang )





Luận văn
Bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh tại Bảo Việt Hà Nội
giai đoạn 1998 - 2001


1
Mục lục
Ngu n s li u: Phòng b o hi m cháy v r i ro h n h p - B o Vi t H N i.ồ ố ệ ả ể à ủ ỗ ợ ả ệ à ộ .24
S li u b ng 1 cho th y t l doanh thu b o hi m gián o n kinh doanh ố ệ ả ấ ỷ ệ ả ể đ ạ
chi m m t t l r t khiêm t n so v i t ng doanh thu c a B o Vi t H N i. ế ộ ỉ ệ ấ ố ớ ổ ủ ả ệ à ộ
Tuy nhiên, chúng ta c ng nh n th y r ng doanh thu c a nghi p v n y ng y ũ ậ ấ ằ ủ ệ ụ à à
c ng t ng c v s t ng i l n s tuy t i. Trong khi nhi u nghi p v à ă ả ề ố ươ đố ẫ ố ệ đố ề ệ ụ
b o hi m khác nh b o hi m trách nhi m dân s xe c gi i, b o hi m xây ả ể ư ả ể ệ ự ơ ớ ả ể
d ng l p t, ang có xu h ng gi m d n doanh thu khai thác do ph i i ự ắ đặ đ ướ ả ầ ả đố
m t v i s c nh tranh gay g t c a các công ty b o hi m khác thì nghi p v ặ ớ ự ạ ắ ủ ả ể ệ ụ
b o hi m n y l i ang mang l i cho B o Vi t H N i doanh thu ng y c ng ả ể à ạ đ ạ ả ệ à ộ à à
t ng h n qua các n m tri n khai. i u ó ch ng t b o hi m gián o n kinh ă ơ ă ể Đ ề đ ứ ỏ ả ể đ ạ
doanh l m t nghi p v y ti m n ng, h a h n mang l i ngu n thu không à ộ ệ ụ đầ ề ă ứ ẹ ạ ồ
nh cho B o Vi t H N i.ỏ ả ệ à ộ 24
N mă 38
Chi dự phòng nghiệp vụ 38
N mă 40
(1) 40
2
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, thực hiện đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,


vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta đã
có sự biến đổi sâu sắc và mạnh mẽ. Cùng với sự đi lên của nền kinh tế Việt Nam, hoạt
động kinh doanh bảo hiểm cũng phát triển hết sức sôi động. Thị trường bảo hiểm Việt Nam
hiện nay đã xuất hiện nhiều nghiệp vụ bảo hiểm mới nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của
người tham gia bảo hiểm. Trong số những nghiệp vụ bảo hiểm mới xuất hiện đó phải kể
đến nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, một nghiệp vụ đóng vai trò quan trọng
trong việc giảm thiểu những hậu quả ảnh hưởng của rủi ro đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp, góp phần ổn định và phát triển nền kinh tế.
Trong thời gian thực tập tại phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp thuộc công ty Bảo
hiểm Hà Nội, được tiếp xúc với nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, tôi nhận thấy
tuy đây là một nghiệp vụ bảo hiểm mới mẻ nhưng rất có tiềm năng trên thị trường Việt
Nam. Tuy nhiên, quá trình triển khai nghiệp vụ này tại công ty Bảo Việt Hà Nội còn gặp
nhiều khó khăn. Với mong muốn được nghiên cứu, tìm hiểu tình hình triển khai nghiệp vụ
gián đoạn kinh doanh, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ
này, tôi đã chọn "Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 1998 -
2001" làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. Mặc dầu vậy, do thời gian quá ngắn
cũng như phạm vi thực tập chỉ giới hạn trong "Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp"
nên trong luận văn này tôi sẽ đi sâu vào nghiên cứu về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau
cháy tại Công ty Bảo hiểm Hà Nội giai đoạn 1998 - 2001.
Kết cấu luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1 : Lý luận chung về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh.
Chương 2 : Thực tiễn triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
tại Công ty Bảo hiểm Hà Nội.
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động kinh doanh bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Công ty bảo
hiểm Hà Nội
3
Mặc dù rất cố gắng, song do thời gian quá eo hẹp và trình độ nghiên cứu có hạn, vì vậy
luận văn này không tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong nhận được sự đóng góp
chân tình từ phía các thầy cô giáo và độc giả để luận văn này được hoàn thiện hơn.

4
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG
VỀ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH
1.1. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH
DOANH
1.1.1. Sự ra đời của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
Bảo hiểm là một hoạt động tài chính, có tính chất chuyên ngành mà thông qua các hoạt
động này các cá nhân và tổ chức kinh tế xã hội cùng tham gia đóng góp một khoản tiền
nhất định để tạo lập nên quĩ bảo hiểm và khoản đóng góp đó gọi là phí bảo hiểm. Khi
không may gặp phải những rủi ro, tổn thất ngoài mong đợi của các thành viên đóng góp thì
lúc đó quĩ bảo hiểm sẽ phát huy tác dụng của nó là giúp đỡ các thành viên này nhanh
chóng ổn định sản xuất và đời sống, tiếp tục công việc kinh doanh một cách bình thường.
Ngày nay, hoạt động bảo hiểm chủ yếu được thực hiện thông qua hoạt động kinh doanh
bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm.
Nhìn lại sự ra đời và phát triển của bảo hiểm, chúng ta thấy bảo hiểm có nguồn gốc từ rất
xa xưa trong lịch sử nền văn minh nhân loại. Tuy vậy, khi mới ra đời thì các nghiệp vụ bảo
hiểm không phong phú, đa dạng như ngày nay. Xã hội ngày càng phát triển, hoạt động
kinh doanh ngày càng hoàn thiện đã dần dần làm nảy sinh nhiều nhu cầu bảo hiểm mới.
Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là một trong các nghiệp vụ bảo hiểm mới đó. So với bảo
hiểm hàng hải hay bảo hiểm hoả hoạn, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh ra đời muộn hơn rất
nhiều. Vào những năm đầu của thế kỷ XX, mặc dù bị sự thúc ép của chính phủ và yêu cầu
của các nhà sản xuất nhưng các công ty bảo hiểm ở Anh vẫn chưa tiến hành bất cứ loại
hình bảo hiểm "tổn thất hậu quả" nào. Sự chậm trễ đó là do tính phức tạp trong việc phân
tích các chi phí tài chính, xác định phạm vi bảo hiểm trong điều kiện nền kinh tế chính trị
chưa ổn định. Sau đó, với sự ra đời của hai nguyên tắc Herry Booth & Commercial Union
(năm 1923) và Polikoff Ltd vs North British and Mercantile (năm 1936) mới thật sự đặt
nền móng cho bảo hiểm gián đoạn kinh doanh hình thành và phát triển.
5
Khi mới triển khai, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh được biết đến dưới tên gọi "bảo hiểm

