Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

De thi HSG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.37 KB, 66 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Phan Thị Thanh Thủy Trường THCS Hà Linh Hương Khê- Hà Tĩnh ĐT 0913628409 NHÂN VẬT THÚY KIỀU NHÌN TỪ BI KỊCH ỨNG XỬCÁNHÂN Về nhân vật Thúy Kiều trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du, xưa nay phần lớn đều được nhìn nhận từ bi kịch xã hội. Điều đó hoàn toàn có lí bởi con người luôn chịu ảnh hưởng, tác động của xã hội. Nhưng xã hội mà Kiều sống có mang tính cá biệt, hay bóng dáng nó tồn tại như một sự tất yếu ở mọi lúc, mọi nơi, mọi thời đại? Đây là vấn đề cần quan tâm sâu hơn. Lịch sử phát triển xã hội loài người, trừ xã hội công xã nguyên thủy, xã hội nào chẳng có oan trái, đổi trắng thay đen, buôn thịt bán người, lừa gạt..., nhưng con người ứng đối như thế nào, nhìn nhận ra sao đó mới là điều quan trọng. Vì thế, đặt nhân vật Thúy Kiều trong xã hội nàng đang sống và xét nàng trong từng tình huống thử thách cụ thể, có phải lúc nào ảnh hưởng của xã hội cũng tác động đến nàng, hay chính cách ứng xử của nàng tạo nên bi kịch? Ở một góc nhìn khác, nhìn nhận và suy xét, ta thấy cuộc đời Kiều là một chuỗi bế tắc chủ yếu chính từ ứng xử của nàng. Bi kich đầu tiên, cũng là nguyên nhân của chuỗi bi kịch trong cuộc đời Thúy Kiều là bán mình chuộc cha và em. Chỉ nhìn ở hành động, nàng quả là người hiếu nghĩa, sự hi sinh thật đáng ngợi ca! Nhưng xét theo mức độ sự việc thì hành động này là biểu hiện của cách xử sự vội vàng, thiếu suy đoán. Đối tượng vu oan chỉ là thằng bán tơ, kẻ thấp hèn, vô học trong xã hội; cha và em chỉ mới vào tù, chưa phân xử đúng sai, chưa gấp gáp, chưa đến cao trào đe dọa về tính mạng, thậm chí chưa được đưa ra công đường xét xử thì tại sao nàng vội vàng quyết định, mà lẽ ra nàng phải tìm những lối thoát khác trước khi bán mình? Hoặc phải bán mình chăng nữa thì cũng đến đỉnh điểm của sự bế tắc. Truyện đã đặt nhân vật Thúy Kiều vào tình huống thử thách đầu tiên để thấy cách ứng xử của nàng ra sao. Nếu là người biết đối nhân xử thế, trước tình huống như thế, đầu tiên nàng phải dựa vào yếu tố chủ quan là sự thông minh, sắc sảo của mình để nghĩ ra trăm phương nghìn kế. Mặt khác, phải dựa vào yếu tố khách quan để hỗ trợ, cùng giải quyết, đối phó. Tại sao nàng lại thụ động mà không vận dụng sự thông minh, sắc sảo để ứng đối trước tình thế? Là người coi trọng chữ tình, đã đặt niềm tin vào người yêu, tại sao nàng không tin báo, tìm gặp, chờ đợi Kim Trọng để cùng nhau tháo gỡ bởi chàng Kim đã yêu và hẹn ước với nàng sâu sắc tới mức Chưa chăn gối, cũng vợ chồng cơ mà? Hơn thế, Kim Trọng là người có học,.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Vốn nhà trâm anh, dòng dõi gia thế, đỗ đạt làm quan, việc làm rõ trắng đen trước thằng bán tơ vu oan có gì là khó, chàng sẽ là điểm tựa tinh thần cho gia đình nàng lúc này. Nàng có nghĩ rằng mới chỉ biết ở mức độ con gái bán mình làm vợ, Vương ông đã Liều mình, ông rắp gieo đầu tường vôi, huống hồ trong chặng đường tiếp theo, nếu biết cơn dông bão nào sẽ ập đến đầu nàng thì họ phải quằn quại đến mức nào? Giá trị đạo đức của con người luôn luôn được đề cao, trân trọng, nhưng sự hi sinh của Thúy Kiều trong tình huống này chưa thực sự có ý nghĩa bởi đặt vào hoàn cảnh cụ thể, nếu biết kết hợp nhiều yếu tố, ta thấy có thể thay đổi được tình thế hiện tại. Được tạo hóa ban cho thông minh, sắc sảo, vậy nhưng cách ứng xử của nàng không linh hoạt theo kiểu đời thường, không biết vận dụng khả năng chủ quan, khách quan, không biết suy đoán, lập luận mà chỉ hành động đơn độc theo bản năng để cuối cùng bước vào chặng đường đầu tiên của tấn bi kịch chính cuộc đời mình. Một tình huống truyện đưa ra đầy tính bi kịch để thử thách sự thông minh, sắc sảo của nàng trong việc lựa chọn cách giải quyết vấn đề trước hiện tượng xã hội. Trong tình huống này, yếu tố xã hội chỉ mới tác động rất nhỏ chứ chưa có tính chất quyết định số phận Thúy Kiều. Chính cách ứng xử của nàng là nguyên nhân tạo nên bi kịch. Bi kịch xảy ra với nàng là một chuỗi sự kiện bị mắc lừa theo một logic và có tính hệ thống. Trong mười lăm năm lưu lạc, nàng chịu sự dày vò, chà đạp về thể xác và tinh thần. Đầu tiên, nàng bị mắc lừa Mã Giám Sinh là điều khó tránh khỏi bởi tay họ Mã đã bỏ tiền ra mua nàng, một mặt nào đó, nàng thuộc quyền sở hữu của hắn. Nhưng mắc lừa Tú Bà và Sở Khanh thì ngẫm nghĩ, phân tích, ta thấy trách nhiệm đang thuộc về nàng. Nếu không bị Sở Khanh lừa tình, nàng có phải vào lầu xanh hay không? Mã Giám Sinh mua Kiều về để cùng Tú Bà Chung lưng mở một ngôi hàng nhưng gặp trở ngại khi Kiều biết bị lừa đã rút dao tự vẫn. Việc không thành, đây cũng là lí do để Tú Bà đưa Kiều giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, chờ cơ hội giăng lưới tìm cách giữ chân nàng. Tình huống đối phó giữa hai con người, ưu thế thuộc về Thúy Kiều bởi lúc này Tú Bà đang phải nhượng bộ, hơn nữa nàng được trời phú cho thông minh, sắc sảo hơn người. Như thế, thời gian sẽ là thước đo số phận cuộc đời Kiều và miếng mồi béo bở của Tú Bà. Vậy nhưng trong lần này, Thúy Kiều đã thua cuộc trong cay đắng. Thứ nhất, trải qua dâu bể, hiểu rõ bản chất việc buôn người của Mã Giám sinh và Tú Bà, vậy mà Khóa buồng xuân để đợi ngày đào non, với lời hứa gả chồng Nàng nghe dường cũng thị phi rạch ròi. Sao nàng dễ tin đến thế? Rồi cũng trong khoảng thời gian này, sự xuất hiện đột ngột của một chàng chỉ mới Hình dung chải chuốt, áo khăn dịu dàng giữa chốn hoang vắng Bốn bề bát ngát xa trông, trùng hợp với ý định Tú Bà gả chồng mà nàng không chút suy nghĩ, nghi hoặc gì ư?.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Thứ hai, vừa trải qua bi kịch tình yêu đau đớn chưa kịp lên da, chưa kịp khỏa lấp chỗ trống trong lòng, vậy mà nàng đã sinh tình với một người đang xa lạ hay sao? Nếu như trong hoàn cảnh bế tắc, cần dựa vào tình yêu để tìm lối thoát, thì tại sao trước khi quyết định bán mình, nàng không dựa vào Kim Trọng, người đã có một niềm tin, tình yêu chân thành? Còn Sở Khanh, chỉ mới xướng đi, họa lại đôi lời, nàng đã Đành liều nhắn một hai lời, chủ động, mạnh dạn bộc bạch nỗi lòng, tâm tư và Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân. Sao nàng vội tin tưởng, phó thác thân mình đến như vậy? Khi Sở Khanh đồng thuận, trong phút chốc, dù đã sinh nghi, nhưng nàng không tìm cách dừng lại suy nghĩ, đối phó mà trái lại, khi đang còn đường lùi vẫn cứ Cũng liều nhắm mắt đưa chân. Nàng đã buông xuôi, phó mặc cho số phận đưa đẩy. Hành động như thế có nhạt nhẽo với bản thân mình quá không? Màn kịch hoàn hảo của Tú Bà khép lại, Thúy Kiều đã bước vào kiếp thanh lâu. Như thế, bi kịch vào lầu xanh của Thúy Kiều trong cuộc thi thố với Tú Bà, nguyên nhân thua cuộc của nàng là đã mù quáng đặt niềm tin vào thứ tình yêu mà đáng ra không nên có để rồi hứng chịu hậu quả nghiệt ngã khôn lường. Hết kiếp nạn này đến kiếp nạn khác, nàng đã bị Bạc Bà, Bạc Hạnh lừa đến mức phải vào lầu xanh lần thứ hai. Tình huống truyện mở ra đã đặt nàng gặp gỡ với Phật giáo Qui sư, qui Phât, tu hành bấy lâu ở Quan âm các trong chùa riêng của gia đình Hoạn Thư. Tiếp xúc với đạo Phật, vậy mà trong chặng đường chông gai, chữ tòng vẫn không dứt bỏ được để rồi thoát ra rồi lại buộc vào như chơi trong sự đau đớn, não nề tấm thân ? Chữ tòng với Bạc Hạnh, ban đầu nàng quyết chẳng thuận tình, nhưng rồi trước lời lẽ khôn ngoan, ranh ma của Bạc Bà, nàng đã Tâm mình, xin quyết với nhau một lời!, chấp thuận Làm lễ tơ hồng kết duyên. Chữ tình dan díu nàng đến mức qua chặng đường đau đớn trong kiếp trầm luân mà đến giờ nàng vẫn vượt biển, ra khơi quản gì? Rõ ràng, Kiều không phải là người mềm yếu, chỉ tu là cõi phúc mà nàng chưa trọn đó thôi! Một cách ứng xử quá nhanh chóng trong quyết định số phận của mình dù đã trải qua biến cố đầy đau đớn khi chưa biết mặt, biết người. Trong chuỗi bi kịch bị lừa của Thúy Kiều, bi đát nhất là mắc lừa Hồ Tôn Hiến. Ở trường hợp này, cách xử sự của Kiều không phải vội vàng mà tất cả đang được đặt lên bàn cân trong toan tính. Nàng muốn sự yên ả Thênh thang đường cái thanh vân hẹp gì và khao khát sum họp bên người thân Dần dần rồi sẽ liệu về cố hương. Lớn hơn nữa, Kiều tính đến ngôi mệnh phụ đường đường trong sự Nở nang may mặt, rỡ ràng mẹ cha. Dù trong suy nghĩ, ta cũng đọc được chữ “lợi” trước tiên cho chính bản thân Kiều. Từ suy nghĩ đến hành động, nàng đã biết tìm cách chọn lựa thời điểm phù hợp, thích ứng nhất để đạt mục đích Thừa cơ nàng mới bàn ra, tính vào. Hãy xem cách.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> nàng bàn Từ Hải ra sao? Đó là ca ngợi, đề cao triều đình và thể hiện sự chán ghét chiến tranh trong sự so sánh Sao bằng lộc trọng quyền cao/ Công danh ai dứt lối nào cho qua. Mặc dầu Kiều cũng từng thỏa mãn trong giang sơn của Từ Hải Vinh hoa bõ lúc phong trần/ Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày, gẫm ra thì nàng đã đặt mình trước sự cân đong đo đếm kĩ lưỡng không ngoài lợi ích bổng lộc, quyền cao chức trọng. Công tư vẹn cả hai bề, Trên vì nước,dưới vì nhà, tưởng là thế nhưng thực chất bàn cân đang nghiêng về tư, nhà chứ không hẳn là nước. Trong nhận thức Thúy Kiều Bình thành công đức bấy lâu/ Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao!, dù thế, nếu không có những lời hứa của Hồ Tôn Hiến với tư cách đại diện triều đình thì liệu nàng có tự nguyện tìm cách dụ Từ Hải để thu giang sơn về một mối hay không ? Ở bên Từ Hải, có Triều đình riêng một góc trời, vậy mà Thúy Kiều vẫn hoa mắt trước cám dỗ vật chất, đã bị mua chuộc bởi ngọc vàng, gấm vóc của Hồ Tôn Hiến Lễ nhiều, nói ngọt, nghe lời dễ xiêu. Đặt nhân vật trong tình huống tâm lí, một sự lựa chọn theo “chiều thuận” của mong ước con người bình thường, chỉ phù hợp theo kiểu nữ nhi thường tình trong hoàn cảnh trải qua một quá khứ đầy biến động của cá nhân Kiều. Còn giờ đây, đường đường là bậc phu nhân từng được luận bàn cùng đấng phu quân đang đứng đầu một cõi biên thùy, mang tầm vóc lớn lao của quốc gia đại sự thì cách xử sự của Kiều thật không hợp lẽ. Hồ đồ dụ Từ Hải ra hàng, Dọc ngang nào biết trên đầu có ai, một bậc anh hùng hảo hán đã phải gánh chịu một bài học quá muộn màng Ai ngờ một phút tan tành thịt xương do chính hồng nhan tri kỉ gây nên. Một Thúy Kiều xuất thân trong gia đình thường thường bậc trung, trong bế tắc chỉ xử sự theo bản năng, thụ động, phó thác cho hoàn cảnh; khi may mắn có quyền cao chức trọng thì tận dụng cơ hội vì lợi ích cá nhân trong việc thù hận cũng như quan niệm sống, khác hẳn cách ứng xử của tiểu thư họ Hoạn xuất thân con nhà Lại bộ! Phải chăng là dụng ý của Nguyễn Du trong việc đề cao tư tưởng Nho giáo chính thống? Truyện được xây dựng rất linh hoạt trong việc đa dạng hóa cách ứng xử của Thúy Kiều nhằm đưa ra một loại hình nhân vật rất gần gũi, phổ biến trong cuộc sống con người. Cách xây dựng sự việc trong cao trào của nó, từ bi kịch một con người, một gia đình mở rộng ra đến bi kịch quốc gia đại sự, mang tính xã hội sâu sắc, mang màu sắc chính trị rõ nét. Thiếu phân tích, suy đoán, lập luận trước những cạm bẫy cuộc đời, suy nghĩ nông cạn, chỉ theo chiều thuận mà không nhìn ra chiều nghịch của nó, điều này không chỉ tai hại đối với bản thân Kiều mà còn ảnh hưởng đến người khác; không chỉ tác hại một người mà hủy hoại cả cơ đồ của anh hùng Từ Hải. Nguồn gốc từ một câu chuyện thời phong kiến ở Trung Quốc nhưng Truyện Kiều chẳng bao giờ xưa cũ bởi tính thời đại của nó. Nhẹ dạ, cả tin, thiếu tỉnh táo, thiếu suy xét, hồ đồ...luôn luôn là nguyên nhân thất bại, dù bạn là thường dân hay là người có quyền cao.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> chức trọng. Càng có vị trí xã hội, nếu vướng phải những điều đó thì mức độ tai hại càng ghê gớm mà Từ Hải là bài học chính trị của muôn đời! Trong cuộc đời Thúy Kiều, đáng tiếc nhất là khi có hai cơ hội mở trói cho bi kịch của mình, nhưng do nàng không biết cách ứng xử nên không những không giữ được hạnh phúc hiếm hoi mà còn tiếp tục chịu kiếp ô nhục. Lần thứ nhất, Thúc Sinh đã chuộc nàng ra khỏi lầu xanh để về làm vợ. Vốn dòng dõi, Thúc ông không chấp nhận gái lầu xanh, nhưng nhờ họa thơ của Kiều, nàng chính thức làm vợ lẽ Thúc Sinh trong điều kiện hợp pháp về lí, thuận về tình.Vậy nhưng trước những mưu chước của vợ cả Thúc Sinh, Thúy Kiều đã không đối phó được. Nàng không đủ lí lẽ để biện hộ, đề cao mình ở những phương diện ấy, tự vô hiệu hóa danh phận của mình, đó là kẽ đó là kẽ hở để Hoạn Thư đày đọa nàng một cách nghiệt ngã nhất và cuối cùng là tìm đường tháo lui khỏi nhà họ Hoạn trong tổn thương. Lần thứ hai, một cơ may hiếm có, đó là khi bước ra khỏi lầu xanh,Thúy Kiều trở thành phu nhân của bậc anh hùng hảo hán Từ Hải. Vậy nhưng không biết cách ứng xử nên nàng không giữ được hạnh phúc. Bên cạnh Từ Hải, Kiều có tất cả: quyền lực, hạnh phúc, niềm tin. Trong việc quân cơ Cũng dự quân trung luận bàn, hay là Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi, một giá trị tinh thần ngoài sức tưởng tượng! Vậy mà nàng chưa thỏa mãn! Hồ Tôn Hiến mua chuộc, trước cám dỗ đời thường và suy nghĩ cạn hẹp, nàng đã thuyết phục được Từ Hải để rồi Thế công Từ mới giở ra thế hàng, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Cơ đồ của Từ Hải trong phút chốc tan theo mây khói. Bẽ bàng hơn nữa là Kiều phải hầu hạ Hồ Tôn Hiến và bị mua đi bán lại trong sự sỉ nhục. Thật tiếc cho những cơ hội ngàn vàng! Điều đó càng chứng tỏ, đối với Thúy Kiều, dù có vị trí xã hội, có cơ hội, nàng cũng không biết cách ứng xử để rồi không những bị tuột khỏi tay điều may mắn mà còn gây nên bi kịch. Trong những bi kịch của Thúy Kiều, dễ bị nhầm lẫn nhất trong nhìn nhận của người đời đó là vô tình tước đoạt hạnh phúc của Thúy Vân. Cậy Thúy Vân kết duyên với chàng Kim, ở nhiều góc nhìn khác đã coi đây là cách bù đắp cho Kim Trọng, để Thúy Kiều đỡ day dứt khi phải chia li mối tình của mình. Nhưng xét trong tình tiết truyện, ta nhận thấy, dù vô thức, đây là một sự ích kỷ, biến Thúy Vân thành vật hi sinh, suốt đời làm cái bóng bên Kim Trọng. Còn chàng Kim nằm trong sự trói buộc bị động, nể nang. Xét ở góc độ truyền thống, trong xã hội phong kiến, hiện tượng thay thế trong hôn nhân là điều bình thường. Nhưng xét ở góc độ thực tế diễn ra trong truyện thì việc cậy nhờ, gán ghép này là không hợp tình.Tại sao Thúy Kiều luôn sống với tình yêu bằng khát vọng mãnh liệt mà lại trói buộc Thúy Vân vào vòng lễ giáo?.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Khi đang yên ả, cuộc tình Kim Kiều đã mở ra chân trời tự do đôi lứa trong thế giới thực của con người. Trong điều cấm kị của tư tưởng Nho giáo khắt khe Nam nữ thụ thụ bất thân thì Xăm xăm rẽ lối đường khuya một mình là hành động đầy tính bứt phá của tư tưởng hiện đại. Hoặc có khi kìm hãm thì cũng đã vượt ra vòng rào khuôn phép Xem trong âu yếm có chiều lả lơi. Khi đứng trước dông bão cuộc đời, khát vọng hạnh phúc vẫn khôn nguôi. Dù bị lừa hay không, dù giữa đời thường hay trong cửa Phật, Thúy Kiều vẫn mong muốn tổ ấm tình yêu. Dù lên kiệu hoa hay chưa, đã bốn lần nàng khát khao tìm đến hạnh phúc. Đó là chưa nói đến trong chặng đường mười lăm năm, đủ minh chứng cho những tình cảm Kim - Kiều dành cho nhau trong tìm kiếm, nhớ nhung. Màn đoàn viên sau mười lăm năm xa cách, Kim - Kiều đã Tình xưa lai láng khôn hàn, chỉ vì Kiều thẹn bởi chữ trinh mà Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ chứ đâu phải vì giữ hạnh phúc cho Thúy Vân. Thử hỏi, trước cảnh Khi chén rượu, khi cuộc cờ/ Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên thì Thúy Vân liệu có còn chỗ hay không? Như thế, Thúy Vân trở thành cái bóng trong cuộc hôn nhân đáng ra không nên sinh ra và tồn tại. Nguyễn Du đã rất thành công khi xây dựng nhân vật Thúy Vân theo kiểu nhân vật chức năng và nhân vật Thúy Kiều theo kiểu nhân vật tâm lí nhằm tăng thêm tính bi kịch. Một bi kịch ứng xử vô thức trong sự tước đoạt hạnh phúc của người khác mà chính người trong cuộc cũng không hay biết khi mà bản thân họ đang níu giữ lấy nó trong mọi hoàn cảnh. Một người đàn bà trong tận cùng đau khổ, khi may mắn có hạnh phúc trong tay vẫn không chút thanh thản bởi đang thôi thúc sự báo thù. Chính điều này đã tạo nên sự thù hận trong chuỗi bi kịch của Thúy Kiều. Ân oán phân minh cũng là lẽ thường của sự đời, nhưng với Kiều, đáng ra không nên ứng xử như thế. Trước khi báo oán, dù bất đắc dĩ, Thúy Kiều cũng đã chép kinh, gần gũi với Phật giáo, chẳng lẽ nàng thờ ơ đến mức không hiểu hay sự bao dung độ lượng, lòng vị tha của con người đã không dành chỗ cho nàng để rồi đáng ra chỉ cần báo ân thì nàng còn thêm báo oán? Màn báo oán ghê rợn, sao nàng chỉ biết làm cho hả dạ mà không biết đến cách ứng xử phù hợp, cứ muốn sư trưởng Giác Duyên, người luôn kinh kệ tạo âm phúc, sống thanh tịnh chốn cửa Phật Xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù trong cảnh Máu rơi thịt nát tan tành? Trong màn báo oán, vì sao Hoạn Thư, người đã làm nàng đau đớn về thể xác và tinh thần đã được Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay? Ban đầu, với chủ ý trừng trị Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều, nhưng rồi lí lẽ Hoạn Thư đưa ra quá sắc sảo qua cách ứng xử rất khôn ngoan: bình thường hóa câu chuyện ghen tuông theo lẽ thường tình; bảo vệ và đề cao tình yêu dành cho chồng; tâng bốc giá trị chồng chung, lượng bể của Kiều; kể công, hạ tội rõ ràng để cuối cùng Kiều thất lí, phải nhún nhường. Như thế, dù muốn, nàng không đủ già dặn.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> để khép tội nên Tha ra thì cũng may đời/ Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen. Lời lẽ kiểu ban ơn trống rỗng của kẻ đang nắm trong tay quyền lực chẳng thể lấp láp nổi sự bẽ mặt nơi Ba quân đông mặt pháp trường trước lí lẽ Hoạn Thư, một thủ phạm đang dưới trướng của nàng!(Có lẽ đây là lần duy nhất nàng biết ứng xử trước tình thế!?). Màn báo oán diễn ra Ai ai trông thấy hồn kinh phách tàn đủ thấy thù hận trong lòng Kiều ngùn ngụt mà giờ đây nàng coi đó như một cơ hội báo thù. Lòng thù hận liệu có xoa dịu được Thúy Kiều hay biểu hiện sự non nớt trong ứng xử trước tội danh mình xét xử đang tạo nên bi kịch? Trong tất cả những bi kịch của Thúy Kiều, điều tưởng như rất lạ là tài năng biến thành bi kịch cho chính mình. Tạo hóa ban cho tài năng Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương, tại sao nàng tự trói buộc nó vào kiếp đa sầu mà không đem lại giá trị tinh thần để làm giàu cuộc sống. Khi đang bình yên, ở độ tuổi xuân xanh đẹp đẽ nhất của đời người, tài sáng tác của Thúy Kiều không phải là khúc tình ca dịu ngọt dâng tặng tình yêu mà chỉ là Môt thiên “Bạc mệnh” lại càng não nhân. Hay trong buổi đầu gặp gỡ bén duyên, nghe tiếng đàn nàng, Kim Trọng đã thốt lên Rằng: “Hay thì thật là hay/ Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào”.Tại sao trong không gian chỉ có tình yêu, hạnh phúc mà nàng không khuấy lên khúc nhạc tình êm ái để người yêu thưởng thức mà làm Kim Trọng phải trong trạng thái nghe đàn ngơ ngẩn sầu như thế? Sao nàng chỉ gieo vào lòng người âm thanh não nề đến vậy? Đây có phải là cách ứng xử hạn chế, không phù hợp trong không gian giao tiếp hay không? Rồi trong chặng đường lưu lạc, điều đáng tiếc là nàng đã đưa tiếng đàn phục vụ khách làng chơi mua vui, giải sầu. Đớn đau nhất khi đưa tài năng đánh đàn hầu hạ ở màn diễn tại nhà Hoạn Thư trong sự chứng kiến của người tình! Tủi hận và nhục nhã khi tiếng đàn phải cất lên cho Hồ Tôn Hiến, một kẻ đã dùng mưu cao, kế hiểm đánh vào tâm lí nàng để làm tiêu tan cơ đồ Từ Hải. Truyện đã xây dựng nhân vật Thúy Kiều đầy tài năng, nhất là ở tài đánh đàn, nhưng thật đáng tiếc, mở đầu là Một khúc bạc mệnh thật là não nhân, kết thúc Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao. Tiếng đàn của một bậc tài hoa, chỉ đem lại sự sầu muộn cho chính mình cũng như người thưởng thức, xem ra tài năng của mình làm héo hon chính tâm hồn mình. Tại sao với trí thông minh sắc sảo hơn người, nàng không thay đổi cách thức sáng tác, chọn lựa bản nhạc chơi đàn mà cứ phải Rằng: “Quen mất nết đi rồi” theo cách bảo thủ. Nàng không có ý thức dành niềm vui trong tài đàn vì người yêu hay sao? Có thể thay đổi được để làm cho cuộc sống giàu ý nghĩa, thêm niềm vui trong những hoàn cảnh có thể, sao nàng không trăn trở vì điều đó? Phải chăng vì thế mà tài năng của Thúy Kiều đã tạo nên bi kịch chính từ sự lựa chọn, cách ứng xử của nàng?.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Câu chuyện đã xây dựng nhân vật Thúy Kiều với phẩm chất, tài năng, thông minh, sắc sảo hơn người và đặt nó vào những thử thách của con người để khẳng định rằng Thông minh vốn sẵn tính trời, Sắc đành đòi một tài đành họa hai, sự vượt trội tự nhiên ấy, nếu không nhào nặn vào đời thường để biết cách đối nhân xử thế thì không những trở nên vô nghĩa mà còn tạo nên chính bi kịch cho bản thân. Qua phân tích, nhìn nhận về cách ứng xử của Thúy Kiều trong từng sự việc, hoàn cảnh cụ thể, ta nhận thấy cách xử sự của Kiều quả là hời hợt, nông cạn trước mọi vấn đề để rồi bi kịch cuộc đời cứ quấn lấy nàng từ lần này đến lượt khác. Điều dễ nhận thấy ở Thúy Kiều là trước những thử thách cuộc đời, nàng đã bất lực, chấp nhận hoàn cảnh mà chưa thấy ý thức đấu tranh để bảo vệ sự tồn tại; hoặc có phản kháng thì cũng biểu hiện ở mặt tiêu cực nhất, đó là hai lần tự vẫn, đeo tội nghiệp chướng tối kị nhất trong quan niệm dân gian. Con người sống ở xã hội nào thì tất yếu chịu ảnh hưởng của xã hội ấy. Nếu như xã hội Thúy Kiều không có oan trái, lật lọng, mưu mô xảo quyệt, buôn thịt bán người...thì cuộc đời Kiều sẽ không vấp chặng đường mười lăm năm lưu lạc, đắng cay. Vì thế, có nhiều nhà nghiên cứu- Phê bình văn học đã có nhận xét “Tạo ra nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du đã gián tiếp và có lẽ cũng là vô tình đòi quyền sống cho con người trong xã hội phong kiến” (Hoài Thanh, Quyền sống của con người trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du); hay Giáo sư Đặng Thai Mai cũng nhận định Chính quyền phong kiến là người thủ phạm đã làm cho nhà họ Vương vô tội phải tan nát (Đặc sắc của văn học cổ điển Việt Nam qua nội dung Truyện Kiều)... Nhưng xã hội loài người từ bắt đầu có giai cấp đến nay, một xã hội không có mặt trái vẫn đang nuôi hi vọng trong khát khao của con người. Thực chất, bi kịch của Thúy Kiều không hoàn toàn chịu ảnh hưởng của xã hội. Từ cái nhìn của những tầng lớp như sư cô Tam Hợp Hại một người, cứu muôn người, cũng có nghĩa là một sự so sánh xã hội, một xã hội chưa mục ruỗng tới mức mọi bi kich của Kiều bị tác động bởi nó. Kể cả bản thân Kiều, khi khuyên Từ Hải ra hàng cũng đã ca ngợi triều đình đấy thôi. Như thế, xã hội trong Truyện Kiều vẫn chưa ở mức mọi bi kịch sẵn sàng ập xuống trong cuộc sống con người. Mỗi con người, mỗi môn phái đạo tràng, mỗi xã hội đều luôn có tính hai mặt của nó. Điều quan trọng là phải biết gạn đục khơi trong, chọn lựa, phát huy mặt tích cực, tìm cách đối nhân xử thế phù hợp để tránh đi những bi kịch. Cũng là người phụ nữ trong xã hội phong kiến, được tạo hóa ban cho sắc đẹp, trí tuệ, tài năng, ở Trung Quốc hay Việt Nam...,những Tây Thi, Dương Quí Phi, Điêu Thuyền, Nguyên Phi Ỷ Lan... đã biết vận dụng cách ứng xử của mình vào những hoàn cảnh thực tế để làm cho cuộc sống có ý nghĩa. Câu chuyện ứng xử của Thúy Kiều không chỉ dừng lại trong trang.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> sách Nguyễn Du mà có sức lan tỏa muôn đời để khi soi mình vào từng hiện tượng cụ thể, ta biết giật mình trong xử sự để làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Từ cách ứng xử của Thúy Kiều cho ta thấy biết ứng xử khéo léo, đối nhân xử thế khôn ngoan là điều rất cần thiết trong thực tế đời sống con người. Một nàng Kiều với những đắn đo, cân nhắc Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn, một nàng Kiều dằn vặt đau khổ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai, một nàng Kiều ý thức sự bẽ bàng thân phận, một nội tâm đầy sâu sắc, vậy mà sao trước những thử thách cuộc sống, nàng ứng xử một cách nông cạn đến thế? Tưởng chừng như cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Du có sự mâu thuẫn giữa yếu tố tâm lí và chức năng trong cùng một con người, nhưng thực chất đó là một cách khẳng định, sự tồn tại của con người chính là biết đặt mình trong ứng xử trước những tình huống thử thách xã hội. Thương cảm trước số phận của một bậc tài sắc chịu cảnh đau đớn ê chề trong chặng đường mười lăm năm lưu lạc, ngẫm ra thì không khỏi chua xót khi mà đang có những lối thoát khác mà nàng thì quá thụ động, xử sự tình huống một cách bản năng để rồi phải gánh chịu bi kịch đau đớn giữa cuộc đời. Truyện Kiều khép lại nhưng một kết thúc mở vẫn luôn gợi suy ngẫm cho người đọc. Màn đoàn viên vẫn đang đặt ra một dấu chấm hỏi trong tình huống truyện đầy thử thách. Mây bay, hạc lánh biết là tìm đâu?, sư Giác Duyên có thể không về am nhà của Vương ông, có thể Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai, một sự chờ đợi không hẹn ngày, hẹn tháng, hẹn năm! Tu là cõi phúc, Thúy Kiều có ý thức để gột rửa nghiệp chướng hay không khi mà giờ đây, bên Kim Trọng, Chẳng trong chăn gối cũng ngoài cầm thơ? Có trời mà cũng tại ta, ai dám khẳng định rằng bi kịch đời Kiều đã khép lại? Thiện căn ở tại lòng ta, Nguyễn Du có dự cảm gì chăng với kết thúc thiên truyện Mua vui cũng được một vài trống canh, hay chính một sự gửi gắm đầy tính nhân đạo với cách đề cao bản ngã con người trong sự tồn tại đúng nghĩa?. MỘT GÓC NHÌN VỀ GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO TRONG TRUYỆN KIỀU (NGUYỄN DU) Truyện Kiều sống đã gần 250 năm nhưng luôn mới mẻ trong lòng người bởi tính nhân loại phổ quát của nó. Cũng vì thế, không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới, người ta đang tập trung nghiên cứu sáng tác của Đại thi hào Nguyễn Du nói chung và Truyện Kiều nói riêng để hiểu một cách sâu sắc về giá trị của tác phẩm..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Đến với Truyện Kiều, ta thấy cái tâm thể hiện rất rõ trên từng nét bút của tác giả. Một tình yêu thương con người vô tận theo cách Nguyễn Du! Có những nhân vật dù được ưu ái trên trang viết như Thúy Kiều, Từ Hải thì ông vẫn rất công bằng, khách quan trước những phần khuyết thiếu của họ. Đặc biệt từ câu chuyện về Thúy Kiều, ông đang mở ra một con đường giúp con người giữa cuộc đời nhìn thấy bóng dáng mình trong đó để ngẫm nghĩ, soi xét, tìm lấy những giá trị đích thực trong việc hoàn thiện mình. Hay nếu một lần được trở lại, nàng Kiều trên trang viết sẽ luôn là niềm kiêu hãnh trong lòng người. Phải chăng đó là tiếng lòng của Nguyễn Du dành cho nhân vật của mình qua cách đề cao bản ngã, ý thức sống cá nhân- điểm cần nhấn mạnh khi tìm hiểu giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều? Tìm hiểu giá trị nhân đạo Truyện Kiều ở phương diện đề cao bản ngã, thức dậy ý thức sống cá nhân con người, ta bắt đầu từ việc chọn cặp nhân vật mang tính tương đồng, tương phản về hình thức và nội dung cách xử lí vấn đề để thấy rằng ở cùng một vị trí, trước cùng một tình huống thử thách họ đã thể hiện cách ứng xử như thế nào nhằm bảo vệ sự tồn tại của chính mình. Từ hệ thống nhân vật của Truyện Kiều, trong các cặp nhân vật mang tính chất trên, Hoạn Thư/ Thúy Kiều là hai nhân vật thể hiện sâu sắc nhất của cách ứng xử đa dạng, mang ý nghĩa điển hình cho một số kiểu dạng con người tồn tại ở mọi lúc, mọi nơi, mọi thời đại. Nhìn nhận những nhân vật này, ta bắt đầu từ hai không gian đối thoại, ở nhà Hoạn Thư và ở “giang sơn” Từ Hải để thấy rằng khi đứng trước thử thách họ đã thể hiện bản ngã, ý thức sống cá nhân của mình ra sao. Trên sân khấu chật hẹp trong phạm vi gia đình họ Hoạn đã xuất hiện màn kịch nhỏ chỉ gồm có ba nhân vật: Hoạn Thư trong vai nhân vật chính, đồng thời là đạo diễn; Thúy Kiều trong vai Hoa nô, người hầu, bị động; Thúc Sinh trong vai trung gian của mối tình tay ba, cũng rất bị động. Màn diễn tuy mở đầu đầy tính bi kịch nhưng ta vẫn nhận thấy được một kết thúc có hậu qua cách xử sự của tiểu thư họ Hoạn. Hoạn Thư đang nắm trong tay cơ hội xử lí tình địch và người chồng bội bạc, ai cũng xót xa trước cảnh Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm mà chẳng thể oán trách được tiểu thư .Thực chất, trong hoàn cảnh này, nguyên nhân của bi kịch xuất phát từ cách xử sự của Thúc Sinh, Thúy Kiều chỉ là nạn nhân đáng thương. Truyện đặt nhân vật Thúc Sinh vào lợi thế được “mớm cung” Bướm ong lại đặt những điều nọ kia ở thời điểm trước khi trở về Lâm Tri với Kiều, cũng có nghĩa Hoạn Thư đang ngầm thông báo rằng đã biết những điều gì đã xảy ra. Giả định đây là câu chuyện có thật, ta có quyền đòi hỏi rằng: Tại sao chàng Thúc không nhân cơ hội này bộc bạch với vợ việc đã rồi theo cách đàn ông mà lại còn Tình riêng chưa dám rỉ răng, cố tình che giấu? Hoạn Thư đâu phải kẻ hẹp hòi. Nàng vừa rộng lượng Ví bằng thú thật cùng ta/ Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên, vừa ứng xử khôn.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> ngoan đến mức Dại chi chẳng giữ lấy nền. Biết đặt thanh thế gia tộc lên trên hết, ai nằm trong hoàn cảnh ấy khó có cách nghĩ như nàng! Dù nằm trong cảnh nát ruột tan hồn, Thúc Sinh cũng thật đáng phải như thế. Chỉ tiếc rằng Hoạn Thư không hiểu hết ngọn nguồn sự xuất hiện của Thúy Kiều bên chồng mình nên Kiều nằm trong cảnh “cháy thành vạ lây”. Không dùng cách trả đũa bằng trò hành hạ thể xác theo kiểu ghen tuông đàn bà thường vẫn làm, Hoạn Thư đã xử lí rất thâm nho nhằm tạo sự ngầm hiểu của ba nhân vật. Từ cách xử sự khôn khéo của Hoạn Thư, người ngoài khó lòng biết được những gì đã xảy ra trong nhà họ Hoạn . Tình huống truyện từ chỗ căng kéo đã bất ngờ chùng xuống, Chút tình khép lại màn diễn, đồng thời tấm lòng bao dung, độ lượng, sự hiểu biết của Hoạn Thư Tài nên trọng mà tình nên thương đã mở đường sống cho Thúy Kiều trong sự đồng tình của độc giả. Hoạn Thư đã thay đổi vị trí cho Thúy Kiều Áo xanh đổi lấy cà sa/ Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền trong không gian thanh tịnh ở Quan Âm các để giữ chùa chép kinh. Cho đến giờ Thúc Sinh đâu đã thật lẽ với Hoạn Thư, vậy mà nàng vẫn dành cho tình địch một cuộc sống yên ấm trong không gian đẹp đẽ, thanh tĩnh ở gia đình họ Hoạn Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa/ Có cổ thụ, có sơn hồ để tu tịnh. Khi Thúy Kiều chạy trốn đã cắp theo chuông vàng, khánh bạc- những đồ thờ quí giá trong chùa- vướng điều cấm kị nhất ít ai dám làm, tiểu thư không hề truy đuổi. Nàng thật biết điểm dừng! Con quan Lại bộ, có tất cả mọi ưu thế để xử lí tình địch, nhưng Hoạn Thư đã không dựa vào đó để “làm to tát”, trái lại kín đến mức chỉ ba người trong mối liên quan thầm biết. Mặc dù tình địch và người chồng bội bạc có khi phải gánh chịu đau đớn, vậy nhưng đối với Hoạn Thư, độc giả ít ai có thể coi nàng là người cay nghiệt. Nhà họ Hoạn bây giờ, Thúy Kiều chỉ ở trong vai kẻ hầu, lại là nạn nhân của bi kịch ghen tuông nên khó tránh khỏi hậu quả của cơn “bão tố” đang dâng trào của Hoạn Thư . Mặc dù yếu tố khách quan là như vậy, nhưng xét tình tiết trong cách xây dựng tình huống truyện, ta thấy nhân vật Thúy Kiều đang được đặt vào một lợi thế chủ quan, vậy mà khi đứng trước thử thách gay cấn, nàng đã không biết dựa vào đó để tháo gỡ cho mình. Đường đường chính chính được kiệu hoa lướt gió rước về trong phận dâu con trướng đào sánh đôi, vậy mà khi Hoạn Thư Cậy chàng tra lấy, thực tình cho nao, nàng đã không biết coi đây là cơ hội để biện hộ cho vị trí, bậc thứ của mình trong nhà họ Thúc. Sao một người được coi là thông minh, sắc sảo mà trong hoàn cảnh này nàng không biết dùng lí lẽ để bào chữa cho danh phận của mình? Mặc dù Hoạn Thư chưa biết hay chưa đồng thuận đi chăng nữa thì cũng Ngoài thì là lí song trong là tình, Thúc ông đã chấp nhận nàng cơ mà. Còn nếu như vì giữ cho Thúc Sinh mà cố tình che giấu thì cũng thật phi lí bởi trong cách xử sự của chàng Thúc bây giờ đâu còn đáng mặt đàn ông, không.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> thể “nhìn mặt gửi vàng”. Thông minh vốn sẵn tính trời, vậy nhưng mổ xẻ sự kiện theo hệ thống bi kịch trong chặng đường lưu lạc của Thúy Kiều, ta thấy thật lãng phí khi giá trị trời ban ấy chỉ là thứ tài sản nàng đem cất giữ nó để được tôn thờ chứ không phải đưa vào cuộc sống nhằm bảo vệ sự tồn tại của chính mình. Phải chăng qua cách xây dựng nhân vật, tác giả đặt Kiều vào những thử thách để xem sự thông minh, sắc sảo của nàng có được vận dụng vào cuộc sống một cách có ý nghĩa hay không? Trước thử thách, Thúy Kiều đã buông xuôi, chấp nhận, phó mặc cho hoàn cảnh. Với một kiểu sống thiếu sự khẳng định, thiếu ý thức của con người cá nhân như vậy, việc nàng không tự mình vượt qua chướng ngại giữa đời thường, phải gánh chịu bi kịch là lẽ đương nhiên. Tình huống truyện đã thay đổi về không gian đối thoại. Trong “giang sơn” Từ Hải đang diễn ra sự hoán đổi vị thế giữa Hoạn Thư và Thúy Kiều. Giờ đây, với tư cách là phu nhân bậc hảo hán một cõi biên thùy, Thúy Kiều đang làm chủ tình thế, có quyền sinh quyền sát; còn Hoạn Thư là nạn nhân số một trong màn báo oán của Kiều, đang đứng trước hiểm họa bị đe dọa về tính mạng. Trái ngược với cách xử sự của tiểu thư nhà Lại bộ, Thúy Kiều đã dựa vào uy quyền của Từ Hải tìm cách trả thù theo kiểu “đao to búa lớn”, Chiếu danh tầm nã bắt về hỏi tra với những ai đã làm nàng khổ nhục. Như tư thế đối mặt của một trận chiến, Thúy Kiều đã chuẩn bị nhanh chóng, chu đáo cho việc báo thù mang tầm vóc, quy mô. Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi cùng súng ống Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân, một không gian đầy uy hiếp. Trướng hùm mở giữa trung quân với cảnh tượng Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra, câu chuyện báo oán do Thúy Kiều sắp đặt mang tính cảnh báo dữ dội giữa Ba quân đông mặt pháp trường. Trong tay Hoạn Thư, ở phạm vi nhỏ hẹp chỉ ba con người với nhau, nàng Kiều đã tự vô hiệu hóa ưu thế của mình để cuối cùng phải gánh chịu cay đắng về tinh thần và chính Hoạn Thư gỡ bí cho Kiều; trong tay Kiều, nơi không gian rộng lớn đằng đằng sát khí giữa ba quân thiên hạ, lại là đối tượng đầu tiên trong việc trả thù của Kiều, ta xem cách ứng xử của tiểu thư họ Hoạn ra sao? Trong Một mẻ tóm về đầy nơi ấy, Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư là bị cáo đưa ra xét xử đầu tiên. Trong hoàn cảnh giao tiếp đầy nghịch tính, qua cách diễn tả thái độ chào thưa kèm ngôn ngữ xưng hô Tiểu thư của Thúy Kiều dành cho Hoạn Thư, ta dễ dàng nhận thấy nàng Kiều đang trong vai diễn một cách giả tạo. Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây, giọng điệu mỉa mai, châm chọc của kẻ đang mượn quyền hành người khác để lên mặt. Lời lẽ của Kiều thật thâm thúy Đàn bà dễ có mấy tay/ Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan không ngoài mục đích kích bác, uy hiếp, trấn áp đối phương. Thúy Kiều giờ đây cũng chẳng vừa vặn gì, không phải cảnh báo, đe dọa nữa mà thông báo thẳng thừng chủ ý của sự việc trả thù cho Hoạn Thư Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều! Trước nguy cơ ngàn cân treo sợi tóc, Hoạn.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Thư hồn lạc, phách xiêu. Tác giả miêu tả khách quan trạng thái của tiểu thư họ Hoạn về tình thế hoàn toàn bất lợi trước số phận của nàng đã đem lại sự âu lo cho độc giả. Trong tình thế nguy hiểm, tính mạng đang như “cá nằm trên thớt”, đối thoại với Kiều, lí lẽ đầu tiên tiểu thư đưa ra Rằng: Tôi chút dạ đàn bà/ Ghen tuông thì cũng người ta thường tình. Cúi đầu nhận tội, nhưng qua lời lẽ, Hoạn Thư biết cách nêu tội của mình, đó là cái tội theo lẽ thường của đàn bà. Tội như thế thì đâu đáng phạt! Dù có đáng phạt thì tội từ dạ đàn bà ở mức thường tình cũng chẳng thể quy vào án mạng. Một cách hạ tội rất khéo léo! Sau khi hạ tội, tiểu thư triển khai thao tác kể công Nghĩ cho khi gác viết kinh nhằm gợi mở, nhắc nhở về ân nghĩa của Hoạn Thư đối với Kiều, đó là mở một con đường sống ở Quan Âm các. Tiếp theo vẫn là lí lẽ, chứng cứ Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo, xem ra bề ngoài Hoạn Thư nhắc đến cái tình người của mình là không truy đuổi khi Kiều chạy trốn, nhưng ngầm ẩn trong đó là sự cảnh báo. Một dấu ấn lớn trong cuộc đời khi trốn khỏi nhà Hoạn Thư, lẽ nào Kiều không chột dạ về tội tự tiện cắp Chuông vàng, khánh bạc của Quan Âm các. Không ý thức được “Giấy rách giữ lấy lề” cũng như phạm vào điều cấm kị chốn linh thiêng, đây là điểm yếu về thanh danh, đạo đức của Kiều mà Hoạn Thư đang biến nó thành lợi thế cho mình trong sự ngầm hiểu của hai con người đang đối lập nhau về vị thế. Sau khi khai thác triệt để lợi thế bằng cách dùng lí lẽ, chứng cứ xác thực, Hoạn Thư mới đề cập đến nguyên nhân gây tội Lòng riêng, riêng những kính yêu/ Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai!. Biện hộ về nguyên nhân gây tội, Hoạn Thư đưa ra những lí do thật khó bắt bẻ, trót lòng gây tội chỉ vì do yêu chồng, không muốn chồng chia sẻ tình cảm, tìm mọi cách dành lại chồng để giữ gia đình yên ấm. Trong từ chồng chung Hoạn Thư đã dùng, ngoài ý không muốn chia sẻ, nhắc nhở mối quan hệ về lí của khuôn phép phong kiến còn là cách đề cao danh phận của nàng Kiều. Ngôn ngữ chặt chẽ, sắc sảo qua việc dùng từ chồng chung, lượng bể cũng là chủ ý của Hoạn Thư trong việc tâng bốc Kiều về mặt tâm lí. Trót lòng gây việc chông gai/ Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng!, cách thể hiện sự ân hận, cầu xin nhưng trong lời lẽ ta nhận thấy Hoạn Thư như đang mở đường cho Thúy Kiều tìm lối thoát. Bài nào chăng, một bài toán lấy công trừ tội gẫm ra còn thiệt cho Hoạn Thư, đó là chưa nói trong lời lẽ Hoạn Thư chứa ẩn ý những vấn đề bất lợi cho Thúy Kiều mà trong lúc này, không tỉnh táo Kiều rất dễ mất mặt. Tại sao Kiều đã gạt bỏ ý đồ ban đầu đối với Hoạn Thư và cách ứng xử của nàng bây giờ tỏ ra rất khôn ngoan? Tha ra thì cũng may đời/ Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen, đâu phải vì tấm lòng lượng bể của Kiều mà Hoạn Thư được sống. Lúc này, Thúy Kiều đã không đủ già dặn để khép tội tiểu thư họ Hoạn. Hơn nữa, qua sự “nhắc nhở” của Hoạn Thư, ít ra Kiều cũng tự cảnh tỉnh mình để bảo vệ thể diện. Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay,.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Hoạn Thư thoát hiểm một cách ngoạn mục! Một Hoạn Thư qua ngôn ngữ trần thuật trong sự xuất hiện hoảng loạn tinh thần hồn lạc, phách xiêu và một Hoạn Thư khuê các qua ngôn ngữ đối thoại với hệ thống lí lẽ, chứng cứ đầy tính thuyết phục bằng cách lập luận sắc sảo, bình tĩnh đến cao độ, đó chính là sự thống nhất về bản lĩnh của nàng. Một tình huống diễn ra đầy kịch tính trong sự đối lập giữa trạng thái bên ngoài và tâm thế chủ động của Hoạn Thư tạo sự hấp dẫn cho mạch truyện. Cả Thúy Kiều và Hoạn Thư đều “diễn”, nhưng cách diễn của tiểu thư họ Hoạn sâu sắc đến mức khó lòng nhận ra. Chẳng phải Hoạn Thư đã thành công xuất sắc ở vai diễn vừa bị cáo, vừa luật sư bào chữa cho mình hay sao? Trong tình huống này, so với Kim Vân Kiều truyện, Truyện Kiều có nhiều điểm thay đổi. Ở Kim Vân Kiều truyện, Kiều cho hành quyết Bạc Hạnh, Bạc Bà một cách man rợ rồi mới đưa Hoạn Thư xét xử. Trong xét xử Hoạn Thư, Thúy Kiều tra khảo thuộc hạ khi bắt Kiều ở Lâm Tri và cũng để Hoạn Thư chứng kiến cảnh đao phủ đem Hoạn Ưng,Hoạn Khuyển ra chém. Tiếp đến, Thúy Kiều sai cung nữ lột quần áo Hoạn Thị, treo lên xà nhà, hai người cung nữ nắm hai tay, rồi phía sau, hai người cầm roi ngựa nhất tề động thủ. Một người vút từ trên xuống, một nguời vút từ dưới lên, đánh cho Hoạn thị như cá rơi than nóng, lươn phải nước sôi, kêu rên rầm trờ, mình quay như chong chóng, khắp mình không còn chỗ nào lành lặn . Những cảnh tượng cầm mác đâm nhừ từ chân đến đầu làm cho tội nhân đứt thành trăm mảnh. Đang là con người nguyên vẹn, tức khắc biến thành một đống thịt nát, hay trộn xương thịt ấy vào với rơm cỏ để cho ngựa ăn đã tạo nên cảm giác ghê rợn cho người đọc. Như thế, ở Kim Vân Kiều truyện, sự việc được miêu tả cụ thể, chi tiết đã thu hút độc giả hướng vào vấn đề chính đó là sự trả thù kinh hoàng. Còn ở Truyện Kiều, ngôn ngữ, hình tượng thơ cô đúc, dù tả cảnh Máu rơi thịt nát tan tành thì cũng không gợi cảm giác tanh tưởi như trong Kim Vân Kiều truyện. Cách xử lí Hoạn Thư của Kiều ở Kim Vân Kiều Truyện là vừa đối thoại, vừa nhục hình, nhưng ở Truyện Kiều chỉ đơn thuần đối thoại. Có sự thay đổi như thế phải chăng Nguyễn Du chỉ tập trung khai thác sự kiện với dụng ý tập trung cho việc hướng tới trọng tâm tác phẩm là đề cao cách ứng xử khôn ngoan của con người trong thử thách? Với Truyện Kiều, tác giả đã xây dựng một hệ thống thử thách và đây chỉ là một mắt xích từ chuỗi sự việc được xây dựng trong tác phẩm nhằm hướng tới chủ đề của tác phẩm. Từ rất nhiều vấn đề được đưa vào Truyện Kiều, chung quy lại, vấn đề chính- bức thông điệp Nguyễn Du muốn gửi gắm trong tác phẩm là câu chuyện về cách ứng xử của Thúy Kiều, cũng là câu chuyện để người đời soi chiếu. Qua sự thể hiện của nhân vật Hoạn Thư và Thúy Kiều trong hai không gian đối thoại, điều không thể phủ nhận về vai trò quan trọng của con người chính là biết cách ứng xử. Cùng sự việc trả thù về câu chuyện ghen tuông, tại sao Hoạn Thư muốn gói.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> ghém trong nội bộ một cách thầm lặng, kín đáo ở phạm vi nhỏ nhất, rồi còn tạo cho tình địch một lối thoát mà Thúy Kiều lại muốn làm ầm ĩ, phanh phui một cách rộng rãi và muốn trừng phạt đến thế? Một việc chẳng hề tốt đẹp gì giữa cuộc đời, phải chăng Hoạn Thư con nhà dòng dõi Lại bộ biết giữ tai tiếng, thể diện thanh danh; còn Kiều thường thường bậc trung, may mắn được làm phu nhân nhưng không ý thức được vị trí xã hội hiện tại của mình bên bậc anh hùng Từ Hải nên đã biến nó thành cơ hội phục vụ cho lợi ích cá nhân nàng? Qua hai không gian đối thoại, tác giả đặt nhân vật vào những lợi thế, những thử thách trong việc hoán đổi công bằng, khách quan đủ cho ta nhận thấy điều cần thiết nhất trong sự tồn tại đó là sự hiểu biết, cách ứng xử của con người. Trải qua bao thử thách, dù không biết cách ứng xử, Thúy Kiều vẫn tồn tại vì nàng đã gặp không ít may mắn. Dù Kiều may mắn thoát thân thì cũng cay đắng, nhục nhã ê chề bao phen, một sự tồn tại không đúng nghĩa! Còn nếu như Hoạn Thư không bản lĩnh, không sống bằng ý thức cá nhân để tự bảo vệ mình, không khôn ngoan trong ứng xử thì chẳng thể nào tồn tại trong không gian đằng đằng sát khí được sắp đặt công phu của Kiều. Một sự đấu tranh bảo vệ sự tồn tại đầy ý nghĩa! Như thế, trước một vấn đề cùng giải quyết, so sánh Thúy Kiều và Hoạn Thư, ta nhận thấy hơn nhau là sự hiểu biết, cách xử sự. Thế mới biết bên cạnh Hoạn Thư, Kiều quả là non nớt. Với cách xây dựng nhân vật Thúy Kiều như thế, có phải Nguyễn Du đã làm tổn thương đến bậc giai nhân tuyệt sắc hay vô cảm trước một số phận bi thương trong chặng đường mười lăm năm lưu lạc của một con người? Tấm lòng Nguyễn Du luôn trăn trở về nhân vật Thúy Kiều trên mỗi bước đường, điều đó được thể hiện trong nhiều câu thơ day dứt, ngậm ngùi của ông. Mở đầu thiên truyện, một nàng Kiều tài sắc sống trong cảnh Êm đềm trướng rủ màn che nhưng cũng không ít dự cảm Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu đã trở nên ám ảnh với nàng khi Trông người lại ngẫm đến ta. Qua nét bút miêu tả tài hoa của tác giả, Thúy Kiều được ngợi ca ở mức tuyệt đỉnh về tài sắc Một hai nghiêng nước nghiêng thành/ Sắc đành đòi một, tài đành họa hai. Không chỉ thế, trong khát vọng hạnh phúc Sóng tình dường đã xiêu xiêu/ Xem trong âu yếm có điều lả lơi, Nguyễn Du cũng rất trân trọng, dành cho nàng những câu thơ đẹp để miêu tả một tình yêu đã vượt ra ngoài biên giới thời đại. Rồi bắt đầu chặng đường mười lăm năm lưu lạc, những khi đau đớn nhất của đời Kiều, vẻ đẹp nàng vẫn được toát lên qua ngôn ngữ miêu tả ước lệ cao sang Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai, hay vùi liễu, dập hoa...Tiếng khóc thương của Thúy Kiều trước nấm mồ vô chủ Đau đớn thay, phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung đầy dự báo về số phận của nàng. Trên chặng đường khổ ải, Thúy Kiều bị sự đọa đày của Tú Bà, câu thơ Nguyễn Du đã cất lên đầy dằn vặt, đau xót, thương cảm Thịt da ai cũng là người/ Lòng nào hồng rụng, thắm rời chẳng đau!.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Một tình thương con người của Nguyễn Du trong sự đồng cảm nỗi đau đớn, ê chề nhục nhã trên chặng đường đầy nghiệt ngã của Thúy Kiều. Thương mà cũng không kém phần xót xa khi tai ương cuộc đời cứ chực vồ lấy Kiều. Có phải Thúy Kiều phải gánh chịu bi kịch khi không có lối thoát? Hay Thúy Kiều vẫn có thể tìm ra lối thoát nhưng do không biết cách ứng xử để đối phó hoàn cảnh nên vẫn chịu bi kịch? Đặt nhân vật Thúy Kiều trong sự đối mặt đầy thách thức trước hiện tượng xã hội, Nguyễn Du đang hướng độc giả chứng kiến cách xử sự của nàng để có sự nhìn nhận, đánh giá nhân vật bằng cái nhìn lí trí chứ không phải cảm tính. Nếu quả thật trong những thử thách của cuộc đời Thúy Kiều hoàn toàn bế tắc, không thể có lối thoát thì hẳn Nguyễn Du đã chẳng phải ngậm ngùi Đã mang lấy nghiệp vào thân/ Cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa. Nguyễn Du đã dành tình thương yêu cho nhân vật Thúy Kiều không chỉ đơn thuần một chiều mà ẩn trong đó cả một niềm day dứt! Một tấm lòng yêu thương của Nguyễn Du đối với Thúy Kiều trong cái nhìn công bằng, khách quan đã tạo nên giá trị nhân đạo sâu sắc của Truyện Kiều. Nhìn nhận Thúy Kiều, nếu chỉ ca ngợi, thương xót và cảm thông, như thế cũng có nghĩa ta đã bằng lòng trước số phận của nàng. Dù vô tình đi chăng nữa, đó là cách ta đang thờ ơ trước nỗi bất hạnh của nhân vật, bởi một nàng Kiều thiếu hiểu biết, ứng xử rất bản năng đã bất lực, bế tắc giữa cuộc đời đang sừng sững trong trang sách của Truyện Kiều. Nguyễn Du khát khao được thấy một nàng Kiều thông minh, đẹp đẽ biết sống có ý thức, biết đối phó, ứng xử trước thử thách chứ không muốn nhìn nàng đang chết yểu trong sự thương hại, vô nghĩa. Phải chăng đó là sự trân trọng, tôn vinh cái đẹp bằng cái tâm của người cầm bút? Đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du, ta thấy rằng, một nàng Kiều với những yếu tố trời ban nổi trội hơn người, nếu không được nhào nặn trong trường đời để học bài học ứng xử của con người thì sẽ luôn luôn thất bại trước thử thách, khó lòng tồn tại giữa cuộc đời. Sâu xa hơn nữa, từ nhân vật trong văn học, những nàng Kiều giữa cuộc đời được tạo hóa ban tặng những thế mạnh đặc biệt, soi chiếu vào Thúy Kiều của Nguyễn Du hẳn sẽ ngẫm nghĩ để bồi bổ, mài dũa cho mình những kiến thức của cuộc sống, luôn luôn biết làm chủ trước mọi tình huống thử thách để giành lấy những điều tốt đẹp. Từ việc tìm hiểu trên, ta nhận thấy cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Du rất linh hoạt. Ông để nhân vật hoạt động trong tác phẩm rất và tự nhiên, không hề gượng ép, một sự công bằng, khách quan trong từng chi tiết, tình huống, điều đó cho thấy Nguyễn Du đã nhìn nhận con người ở mặt bản chất nhất, không để sự hào nhoáng bên ngoài che lấp, đánh lừa cảm giác. Cuộc đời đi vào văn học, và văn học cũng để cuộc đời soi chiếu, nhiều khi chỉ vì cái nhìn cảm tính, thiếu khách quan, vô tình ta đã làm méo mó đi vẻ đep hình tượng nhân vật, một giá trị thẩm mĩ trong sự sáng tạo công phu của nhà văn. Không phải ngẫu nhiên khi đi sứ ở.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Trung Quốc, tiếp xúc với Kim Vân Kiều truyện, Nguyễn Du đã có sự đồng cảm sâu sắc với Thanh Tâm Tài Nhân để khi trở về Việt Nam ông viết ngay Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều). Đó chính là “cái duyên” gặp gỡ của hai nhà văn ở sự quan tâm tới giá trị con người trong sự đấu tranh để trường tồn. Dù có khác nhau về hình thức thể hiện giữa Kim Vân Kiều truyện và Đoạn trường tân thanh nhưng cả hai tác giả đều chung niềm trăn trở trước số phận của nhân vật, đặc biệt là Thúy Kiều. VớiNguyễn Du, ông đã chọn hình thức chữ Nôm để viết nên Truyện Kiều cũng đủ thấy dụng ý trong việc phổ biến thiên truyện. Một truyện thơ Nôm, nhân vật chính không phải ở chốn lầu son gác tía mà chỉ thường thường bậc trung với những mặt khiếm khuyết đã bao phen thất bại giữa cuộc đời trong sự nhìn nhận khách quan của Nguyễn Du sẽ lắng đọng trong lòng người đọc bao suy ngẫm. Đặt nhân vật Thúy Kiều bên cạnh Hoạn Thư để so sánh cách ứng xử- một sự nhìn nhận công bằng tưởng chừng như nghiệt ngã- nhưng đó là ý đồ của Nguyễn Du trong việc xây dựng nhân vật Thúy Kiều. Một nàng Kiều trong lòng độc giả được thức dậy bằng một ý thức sống có bản lĩnh để hoàn thiện mình, đó chẳng phải là sự trân trọng, điều mong muốn nhất của tác giả hay sao? Truyện thơ Nôm 3254 câu được viết theo thể lục bát truyền thống gần gũi, dễ thuộc, dễ nhớ đã đi vào lòng người mọi lúc mọi nơi, nhất là tầng lớp bình dân để ai cũng có cơ hội đọc và ngẫm nghĩ, soi chiếu! Nguyễn Du gửi gắm vào Truyện Kiều nhiều vấn đề, ở nhiều phương diện nên câu Kiều luôn gần gũi với chúng ta. Từ một mặt của cuộc sống, Thiếu tướng- nhà văn Nguyễn An, nguyên Phó tư lệnh bộ đội Trường sơn (Đoàn 559) đã xuất bản hẳn cuốn hồi kí “Trên đỉnh Trường Sơn kể Truyện Kiều” đầy ý nghĩa (Nhà xuất bản thanh niên). Dựa trên một câu chuyện có sẵn để sáng tác, nhưng đến với Truyện Kiều của Nguyễn Du, người đọc không hề nhàm chán, trái lại còn cuốn hút một cách say mê trong các tầng lớp tiếp nhận. Đọc Kim Vân Kiều truyện, cái để lại trong lòng người chỉ là câu chuyện bằng văn xuôi kể một cách trần trụi về nhân vật Thúy Kiều với những sự kiện diễn ra trong cuộc đời nàng. Còn đọc Truyện Kiều, vẫn là câu chuyện về bậc tài sắc đứng trước những tình huống thử thách qua cách đối nhân xử thế, nhưng với tài năng sáng tạo ngôn ngữ của Nguyễn Du đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người. Để có được điều đó, Nguyễn Du đã thay đổi phương thức sáng tác dưới hình thức truyện thơ qua cách miêu tả đặc sắc, đa dạng cũng như cách lựa chọn, thay đổi tình tiết truyện hợp lí trong từng văn cảnh đã tạo nên những điểm nhấn của ngôn ngữ nghệ thuật. Xây dựng hình tượng nhân vật Thúy Kiều với những ưu thế cũng như mặt hạn chế của nàng không ngoài mục đích hướng tới vấn đề trung tâm của tác phẩm, đó là cái đẹp không chỉ ở hình thức hay là những ưu thế trời ban mà còn là ở cách xử sự, ý thức sống của con người khi đứng.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> trước thử thách. Chính điều này đã làm nên ưu điểm của Truyện Kiều, một sự hơn hẳn so với Kim Vân Kiều truyện, cũng là sự khẳng định tài năng sáng tạo của Nguyễn Du đã làm nên một Truyện Kiều có sức sống, tồn tại bền vững trong lòng người. Đến với Truyện Kiều, người đọc luôn cảm nhận được cái tâm, cái trí, cái tài của Nguyễn Du trên từng trang viết. Cái tâm bộc lộ qua tình yêu thương con người và thái độ biết trân trọng, đề cao cái đẹp, luôn trăn trở trước mỗi bước đi của nhân vật; cái trí bộc lộ qua cách nhìn nhận công bằng khách quan những mặt ưu điểm hay hạn chế để cho nhân vật của mình nếu bước ra giữa cuộc đời, quay đầu nhìn lại sẽ không bằng lòng với cả chính mình; cái tài phát sáng khả năng sáng tạo nghệ thuật để tác phẩm mãi mãi lắng đọng trong lòng độc giả. Một tình yêu thương con người theo cách Nguyễn Du đã làm nên giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều! CÁCH HÀNH XỬ CỦA NHỮNG NGƯỜI Ở “PHƯƠNG DIỆN QUỐC GIA” (Về nhân vật Từ Hải và Hồ Tôn Hiến trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du) Trong hệ thống nhân vật Truyện Kiều, Từ Hải và Hồ Tôn Hiến tuy không phải là các nhân vật chính nhưng đã tạo được ấn tượng trong lòng độc giả. Truyện xây dựng cặp nhân vật Từ Hải/ Hồ Tôn Hiến là những người ở phương diện quốc gia. Vậy khi đứng trước những tình huống thử thách liên quan đến quốc gia, cách hành xử của họ có phù hợp với vai trò ấy hay không? Với cách xây dựng nhân vật như thế, Nguyễn Du có dụng ý gì? Truyện đặt nhân vật Hồ Tôn Hiến vào vị trí đại diện triều đình, đang làm nhiệm vụ chiêu dụ Từ Hải đầu hàng. Lời giới thiệu Có quan tổng đốc trọng thần/ Là Hồ Tôn Hiến, kinh luân gồm tài cho thấy Nguyễn Du đang ca ngợi tài năng của Hồ Tôn Hiến, nhất là mặt chính trị. Trước tình huống thử thách, Hồ Tôn Hiến đã lựa chọn cách hành động để thực hiện mục đích của triều đình trong việc thu giang sơn về một mối. Vâng chỉ đặc sai, được quyền Tiện nghi bát liễu, việc ngoài đổng nhung, Hồ Tôn Hiến có kế sách quân sự rất bài bản thể hiện bề dày kinh nghiệm cũng như khả năng kinh luân của tổng đốc. Trước tiên, Hồ công đã tìm hiểu kĩ càng đối tượng Biết Từ là đấng anh hùng/ Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn để hiểu thế lực Từ Hải vai trò của Thúy Kiều trong chính sự ở mức độ nào. Sau khi tìm hiểu đối phương, Hồ Tôn Hiến mới xúc tiến việc Đóng quân làm chước chiêu an theo kế hoạch định sẵn, dùng ngọc vàng gấm vóc mua chuộc Từ Hải và Thúy Kiều. Cách mua chuộc của Hồ Tôn Hiến cũng rất cao mưu, vừa sai.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> quan thuyết hàng, đồng thời Lại thêm một lễ với nàng, đánh vào tâm lí hồng nhan tri kỉ của Từ Hải. Lễ nhiều, nói ngọt, nghe lời dễ xiêu, thăm dò được điểm yếu này, Hồ Tôn Hiến với mưu kế, sách lược tài tình của nhà chính trị đã đánh vào lòng tham của Kiều, biến nàng thành “nội gián”đắc lực, kết quả là thay đổi được cục diện, đạt được thành công một cách dễ dàng. Xây dựng nhân vật Thúy Kiều - phu nhân - tri kỉ của bậc Đại vương với những hạn chế như thế nhưng vẫn từng được dự quân trung luận bàn, phải chăng Nguyễn Du đã cho ta thấy Từ Hải thiếu sáng suốt trong việc quân cơ, cũng là nguy cơ dẫn đến kết cục bi thảm? Tại sao đã trải qua bao biến cố cuộc đời bị đổi trắng thay đen mà giờ đây Kiều vẫn chẳng ngộ ra, đã biến sự thông minh, sắc sảo của mình thành vô dụng? Phu nhân của bậc anh hùng hảo hán, sao Kiều không biết làm hậu thuẫn vững chắc cho phu quân như Dương Quý Phi hay Nguyên Phi Ỷ Lan ..., họ cũng là con đẻ của xã hội phong kiến đấy thôi? Như thế, ở phương diện quốc gia, bằng tấm lòng tận trung cùng mưu lược tài tình trong hành xử việc nước, Hồ Tôn Hiến đã có công lớn trong việc thống nhất giang sơn. Cũng con người ấy, giữa những giây phút đời thường, có lúc nào đó xiêu lòng thì cũng kịp tỉnh để xử sự, đặt lợi ích quốc gia làm đầu. Đó là sau chiến thắng, Trong quân mở tiệc hạ công, trót ngây vì tình, đến lúc rạng ngày nhớ ra, Hồ công đã biết “giật mình”, tìm cách rút lui vì sợ Quan trên nhìn xuống, người ta trông vào. Dù ngây vì tình- cái ngây trong lúc giở say theo dục vọng bản năng chênh chao trong phút giây nào đó không tránh khỏi đối với con người, thì với dung mạo mặt sắt của Hồ Tôn Hiến vẫn không mất đi vẻ cương trực, nghiêm nghị của người đang nắm trọng trách quốc gia. Cứ ngỡ Nguyễn Du dùng ngôn ngữ tả thực miêu tả bộ dạng mặt sắt của Hồ Tôn Hiến là thiếu thiện ý đối với nhân vật. Nhưng hóa ra cụ Nguyễn đang đưa ra một vấn đề mang tính bản chất nhất trong việc khẳng định dung mạo, tuy là hình thức bên ngoài nhưng cũng toát lên chí khí, thần thái, điều quan trọng của một con người, đặc biệt người có khả năng xây nghiệp lớn. Truyện đã đặt nhân vật vào vị trí của quan tổng đốc trọng thần, trong thời điểm hạ công, phải chăng để độc giả xem cách ứng xử của Hồ công, một người ở phương diện quốc gia nên chọn lựa cách giải quyết trước thử thách đời thường như thế nào cho phù hợp? Lí trí được đánh thức, Hồ Tôn Hiến đoán ngay một bài, cái bài biết giữ thanh danh của mình, cũng là giữ thể diện quốc gia. Tỉnh lại, nhớ ra, Hồ công Ép tình mới gán cho người thổ quan, để Kiều chung sống với viên quan người bản thổ. Xây dựng tình huống ép tình, liệu nhân vật Hồ Tôn Hiến, với cương vị tổng đốc trọng thần có tàn nhẫn với Kiều quá không? Cái ép tình này, xét trong thực tại không có gì đáng trách Hồ Tôn Hiến, bởi với hoàn cảnh của Kiều bây giờ lấy tư cách gì để lựa chọn. Cả chặng đường mười lăm năm lưu lạc, một nàng Kiều nhục nhã ê chề, khi có lối thoát, một lối thoát trong vinh quang, kiêu.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> hãnh nhưng do tham lam, vụ lợi, nàng đã tự hủy hoại nó thì giờ đây đưa nàng về với đời thường bình dị bên thổ quan, bớt đi những cạm bẫy để nàng sống yên ổn cũng là điều hợp lí. Hơn nữa, trong diễn biến câu chuyện, cả hai bên đều đang tìm mọi cách tiến hành thực hiện mục đích của mình. Ở cuộc chạy đua này, dù muốn, Hồ Tôn Hiến cũng không thể ép buộc được Kiều bởi giờ đây thế mạnh của Từ Hải rất lớn. Một thực lực mà dám bắt cả con gái quan Lại bộ xét xử giữa Ba quân đông mặt pháp trường. Một thực lực mà triều đình thấy được cả nguy cơ đe dọa trong tương lai Trước cờ, ai dám tranh cường, hay Sức này đã dễ làm gì được nhau .Vì thế, đây là một cuộc đọ sức sòng phẳng, Hồ Tôn Hiến vì lợi ích quốc gia, Kiều vì lợi ích cá nhân, mỗi bên đều hướng về mục tiêu của mình. Như vậy, sự thất bại của Kiều trong trường hợp này là sự thắng thua công bằng, khách quan. Nếu như Kiều tự nguyện giúp Hồ Tôn Hiến thì lại là một nhẽ, đằng này khi bàn ra tính vào trong việc khuyên Từ Hải đầu hàng chẳng phải đã có sự trao đổi riêng một lễ với nàng hay sao? Cách xử sự của Hồ Tôn Hiến đối với Kiều đâu phải là nhẫn tâm, vô cảm. Sau cơn mê man của Kiều, Hồ công thấy mặt ân cần hỏi han và cũng thương hoàn cảnh, cho nàng cơ hội muốn xin bề nào?. Trước lời cầu xin đắp điếm cho Từ Hải, Hồ công nghe nói thương tình/ Truyền cho cảo táng di hình bên sông. Hoặc Bắt nàng thị yến dưới màn đi chăng nữa, thì lúc này Kiều là kẻ thất thế, sự thất thế trong mưu đồ tính toán chủ quan về cái lợi do mình sinh ra, tự chuốc lấy thì cớ gì Hồ Tôn Hiến phải tôn trọng? Hồ công có ép cung đàn nhặt tâu, đã ngây vì tình, hay dây loan xin nối cầm lành, thì tất cả điều này đã xảy ra trong thời điểm mà khi một kẻ đang giở say, chén đã quá say điều khiển thì sao có thể lấy đó làm căn cứ? Từ những điều đã phân tích, ta nhận thấy một quan tổng đốc trọng thần qua thể hiện của Nguyễn Du đã có cách hành xử rất hợp lẽ. Một cách hành xử biết lấy lợi ích ích quốc gia làm đầu. Một cách hành xử không đánh mất bản ngã của mình, đã ứng xử rất chuẩn mực trước mọi tình huống thử thách. Còn Từ Hải, một nhân vật nắm giữ trọng trách của một cõi biên thùy, trong việc quốc gia chính sự cũng như đời thường đã xử sự như thế nào? Hồ Tôn Hiến đem lễ vật mua chuộc, trước ý đồ đó Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ, cách hành xử rất rõ ràng, dứt khoát. Lễ của Hồ Tôn Hiến không làm lung lay được chàng. Tự làm nên nghiệp lớn, Từ Hải rất biết mình, đã khẳng định tiềm lực, thế mạnh Một tay gây dựng cơ đồ/ Bấy lâu bể Sở, sông Ngô tung hoành, vì thế không dễ gì phút chốc trao một nửa sơn hà cho triều đình; cũng rất hiểu mình Giang hồ quen thú vẫy vùng nên sẽ không phù hợp với cung cách bó thân chốn triều đình trong cảnh Áo xiêm ràng buộc lấy nhau/ Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?. Từ Hải đặt mình trong sự suy đoán hết sức tỉnh táo, tự chất vấn, phỏng đoán sự việc Hàng thân lơ láo, phận mình ra đâu?. Mặc dù trong khi thuyết hàng, Hồ Tôn Hiến đưa ra điều kiện phú.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> quí, phụ vinh nhưng Từ Hải không tin tưởng, đã dự cảm đến chiều nghịch của nó. Với lí lẽ, lập luận vấn đề một cách có căn cứ Sức này, đã dễ làm gì được nhau, trong tư thế độc lập Sao bằng riêng một biên thùy, Từ Hải đã quyết định không đầu hàng. Xây dựng nhân vật Từ Hải, Nguyễn Du đã dành cho chàng những vần thơ đẹp nhất trong miêu tả hình thức Râu hùm hàm én mày ngài/ Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao; cùng phẩm chất Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha; hay tài năng Đường đường một đấng anh hào/ Côn quyền hợp sức, lược thao gồm tài; cũng như dũng khí Trước cờ ai dám tranh cường/ Năm năm hùng cứ một phương hải tần để ca ngợi vẻ đẹp người anh hùng. Bên cạnh nét bút rất phóng khoáng, Nguyễn Du cũng không hề dè xẻn khi dùng ngôn ngữ trần trụi Giang hồ quen thú vẫy vùng, hay xiêu anh hùng để lột tả nét tính cách của Từ Hải. Chính do mụ mị trước tấm lòng nhi nữ, nên cửa ải khó nhất mà Từ công không vượt qua, đó là khi ở bên Kiều, Nghe lời nàng nói mặn mà/ Thế công Từ mới giở ra thế hàng. Tại sao độc lập một mình, trước mưu kế của Hồ Tôn Hiến, Từ Hải biết dùng lí trí để phân tích, suy đoán tình hình, mà giờ đây chàng lại tỏ ra mềm yếu, thiếu chính kiến, nhu nhược, nghe lời Kiều đến thế? Trong cách xây dựng tình huống truyện, ta thấy việc này có tính liên kết sự kiện về cách xử sự của Từ Hải trước tấm lòng nhi nữ. Không phải ngẫu nhiên khi giới thiệu sự xuất hiện của nhân vật Từ Hải, Nguyễn Du đã viết hai câu thơ Lần thâu gió mát trăng thanh/ Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi. Một không gian bay bổng, lãng mạn cùng địa điểm giao tiếp ngay từ đầu đã tạo cảm giác không phù hợp với người đang đứng đầu một cõi biên thùy, con người của việc lớn mà mỗi hành động cử chỉ của chàng đều có quan hệ đến số phận của nhiều người. Có những điều, nếu là người ở phương diện quốc gia không ai dám làm, vậy mà với Từ Hải, rất tự nhiên, công khai, chẳng chút ngại ngùng đi tìm tri kỉ giữa chốn lầu xanh! Gặp Kiều, Từ Hải đã giang tay cứu vớt bằng cách hành xử của luật giang hồ giữa thanh thiên bạch nhật. Chính xử sự theo kiểu giang hồ nên Từ đã lấy làm hãnh diện khi Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi ở màn báo oán mà Ai ai trông thấy hồn kinh phách tàn. Còn Hồ Tôn Hiến, so với Từ Hải chỉ mới là Tổng đốc, dẫu ngây vì tình trong lúc giở say (lúc này Kiều vẫn đang với tư cách là phu nhân), nhưng tỉnh lại đã tìm cách xử sự hợp lí. Như thế, cùng một chữ tình, Từ Hải có cách suy nghĩ, xử sự của kiểu sống giang hồ, đã bất chấp dư luận, còn Hồ Tôn Hiến đã nghĩ đến thanh danh, thể diện, biết xử sự theo khuôn phép nhất định. Không chỉ thế, cách ứng xử không hợp lẽ nữa của Từ Hải đó là việc tổ chức báo ân, báo oán cho Thúy Kiều. Nhân khi Trong quân có lúc vui vầy, Kiều Thong dong mới kể sự ngày hàn vi, một việc trả thù của tri kỉ cũng đã làm nên to chuyện, nổi trận đùng đùng, đưa sức mạnh, uy quyền thực hiện ý nguyện riêng tư. Cách ứng xử này không hề phù hợp với bậc đại trượng phu chút nào. Đó.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> chính là điểm yếu của Từ Hải mà Hồ Tôn Hiến đã biết khai thác để tác chiến. Tình tiết truyện nối tiếp từ hạn chế này dẫn đến hạn chế khác dẫn đến hậu quả khôn lường. Thật khó tin, một nhà quân sự lẫy lừng Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài mà ai ngờ giờ đây Tin lời thành hạ yêu minh/ Ngọn cờ ngơ ngác, trống canh trễ tràng. Trí thông minh sắc sảo của Kiều và tài năng quân sự của Từ Hải sao lãng phí đến thế, không nghĩ đến lúc sa cơ mà phòng ngừa một chút cho mình? Triều đình riêng một góc trời, bao nhiêu năm sống trong sự đối đầu với triều đình chính thống, vậy mà chỉ mới qua khâu trung gian quan thuyết hàng, sao Từ Hải đã lấy đó làm cơ sở, căn cứ hợp tác để rồi thiếu cảnh giác, Hẹn kì thúc giáp, quyết đường giải binh? Liệu đây có phải là cách hành xử của một nhà quân sự? Một kết cục đau đớn Trong vòng tên đạn bời bời/ Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ tạo nên sự hụt hẫng cho độc giả. Từ Hải đã chết đứng, một thảm kịch của bậc trí dũng có thừa nhưng thiếu đi sự tỉnh táo khi đứng trước tấm lòng nhi nữ! Hình ảnh thơ mang tính biểu trưng, Nguyễn Du đã đặc tả cái chết của bậc anh hùng hảo hán trong trạng thái bất ngờ, đột ngột, đau điếng, tê dại không kịp trở tay Trơ như đá, vững như đồng/ Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời. Cái chết đứng trong nhận thức muộn màng của Từ Hải mà đến khi Nàng vừa phục xuống, Từ liền ngã ra đã biểu lộ sự sụp đổ tất yếu của Từ Hải bên cạnh Kiều. Một Từ Hải đã từng Trước cờ ai dám tranh cường, một thế mạnh mà kể cả triều đình chẳng thể làm lung lay, vậy mà duy nhất chỉ có tấm lòng nhi nữ hạ gục! Nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Từ Hải phải chăng bắt đầu từ lời khuyên của tri kỉ? Một tri kỉ ngày hôm qua còn là nạn nhân của đồng tiền, hôm nay lại bị chính đồng tiền mê hoặc. Một tri kỉ luôn tận dụng thời cơ thích hợp để đòi phu quân thực hiện ý nguyện cá nhân. Một tri kỉ trước sau mấy người và cũng ý hợp tâm đầu trong chính sự tìm kiếm, lựa chọn của Từ Hải. Vốn thông minh, sắc sảo cùng với vai trò hiện tại của mình, sao Kiều không là hậu thuẫn của phu quân trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia? Dù rằng Kiều không biết cách ứng xử, dù rằng Kiều Xét mình công ít, tội nhiều nhưng người có quyền quyết định tối cao trong chính sự là Từ Hải thì có lí gì chàng không tự chịu trách nhiệm trước bi kịch cuộc đời mình, một bi kịch trong sự điều khiển của ái tình? Anh hùng hảo hán xông pha trận mạc, một tay gây dựng cơ đồ nhưng không làm chủ được bản thân, thì dù người này hay người khác, lúc này hay lúc khác, nơi này hay nơi khác, sự việc này hay sự việc khác, việc gục ngã của Từ Hải là tất yếu. Liệu đây có phải là ngụ ý của tác giả trong cách xây dựng hình tượng nhân vật Từ Hải, một người hội tụ những thế mạnh của nhà quân sự tài ba, vậy nhưng chỉ cần một hạn chế trong tính cách đã hủy hoại cả cơ đồ? Cái chết của Từ Hải có ý nghĩa thức tỉnh, làm sống lại những ai có quyền lực nhưng không phân biệt được.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> công- tư, lẫn lộn giữa tình cảm và lí trí, đang trong vòng luẩn quẩn si mê hay không? Qua những điều phân tích, ta nhận thấy Nguyễn Du đã rất phân minh khi xây dựng nhân vật Từ Hải và Hồ Tôn Hiến. Vậy nhưng ở góc độ tiếp nhận đã có những cách hiểu khác nhau. Hoài Thanh đã vô cùng ngưỡng mộ, ca ngợi vẻ đẹp của người anh hùng Từ Hải dường như xuất hiện từ một giấc mơ, từ một giấc mơ hùng vĩ về chính phía mà hàng triệu người khốn khổ hằng ôm ấp (Hoài Thanh). Hay N.I.Niculin đã rất miệt thị với Hồ công Viên tổng đốc Hồ Tôn Hiến được nhà vua cử đi dẹp loạn chỉ là một cái bóng hèn hạ, vô nghĩa. Hồ Tôn Hiến là một kẻ nịnh thần nham hiểm và hèn nhát, cũng chỉ nhờ lường gạt mà đạt được mục đích (Nguyễn Du, nhà thơ nhân đạo lỗi lạc của N.I.Niculin- Sách Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm- Trang 1009, Nhà xuất bản Giáo dục). Trong câu chuyện, hai nhân vật này xuất hiện trong mối liên quan ở phương diện quốc gia thì sao không đặt vào trong cách hành xử việc quốc gia mà soi xét? Nguyễn Du đã rất khách quan trong cách xây dựng nhân vật thì tại sao ta không có cách nhìn nhận công bằng? So với cặp nhân vật Thúy Kiều/ Hoạn Thư thì Từ Hải/ Hồ Tôn Hiến được xây dựng ở cấp độ cao hơn, đó chính là dụng ý của Nguyễn Du trong việc đề cao ý thức sống của con người trong những tương quan xã hội rộng lớn. Một người có trọng trách quốc gia, nếu không biết cách ứng xử thì không chỉ làm hại bản thân mình mà còn làm hại cả một đất nước. Đặt nhân vật Thúy Kiều bên cạnh Hoạn Thư, Từ Hải bên cạnh Hồ Tôn Hiến, ta thấy Nguyễn Du đã rất thành công khi hướng hoạt động nhân vật vào mục đích thực hiện tư tưởng chủ đề của truyện- đề cao câu chuyện ứng xử của con người. Qua cách xây dựng nhân vật Hoạn Thư và Hồ Tôn Hiến, Nguyễn Du đã rất coi trọng tư tưởng nho giáo với những chuẩn mực của nó. Dựa vào Kim Vân Kiều truyện để sáng tác Truyện Kiều, ta thấy phần sáng tạo của Nguyễn Du là cơ bản. Sự sáng tạo không chỉ là trong thay đổi hình thức thể loại từ văn xuôi sang thơ mà ở các tình tiết trong một số sự việc nhằm gửi gắm một cách nhìn nhận, một quan niệm sống từ cuộc đời. Trong Kim Vân Kiều truyện, ở sự việc Đốc phủ sai người đến chiêu hàng, ngay từ lần đầu tiên đã có sự tham gia của Kiều giết hắn là điều không lành, mà còn lấp đường của kẻ đến sau, và Từ Hải liền ngỏ lời cảm tạ rằng phu nhân nói phải lắm!. Và tiếp theo hai lần chiêu dụ, mặc dù vẫn có chi tiết bàn bạc giữa Từ Hải và Kiều, đó là khi Từ công đưa ra lí kẽ để phân tích lợi hại với ý định Thà làm mỏ gà, chớ làm đuôi trâu, không hàng là hay hơn, nhưng trước lời lẽ của nàng, Từ nghe xong bèn quả quyết nói rằng phu nhân bàn có lẽ lắm!. Rõ ràng ở đây, trong chính sự quốc gia, Từ Hải đã nhất nhất nghe tri kỉ. Sự việc chiêu hàng, ở Kim Vân Kiều truyện, nhân vật Từ Hải tỏ rõ sự thụ động ngay ở thời điểm đầu tiên đến giây phút phút cuối cùng, còn Kiều thì.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> bàn bạc Từ đầu hàng không khó gì. Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã để Từ Hải đứng riêng rẽ một mình, độc lập suy nghĩ, thể hiện là một bậc anh hùng có lí trí, có bản lĩnh trước tình huống thử thách về vật chất trong chước chiêu an của Hồ Tôn Hiến. Sáng tạo nên chi tiết này càng chứng tỏ khả năng chính trị của Hồ Tôn Hiến. Còn nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du đã thêm chi tiết Lại riêng một lễ với nàng, và để Kiều không dễ dàng can thiệp việc triều chính như trong Kim Vân Kiều truyện, đã phải khôn ngoan, chọn lựa thời điểm thích ứng nhân khi bàn bạc gần xa/ Thừa cơ, nàng mới bàn ra tính vào. Sự thay đổi tình tiết như vậy, Nguyễn Du muốn gửi gắm bức thông điệp gì chăng? Có phải một Từ Hải có tất cả những ưu điểm của một nhà quân sự, cũng có chí khí, có bản lĩnh nhưng trước tấm lòng nhi nữ đã không chiến thắng nổi chính mình? Xây dựng nhân vật Từ Hải trong hai không gian, thời điểm khi một mình và khi ở bên Kiều đã có cách xử sự vấn đề khác nhau, tác phẩm nhằm gợi mở nhận thức của độc giả về tầm quan trọng của ý thức sống cá nhân, không những đối với con người bình thường mà còn có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với những người ở phương diện quốc gia. Nếu Từ Hải - một nhà quân sự tài năng - người có triều đình riêng một góc trời biết sống tỉnh táo, có bản lĩnh, biết cách ứng xử hợp lí trong mọi hoàn cảnh, liệu tác hại ghê gớm của tấm lòng nhi nữ với khả năng làm sụp đổ cả một cơ đồ hùng mạnh có tác động được hay không? Có phải một nàng Kiều thông minh sắc sảo đã trải qua những cuộc bể dâu, giờ đây may mắn được làm một bậc phu nhân mà mà không biết ý thức ứng xử đúng vai trò của mình? Như vậy, so với Kim Vân Kiều truyện, Truyện Kiều đã thể hiện sự sáng tạo của Nguyễn Du trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề của truyện. Thông qua hình tượng nhân vật, tác giả đã tạo được điểm nhấn trong lòng người về bài học của cách ứng xử của con người trong cuộc sống. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã dành những câu thơ đẹp nhất để miêu tả nhân vật Thúy Kiều và Từ Hải, điều đó chứng tỏ tác giả luôn biết nâng niu, trân trọng khát vọng về cái đẹp. Dù vô cùng trăn trở nhưng tác giả cũng rất khách quan, để nhân vật tồn tại trong tác phẩm với những hạn chế rất cụ thể. Cái hạn chế có sức mạnh tiêu diệt, hủy hoại cái đẹp mà ai cũng phải dè chừng. Dù biết là nhân vật văn học, vẫn không ai muốn nhìn thấy một nàng Kiều có tất cả ưu thế trời ban phải gánh chịu những bi kich đớn đau giữa cuộc đời; cũng không ai muốn nhìn thấy một Từ Hải - Đường đường một đấng anh hào phải lâm vào cảnh tiêu tan cơ đồ, chết đứng. Văn học là bức tranh cuộc đời, cuộc đời soi chiếu vào văn học, hình tượng nhân vật Thúy Kiều và Từ Hải sẽ gợi mở cho chúng ta nhận thức về cuộc sống, để cái đẹp được tôn thờ một cách đúng nghĩa. Đó phải chăng là tấm lòng yêu thương con người sâu sắc theo cách Nguyễn Du, là tầm nhìn rộng lớn vượt ra thời đại để làm nên kiệt tác Truyện Kiều sống mãi với thời gian?.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> . VAI TRÒ KIM TRỌNG TRONG CUỘC TÌNH KIM - KIỀU (Đọc “Truyện Kiều” của Nguyễn Du) Đọc Truyện Kiều, nhiều lúc ta tự hỏi: Sao Nguyễn Du ưu ái cho Kim Trọng đến thế? Yêu như Kim Trọng ai chả yêu được? Mà quả thật, nhân vật Kim Trọng sinh ra để được hưởng thụ tình yêu bởi khi người yêu cần cánh tay chàng chở che, cứu vớt trong tai ương thì chàng lại vắng bóng. Cách xây dựng nhân vật như thế, phải chăng truyện đang hướng người đọc suy ngẫm về một khía cạnh khác. Kim Trọng trong Truyện Kiều có phải là một kiểu nhân vật chức năng giúp nhân vật chính bộc lộ khả năng ứng xử của mình trước tình yêu hay không? Kim Trọng xuất hiện bên Kiều tạo nên hai dấu ấn sâu đậm trong đời nàng, đó là tình yêu ở độ viên mãn nhất và nối duyên trong màn đoàn viên. Một tình yêu đến độ lí tưởng tuột khỏi tay, nàng có ý thức níu giữ hay không? Một tình yêu mất mát đến tận cùng trong chặng đường mười lăm năm lưu lạc, có cơ hội quay lại, nàng cự tuyệt hay vẫn cố tình giằng níu? Câu chuyện tình của Thúy Kiều và Kim Trọng trong phần đầu tác phẩm phải nói là đẹp, một khát vọng tình yêu bùng cháy trong vòng lễ giáo xã hội phong kiến, nhưng xem ra có sự bất thường. Một cách xây dựng tình tiết bất thường đầy dụng ý của tác giả nằm trong một hệ thống các sự việc mang tính logic của nhân vật chính nhằm hướng tới tư tưởng chủ đề tác phẩm câu chuyện ứng xử của con người ở mọi khía cạnh cuộc sống. Đối với mối tình Kim - Kiều, truyện xây dựng hai không gian giao tiếp, đó là khi gặp gỡ, đính ước và lúc đoàn viên. Ở màn gặp gỡ và đính ước, từ phút giây đầu tiên cho đến lúc chia tay ở lầu trang, khi Sinh về hộ tang.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> chú, trong khoảng thời gian ấy, các cung bậc tình yêu Kim - Kiều được Nguyễn Du xây dựng rất tinh tế đã tạo sức hấp dẫn cho Truyện Kiều. Chàng Kim được giới thiệu rất đẹp đẽ Đề huề lưng túi gió trăng, một bậc tài danh được ban tặng thông minh tính trời, với phong độ Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa, gia tộc vốn nhà trâm anh, lại là bạn của Vương Quan. Mặc dù trộm dấu thầm yêu bấy lâu cả hai Kiều, nhưng giờ đây, khi hiển hiện Xuân lan, thu cúc mặn mà cả hai, thì tình tiết truyện cũng chỉ hướng tới Người quốc sắc, kẻ thiên tài. Một sự đồng cảm Tình trong như đã mặt ngoài còn e và cũng đầy lưu luyến Khách đà lên ngựa người còn nghé theo, vậy mà sự hoài nghi Trăm năm biết có duyên gì hay không? đang lấn át tâm trí Thúy Kiều. Tiếp đến, truyện mở ra tình tiết mộng triệu, để trong chiêm bao, người Kiều gặp là Đạm Tiên chứ không phải Kim Trọng. Dấu ấn tình cảm đầu tiên của đời người con gái trước một chàng thư sinh hoàn hảo về mọi mặt, tại sao điều lưu giữ trong lòng Kiều chỉ là như vậy? Có sắc sảo, có thông minh, tại sao Kiều không biết lựa chọn những gì tốt đẹp cho mình mà cứ tự vận vào thân những cái ảo giác đâu đâu? Chính điều này làm nên sự bất thường đầu tiên trong xử sự trước tình yêu của nhân vật Thúy Kiều. Ở sự việc gặp gỡ này, Truyện Kiều đã có sự thay đổi so với Kim Vân Kiều Truyện. Trong Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, sự xuất hiện của Kim Trọng, về thân thế chỉ được nói đến rất khái quát qua cảm nhận của Thúy Kiều thấy chàng vẻ ngoài hào hoa phong nhã và chàng không hề biết trước Vương Quan có hai chị gái. Khi hai Kiều xuất hiện, Bị sắc đẹp quyến rũ đã Phát thệ: “Mình mà không được hai nàng làm vợ thì suốt đời chẳng lấy ai”. Nhưng vì ngại có Vương Quan, không tiện đứng lâu, đành cùng nhau từ biệt. Sự thay đổi này nói lên điều gì? Nếu như Thanh Tâm Tài Nhân chỉ giới thiệu rất đại khái về Kim Trọng trong màn gặp gỡ để hướng người đọc tò mò về diễn biến câu chuyện tình Kim - Kiều trong chặng đường tiếp.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> theo, thì với Nguyễn Du, ngay từ đầu tác phẩm, ông như muốn hướng người tiếp nhận thấy được cách ứng xử của Thúy Kiều, đó là không biết nâng niu, đón nhận tình cảm - biểu hiện một tình yêu đẹp đang bắt đầu chớm nở. Sau lần gặp gỡ, tác giả đã xây dựng tình huống tự tình với các chi tiết rất lãng mạn nhằm đưa câu chuyện tình Kim - Kiều đến độ tuyệt đỉnh của tình yêu. Nhân vật chàng Kim, kể từ lần gặp Kiều đầu tiên đã có một mối sầu tương tư Bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người và Xăm xăm dè nẻo Lam Kiều lần sang trong khao khát. Lâm vào tình thế cửa đóng then cài, chàng không buông xuôi, đã chủ động thuê nhà ở gần họ Vương để có cơ hội gặp gỡ. Cành kim thoa, tình tiết truyện được xây dựng rất tự nhiên, hợp lí, như một sự tình cờ đã nối kết tình cảm Kim - Kiều. Giở kim thoa với khăn hồng trao tay, một không gian đón - nhận, trao - gửi thật nên thơ! Nhung nhớ, yêu thương Sông Tương một giải nông sờ/ Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia, mối tình Kim- Kiều tiến triển ở độ đằm thắm của tình yêu đôi lứa. Tình huống truyện mở ra cơ hội ngộ để Kim - Kiều Ngâm lời phong nguyệt, nặng nguyền non sông trong không gian đầm ấm ở thư hiên Kim Trọng. Tiếc rằng, trong cung đoạn tự tình ấm áp ấy, ý nghĩ Một dày, một mỏng, biết là có nên cho ta thấy niềm tin về tình yêu của Kiều còn mong manh. Như thế, chính cách ứng xử của Kiều bên Kim Trọng đã làm giảm đi ý vị của tình yêu. Khác với Kiều, Kim Trọng tin tưởng vào chính bản thân mình Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều và sẵn sàng đương đầu trước mọi thử thách Ví dù giải kết đến điều/ Thì đem vàng đá mà liều với thân để giữ gìn hạnh phúc. Đẩy mối tình Kim - Kiều đến cao trào cảm xúc, truyện mở ra tình tiết nối tiếp Hai thân còn giở tiệc hoa chưa về để cho câu chuyện tự tình được tiếp diễn. Mạnh mẽ, đầy bứt phá trong khuôn phép khắt khe Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình, Kiều đã chủ động đến nhà Kim Trọng lần.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> thứ hai. Giữa không gian lãng mạn, nên thơ, tình yêu nồng thắm được Nguyễn Du miêu tả bằng những câu thơ đượm tình: Vầng trăng vằng vặc giữa trời, Đinh ninh hai miệng một lời song song. Tóc tơ căn vặn tấc lòng, Trăm năm tạc một chữ “đồng” đến xương. Trước sự chứng kiến của đất trời, mối tình Kim- Kiều được Nguyễn Du miêu tả trong chiều sâu tâm trạng để người đọc cảm nhận hồn cốt, sắc thái tình yêu ở độ mặn mà của nó. Lãng mạn, mặn mà nhưng ý thức gìn giữ Gieo thoi, trước chẳng giữ giàng/ Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?, đó là điều đáng trân trọng trước mối tình Kim - Kiều! Khao khát đến với tình yêu, vậy nhưng Kiều đang như trong trạng thái bất an. Đã yêu và hẹn ước đến thế mà vẫn ám ảnh về giấc chiêm bao gặp Đạm Tiên và lời đoán của người tướng sĩ từ năm hãy thơ ngây, để rồi niềm tin về tình yêu cứ lung lay Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?. Sáng tạo nên chi tiết này so với Kim Vân Kiều truyện, đưa vào đan xen trong câu chuyện tự tình khi đã đến độ thắm nồng của nó, phải chăng Nguyễn Du để người đọc cảm nhận rằng, chính suy nghĩ bất thường đã tạo nên một kiểu sống trong vòng luẩn quẩn định mệnh của Kiều? Rõ ràng, Kiều không hề có ý thức, thái độ sống sẵn sàng đối phó trước thách thức, chướng ngại trong tình yêu. Hay khi biểu lộ tài đàn cho Kim Trọng cũng chỉ chọn khúc bi sầu, làm người yêu Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!, một cách ứng xử không phù hợp trong không gian giao tiếp của tình yêu đang ở độ đam mê, say đắm. Dù Kiều có những giây phút chông chênh như vậy, nhưng qua cách ứng xử của chàng Kim, khúc tự tình qua hai lần Kiều chủ động đến nhà Kim Trọng đã diễn ra rất mê đắm trong cao trào xúc cảm: Hoa hương càng tỏ thức hồng,.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu. Sóng tình dường đã liêu xiêu, Xem trong âu yếm có chiều lả lơi. