Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Tài liệu Đồ án tốt nghiệp Hoàn thiện công tác kế toán nguyên vật liệu tại Công ty Thăng Long (TALIMEX) pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.3 KB, 60 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp

Đồ án tốt nghiệp
Hoàn thiện công tác kế toán
nguyên vật liệu tại Công ty
Thăng Long (TALIMEX)



Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3
Chuyên đề tốt nghiệp
mục lục
lời mở đầu
Chương 1. Những vấn Đề lý luận cơ bản về công tác kế toán NGUYÊN VậT LIệU
trong các doanh nghIệP sản xuất
1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và tính giá Nguyên vật liệu
Khái niệm, đặc điểm nguyên vật liệu
1.1.2. Phân loại nguyên vật liệu
.1.3. Phương pháp tính giá nguyên vật liệu
.1.4. Nhiệm vụ của hạch toán nguyên vật liệu
1.2. Tổ chức kế toán chi tiết nguyên vật liệu
1.2.1. Phương pháp thẻ song song
1.2.2. Kế toán chi tiết vật liệu theo phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển
1.2.3. Kế toán chi tiết vật liệu theo phương pháp sổ số dư
1.3. Tổ chức kế toán tổng hợp nguyên vật liệu
1.3.1. Kế toán tổng hợp vật liệu theo phương pháp kê khai thường xuyên
1.3.2. Kế toán tổng hợp vật liệu theo phương pháp kiểm kê định kì
1.4. Các hình thức sổ kế toán vậ17n dụng trong công tác kế toán nguyên vật liệu
1.4.1. Hình thức Nhật ký chung
1.4.2. Hình thức Nhật ký - Sổ cái
1.4.3. Hình thức Chứng từ ghi sổ


1.4.4 Hình thức Nhật ký chứng từ
1.5. Công tác kế toán nguyên vật liệu với việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên vật
liệu trong doanh nghiệp sản xuất
Chương 2: Thực trạng về công tác kế toán Nguyên vật liệu tại Công ty thăng long
(talimex)
2.1. Giới thiệu chung về Công ty Thăng Long (TALIMEX)
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty
2.1.2. Đặc điểm tổ chức quản lý của Công ty
2.1.3 Đặc điểm của bộ máy kế toán tại Công ty
2.1.4 Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm tại Công ty
2.2. Đặc điểm, phân loại và đánh giá nguyên vật liệu tại Công ty Thăng Long
2.2.1. Đặc điểm nguyên vật liệu ở công ty 31
2.2.2. Phân loại nguyên vật liệu tại Công ty Thăng Long
2.2.3 Đánh giá Nguyên vật liệu tại Công ty Thăng Long :
2.3. Tình hình thực tế về công tác tổ chức kế toán nguyên vật liệu
2.3.1. Chứng từ nhập, xuất nguyên vật liệu và phương pháp kế toán ban đầu
2.3.2. Kế toán chi tiết nguyên vật liệu tại công ty
2.3.3. Kế toán tổng hợp nguyên vật liệu tại Công ty
2.3.4. Công tác kế toán nguyên vật liệu thừa trong kiểm kê
Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương 3. Hoàn thiện công tác kế toán nguyên vật liệu tại công ty Thăng Long
(TALIMEX)
3.1 Nhận xét chung về công tác tổ chức kế toán nguyên vật liệu
3.1.1 Ưu điểm
3.1.2 Nhược điểm
3.2. Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác kế toán nguyên vật liệu tại Công ty Thăng
Long
3.2.1. Hoàn thiện việc ghi sổ kế toán theo hình thức Nhật ký chung
3.2.2 Lập bảng danh biểu

3.2.3. Hoàn thiện việc nhập-xuất-tồn kho vật liệu
3.2.4 Hoàn thiện việc ghi chép sổ chi tiết số 2
3.2.5. Hoàn thiện công tác kế toán chi tiết nguyên vật liệu
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3
Chuyên đề tốt nghiệp
Lời mở đầu
Trong những năm gần đây, chúng ta đang được chứng kiến sự chuyển mình phát
triển đi lên của nền kinh tế thế giới, và thực tế đã cho thấy một xu thế khách quan đang
diễn ra mang tính chất toàn cầu mà không một quốc gia, không một tập đoàn, không một
công ty nào lại không tính đến chiến lược kinh doanh của mình. Đó là xu thế quốc tế hoá
nền kinh tế thế giới, một xu thế đem lại sức mạnh về tài chính; tận dụng công nghệ nhằm
làm giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm cho tất cả những doanh nghiệp tham gia
vào guồng máy đó.
Việt Nam cũng không ngừng đổi mới để hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế
giới, có nhiều doanh nghiệp đã ra đời và không ngừng lớn mạnh. Nhưng để có tồn tại và
phát triển trong môi trường cạnh tranh gay gắt của thị trường các doanh nghiệp cần phải
xác định các yếu tố đầu vào sao cho hợp lý, phải quan tâm đến tất cả các khâu trong quá
trình sản xuất từ khi bỏ vốn ra đến khi thu hồi vổn về, đảm bảo thu nhập của đơn vị, hoàn
thành nghĩa vụ với nhà nước, cải tiến đời sống cho cán bộ công nhân viên và thực hiện tái
sản xuất mở rộng. Các doanh nghiệp cần phải hoàn thiện các bước thật cẩn thận và nhanh
chóng sao cho kết quả đầu ra là cao nhất, với giá cả và chất lượng sản phẩm có sức hút đối
với người tiêu dùng.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, yếu tố cơ bản để đảm bảo cho quá
trình sản xuất được tiến hành bình thường liên tục, đó là nguyên vật liệu, yếu tố đầu vào,
cơ sở tạo nên hình thái vật chất của sản phẩm.
Vì vậy vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải hạch toán và quản lý đầy đủ
chính xác nguyên vật liệu, phải đảm bảo cả ba yếu tố của công tác hạch toán là: chính xác,
kịp thời, toàn diện.

Trong sản xuất kinh doanh, chính sách giá cả chính là yếu tố để đứng vững và
chiến thắng trong sự cạnh tranh của cơ chế thị trường. Mặt khác, chỉ cần một sự biến động
nhỏ về chi phí nguyên vật liệu cũng có ảnh hưởng tới giá thành. Việc hạch toán đầy đủ
chính xác có tác dụng quan trọng đến việc hạch toán đầy đủ chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm. Để tăng cường hạch toán kế toàn đồng thời góp phần làm giảm sự lãng phí vật
tư. Vì vậy cần phải quản lý vật tư chặt chẽ, không có sự thất thoát lãng phí nhằm giảm giá
thành sản phẩm và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Công ty Thăng Long (TALIMEX) là một doanh nghiệp chuyên sản xuất sản phẩm
quần áo phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng và để xuất khẩu ra thị trường nước ngoài,
cho nên từ khâu chọn vật liệu cho tới tuyển tay nghề của công nhân viên đều phải được lựa
chọn kỹ. Và đặc biệt công tác hạch toán tại Công ty đòi hỏi phải chính xác và kịp thời để
cung cấp thông tin cho ban lãnh đạo Công ty.
Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3
Chuyên đề tốt nghiệp
Sau một thời gian thực tập tại phòng kế toán của Công ty Thăng Long, em nhận
thấy kế toán nguyên vật liệu tại Công ty giữ một vai trò quan trọng và có nhiều vấn đề cần
quan tâm. Do đó, trên cơ sở phương pháp luận đã học và qua thời gian tìm hiểu thực tế tại
Công ty, cùng sự giúp đỡ tận tình của các cô chú trong phòng kế toán và ban lãnh đạo
Công ty, đồng thời là sự hướng đẫn chu đáo của cô giáo Nguyễn Thị Thu Hiền, em đã
quyết định chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác kế toán nguyên vật liệu tại Công ty Thăng
Long (TALIMEX)”.
Kết cấu đề tài
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài
được kết cấu thành 3 chương:
Chương1: Những vấn đề lý luận cơ bản về công tác kế toán nguyên vật liệu trong
các doanh nghiệp sản xuất.
Chương 2: Thực trạng về côn tác kế toán nguyên vật liệu tại Công ty Thăng
Long (TALIMEX).
Chương 3: Hoàn thiện công tác nguyên vật liệu tại Công ty Thăng Long
(TALIMEX).

Vì thời gian và khả năng có hạn, nên bài chuyên đề của em không tránh khỏi sai
sót. Em rất mong được sự giúp đỡ, góp ý, bổ xung của các thầy cô giáo đặc biệt là cô giáo
Nguyễn Thu Hiền và cán bộ phòng kế toán Công ty Thăng Long (TALIMEX) để bài
chuyên đề của em thêm phong phú về lý luận và thiết thực với thực tế.
Chương 1
Những vấn Đề lý luận cơ bản về công tác kế toán NGUYÊN VậT LIệU trong các
doanh nghIệP sản xuất
Khái niệm, đặc điểm, phân loại và tính giá Nguyên vật liệu.
Khái niệm, đặc điểm nguyên vật liệu.
1.1.1.1Khái niệm:
Vật liệu là những đối tượng lao động, thể hiện dưới dạng vật hoá. Trong các doanh
nghiệp, vật liệu được sử dụng phục vụ cho việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hoặc thực hiện
dịch vụ hay sử dụng cho bán hàng, cho quản lý doanh nghiệp.
1.1.1.2 Đặc điểm:
Đặc điểm của vật liệu là chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất- kinh doanh nhất định và
toàn bộ giá trị vật liệu được chuyển hết một lần vào chi phí kinh doanh trong kỳ. Khi tham
gia vào hoạt động sản xuất - kinh doanh, vật liệu bị biến dạng hoặc tiêu hao hoàn toàn. Vật
Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3
Chuyên đề tốt nghiệp
liệu được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như mua ngoài, tự sản xuất, nhận vốn góp
liên doanh, vốn góp của các thành viên tham gia công ty, …, trong đó, chủ yếu là do doanh
nghiệp mua ngoài.
1.1.1.3 Vai trò của nguyên vật liệu:
Có thể nói, vật liệu vô cùng quan trọng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đối với những doanh nghiệp sản xuất (Công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản vật
liệu là yếu tố vô cùng quan trọng, chi phí vật liệu thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số
chi phí để tạo thành sản phẩm). Do vậy vật liệu không chỉ quyết định đến số lượng sản
phẩm mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm tạo ra. Nguyên vật liệu có đảm
bảo quy cách, chủng loại sự đa dạng thì sản phẩm sản xuất ra mới đạt yêu cầu và phục vụ
cho nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của xã hội. Như vậy vật liệu có một giá trị vô cùng

quan trọng không thể phủ nhận trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Một hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không thể thực hiện được nếu
thiếu một trong ba yếu tố: Lao động, tư liệu lao động, và đối tượng lao động. Trong đó con
người với tưcách là chủ thể lao động sử dụng tư liệu lao động và đối tượng lao động để tạo
ra của cải vật chất. Trong doanh nghiệp sản xuất công nghiệp biểu hiện cụ thể của đối
tượng lao động là nguyên vật liệu. Chi phí về vật liệu chiếm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu
giá thành sản phẩm và là bộ phận quan trọng trong doanh nghiệp. Nó không chỉ làm đầu
vào của quá trình sản xuất mà còn là một bộ phận quan trọng của hàng tồn kho được theo
dõi bảo quản và lập dự phòng khi cần thiết.
Do vật liệu có vai trò quan trọng như vậy nên công tác kế toán vật liệu trong các doanh
nghiệp sản xuất phải được thực hiện một cách toàn diện để tạo điều kiện quản lý vật liệu,
thúc đẩy việc cung cấp đầy đủ kịp thời, đồng bộ những vật liệu cần cho sản xuất, dự trữ và
sử dụng vật liệu hợp lý, tiết kiệm ngăn ngừa các hiện tượng hư hao, mất mát và lãng phí
vật liệu trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh.
1.1.2. Phân loại nguyên vật liệu.
Vật liệu trong các doanh nghiệp bao gồm nhiều thứ, nhiều loại khác nhau, có giá trị,
công dụng, nguồn gốc hình thành…khác nhau. Do vậy, cần thiết phải tiến hành phân loại
vật liệu nhằm tạo điều kiện cho việc hạch toán và quản lý vật liệu.
Căn cứ vào vai trò và tác dụng của vật liệu trong sản xuất, vật liệu được chia thành các
loại như sau:
-Nguyên, vật liệu chính: là thứ nguyên, vật liệu mà sau quá trình gia công, chế biến sẽ
cấu thành nên thực thể vật chất chủ yếu của sản phẩm;
Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3
Chuyên đề tốt nghiệp
-Vật liệu phụ: là những vật liệu chỉ có tác dụng phụ trợ trong sản xuất, được sử dụng
kết hợp với vật liệu chính để làm thay đổi màu sắc, hình dáng, mùi vị, hoặc dùng để bảo
quản, phục vụ hoạt động của các tư liệu lao động hay phục vụ cho lao động của công nhân
viên chức (dầu nhờn, hồ keo, thuốc nhuộm, thuốc chống rỉ, hương liệu, xà phòng, giẻ
lau…);
-Nhiên liệu: là những thứ vật liệu được dùng để cung cấp nhiệt lượng trong quá trình

sản xuất, kinh doanh như than, củi, xăng dầu, hơi đốt, khí đốt…;
-Phụ tùng thay thế: là các chi tiết, phụ tùng dùng để sửa chữa và thay thế cho các máy
móc, thiết bị, phương tiện vận tải …;
-Vật liệu và thiết bị xây dựng cơ bản: bao gồm các vật liệu và thiết bị (cần lắp, không
cần lắp, vật kết cấu, công cụ, khí cụ…) mà doanh nghiệp mua vào với mục đích đầu tư cho
xây dựng cơ bản;
-Phế liệu: là các loại vật liệu thu được trong quá trình sản xuất hay thanh lý tài sản, có
thể sử dụng hay bán ra ngoài (phôi bào, vải vụn, gạch, sắt …);
-Vật liệu khác: bao gồm các loại vật liệu còn lại ngoài các thứ chưa kể trên như bao bì,
vật đóng gói, các loại vật tư đặc chủng v.v…
.1.5. Phương pháp tính giá nguyên vật liệu.
Tính giá vật liệu về thực chất là việc xác định giá trị ghi sổ của vật liệu. Theo quy định
vật liệu được tính theo giá thực tế (giá gốc). Tức là vật liệu khi nhập kho hay xuất kho đều
được phản ánh trên sổ sách theo giá thực tế.
1.1.3.1. Tính giá nguyên vật liệu nhập kho.
Giá gốc ghi sổ vật liệu trong các trường hợp cụ thể được tính như sau:
Với các vật liệu mua ngoài: giá thực tế (giá gốc) ghi sổ gồm trị giá mua ngoài của
vật liệu thu mua [là giá mua ghi trên hoá đơn của người bán đã trừ(-) các khoản chiết khấu
thương mại và giảm giá hàng mua được hưởng, cộng (+) các loại thuế không được hoàn lại
(nếu có) và các chi phí thu mua thực tế (chi phí vận chuyển, bốc dỡ; chi phí bao bì; chi phí
của bộ phận thu mua độc lập; chi phí thuê kho, thuê bãi; tiền phạt lưu kho, lưu hàng, lưu
bãi…)].
Như vậy, trong giá thực tế của vật liệu trong doanh nghiệp tính thuế theo phương pháp
khấu trừ không bao gồm thuế GTGT đầu vào được khấu trừ mà bao gồm các khoản thuế
không được hoàn lại như thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có).
Với vật liệu doanh nghiệp sản xuất: giá thực tế ghi sổ của vật liệu do doanh nghiệp sản
xuất khi nhập kho là giá thành sản xuất thực tế (giá thành công xưởng thực tế) của vật liệu
sản xuất ra.
Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3
Chuyên đề tốt nghiệp

Với vật liệu thuê ngoài, gia công, chế biến: giá thực tế ghi sổ nhập kho bao gồm giá
thực tế của vật liệu, cùng các chi phí liên quan đến thuê ngoài gia công, chế biến, (tiền thuê
gia công, chế biến, chi phí vận chuyển, bốc dỡ, hao hụt định mức…).
Với vật liệu nhận đóng góp từ các đơn vị, tổ chức, cá nhân tham gia góp vốn: giá thực
tế ghi sổ là giá thoả thuận do các bên xác định (hoặc tổng giá thanh toán ghi trên hoă đơn
GTGT do các bên tham gia liên doanh lập) cộng (+) với các chi phí tiếp nhận mà doanh
nghiệp phải bỏ ra (nếu có).
Với phế liệu: giá thực tế ghi sổ của phế liệu là giá ước tính có thể sử dụng được hay giá
trị thu hồi tối thiểu.
Với vật liệu được tặng, thưởng: giá trị thực tế ghi sổ của vật liệu là giá thị trường tương
đương cộng (+) chi phí liên quan đến việc tiếp nhận (nếu có).
1.1.3.2. Tính giá nguyên vật liệu xuất kho.
Để xác định giá thực tế (giá gốc) ghi sổ của vật liệu xuất kho trong kỳ, tuỳ theo đặc
điểm hoạt động của từng doanh nghiệp, vào yêu cầu quản lý và trình độ nghiệp vụ của cán
bộ kế toán, có thể sử dụng một trong các phương pháp sau đây theo nguyên tắc nhất quán
trong hạch toán, nếu thay đổi phương pháp phải giải thích rõ ràng. Cụ thể như sau:
a, Phương pháp giá đơn vị bình quân:
Theo phương pháp này, giá thực tế vật liệu xuất kho trong kỳ được tính theo công thức:
Giá thực tế từng loại xuất
kho
=
Số lượng từng loại xuất
kho
*
Giá đơn vị bình quân
Trong đó, giá đơn vị bình quân có thể tính theo một trong 3 cách sau:
Cách 1: Giá đơn vị bình
quân cả kỳ dự trữ
=
Giá thực tế từng loại tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ

Lượng thực tế từng loại tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
Cách tính này tuy đơn giản, dễ làm nhưng độ chính xác không cao. Hơn nữa, công
việc tính toán dồn vào cuối tháng, gây ảnh hưởng đến công tác quyết toán nói chung.
Cách 2: Giá đơn vị
bình quân cuối kỳ
trước
=
Giá thực tế từng loại tồn đầu kỳ (hoặc cuối kỳ trước)
Lượng thực tế từng loại tồn kho đầu kỳ
(hoặc cuối kỳ trước)
Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3
Chuyên đề tốt nghiệp
Cách này mặc dầu khá đơn giản và phản ánh kịp thời tình hình biến động của từng
loại vật liệu, dụng cụ, sản phẩm hàng hoá trong kỳ, tuy nhiên không chính xác vì không
tính đến sự biến động của giá cả vật liệu, dụng cụ, hàng hoá cũng như giá thành sản phẩm
trong kỳ.
Cách 3: Giá đơn vị bình
quân sau mỗi lần nhập =
Giá thực tế từng loại tồn kho sau mỗi lần nhập
Lượng thực tế từng loại tồn kho sau mỗi lần nhập
Cách này tính theo giá đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập lại khắc phục được nhược
điểm của cả 2 phương pháp trên, vừa chính xác, vừa cập nhật. Nhược điểm của phương
pháp này là tốn nhiều công sức, tính toán nhiều lần.
b, Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO):
Theo phương pháp này, giả thiết rằng số vật liệu nào nhập trước thì xuất trước, xuất hết
số nhập trước mới đến số nhập sau theo giá thực tế của từng số hàng xuất. Nói cách khác,
cơ sở của phương pháp này là giá thực tế của vật liệu nhập kho trước sẽ được dùng làm giá
để tính giá thực tế của vật liệu xuất trước và do vậy, giá trị của vật liệu tồn kho cuối kỳ sẽ
là giá thực tế của số vật liệu nhập kho sau cùng. Phương pháp này thích hợp trong trường
hợp giá cả ổn định hoặc có xu hướng giảm.

c, Phương pháp nhập sau xuất trước (LIFO):
Phương pháp này giả định những vật liệu nhập kho sau cùng sẽ được xuất trước tiên,
ngược lại với phương pháp nhập trước xuất trước ở trên. Phương pháp nhập sau xuất trước
thích hợp trong trường hợp lạm phát.
d, Phương pháp trực tiếp:
Theo phương pháp này, giá thực tế vật liệu được xác định theo đơn chiếc hay từng lô
và giữ nguyên từ lúc nhập và cho tới lúc xuất kho (trừ trường hợp điều chỉnh). Khi xuất
kho lô nào (hay cái nào) sẽ được tính theo giá thực tế của lô ấy hay cái ấy. Do vậy, phương
pháp này còn có tên gọi là phương pháp đặc điểm riêng hay phương pháp giá thực tế đích
danh và thường sử dụng trong các doanh nghiệp có ít loại vật liệu hoặc vật liệu ổn định, có
tính tách biệt và nhận diện được.
e, Phương pháp giá thực tế hạch toán:
Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3
Chuyên đề tốt nghiệp
Ngoài các phương pháp cơ bản trên, trong thực tế công tác kế toán, để giảm nhẹ việc
ghi chép cũng như bảo đảm tính kịp thời của thông tin kế toán, để tính giá thực tế của vật
liệu xuất kho, kế toán còn sử dụng phương pháp giá hạch toán.
Theo phương pháp này, toàn bộ vật liệu biến động trong kỳ được tính theo giá hạch
toán (giá kế hoạch hoặc một loại giá ổn định trong kỳ). Cuối kỳ, kế toán sẽ tiến hành điều
chỉnh từ giá hạch toán sang giá thực tế theo công thức:
Giá thực tế từng loại xuất kho
(hoặc tồn kho cuối kỳ)
=
Giá hạch toán
từng loại xuất kho
*
Hệ số giá từng loại

Hệ số giá có thể tính cho từng loại, từng nhóm hoặc từng thứ vật liệu chủ yếu tuỳ thuộc
vào yêu cầu và trình độ quản lý. Về thực chất, việc sử dụng giá hạch toán để ghi sổ các loại

hàng tồn kho nói chung chính là một thủ thuật của kế toán nhằm phản ánh kịp thời tình
hình biến động hiện có của từng loại hàng tồn kho. Giá trị từng loại hàng tồn kho tính theo
phương pháp giá hạch toán đúng bằng giá trị từng loại hàng tồn kho tăng, giảm hiện có
tính theo phương pháp giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ.
.1.6. Nhiệm vụ của hạch toán nguyên vật liệu.
Vật liệu là cơ sở vật chất cấu thành nên thực thể của sản phẩm, chi phí vật liệu chiếm tỷ
trọng lớn trong giá thành sản phẩm cho nên yêu cầu quản lý vật liệu và công tác tổ chức
vật liệu là hai điều kiện cơ bản luôn song hành cùng nhau. Hạch toán vật liệu có chính xác,
kịp thời, đầy đủ thì lãnh đạo mới nắm được chính xác tình hình thu mua, dự trữ, và sử dụng
vật liệu cả về kế hoạch và thực hiện, từ đó có những biện pháp thích hợp trong quản lý.
Mặt khác tính chính xác, kịp thời của công tác hạch toán vật liệu sẽ giúp cho việc hạch
toán giá thành của doanh nghiệp chính xác. Xuất phát từ yêu cầu quản lý vật liệu, vị trí và
đặc điểm của vật liệu, công tác hạch toán có những nhiệm vụ sau:
- Ghi chép, tính toán, phản ánh chính xác, trung thực, kịp thời số lượng, chủng loại và
tình hình thực tế của vật liệu nhập kho.
- Tập hợp và phản ánh đầy đủ và chính xác số lượng và giá trị vật liệu xuất kho, kiểm
tra tình hình chấp hành các định mức tiêu hao vật liệu.
- Phân bổ hợp lý giá trị vật liệu sử dụng vào các đối tượng tập hợp chi phí sản xuất
kinh doanh.
Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3
Chuyên đề tốt nghiệp
- Tính toán và phản ánh chính xác số lượng và vật liệu tồn kho, phát hiện kịp thời vật
liệu thừa, thiếu, ứ đọng, kém phẩm chất để doanh nghiệp có biện pháp xử lý kịp thời, hạn
chế đến mức tối đa có thể xảy ra.
1.2. Tổ chức kế toán chi tiết nguyên vật liệu.
1.3.1. Phương pháp thẻ song song
Theo phương pháp thẻ song song, hạch toán chi tiết vật liệu tại các doanh nghiệp được
tiến hành như sau:
Tại kho: Thủ kho dùng thẻ kho để phản ánh tình hình nhập, xuất, tồn vật liệu về mặt số
lượng.

Tại phòng kế toán: Kế toán sử dụng thẻ kế toán chi tiết vật liệu để phản ánh tình hình
hiện có, biến động tăng, giảm theo từng danh điểm vật liệu với thẻ kho mở ở kho.
Để thực hiện đối chiếu giữa kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết, kế toán phải căn cứ
vào các thẻ kế toán chi tiết để lập bảng tổng hợp nhập, xuất, tồn kho về mặt giá trị của từng
loại vật liệu.
Phương pháp thẻ song song mặc dầu đơn giản, dễ làm nhưng việc ghi chép còn nhiều
trùng lặp. Vì thế, chỉ thích hợp với doanh nghiệp có quy mô nhỏ, số lượng nghiệp vụ ít,
trình độ nhân viên kế toán chưa cao.

Sơ đồ 1.1: Sơ đồ kế toán chi tiết theo phương pháp thẻ song song.
1.3.2. Kế toán chi tiết vật liệu theo phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển:
Theo phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển, công việc cụ thể tại kho giống như
phương pháp thẻ song song ở trên. Tại phòng kế toán, kế toán sử dụng sổ đối chiếu luân
chuyển để hạch toán số lượng và số tiền của từng thứ (danh điểm) vật liệu theo từng kho.
Sổ này được ghi mỗi tháng 1 lần vào cuối tháng trên cơ sở các bảng kê nhập, bảng kê xuất
từng thứ (danh điểm) vật liệu; mỗi danh điểm ghi một dòng trong sổ. Cuối tháng, kế toán
đối chiếu số lượng vật liệu trên sổ đối chiếu luân chuyển với thẻ kho của thủ kho; đồng
thời đối chiếu số tiền của từng danh điểm vật liệu với kế toán tổng hợp (theo giá hạch toán
ở các bảng tính giá).
Phương pháp này mặc dầu đã có cải tiến nhưng việc ghi chép vẫn còn trùng lặp.
Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3
Thẻ
hoặc
sổ kế
toán
chi
tiết
Phiếu nhập kho
Thẻ kho
Phiếu xuất kho

Bảng tổng hợp
nhập, xuất, tồn kho
Kế toán tổng hợp
Thẻ kho Chứng từ
xuất
Bảng kê nhập
Sổ đối chiếu

Luân chuyển
Bảng kê xuất
Sổ kế toán tổng hợp
Chứng từ
xuất
Ghi chú: Ghi h ng ng yà à
Ghi cuối tháng
Đối chiếu
Chuyên đề tốt nghiệp
Ghi chú: Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu, kiểm tra
Sơ đồ 1.2: Kế toán chi tiết vật liệu theo phương pháp
Sổ đối chiếu luân chuyển
1.3.3. Kế toán chi tiết vật liệu theo phương pháp sổ số dư.
Theo phương pháp sổ số dư, công việc cụ thể taị kho giống như các phương pháp trên.
Định kỳ, sau khi ghi nhận thẻ kho, thủ kho phải tập hợp toàn bộ chứng từ nhập kho, xuất
kho phát sinh theo từng vật liệu quy định. Sau đó, lập phiếu giao nhận chứng từ và nộp cho
kế toán kèm theo các chứng từ nhập, xuất kho vật liệu. Ngoài ra, thủ kho còn phải ghi số
lượng vật liệu tồn kho cuối tháng theo từng danh điểm vào sổ số dư.
Sổ số dư do kế toán mở cho từng kho, dùng cho cả năm và giao cho thủ kho trước ngày
cuối của mỗi tháng để ghi số lượng tồn kho vật liệu vào sổ. Trong sổ số dư, các danh điểm

vật liệu được in sẵn, xếp theo từng nhóm và từng loại. Sau khi ghi số lượng từng loại vật
liệu tồn kho vào sổ số dư, thủ kho sẽ chuyển sổ cho phòng kế toán để kiểm tra và tính
thành tiền.
Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3
Chuyên đề tốt nghiệp
Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3
Chuyên đề tốt nghiệp
Sơ đồ 1.3: Hạch toán chi tiết vật liệu theophương pháp sổ số dư
Tại phòng kế toán, định kỳ, nhân viên kế toán phải xuống kho để hướng dẫn và
kiểm tra việc ghi chép thẻ kho của thủ kho và thu nhận chứng từ. Khi nhận được chứng từ,
kế toán kiểm tra và tính giá theo từng chứng từ (giá hạch toán). Tổng cộng số tiền và ghi
vào cột số tiền trên phiếu giao nhận chứng từ. Đồng thời, ghi số tiền vừa tính được của
từng nhóm vật liệu (nhập riêng, xuất riêng) vào bảng luỹ kế nhập, xuất, tồn kho.
Tiếp đó, cộng số tiền nhập, xuất trong tháng và dựa vào số dư đầu tháng để tính ra
số dư cuối tháng của từng nhóm vật liệu. Số dư này được dùng để đối chiếu với cột “số
tiền” trên sổ số dư (số liệu trên sổ số dư do kế toán vật tư tính bằng cách lấy số lượng tồn
kho * giá hạch toán).
1.4. Tổ chức kế toán tổng hợp nguyên vật liệu.
Để hạch toán vật liệu nói riêng và hàng tồn kho nói chung, kế toán có thể áp dụng một
trong 2 phương pháp: kiểm kê định kỳ và kê khai thường xuyên. Việc sử dụng phương
pháp nào là tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh doanh của từng doanh nghiệp, vào yêu cầu của
công tác quản lý và vào trình độ cán bộ kế toán cũng như vào quy định của chế độ kế toán
hiện hành. Hàng hoá tồn kho của doanh nghiệp là tài sản lưu động của doanh nghiệp tồn tại
dưới hình thái vật chất, bao gồm nguyên-vật liệu, công cụ, dụng cụ, sản phẩm dở dang,
thành phẩm, hàng hoá.
Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3
Phiếu nhập kho

Thẻ kho
Phiếu xuất kho

Sổ số dư
Kế toán tổng hợp
Phiếu giao nhận chứng
từ nhập
Bảng luỹ kế nhập, xuất,
tồn vật tư
Phiếu giao nhận chứng
từ xuất
Ghi chú: Ghi h ng ng yà à
Ghi cuối tháng
Đối chiếu
Ghi định kỳ
Chuyên đề tốt nghiệp
1.3.1. Kế toán tổng hợp vật liệu theo phương pháp kê khai thường xuyên.
1.4.1.1. Khái niệm và tài khoản sử dụng:
Phương pháp kê khai thường xuyên:là phương pháp theo dõi và phản ánh tình hình
hiện có, biến động tăng, giảm hàng tồn kho một cách thường xuyên, liên tục trên các tài
khoản phản ánh từng loại hàng tồn kho. Phương pháp này được sử dụng phổ biến hiện nay
ở nước ta vì những tiện ích của nó. Phương pháp này có độ chính xác cao và cung cấp
thông tin về hàng tồn kho kịp thời, cập nhật. Theo phương pháp này, tại bất kỳ thời điểm
nào kế toán cũng có thể xác định được lượng nhập, xuất, tồn kho từng loại hàng tồn kho
nói chung và nguyên, vật liệu nói riêng.
Để hạch toán nguyên vật liệu theo phương pháp kê khai thường xuyên, kế toán sử dụng
các tài khoản sau:
-Tài khoản 152: “Nguyên liệu, vật liệu” tài khoản này được dùng để theo dõi giá trị
hiện có, tình hình tăng, giảm của các nguyên, vật liệu theo giá thực tế, có thể mở chi tiết
theo từng loại, nhóm, thứ… tuỳ theo yêu cầu quản lý và phương tiện tính toán.
Bên nợ: phản ánh các nghiệp vụ phát sinh làm tăng giá thực tế của nguyên, vật liệu
trong kỳ (mua ngoài, tự sản xuất, nhận góp vốn, phát hiện thừa, đánh giá tăng…).
Bên có: phản ánh các nghiệp vụ phát sinh làm giảm nguyên, vật liệu trong kỳ theo giá

thực tế (xuất dùng, xuất bán, xuất góp vốn, thiếu hụt…).
Dư nợ: giá thực tế của nguyên, vật liệu tồn kho.
-Tài khoản 151: “Hàng mua đi đường” tài khoản này dùng theo dõi các loại nguyên,
vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá… mà doanh nghiệp đã mua hay chấp nhận mua, đã
thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nhưng cuối tháng, chưa về nhập kho (kể cả số đang
gửi kho người bán).
Bên nợ: Phản ánh giá trị hàng mua đang đi đường tăng thêm trong kỳ.
Bên có: Phản ánh giá trị hàng đi đường kỳ trước đã nhập kho hay chuyển giao cho các
bộ phận sử dụng hoặc giao cho khách hàng.
Dư nợ: giá trị hàng đang đi đường (đầu và cuối kỳ).
Ngoài ra, trong quá trình hạch toán, kế toán còn sử dụng một số tài khoản liên quan
khác như 133, 331, 111, 112, 632….
Căn cứ vào giấy báo nhận hàng, nếu xét thấy cần thiết, khi hàng về đến nơi, có thể lập
ban kiểm nhận để kiểm nhận vật liệu thu mua cả vể số lượng, chất lượng, quy cách…Ban
kiểm nhận căn cứ vào kết quả thực tế ghi vào “Biên bản kiểm nhận vật tư”. Sau đó bộ phận
cung ứng sẽ lập “Phiếu nhập kho” vật tư trên cơ sở hóa đơn, giấy báo nhận hàng và biên
bản kiểm nhận rồi giao cho thủ kho. Thủ kho sẽ ghi số vật liệu vào phiếu rồi chuyển cho
Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3
Chuyên đề tốt nghiệp
phòng kế toán làm căn cứ ghi sổ. Trường hợp phát hiện thừa, thiếu, sai quy cách, thủ kho
phải báo cho bộ phận cung ứng biết và cùng người giao lập biên bản.
1.4.1.2. Phương pháp hạch toán:
a, Với doanh nghiệp áp dụng thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ:
Đối với đơn vị tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ ( đã thực hiện việc mua bán
hàng hoá có hóa đơn, chứng từ ghi chép kiểm tra đủ). Thuế GTGT đầu vào được tách
riêng, không ghi vào giá thực của vật liệu. Như vậy, khi mua hàng trong tổng giá thanh
toán phải trả cho người bán, phần giá mua chưa thuế được ghi tăng giá trị vật tư mua vào,
còn phẩn thuế GTGT đầu vào được ghi vào số được khấu trừ. Kế toán sử dụng tài khoản
133 (1331) -Thuế GTGT đầu vào của hàng hoá dịch vụ mua ngoài).
b, Với doanh nghiệp áp dụng thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp:

Đối với cơ sở sản xuất không đủ điều kiện để tính thuế GTGT theo phương pháp khấu
trừ thì thuế GTGT đầu vào được ghi vào giá thực tế nguyên vật liệu. Như vậy, khi mua vật
liệu thuế GTGT đầu vào được tính vào giá của vật liệu. Kế toán không sử dụng tài khoản
133 “Thuế GTGT đầu vào”. Còn phương pháp hạch toán tương tự như trường hợp tính
thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ.
Trình tự hạch toán vật liệu theo phương pháp kê khai thường xuyên được khái quát
theo sơ đồ (xem sơ đồ 1.4).
1.3.2. Kế toán tổng hợp vật liệu theo phương pháp kiểm kê định kì.
1.3.2.1 Khái niệm và tài khoản sử dụng:
Phương pháp kiểm kê định kỳ là phương pháp không theo dõi một cách thường xuyên,
liên tục về tình hình biến động của các loại vật tư, hàng hoá, sản phẩm trên các tài khoản
phản ánh từng loại hàng tồn kho mà chỉ phản ánhgiá trị tồn kho đầu kỳ và cuối kỳ của
chúng trên cơ sở kiểm kê cuối kỳ, xác định lượng tồn kho thực tế và lượng xuất dùng cho
sản xuất kinh doanh và các mục đích khác.
Nhược điểm của phương pháp này là độ chính xác không cao.
Phương pháp này áp dụng cho các đơn vị kinh doanh nhiều chủng loại hàng hoá, vật tư
khác nhau, giá trị thấp thường xuyên dùng, xuất bán.
Các tài khoản kế toán sử dụng :
Tài khoản 611 “mua hàng” – chi tiết TK 6111 “mua nguyên liệu, vật liệu”: Tài khoản
này dùng để theo dõi tình hình thu mua, tăng, giảm nguyên vật liệu theo giá thực tế (giá
mua và chi phí thu mua).
Kết cấu TK 611:
Bên nợ: Phản ánh giá thực tế NVL tồn kho đàu kỳ và tăng thêm trong kỳ.
Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3
Chuyên đề tốt nghiệp
Bên có: phản ánh giá thực tế VL xuất dùng, xuất bán, thiếu hụt trong kỳ và tồn kho
cuối kỳ.
Tài khoản này không có số dư.
Tài khoản 151: “Hàng mua đang đi trên đường”. Dùng để phản ánh trị giá số vật liệu
mà doanh nghiệp đã mua hay chấp nhận mua (đã thuộc sở hữu của đơn vị) nhưng đang đi

đường hay đang gửi tại kho người bán, chi tiết theo từng loại, từng người bán.
Bên nợ: giá thực tế hàng đang đi đường cuối kỳ.
Bên có: kết chuyển giá thực tế hàng đang đi đường cuối kỳ.
Dư nợ: giá thực tế hàng đang đi đường.
Tài khoản 152: “Nguyên liệu, vật liệu”. Dùng để phản ánh giá thực tế nguyên, vật liệu
tồn kho, chi tiết theo từng loại.
Bên nợ: giá thực tế vật liệu tồn kho cuối kỳ.
Bên có: kết chuyển giá thực tế vật liệu tồn kho đầu kỳ.
Dư nợ: giá thực tế vật liệu tồn kho.
Ngoài ra trong quá trình hạch toán, kế toán còn sử dụng một số tài khoản khác có liên
quan như 133, 111, 112, 331….Các tài khoản này có nội dung và kết cấu giống như
phương pháp kê khai thường xuyên.
1.3.2.2. Phương pháp hạch toán
Trình tự hạch toán vật liệu theo phương pháp kiểm kê định kỳ được khái quát theo sơ
đồ. (xem sơ đồ 1.5).
Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3
Chuyên đề tốt nghiệp
Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3
Chuyên đề tốt nghiệp
Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3
Chuyên đề tốt nghiệp
1.4. Các hình thức sổ kế toán vận dụng trong công tác kế toán nguyên vật liệu.
Sổ kế toán là một phương tiện vật chất cơ bản, cần thiết để người làm kế toán ghi chép,
phản ánh có hệ thống các thông tin kế toán theo thời gian cũng như theo đối tượng.
Hình thức tổ chức sổ kế toán là hình thức kết hợp các loại sổ kế toán khác nhau về
chức năng ghi chép, về kết cấu, nội dung phản ánh theo một trình tự nhất định trên cơ sở
của chứng từ gốc.
Các doanh nghiệp khác nhau về loại hình, quy mô và các điều kiện kế toán sẽ hình
thành cho mình một hình thức sổ kế toán khác nhau. Song quy lại có bốn hình thức sổ sách
kế toán sau:

-Hình thức Nhật ký chung.
-Hình thức Nhật ký - Sổ Cái.
-Hình thức Chứng từ ghi sổ.
-Hình thức Nhật ký - Chứng từ.
1.4.1. Hình thức Nhật ký chung.
Hàng ngày, căn cứ vầo các chứng từ nhập, xuất (Phiếu nhập kho, phiếu xuất kho…) kế
toán ghi nghiệp vụ phát sinh vào sổ Nhật ký chung. Sau đó, căn cứ vào sổ Nhật ký chung
để ghi sổ Cái TK 152, 331…
Nếu đơn vị có mở sổ kế toán chi tiết thì đồng thời với việc ghi sổ Nhật ký chung, các
nghiệp vụ trên được ghi vào các sổ kế toán chi tiết liên quan.
Trong trường hợp đơn vị mở Nhật ký đặc biệt thì hàng ngày căn cứ chứng từ dùng để
ghi sổ, ghi nghiệp vụ phát sinh tổng hợp từ Nhật ký đặc biệt có liên quan. Định kỳ (5-10
ngày) hoặc cuối tháng, tuỳ khối lượng nghiệp vụ phát sinh tổng hợp từ Nhật ký đặc biệt,
lấy số liệu để ghi vào các TK phù hợp rên sổ Cái sau khi đã loại bỏ số trùng lặp do một
nghiệp vụ được ghi dồng thời vào nhiều sổ Nhật ký đặc biệt.
1.4.2. Hình thức Nhật ký - Sổ cái.
Theo hình thức này, các nghiệp vụ kế toán phát sinh được phản ánh vào một quyển
sổ gọi là Nhật ký - Sổ cái. Sổ này là sổ hạch toán tổng hợp duy nhất, trong đó kết hợp phản
ánh theo thời gian và theo hệ thống. Tất cả các tài khoản mà doanh nghiệp sử dụng được
phản ánh cả hai bên Nợ - Có trên cùng một vài trang sổ. Căn cứ ghi vào sổ là chứng từ gốc
hoặc bảng tổng hợp chứng từ gốc, mỗi chứng từ ghi một dòng vào Nhật ký - Sổ cái. Cuối
kỳ khoá sổ thẻ kế toán chi tiết, lập tổng hợp chi tiết để đối chiếu với Nhật ký - Sổ cái.
1.4.3. Hình thức Chứng từ ghi sổ.
Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3
Chuyên đề tốt nghiệp
Hình thức này thích hợp với mọi loại hình đơn vị, thuận tiện cho việc áp dụng máy
tính. Tuy nhiên, việc ghi chép bị trùng lặp nhiều nên việc lập báo cáo dễ bị trễ nhất là trong
điều kiện thủ công, sổ sách trong hình thức này gồm:
-Sổ cái: Là sổ phân loại dùng để hạch toán tổng hợp. Mỗi tài khoản được phản ánh trên
một vài trang sổ cái theo kiểu ít cột hoặc nhiều cột.

-Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ: Là sổ ghi thời gian, phản ánh toàn bộ chứng từ ghi sổ đã
lập trong tháng. Sổ này nhằm quản lý chặt chẽ chứng từ ghi sổ và kiểm tra, đối chiếu với
bảng cân đối phát sinh. Mọi chứng từ ghi sổ sau khi lập xong đều phải đăng ký vào sổ này
để lấy số hiệu và ngày tháng. Số hiệu của chứng từ ghi sổ được đánh giá liên tục từ đầu
tháng (hoặc đầu năm) đến cuối tháng (hoặc cuối năm). Ngày, tháng trên chứng từ ghi sổ
tính theo ngày ghi “Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ”.
-Bảng cân đối tài khoản: Dùng để phản ánh tình hình đầu kỳ, phát sinh trong kỳ và tình
hình cuối kỳ của các loại tài sản và nguồn vốn với mục đích kiểm tra tính chính xác của
việc ghi chép.
-Các sổ, thẻ hạch toán chi tiết: Dùng để phản ánh các đối tượng cần hạch toán chi tiết
(vật liệu, dụng cụ, tài sản cố định, chi phí sản xuất, tiêu thụ…)
1.4.4 Hình thức Nhật ký chứng từ.
Hình thức này phù hợp với doanh nghiệp có số lượng nghiệp vụ nhiều và điều kiện
kế toán thủ công, dễ chuyên môn hoá cán bộ kế toán. Tuy nhiên đòi hỏi trình độ kế toán
phải cao. Mặt khác không phù hợp với kế toán bằng máy. Sổ sách trong hình thức này bao
gồm:
Sổ nhật ký chứng từ: Nhật ký-chứng từ mở hàng tháng cho một hoặc một sổ tài
khoản có nội dung kinh tế giống nhau và có liên quan với nhau theo yêu cầu quản lý. Nhất
ký- chứng từ được mở theo số phát sinh bên Có của tài khoản đối ứng với bên Nợ các tài
khoản có liên quan, kết hợp giữa ghi theo thời gian và ghi theo hệ thống, giữa hạch toán
tổng hợp và hạch toán phân tích.
-Sổ cái: Mở cho từng tài khoản tổng hợp và cho cả năm. chi tiết theo từng tháng
trong đó bao gồm: số dư đầu kỳ, số phát sinh bên Nợ của tài khoản đối ứng với các tài
khoản có liên quan, còn số phát sinh bên Có của tài khoản chi ghi tổng số trên cơ sở tổng
hợp số liệu từ Nhật ký- chứng từ có liên quan.
-Bảng kê: Được sử dụng cho một số đối tượng cần bố xung chi tiết như bảng kê
ghi Nợ của tài khoản 111, 112… trên cơ sở các số liệu phản ánh ở cuối bảng kê cuối tháng
ghi vào Nhật ký chứng từ có liên quan.
-Sổ chi tiết: Dùng để theo dõi các đối tượng hạch toán cần phải hạch toán chi tiết.
Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3

Chuyên đề tốt nghiệp
1.5. Công tác kế toán nguyên vật liệu với việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên vật
liệu trong doanh nghiệp sản xuất.
Đối với mỗi công ty công tác kế toán nguyên vật liệu có ảnh hưởng rất lớn đến việc sử
dụng nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất. Nó quyết định đến hiệu suất cũng như lợi
nhuận mà Công ty đó đạt được.
Để thực hiện được điều này, việc tăng cường công tác quản lý và hoàn thiện công tác kế
toán nguyên vật liệu là cần thiết vì đây là một biện pháp hữu hiệu, quan trọng nhất góp
phần tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thánh sản phẩm, tránh mất mát hư hỏng trong quá
trình sản xuất kinh doanh mà vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm sản xuất ra.
Trong khâu thu mua: Công tác kế toán nguyên vật liệu cần phải chọn lọc, chi tiết nguyên
vật liệu để tránh nhập phải nguyên vật liệu không đạt yêu cầu, nhằm tăng năng suất trong
quá trình sản xuất, từ đó sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí phát sinh không cần thiết.
Trong khâu dự trữ và bảo quản: Công tác kế toán nguyên vật liệu phải có hệ thống kho
được tổ chức khoa học hợp lý giúp vật tư được bảo quản chặt chẽ, tránh được tình trạng
thất thoát vật tư, gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Như vậy việc sử dụng vật liệu trong quá
trình sản xuất sẽ chính xác, tiết kiệm hơn rất nhiều.
Việc cung cấp thông tin chi tiết về tình hình nhập – xuất – tồn kho của từng loại vật liệu
thông qua các sổ kế toán chi tiết vật liệu, thẻ kho, việc phản ánh đúng nội dung các nghiệp
vụ kế toán phát sinh trong kỳ… sẽ giúp cho việc nắm bắt tình hình sản xuất của ban giám
đốc dễ dàng hơn, nhanh nhạy hơn, chính xác hơn và có những biện pháp kịp thời trong sản
xuất, giúp cho những nhà lãnh đạo có những hướng đi phù hợp với nhu cầu của thị trường.


Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương 2
Thực trạng về công tác kế toán Nguyên vật liệu tại Công ty thăng long (talimex)
2.1. Giới thiệu chung về Công ty Thăng Long (TALIMEX).
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty.

Công ty Thăng Long là một doanh nghiệp nhà nước chuyên sản xuất hàng may mặc xuất
khẩu. Tiền thân là “Xí nghiệp sản xuất máy khâu Hà Nội”, đến năm 1994, xí nghiệp được
đổi tên thành Công ty Thăng Long với tên giao dịch là TALIMEX.
Công ty có hai cơ sở sản xuất sau:
Cơ sở 1 tại 43 đường Giảng Võ - Ba Đình-Hà Nội.
Điện thoại: 04.8.432.902 – 04.8.430.492.
Fax: 04.7.365.262.
E-mail:
Cơ sở 2 đặt tại Khương Trung -Thanh Xuân - Hà Nội.
Điện thoại: 04.5.652.859.
Fax: 04.5.652.860.
Công ty Thăng Long được thành lập vào ngày 03/10/1973 theo quyết định số
199/UBQP của UBND thành phố Hà Nội có nhiệm vụ nghiên cứu và chế thử máy khâu gia
đình. Lúc này, xí nghiệp gồm 30 người trong đó có nhiều kỹ sư và thợ bậc cao về cơ khí.
Trong những ngày đầu thành lâp xí nghiệp còn gặp nhiều khó khăn như:
Cơ sở lao động, vật chất nghèo nàn, thiết bị cần thiết đã cũ và không đồng bộ, nhà
xưởng hư hỏng nhiều; trình độ cán bộ, công nhân phần lớn chưa hiểu nhiều về công nghệ
sản xuất máy khâu.
Song với sự giúp đỡ của UBND thành phố Hà Nội cùng với sự cố gắng, nỗ nực của
toàn bộ công nhân viên trong xí nghiệp nên đã khắc phục khó khăn và đã chế thử thành
công sản phẩm máy khâu gia đình, ngay sau đó xí nghiệp đã cho sản xuất hàng loạt. Xí
nghiệp đã cố gắng nâng dần sản lượng cũng như chất lượng sản phẩm máy khâu. Năm
1978, xí nghiệp đã đạt sản lượng 300 máy khâu /năm. Đến năm 1987, xí nghiệp đã đạt
được 2520 c/năm và chế thử thành công máy khâu công nghiệp.
Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3
Chuyên đề tốt nghiệp
Đến những năm 1988, 1989 do sự chuyển đổi của cơ chế thị trường làm nền sản
xuất trong nước có nhiều biến động. Sản phẩm làm ra không bán được khiến cho xí nghiệp
lâm vào tình trạng bế tắc. Công nhân không có việc làm, đời sống cán bộ công nhân viên
gặp nhiều khó khăn. Đứng trước tình cảnh đó, xí nghiệp phải chuyển hướng kinh doanh để

duy trì hoạt động của xí nghiệp và đảm bảo công ăn việc làm cho lao động trong xí nghiệp.
Đến năm 1992 xí nghiệp đã ngừng hẳn việc sản xuất máy khâu và chuyển sang
ngành may mặc.
Năm 1994, xí nghiệp đổi tên thành công ty Thăng Long, và thực hiện theo quyết
định số 338 về việc thành lập lại doanh nghiệp và doanh nghiệp nhà nước thuộc Sở Công
nghiệp Hà Nội, với nhiệm vụ chủ yếu là sản xuất và kinh doanh hàng may mặc trong và
ngoài nước.
Mặc dù bước đầu chuyển sang ngành may mặc, đối diện với nhiều khó khăn nhưng
việc chuyển hướng kinh doanh lại là một trong những hướng đi đúng đắn của Công ty. Tại
thời điểm mà nền kinh tế nước ta đang dần chuyển biến từ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trường; Công ty đã có những triển vọng lớn, cụ thể là: Cũng như nhu
cầu khác, nhu cầu về may mặc của người tiêu dùng cũng ngày một tăng lên sản phẩm của
Công ty sản xuất đã có thị trường tiêu thụ. Nhưng với số vốn ít ỏi ban đầu, đã gây nhiều
khó khăn cho Công ty trong việc cải tạo, nâng cấp mẫu mã sản phẩm trong những năm đầu
của thập kỷ 90.
Năm 1995, Công ty đã đầu tư cho sản xuất hai dây chuyền may mặc của Nhật Bản
và Đài Loan bằng nguồn vốn vay và nguồn vốn huy động. Đồng thời, cũng xây dựng và
cải tạo lại nhà xưởng.
Trong 3 năm 1995, 1996, 1997 tình hình tài chính của Công ty rất khó khăn nên
trong tháng 2/1998 nhà nước và UBND thành phố Hà Nội đã cấp cho Công ty toàn bộ tài
sản cố định mà Công ty đã đầu tư trong 3 năm qua.
Năm 2002 là năm Công ty đã hoàn thành tốt các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh, chỉ
tiêu kinh tế kỹ thuật mà Sở Công Nghiệp đã giao cho. Sản phẩm chính của Công ty lúc bấy
giờ là áo T-shirt (áo sơ mi) được thiết kế sản phẩm trên vi tính, máy cắt dập liên hoàn.
Đồng thời Công ty cũng đầu tư dây chuyền sản xuất một số phụ liệu phục vụ cho nghành
may như sản xuất khoá đính, các loại cúc và ôzê, in dệt nhãn mác. Với thế mạnh năm 2002
đến 2003 Công ty đã mở rộng thị trường quốc tế, thị trường trong nước, phấn đấu nâng cao
tỷ lệ hàng bán FOB bằng nguồn vật tư trong nước lên 70% tổng doanh thu hàng may mặc,
Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3
Chuyên đề tốt nghiệp

phấn đấu thu nhập bình quân năm của cán bộ công nhân viên lên 850.000đ/người/tháng,
phấn đấu hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kỹ thuật mà Sở Công Nghiệp giao cho.
Năm 2004, Công ty đã có một bước ngoặt quan trọng đó là Công ty đã tiến hành cổ
phần hoá.
Năm 2005, Công ty có số lao động 550 người và đạt được những kết quả cao.
Bảng số liệu 2.1 sẽ cho ta thấy trong 2 năm 2004-2005 hoạt động sản xuất của
Công ty Thăng Long đã thu được những thắng lợi lớn, mang lại cho Công ty nhiều nguồn
lợi đáng kể và đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên.
Nguyễn Thị Thu Giang- Lớp Q10K3

×