mất lợi nhuận" hay "tổn thất hậu quả" do mục đích của nó là bồi thường cho người được
bảo hiểm đối với trường hợp bị mất lợi nhuận và các chi phí phụ để tiếp tục kinh doanh.
Những tổn thất này thường xuất hiện sau một khiếu nại thiệt hại về một vụ cháy hay sau
những tổn thất được bảo hiểm khác. Trong thực tế, những loại bảo hiểm chính (như bảo
hiểm cháy, kỹ thuật) sẽ bảo hiểm cho tổn thất hay thiệt hại cơ bản, tuy nhiên người được
bảo hiểm vẫn chưa được đền bù hoàn toàn vì anh ta phải chịu những chi phí bổ sung chưa
được bảo hiểm theo các đơn bảo hiểm này. Do đó, việc xuất hiện bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh là một nhu cầu hoàn toàn khách quan, cần thiết.
Mặc dù "mầm mống" ra đời của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đã xuất hiện từ những
năm 1920 như đã đề cập ở trên, nhưng phải đến năm 1985 sự giao dịch của bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh mới xuất hiện tại Uỷ ban tổn thất hậu quả (một bộ phận trong Uỷ ban bảo
hiểm hoả hoạn ở Anh). Đây là nơi đánh dấu sự ra đời bản mẫu đầu tiên về đơn bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh. Mẫu đơn này đã được thông qua và sử dụng ở một số nước Tây Âu.
Vào tháng 10 năm 1989, Hiệp hội các nhà bảo hiểm London (ABI) đã xem xét lại mẫu đơn
này trên cơ sở thống nhất lại phạm vi bảo hiểm và sau đó chính thức phát hành. Từ đó đến
nay, hầu hết các quốc gia đều áp dụng theo mẫu đơn đó.
Ngày nay, ở các nước phát triển, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đã trở nên thông dụng và
phổ biến rộng rãi. Nó đã góp phần đắc lực vào việc ổn định tâm lý cũng như an toàn sản
xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp.
Ở Việt nam, nghiệp vụ này mới được triển khai khoảng chục năm trở lại đây trên cơ sở
mẫu đơn của nước Anh. Tuy mới triển khai nhưng loại hình này đã khẳng định được vị trí,
vai trò và tiềm năng cũng như những ưu điểm không thua kém gì các nghiệp vụ "đàn anh,
đàn chị" khác. Những năm gần đây, nghiệp vụ này đã thu hút được sự chú ý của nhiều nhà
bảo hiểm. Vào thời gian từ 18 đến 22/08/1997 tại Hà nội đã diễn ra hội thảo bảo hiểm
ngừng trệ kinh doanh (hay bảo hiểm gián đoạn kinh doanh) do Muniche và Vinare đồng tổ
chức. Từ đó đến nay, hàng năm các công ty bảo hiểm đều liên kết với nhau tổ chức hội
thảo đề cập tới vấn đề này. Điều này khẳng định vai trò quan trọng của bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh trong việc đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh cho mọi thành phần kinh tế,
tạo tâm lý ổn định cho các nhà đầu tư,
6

Tóm lại, nếu ta coi bảo hiểm thiệt hại vật chất là điều kiện cần thì bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh sẽ là điều kiện đủ trong một đơn bảo hiểm hỗn hợp.
1.1.2. Vai trò kinh tế xã hội của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
1.1.2.1. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là "lá chắn kinh tế" của các doanh nghiệp, góp
phần giảm thiểu những hậu quả ảnh hưởng của các rủi ro đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp
Trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh
nghiệp đôi khi xảy ra những rủi ro bất ngờ mà không ai lường trước được. Các rủi ro đã và
đang gây nên những tổn thất, thiệt hại về tài sản, về tính mạng của con người, làm gián
đoạn quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật được ứng
dụng trong sản xuất kinh doanh, từ đó làm cho qui mô của hoạt động sản xuất kinh doanh
ngày càng mở rộng. Do vậy, giá trị tài sản của doanh nghiệp ngày càng lớn. Nếu chẳng
may rủi ro thiệt hại xảy ra thì hậu quả thường rất nặng nề và ảnh hưởng lâu dài không chỉ
tới bản thân chính doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến cả các doanh nghiệp, cá nhân
thường xuyên có quan hệ với doanh nghiệp. Sự ra đời của các công ty bảo hiểm đã giúp
các đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định tình hình sản xuất, đảm bảo công việc kinh doanh
được tiến hành bình thường. Thông qua việc bồi thường một cách kịp thời, chính xác,
trung thực đã giúp cho các doanh nghiệp nhanh chóng khắc phục được hậu quả thiệt hại.
Bên cạnh đó, với sự chuyển đổi của cơ chế quản lý, Nhà nước đã chủ động giao vốn cho
các doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước. Trong việc bảo tồn và phát triển
vốn, các doanh nghiệp không có sự hỗ trợ nhiều của Nhà nước như trong thời kỳ bao cấp
trước đây. Nếu khi có thiệt hại gì xảy ra, doanh nghiệp không được quyền ghi giảm vốn
đặc biệt là những thiệt hại gây ra bởi các rủi ro các công ty bảo hiểm trong nước đã triển
khai hay với các loại hình tương tự. Vì vậy bảo hiểm sẽ là "lá chắn kinh tế" để đảm bảo sự
bảo toàn vốn cho các doanh nghiệp khi không may gặp phải những thiệt hại của thiên tai
hoặc do sự sơ suất vô ý của người lao động.
Trên thực tế, sau khi rủi ro xảy ra đối với một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh
thì hầu như mọi hoạt động không thể tiến hành bình thường như kế hoạch đã đặt ra trước.
Từ đó dẫn đến nhiều khoản tổn thất không được bồi thường trong đơn bảo hiểm tài sản như

chi phí về thuê nhà, trụ sở, chi trả lương công nhân viên Để khắc phục tình trạng doanh
7
nghiệp có thể bị phá sản hoặc lâm vào tình thế khó khăn khi phải đối mặt với các tổn thất
đó, tham gia bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là cách tốt nhất để bù đắp thiệt hại. Khi tham
gia loại hình bảo hiểm này, nếu tổn thất xảy ra, các cơ quan, doanh nghiệp không những
được bồi thường cho những khoản chi phí nói trên mà còn được bù đắp phần lợi nhuận
ròng bị mất mát mà lẽ ra họ có thể nhận được nếu như không có tổn thất xảy ra. Vậy cùng
với đơn bảo hiểm tài sản, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đã góp phần làm hạn chế đến
mức tối thiểu những hậu quả ảnh hưởng của các rủi ro tới hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp.
1.1.2.2. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh góp phần mang lại sự an toàn trong xã hội
Trong điều kiện nền kinh tế mở cửa như hiện nay, nước ta đã thu hút được lượng lớn vốn
đầu tư không những của các nhà đầu tư trong nước mà còn của các nhà đầu tư nước ngoài.
Các nhà đầu tư, vì mục đích kinh doanh của mình, luôn quan tâm đến việc bảo toàn và phát
triển vốn, làm sao có thể an toàn nhất tránh các rủi ro đáng tiếc xảy ra với đồng vốn của họ.
Tuy nhiên, trong sản xuất kinh doanh có nhiều yếu tố rủi ro mang tính ngẫu nhiên xảy ra
bất cứ lúc nào và không loại trừ bất cứ ai. Các công ty bảo hiểm là các doanh nghiệp kinh
doanh hoạt động trên cơ sở xử lý, chuyển giao, phân tán rủi ro, vì vậy để hoạt động kinh
doanh có hiệu quả hơn, cần thiết các doanh nghiệp bảo hiểm phải tìm cách giảm thiểu xác
suất xảy ra rủi ro. Một trong số các biện pháp mà các doanh nghiệp bảo hiểm đang áp
dụng rất hiệu quả đó là biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất nhằm bảo vệ đối tượng bảo
hiểm. Hàng năm, các công ty bảo hiểm thường trích ra một khoản theo tỉ lệ nhất định trên
cơ sở nguồn phí thu được để thực hiện các biện pháp phòng tránh cần thiết có hiệu quả
nhất. Phí thu được từ các đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tất yếu sẽ có phần đóng góp
trong đó. Vì vậy, có thể nói bảo hiểm gián đoạn kinh doanh góp phần đề phòng, hạn chế
tổn thất, mang lại sự an toàn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói riêng và cho
toàn xã hội nói chung.
1.1.2.3. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước,
thúc đẩy kinh tế phát triển
Cũng như nhiều nghiệp vụ bảo hiểm khác nói riêng và những loại hình kinh doanh dịch vụ

khác nói chung, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà
nước, đặc biệt tăng nguồn thu từ ngoại tệ cho Nhà nước. Một phần nguồn phí thu được từ
nghiệp vụ bảo hiểm này hàng năm được đóng góp vào ngân sách Nhà nước để sử dụng vào
8
các mục đích chính trị, xã hội. Ngoài ra, một phần phí thu được tạm thời nhàn rỗi từ các
hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đã tạo ra lượng vốn lớn để phát triển nền kinh tế
thông qua việc đầu tư.
Tất cả những gì đã nêu trên là minh chứng rõ ràng và đầy đủ cho sự cần thiết của việc tham
gia bảo hiểm gián đoạn kinh doanh.
1.2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH
1.2.1. Đặc điểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh "bảo hiểm cho các tổn thất mất giảm thu nhập thực tế và
tiềm năng cũng như các phụ phí phát sinh từ hậu quả của tổn thất vật chất" [3,5/7]. Do vậy,
nó có một số các đặc điểm riêng biệt so với các loại bảo hiểm khác như sau:
- Đặc điểm về đối tượng bảo hiểm:
Khi có một rủi ro xảy ra, ví dụ một vụ hoả hoạn, gây thiệt hại tài sản, người được bảo hiểm
sẽ được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm tài sản (cụ thể là đơn bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro
đặc biệt). Với số tiền bảo hiểm nhận được, người được bảo hiểm có thể có đủ khả năng
khôi phục lại cơ sở hạ tầng, mua lại các thiết bị, máy móc, phục vụ cho việc sử dụng như
trước khi xảy ra rủi ro. Tuy vậy, nếu như số tài sản bị thiệt hại đang được sử dụng cho mục
đích sản xuất kinh doanh thì nhà kinh doanh sẽ phải chịu cả những thiệt hại về mặt kinh
doanh như mất lợi nhuận, mất khả năng kinh doanh trong một thời gian nhất định. Hơn thế
nữa, anh ta phải chịu những chi phí như chi phí thuê nhà xưởng, chi phí trả lương cho công
nhân viên, lãi suất ngân hàng, mặc dù không thực hiện sản xuất kinh doanh hoặc những
chi phí thuê nhà xưởng, máy móc tạm để tiếp tục sản xuất kinh doanh trong thời gian sửa
chữa, phục hồi cơ sở sản xuất. Nói cách khác, tuỳ vào mức độ thiệt hại gây ra mà công việc
kinh doanh bình thường của người được bảo hiểm sẽ bị ngưng trệ hoặc giảm sút. Chúng ta
hãy cùng xem xét ví dụ minh hoạ sau đây:
Hình dưới đây miêu tả tổn thất về doanh thu có thể xảy ra sau một vụ cháy nghiêm trọng.
Cần chú ý rằng doanh thu (số tiền doanh nghiệp thu được) sẽ chỉ trở lại bình thường sau 9

tháng kể từ khi có vụ cháy xảy ra cho dù công việc xây dựng lại chỉ mất 3 tháng. Trường
hợp này xảy ra do nguyên nhân một số khách hàng không chắc chắn được liệu công ty có
tiếp tục kinh doanh nữa hay không và nếu khách hàng có thể dễ dàng tìm ra những hãng
cung cấp thay thế thì thời gian hồi phục kinh doanh sẽ bị kéo dài. Khác hẳn với thiệt hại
9
vật chất, thiệt hại mà nhà kinh doanh phải gánh chịu trong trường hợp bị ngừng trệ kinh
doanh là rất trừu tượng và được cụ thể hoá vào thời điểm trong tương lai khi mà doanh
nghiệp của người được bảo hiểm trở lại tình trạng vốn có như trước khi tổn thất xảy ra. Nói
tóm lại, đối tượng của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là đối tượng vô hình.
(Nguồn: Hình 4.1 - [17, 112])
Trong biểu đồ trên, người ta đã giả định một doanh thu tĩnh song trong thực tế, rất nhiều
ngành nghề biến động theo mùa và tất nhiên cần phải xem xét yếu tố này khi giải quyết bất
kỳ khiếu nại nào. Vì vậy, trong đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh thường nêu rõ công
thức sẽ được sử dụng khi giải quyết bồi thường tổn thất.
- Đặc điểm về giai đoạn bồi thường:
Một đặc trưng cơ bản của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là người được bảo hiểm được
chọn một "giai đoạn bồi thường". Đó là giai đoạn mà theo tính toán của người được bảo
hiểm sẽ đủ để người đó khôi phục lại kinh doanh, hoàn toàn khôi phục lại khả năng hoạt
động và doanh thu kể cả khi đã xảy ra vụ hoả hoạn nghiêm trọng nhất. Người được bảo
hiểm sẽ chọn "giai đoạn bồi thường" tối đa, có thể là 12 tháng, 18 tháng, , và "giai đoạn
bồi thường" sẽ được đưa vào hợp đồng bảo hiểm. "Giai đoạn bồi thường" tối đa phụ thuộc
vào các yếu tố sau:
"+Thời gian để sửa chữa, xây dựng lại tài sản bị thiệt hại. Thời gian này được tính bao gồm
cả thời gian thiết kế, lên kế hoạch và cả thời gian xin các loại giấy phép.
+ Thời gian thay thế máy móc, nguyên vật liệu. Việc đánh giá chính xác khoảng thời gian
này là rất quan trọng và phụ thuộc vào loại máy móc, nguyên vật liệu. Nếu như doanh
10
Chá
y
T12 T3 T6 T9 T12

Thời kỳ
xây dựng lại
Doanh thu
nghiệp sử dụng các máy móc, nguyên vật liệu phải nhập khẩu hoặc loại đặc biệt thì việc ổn
định tình hình kinh doanh trong một thời gian ngắn là hết sức khó khăn.
+ Thời gian cần thiết để khôi phục năng suất và tính hiệu quả kinh doanh trở về bình
thường như trước khi xảy ra tổn thất, bao gồm cả thời gian để giành lại những khách hàng
đã mất." [5, 6].
- Đặc điểm về tổn thất vật chất:
Điều kiện tiên quyết để người được bảo hiểm có quyền đòi bồi thường theo đơn bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh là "tại thời điểm xảy ra tổn thất, các thiệt hại của các tài sản của
người được bảo hiểm tại địa điểm được bảo hiểm phải được bảo vệ bởi một đơn bảo hiểm
thiệt hại vật chất" [2, 1]. Điều kiện này được biết đến trong ngành bảo hiểm thế giới như
"qui định tổn thất vật chất" (material damage provisio). Qui định này có nghĩa là trước khi
giải quyết khiếu nại gián đoạn kinh doanh, phải có một khiếu nại theo đơn thiệt hại vật chất
đã được thanh toán bồi thường hay trách nhiệm theo đơn bảo hiểm đó đã được chấp nhận.
Vì vậy, thông thường bảo hiểm gián đoạn kinh doanh chỉ là đơn bảo hiểm mở rộng phạm
vi bảo hiểm của một đơn bảo hiểm vật chất. Rủi ro trong đơn bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh, trừ những trường hợp loại trừ, phải trùng khớp với rủi ro trong đơn bảo hiểm thiệt
hại vật chất.
1.2.2. Nội dung cơ bản trong hợp đồng bảo hiểm nói chung và trong hợp đồng bảo
hiểm gián đoạn kinh doanh nói riêng
1.2.2.1 . Hợp đồng bảo hiểm
1.2.2.1.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm
"Hợp đồng bảo hiểm là một thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm,
theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền
bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự
kiện bảo hiểm" [6,16].
Như vậy, đứng trên góc độ pháp lý thì hợp đồng bảo hiểm thực chất là một hợp đồng kinh
tế trong đó một bên đồng ý bồi thường, trả tiền bảo hiểm cho bên kia khi xảy ra sự kiện

bảo hiểm với điều kiện bên kia chấp nhận đóng phí bảo hiểm. Theo hợp đồng bảo hiểm,
mối quan hệ nhất định giữa hai bên ràng buộc với nhau bởi hai vấn đề cơ bản: bồi thường
và nộp phí bảo hiểm.
11
1.2.2.1.2. Điều kiện pháp lý áp dụng trong hợp đồng bảo hiểm
Có hai loại điều kiện được áp dụng cho hợp đồng bảo hiểm, đó là:
 Điều kiện ngầm định
 Điều kiện rõ ràng
a) Điều kiện ngầm định
Trong thực tế, có những điều kiện ngầm định không được thể hiện bằng văn bản nhưng hai
bên phải luôn tuân thủ trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng.
- Quyền lợi được bảo hiểm: Trong luật bảo hiểm Anh và nhiều nước, trong đó có Việt Nam
có qui định về quyền lợi được bảo hiểm. Theo đó, để có đủ năng lực pháp lý tham gia vào
hợp đồng bảo hiểm thì người tham gia bảo hiểm phải là người có quyền lợi khi đối tượng
bảo hiểm đó bị thiệt hại. Điều đó có nghĩa là đối tượng bảo hiểm, đặc biệt là tài sản phải
thuộc quyền sử dụng hay quản lý hợp pháp của các cơ quan doanh nghiệp, các cá nhân và
tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế trong xã hội và họ chính là người tham gia bảo hiểm.
- Tín nhiệm tuyệt đối: Điều kiện "tín nhiệm tuyệt đối" được áp dụng trong quan hệ bảo
hiểm giữa người bảo hiểm đối với người tham gia bảo hiểm. Điều đó có nghĩa là người
tham gia bảo hiểm phải có trách nhiệm kê khai trung thực, đầy đủ và chính xác giá trị tài
sản hoặc là tình trạng sức khoẻ, trong phạm vi kiến thức và sự hiểu biết của họ khi người
bảo hiểm yêu cầu. Những thông tin này là cơ sở để người bảo hiểm có chấp nhận bảo hiểm
cho đối tượng bảo hiểm hay không. Người tham gia bảo hiểm không được thực hiện bất cứ
hành vi man trá hay gian dối nào trong thời gian hiệu lực cuả hợp đồng nhằm trục lợi. Việc
tuân thủ đúng nguyên tắc này đóng vai trò quan trọng trong việc giao dịch bảo hiểm.
-Bồi thường: Khi có sự cố rủi ro thuộc trách nhiệm bảo hiểm gây thiệt hại cho người được
bảo hiểm, người được bảo hiểm sẽ được bồi thường theo đúng qui định của hợp đồng.
Hiện nay có ba hình thức bồi thường được sử dụng:
+ Thanh toán bằng tiền mặt. Đây chính là hình thức phổ biến nhất. Công ty bảo hiểm xác
định giá trị tổn thất thực tế bằng tiền và thực hiện bồi thường cho khách hàng.

+ Sửa chữa đối với loại tài sản bị tổn thất còn khả năng sửa chữa.
+ Thay thế hay phục hồi, phương pháp này thường được áp dụng trong trường hợp tổn thất
toàn bộ.
12
Đó là các điều kiện ngầm định được áp dụng trong hợp đồng bảo hiểm. Hai điều kiện đầu
được coi là hai điều kiện quan trọng phải được thực hiện trước khi hình thành hợp đồng.
Trong trường hợp những điều kiện này không được tuân thủ, tính hợp lệ của toàn bộ hợp
đồng sẽ không được đảm bảo.
b) Những điều kiện rõ ràng
Cùng với việc thực hiện những điều kiện ngầm định, giữa người bảo hiểm và người được
bảo hiểm cũng có những "điều kiện rõ ràng" được qui định bằng văn bản trong hợp đồng
bảo hiểm buộc hai bên cùng phải tôn trọng thực hiện. Các điều kiện đó sẽ được xem xét
một cách cụ thể trong phần tiếp theo của hợp đồng bảo hiểm.
1.2.2.1.3. Kết cấu và nội dung của hợp đồng bảo hiểm
* Đơn yêu cầu bảo hiểm:
Đơn yêu cầu bảo hiểm là hình thức phổ biến nhất để công ty bảo hiểm có thể nhận được
các thông tin liên quan tới rủi ro sẽ được bảo hiểm. Đối với hầu hết các loại bảo hiểm,
người yêu cầu bảo hiểm sẽ điền vào đơn yêu cầu bảo hiểm và nộp cho công ty bảo hiểm.
Các đơn này có thể do công ty bảo hiểm gốc hoặc môi giới bảo hiểm hay trung gian bảo
hiểm cung cấp.
Trong hầu hết các đơn bảo hiểm thường có những câu hỏi chung như sau:
 Tên, địa chỉ của người yêu cầu bảo hiểm (nếu bảo hiểm liên quan đến cá nhân có thể có
câu hỏi liên quan đến nghề nghiệp, tuổi tác).
 Thời gian yêu cầu bảo hiểm.
 Ngành nghề kinh doanh.
 Cơ sở tính phí bảo hiểm (đồ đạc, nhà cửa, bảng lương, doanh thu, )
Bên cạnh đó cũng có những câu hỏi liên quan đến các rủi ro cụ thể. Nói cách khác, một
đơn yêu cầu bảo hiểm sẽ chứa đựng các câu hỏi chung và riêng, và tất cả các câu hỏi đó
đều có giá trị đối với công ty bảo hiểm.
Đơn yêu cầu bảo hiểm chính là cơ sở của hợp đồng bảo hiểm và là một phần không thể

thiếu trong hợp đồng bảo hiểm.
* Đơn bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm:
13
Sau khi đơn yêu cầu bảo hiểm được trình bày hợp lý và công ty bảo hiểm chấp nhận đơn
đó, công ty bảo hiểm sẽ cấp cho người được bảo hiểm đơn bảo hiểm kèm theo giấy chứng
nhận bảo hiểm. Đơn bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm là bằng chứng về việc xác lập
hợp đồng, trong đó bao gồm mọi chi tiết về việc bảo hiểm. Trong đơn bảo hiểm và giấy
chứng nhận bảo hiểm phải đề cập được các nội dung sau:
 Tên, địa chỉ doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc
người thụ hưởng.
 Đối tượng bảo hiểm
 Số tiền bảo hiểm, giá trị tài sản được bảo hiểm đối với bảo hiểm tài sản
 Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm
 Thời hạn bảo hiểm
 Mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí bảo hiểm
 Thời hạn, phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường
 Các qui định giải quyết tranh chấp
 Ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng
Ngoài ra còn có thể có những nội dung khác do các bên thoả thuận.
1.2.2.2. Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh giống như bất kỳ một hợp đồng bảo hiểm nào
đều mang đầy đủ các nội dung cũng như đặc điểm của một hợp đồng bảo hiểm như đã đề
cập ở phần lý luận trên. Tuy nhiên, do tính đặc thù của loại nghiệp vụ bảo hiểm này nên nó
cũng có những đặc điểm riêng so với các loại hợp đồng bảo hiểm khác. Trong phần lý luận
sau, do phạm vi nghiên cứu của đề tài này như đã đề cập ở phần giới thiệu, sẽ chỉ đề cập
tới hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy.
1.2.2.2.1. Một số khái niệm về doanh thu, chi phí cố định, chi phí biến đổi, lợi nhuận
thuần, lợi nhuận gộp
"Doanh thu bán hàng là toàn bộ các khoản doanh thu về tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch
vụ" [11, 83]. Đây là bộ phận chủ yếu, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng doanh thu. Ngoài ra,

doanh thu còn từ các hoạt động khác bao gồm các khoản từ hoạt động đầu tư tài chính (thu
từ hoạt động đầu tư, thu về việc mua bán chứng khoán, lãi kí quĩ, hoàn nhập dự phòng
14
giảm giá chứng khoán, cho thuê tài sản, lãi tiền gửi, lãi tiền cho vay ), và từ hoạt động bất
thường (thu về nhượng bán thanh lý tài sản cố định, thu từ phạt vi phạm hợp đồng, nợ khó
đòi đã đòi được, nợ phải trả không xác định được chủ, thu nhập năm trước bị bỏ sót ).
"Chi phí cố định là những chi phí có đặc trưng cơ bản là tổng số của nó không thay đổi khi
khối lượng kinh doanh thay đổi" [18,90]. Khoản chi phí này là những khoản chi phí tồn tại
ngay cả khi không tiến hành sản xuất kinh doanh, ví dụ như tiền thuê nhà xưởng, thuê đất,
tài sản cố định,
"Chi phí biến đổi là chi phí biến đổi thuận chiều với sự thay đổi khối lượng kinh doanh của
doanh nghiệp" [18,90], ví dụ như chi phí mua nguyên vật liệu, chi phí thuê nhân công hợp
đồng
"Lợi nhuận thuần là khoản lợi nhuận thu được sau khi đã trừ đi tất cả các khoản dự phòng,
các chi phí cố định kể cả những chi phí khấu hao, nhưng phải được tính trước khi trừ đi các
loại thuế tính trên thu nhập" [5, appendix A]
"Lợi nhuận gộp = [Doanh thu + (giá trị hàng tồn kho và hàng hoá đang trong kì sản xuất ở
cuối kỳ - giá trị hàng hoá đang trong kỳ sản xuất đầu kì) - tổng chi phí sản xuất không
được bảo hiểm]" [5, appendix A].
1.2.2.2.2. Đối tượng bảo hiểm
Như đã đề cập trong phần đặc điểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, đối tượng bảo
hiểm trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là đối tượng vô hình. Khác với các loại nghiệp
vụ bảo hiểm thiệt hại vật chất có đối tượng bảo hiểm là hữu hình, đối tượng bảo hiểm trong
bảo hiểm gián đoạn kinh doanh do đặc tính trừu tượng như vậy đã gây rất nhiều khó khăn
cho các nhà bảo hiểm. Đây cũng chính là lý do khiến cho một nghiệp vụ bảo hiểm rất quan
trọng như bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đã ra đời quá muộn so với các nghiệp vụ khác.
Theo đơn bảo hiểm qui chuẩn của Anh quốc mà ngày nay rất nhiều quốc gia trên thế giới
cũng đang sử dụng thì đối tượng bảo hiểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là "tổn thất
mang tính hậu quả do việc ngừng trệ hay gián đoạn" [5, 6].
1.2.2.2.3. Số tiền bảo hiểm

Khác với số tiền bảo hiểm trong các nghiệp vụ bảo hiểm thiệt hại vật chất được xác định
dựa trên giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm của bảo hiểm gián đọan kinh doanh được xác
định dựa trên giá trị lợi nhuận gộp hàng năm của doanh nghiệp tham gia bảo hiểm. Số tiền
15
bảo hiểm trong loại hình nghiệp vụ này do người được bảo hiểm xác định, được tính từ số
liệu kế toán của người được bảo hiểm và phải thể hiện được giá trị lợi nhuận gộp ước tính
trong tương lai của doanh nghiệp được bảo hiểm. Để xác định giá trị đó, số liệu kế toán của
năm gần nhất sẽ được sử dụng. Tuy nhiên, thường thì người ta sử dụng số liệu kế toán của
hai hoặc ba năm liên tiếp nhằm tránh những biến động bất thường có thể ảnh hưởng tới
tính chính xác của số liệu. "Khi thời hạn bồi thường là 12 tháng hoặc thấp hơn, số tiền bảo
hiểm phải là giá trị hàng năm của lợi nhuận gộp. Nếu thời hạn bồi thường vượt quá 12
tháng số tiền bảo hiểm phải là lợi nhuận gộp cho thời hạn bồi thường được chọn" [5, 7]. Ví
dụ nếu thời hạn bồi thường là 3 năm thì số tiền bảo hiểm là 3 lần giá trị lợi nhuận gộp hàng
năm.
Tuy vậy, mục đích của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh không những bảo hiểm phần lợi
nhuận bị mất đi so với cùng kỳ năm trước mà còn bồi thường cho thêm cả phần lợi nhuận
họ sẽ thu được theo tỉ lệ tăng doanh thu bình quân năm kế tiếp. Để tránh sự đánh giá thấp
của số tiền bảo hiểm, người ta còn phải tính đến hệ số tăng bình quân doanh thu của hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp bằng cách so sánh nhiều năm tài chính dựa trên cơ sở
kế toán tính trước khi kí kết hợp đồng gián đoạn kinh doanh. Bằng cách đó người ta có thể
tính được số tiền bảo hiểm như sau:
Số tiền bảo hiểm =
Lợi nhuận
gộp cả năm
x
hệ số tăng
bình quân
x
thời hạn bồi thường
tính bằng tháng

1.2.2.2.4. Phạm vi bảo hiểm:
"Công ty bảo hiểm sẽ chỉ bồi thường cho người được bảo hiểm những tổn thất mang tính
hậu quả do việc ngừng trệ hay gián đoạn kinh doanh với điều kiện:
(1) tại thời điểm xảy ra tổn thất, các thiệt hại của các tài sản của người được bảo hiểm phải
được bảo vệ bởi một đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất và:
(i) công ty bảo hiểm của đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất đã xác nhận trách nhiệm
hoặc đã thanh toán bồi thường.
hoặc
16
(ii) công ty bảo hiểm của đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất đáng nhẽ đã xác nhận
trách nhiệm hoặc đã thanh toán tiền bồi thường nhưng do điều kiện của đơn
bảo hiểm thiệt hại vật chất sẽ không bồi thường cho những tổn thất nhỏ hơn
mức trách nhiệm đã kê khai trong đơn bảo hiểm.
(2) trách nhiệm của công ty bảo hiểm, trong mọi trường hợp, sẽ không vượt quá :
(i) Tổng số tiền bảo hiểm hay số tiền bảo hiểm tương ứng với mỗi khoản mục
được kê khai trong giấy chứng nhận bảo hiểm
(ii) Bất cứ trách nhiệm được đưa ra trong giấy chứng nhận bảo hiểm hay bất cứ số
tiền bảo hiểm nào được sửa đổi bởi các sửa đổi bổ sung đính kèm và được ký
xác nhận bởi công ty bảo hiểm hay người đại diện cho công ty bảo hiểm" [2,
1].
1.2.2.2.5. Điều khoản loại trừ
"Đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh không bảo hiểm cho các tổn thất do hậu quả của:
- Thiệt hại do thiết kế sai, khuyết tật của nguyên vật liệu hay do tay nghề kém; do những
khuyết tật ẩn tì; do sự thoái hoá dần giá trị hoặc do sự biến dạng, hao mòn tự nhiên; do
việc ngừng cung cấp điện, nước, khí đốt hay các nguồn nguyên liệu khác hay do sự hư
hỏng của hệ thống thải rác; do ăn mòn, gỉ; do sự thay đổi độ ẩm hay khô của thời tiết; do
nấm mốc mục nát; do hao hụt bay hơi, do hư hại do tác động của ánh sáng, sâu bọ côn
trùng; do các hành động lừa dối không trung thực.
- Thiệt hại do những mất mát không giải thích được, những thiếu hụt do lỗi kế toán, lỗi
kiểm kê, quản lý hành chính.

- Thiệt hại do đổ vỡ, rạn nứt hay áp suất quá tải của nồi hơi, bình đun bằng hơi, bình hay
đường ống dò gỉ; do hư hỏng trục trặc máy móc thiết bị về đo điện hay cơ khí; vỡ, tràn
nước, tháo nước hay dò gỉ.
- Thiệt hại do sự xói mòn của sông biển; sụt lở đất, lún đất.
- Thiệt hại do tài sản bị biến mất, thiếu hụt khi kiểm kê trong quá trình vận chuyển ngoài
khu vực được đề cập hoặc không rõ nguyên nhân.
- Thiệt hại do thông tin bị tẩy xoá, mất mát, bóp méo trên hệ thống máy tính hoặc các
chương trình phần mềm lưu trữ số liệu khác.
17
- Thiệt hại đối với kính lắp cố định, kính và các đồ dễ vỡ khác, các máy điện toán, các
thiết bị xử lý dữ liệu, máy móc thiết bị đang lắp đặt, di chuyển, tài sản đang trong quá trình
kiểm tra, lắp đặt, sửa chữa, xây dựng, xe cơ giới đang lưu hành trên đường.
- Thiệt hại do bất kỳ hành động cố ý hay sự cẩu thả cố tình của người được bảo hiểm hay
bất kỳ ai đại diện cho họ.
- Thiệt hại do hậu quả dù trực tiếp hay gián tiếp của chiến tranh, xâm lược, các hành
động thù địch, nội chiến, binh biến, bạo động, hành động khủng bố
- Thiệt hại gây ra do người được bảo hiểm bị tước quyền sở hữu tạm thời hay vĩnh viễn
do bị tịch thu tài sản, trưng dụng tài sản theo lệnh của nhà cầm quyền hợp pháp.
- Thiệt hại trực tiếp hay gián tiếp hoặc phát sinh từ hậu quả hay do ảnh hưởng một phần
của bất kỳ nguyên liệu vũ khí hạt nhân nào, phóng xạ ion hoá hay do ô nhiễm phóng xạ"
[2, 3].
1.2.2.2.6. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm gián đoạn kinh doanh được tính trên cơ sở số tiền bảo hiểm do người được
bảo hiểm chọn (gọi là số tiền bảo hiểm đăng ký). Để đăng ký một hợp đồng bảo hiểm thiệt
hại kinh doanh người tham gia bảo hiểm phải thông báo một loạt số liệu về kế toán, đặc
biệt là tài khoản kết quả sản xuất kinh doanh thực hiện một số năm trước đó. Căn cứ vào
tài khoản này cộng thêm với lời khai báo, hai bên thỏa thuận với nhau về số tiền bảo hiểm
(cụ thể số tiền bảo hiểm ở đây là lợi nhuận gộp). Việc thoả thuận được số tiền bảo hiểm có
ý nghĩa vô cùng quan trọng cho công tác tính phí vì thực chất phí bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh được xác định như sau:

Phí bảo hiểm = số tiền bảo hiểm x tỉ lệ phí bảo hiểm
Tỉ lệ phí bảo hiểm phụ thuộc vào 3 yếu tố cơ bản:
- Xác suất rủi ro của nghiệp vụ bảo hiểm.
- Phạm vi bảo hiểm.
- Số tiền bồi thường cho một số năm trước đây.
Tuy vậy, trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, tỉ lệ phí bảo hiểm được tính dựa trên tỉ lệ
phí bảo hiểm chung cho rủi ro hoả hoạn.
18
Việc tính phí bảo hiểm còn phụ thuộc vào yếu tố thời gian, cụ thể là thời hạn bồi thường.
Thời hạn bồi thường càng cao có nghĩa là trách nhiệm bồi thường của nhà bảo hiểm càng
lớn, vì thế phí bảo hiểm cũng tăng tương ứng. Ví dụ, theo biểu phí Bảo Việt Hà Nội hiện
đang triển khai thì nếu thời hạn bồi thường là 3 tháng thì tỉ lệ phí bảo hiểm là 50% tỉ lệ phí
bảo hiểm của bảo hiểm hoả hoạn, nếu 6 tháng là 75%, nếu 12 tháng là 100%. Tuy nhiên,
thời hạn bồi thường tăng đến một mức nhất định thì phí bảo hiểm có xu hướng giảm dần
do cơ sở tính phí sẽ thay đổi.
1.2.2.2.6. Thời hạn và phương thức bồi thường
Bồi thường là nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm. Trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, rất
khó xác định số tiền bồi thường mặc dù đã có công thức xác định cách giải quyết tổn thất
được ghi trong nội dung đơn bảo hiểm. Kế toán của người được bảo hiểm thường tham gia
xác định mức lãi kinh doanh của doanh nghiệp sẽ thu được nếu như vụ hoả hoạn hay một
hiểm hoạ nào đó không xảy ra.
Vấn đề bồi thường trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh khác với bồi thường trong thiệt
hại vật chất. Nếu như mục đích của bảo hiểm bồi thường trong các đơn bảo hiểm thiệt hại
vật chất là đưa người bảo hiểm trở về vị trí giống như trước khi xảy ra tổn thất , thì đối với
bảo hiểm gián đoạn kinh doanh lại không hoàn toàn như vậy. Chúng ta hãy xem xét một ví
dụ ngắn. Một nhà sản xuất hàng phục vụ lễ Giáng Sinh.Và hiện giờ hàng đang trong nhà
kho chờ ngày đem bán. Một vụ cháy xảy ra ở nhà kho, phá huỷ hầu hết số hàng hoá phục
vụ cho Giáng Sinh. Như vậy ta sẽ thấy ngay có một số nhân tố khiến hầu như không thể
đưa người được bảo hiểm trở về vị trí tài chính giống như trước khi xảy ra tổn thất như nhà
sản xuất đã bỏ lỡ thị trường, mất khách hàng Vì vậy, đối với các đơn bảo hiểm gián đoạn

kinh doanh, bồi thường có thể được coi là một nỗ lực đưa người bảo hiểm trở về vị trí tài
chính mà lẽ ra người đó sẽ phải có nếu như tổn thất không xảy ra.
Để xác định số tiền thiệt hại lợi nhuận gộp, công thức sau thường được sử dụng:
Tỉ lệ lợi nhuận gộp = lợi nhuận được đảm bảo
Tổng giá trị các tài khoản thu nhập liên
quan đến hoạt động của doanh nghiệp
19
Thiệt hại doanh
thu thực tế
=
doanh thu lẽ ra
được thực hiện
-
doanh thu thực tế
được thực hiện
Thiệt hại lợi nhuận
gộp
=
thiệt hại doanh thu
thực tế
x
tỉ lệ lợi nhuận
gộp
Thiệt hại lợi nhuận gộp cho phép ta xác định được số tiền bồi thường tối đa, nhưng phải trừ
đi mức miễn thường (thường được tính bằng ngày trong bảo hiểm thiệt hại kinh doanh).
"Giả định, mỗi đơn vị doanh thu bao gồm 0,6 đơn vị là chi phí mua nguyên vật liệu và các
chi phí biến đổi khác, 0,3 đơn vị là chi phi cố định, 0,1 đơn vị là lợi nhuận ròng. Tuy
nhiên, khi xảy ra tổn thất làm gián đoạn kinh doanh thì người được bảo hiểm sẽ không phải
gánh chịu tổn thất của cả 1 đơn vị doanh thu đó mà sự giảm doanh thu sẽ kéo theo việc
giảm tương ứng chi phí biến đổi, vì vậy người bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm đối với

0,6 đơn vị chi phí mua nguyên vật liệu và các chi phí biến đổi khác mà chỉ cần bồi thường
0,4 đơn vị chi phí cố định và lợi nhuận ròng là có thể đưa người được bảo hiểm trở về tình
trạng tài chính mà lẽ ra người đó có nếu như tổn thất không xảy ra". [5, 61]. Do đó, số thiệt
hại lợi nhuận gộp là số tiền bồi thường tối đa mà người được bảo hiểm có thể nhận được.
Tuy nhiên trên thực tế, như đã phân tích trong ví dụ trên, thì số tiền bồi thường sẽ hiếm khi
đạt được bằng số thiệt hại lợi nhuận gộp.
Yếu tố thời hạn bồi thường được đưa vào đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh khác hoàn
toàn so với đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất, thời hạn bồi thường trong bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh được ghi rõ trong đơn bảo hiểm và phải do người được bảo hiểm tự chọn.
CHƯƠNG 2
THỰC TIỄN TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ
BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH
TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM HÀ NỘI TỪ NĂM 1998 - 2001
2.1. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN
KINH DOANH TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM HÀ NỘI
20
2.1.1. Giới thiệu chung về Công ty bảo hiểm Hà Nội
Công ty bảo hiểm Hà Nội (gọi tắt là Bảo Việt Hà Nội) được thành lập từ năm 1980 theo
quyết định số 1125/QĐ-TCCB ngày 17/11/1980 của Bộ Tài chính, và trực thuộc Tổng
công ty Bảo hiểm Việt Nam. Nhiệm vụ chủ yếu của Bảo Việt Hà Nội là tổ chức hoạt động
kinh doanh bảo hiểm thương mại trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trải qua 21 năm hoạt
động liên tục, công ty Bảo Việt Hà Nội đã không ngừng lớn mạnh cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu. Từ lúc đầu thành lập chỉ có 10 cán bộ với một phòng nhỏ làm trụ sở, đến nay
Bảo Việt Hà Nội đã trở thành một đơn vị kinh tế mạnh với đội ngũ hàng trăm cán bộ bảo
hiểm, có trụ sở chính khang trang, thành lập các văn phòng trực thuộc tại tất cả các quận,
huyện trên địa bàn thành phố cùng mạng lưới cộng tác viên, đại lý phủ kín các địa bàn dân
cư của thành phố, sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của nhân dân, trở thành một đơn vị chủ
lực của Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam. Theo cơ cấu tổ chức văn phòng hiện nay, song
song với nhiệm vụ khai thác khách hàng, văn phòng công ty có chức năng quản lý và giám
sát hoạt động của các văn phòng địa phương trực thuộc. Bởi vậy, ngoài các phòng ban phụ

trách các vấn đề tổ chức nhân sự, kế toán, , những phòng nghiệp vụ ngoài nhiệm vụ trực
tiếp tiến hành kinh doanh các nghiệp vụ trên địa bàn mà công ty phân cấp còn có chức
năng giúp đỡ các văn phòng tại các quận, huyện trong việc quan hệ với khách hàng, cân
nhắc chấp nhận bảo hiểm, phát hành hợp đồng bảo hiểm, xử lý khiếu nại, giám định và bồi
thường.
Cơ cấu tổ chức hiện nay của Bảo Việt Hà Nội được biểu hiện qua sơ đồ sau:
21
Phòng
BH
Ho n à
Kiếm
Phòng
BH
Ba
Đình
Phòng
BH
Đống
Đa
Phòng
BH
Hai B à
Trưng
Phòng
BH
Thanh
Xuân
Phòng
BH
Gia

Lâm
Phòng
BH
Đông
Anh

Giám đốc
Phó Giám
đốc
Phó Giám
đốc
Phòng
BH
Phi
h ng à
hải
Phòng
BH
H ng à
hải
Phòng
kiểm tra
nội bộ
Phòng
tổng
hợp
Phòng
BH kỹ
thuật
Phòng

BH
cháy &
rủi ro
hỗn hợp
Phòng
BH
quốc
phòng
Phòng
giám
định bồi
thường
Trong vài năm gần đây, kinh tế xã hội của cả nước nói chung và thủ đô nói riêng tiếp tục
ổn định và phát triển. Đây là yếu tố thuận lợi cho công tác kinh doanh của các doanh
nghiệp bảo hiểm nói chung và của Bảo Việt nói riêng. Được sự quan tâm chỉ đạo và ủng hộ
của lãnh đạo Tổng công ty, sự hợp tác giúp đỡ thường xuyên của các phòng ban thuộc
Tổng công ty, cán bộ công nhân viên của Bảo Việt Hà Nội đã từng bước tích luỹ kinh
nghiệm trong hoạt động cạnh tranh. Hơn nữa, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cán bộ công
ty cũng luôn đoàn kết nhất trí trên dưới một lòng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kinh doanh
của Tổng công ty và Nhà nước giao cho. Năm nào Bảo Việt Hà Nội cũng hoàn thành vượt
mức kế hoạch kinh doanh, đạt tốc độ tăng trưởng cao về doanh số và tỷ lệ tích luỹ, đóng
góp không nhỏ vào thành tích chung của Tổng công ty và của ngành bảo hiểm nói chung.
Đó là những dấu hiệu đáng mừng đối với Bảo Việt Hà Nội. Bên cạnh đó, hoạt động của
Công ty Bảo Việt Hà Nội cũng gặp nhiều khó khăn do sự cạnh tranh của thị trường bảo
hiểm cao hơn những năm trước. Địa bàn thủ đô là nơi diễn ra sự cạnh tranh quyết liệt
không chỉ giữa các công ty bảo hiểm trong nước mà còn với công ty bảo hiểm nước ngoài.
Bảo Việt Hà Nội phải cạnh tranh với các công ty khác không những về tỉ lệ phí, chi kinh
doanh mà còn cả những yếu tố về phục vụ. Việc mở rộng hoạt động của các công ty bảo
hiểm nước ngoài trên thị trường làm cho tính cạnh tranh giữa các công ty bảo hiểm trong
nước vốn đã gay gắt nay càng thêm khốc liệt dẫn đến việc phí bảo hiểm có xu hướng giảm,

nhất là trong các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm. Doanh thu phí bảo
hiểm của các hoạt động này giảm đáng kể do phí bảo hiểm giảm và phải chia xẻ phí do
đồng bảo hiểm. Hơn nữa, trong năm 2000 và 2001, tốc độ giải ngân các nguồn vốn đầu tư
cho các dự án trên địa bàn Hà Nội còn chậm làm ảnh hưởng đến kế hoạch khai thác nghiệp
vụ bảo hiểm xây dựng, lắp đặt.
Trước điều kiện khó khăn như vậy, công ty đã tổ chức phục vụ tốt khách hàng để giữ vững
địa bàn và phát triển kinh doanh, đồng thời áp dụng linh hoạt chính sách của Nhà nước, các
22
quy định của Tổng công ty vào hoạt động kinh doanh. Một biện pháp quan trọng Bảo Việt
Hà Nội đang thực hiện nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng dịch vụ, đảm bảo khả năng
cạnh tranh là thay đổi phương thức hạch toán kinh doanh, giao khoán cụ thể hoạt động
kinh doanh cho từng phòng, và các phòng phải có nhiệm vụ tương hỗ nhau nhằm thực hiện
chỉ tiêu kinh doanh tốt hơn.
Với phương châm "phục vụ khách hàng là phục vụ chính mình", "đáp ứng những cái khách
hàng cần chứ không phải những gì mình có", Bảo Việt Hà Nội đã không ngừng đổi mới
phong cách làm việc để phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn. Vì vậy, Bảo Việt Hà Nội
vẫn luôn là người bạn đồng hành tin cậy của khách hàng.
Ngoài ra, nhằm đảm bảo khả năng bồi thường cho khách hàng và năng lực nhận bảo hiểm
cho các dự án đầu tư lớn, hiện nay Bảo Việt Hà Nội thông qua Tổng công ty bảo hiểm Việt
Nam đã quan hệ với nhiều công ty tái bảo hiểm, các công ty giám định, điều tra tổn thất có
uy tín trên toàn thế giới như Lloyd's, Commercial Union (UK), AIG, CIGNA (Mỹ), Tokyo
Marine, Yasuda Mitsui Marine (Nhật), Muniche (Đức), Trong vài năm gần đây, Bảo Việt
Hà Nội đã nhận được sự cộng tác, giúp đỡ tận tình của các công ty này trong việc đánh giá,
chấp nhận rủi ro, thanh tra và xử lý khiếu nại.
2.1.2. Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo
Việt Hà Nội
Mặc dù bảo hiểm hoả hoạn là một nghiệp vụ bảo hiểm xuất hiện từ rất xa xưa trong lịch sử
phát triển của bảo hiểm, nhưng tại Việt Nam nói chung và tại Bảo Việt Hà Nội nói riêng,
mãi đến ngày 17/1/1989 nghiệp vụ bảo hiểm cháy (hay bảo hiểm hoả hoạn) mới chính thức
được triển khai theo quyết định số 06-TC-QĐ của Bộ Tài chính. Ngay sau khi được triển

khai, nghiệp vụ bảo hiểm này đã khẳng định ngay vai trò quan trọng của nó qua việc doanh
thu phí bảo hiểm tăng đều đặn qua các năm và ngày càng chiếm tỉ trọng lớn trong tổng
doanh thu phí của tất cả các nghiệp vụ. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tuy là
một nghiệp vụ mở rộng phạm vi của bảo hiểm cháy và đóng vai trò không kém phần quan
trọng so với bảo hiểm cháy nhưng thực chất nó lại không ra đời vào thời điểm bảo hiểm
cháy bắt đầu được triển khai. Phải cho tới năm 1994, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh mới
bắt đầu được đưa vào thử nghiệm. Từ khi đưa vào triển khai, số đơn bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh sau cháy do Bảo Việt Hà Nội kí được với khách hàng vẫn chưa nhiều, chủ yếu
là với các công ty liên doanh và các công ty 100% vốn nước ngoài. Hầu hết các đơn bảo
23
hiểm được cấp thông qua môi giới. Chúng ta có thể xem qua tỉ trọng của doanh thu bảo
hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội thông qua bảng sau:
Bảng 1: Tỉ trọng doanh thu bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt
Hà Nội giai đoạn 1998 - 2001
Năm
Doanh thu bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh
sau cháy(tr. đ)
Doanh thu
toàn công ty
(tr. đ)
Tỷ lệ doanh thu bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh sau
cháy/ doanh thu toàn công ty
(%)
1998 399 79.068 0,50
1999
505 87.653 0,58
2000 650 74.887 0,87
2001 895 75.800 1,18

Nguồn số liệu: Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp - Bảo Việt Hà Nội.
Số liệu bảng 1 cho thấy tỷ lệ doanh thu bảo hiểm gián đoạn kinh doanh chiếm một tỉ lệ rất
khiêm tốn so với tổng doanh thu của Bảo Việt Hà Nội. Tuy nhiên, chúng ta cũng
nhận thấy rằng doanh thu của nghiệp vụ này ngày càng tăng cả về số tương đối lẫn
số tuyệt đối. Trong khi nhiều nghiệp vụ bảo hiểm khác như bảo hiểm trách nhiệm
dân sự xe cơ giới, bảo hiểm xây dựng lắp đặt, đang có xu hướng giảm dần doanh
thu khai thác do phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các công ty bảo hiểm
khác thì nghiệp vụ bảo hiểm này lại đang mang lại cho Bảo Việt Hà Nội doanh thu
ngày càng tăng hơn qua các năm triển khai. Điều đó chứng tỏ bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh là một nghiệp vụ đầy tiềm năng, hứa hẹn mang lại nguồn thu không nhỏ
cho Bảo Việt Hà Nội.
Hơn thế, với mục tiêu giữ khách hàng, đáp ứng đầy đủ yêu cầu của khách hàng trong thời
buổi cạnh tranh gay gắt như hiện nay, cùng với mục tiêu tăng trưởng và hiệu quả, ngoài
việc củng cố, hoàn thiện, tiếp tục phát triển các nghiệp vụ truyền thống có doanh thu cao,
Bảo Việt Hà Nội đã và đang tìm cách phát triển các nghiệp vụ khó khai thác như bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh sau cháy.
2.2. MỘT SỐ THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI TIẾN HÀNH TRIỂN KHAI
NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI
24
2.2.1. Những thuận lợi cơ bản
Khởi xướng từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), Việt Nam đã thực hiện
chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường dưới sự quản
lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể nói đây là sự "cởi trói"
tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi cho các đơn vị phát huy tiềm năng, thế mạnh của mình để
mở rộng và thúc đẩy sản xuất phát triển. Đại hội Đảng toàn quốc VI được đánh giá là sự
kiện làm "hồi sinh" nền kinh tế xã hội Việt Nam, một bước ngoặt của công cuộc đổi mới
toàn diện đưa đất nước từ chỗ bế tắc dần dần đi vào thế ổn định và khởi sắc. Từ đó đến
nay, Việt nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế xã hội như giữ
vững nền kinh tế tăng trưởng và ổn định, khống chế chỉ số lạm phát ở mức vừa phải, tăng
đầu tư trong nước và nước ngoài, tăng thu nhập doanh nghiệp, nâng cao đời sống người

dân về kinh tế cũng như về văn hoá xã hội, Điều kiện kinh tế, xã hội càng phát triển,
người dân không còn chỉ lo nghĩ đến cái ăn, cái mặc mà họ đã nghĩ xa hơn, đó là làm sao
để có cuộc sống ổn định. Đây chính là nền tảng cho ngành bảo hiểm Việt Nam phát triển.
Trong vài năm gần đây, trên thế giới xảy ra không biết bao nhiêu biến động cả về kinh tế
lẫn chính trị, ảnh hưởng đến nền kinh tế của hầu hết các quốc gia, đặc biệt là các nước phát
triển cao như Nhật, Hàn quốc, Thái Lan, Argentina, Đặc biệt vụ khủng bố xảy ra trên
nước Mỹ vào ngày 11/9/2001 đã làm cho kinh tế của rất nhiều quốc gia trên thế giới lao
đao và năm 2001 được đánh giá là một năm u tối trong lịch sử kinh tế thế giới. Trong bối
cảnh như vậy, Việt Nam là một trong số ít quốc gia vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng kinh
tế cao trong vài năm qua, năm 2001 tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta là hơn 6%. Hơn
nữa, đầu năm 2002, Việt Nam đã nhận danh hiệu "Thủ đô Hà Nội - thành phố an ninh nhất
thế giới" do UNESCO công nhận. Điều đó khẳng định rằng trong khi nền kinh tế, chính trị
thế giới có nhiều biến động phức tạp, rối ren thì Việt Nam vẫn là quốc gia có nền kinh tế,
chính trị ổn định, tạo môi trường an toàn thu hút đầu tư. Tất cả những điều đó đã tạo cơ hội
thuận lợi cho ngành bảo hiểm nước nhà phát triển, từ việc khai thác tới việc sử dụng tạm
thời nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư. Đặc biệt, khi đầu tư phát triển thì nhu cầu bảo toàn vốn
kinh doanh càng được chú trọng và điều đó tạo cơ sở vững chắc cho bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh tồn tại và phát triển.
Bên cạnh đó, do thực hiện xoá bỏ nhanh chóng cơ chế tập trung bao cấp, đổi mới cơ chế
quản lý, thực hiện giao vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước, làm cho việc bảo toàn và phát
25

×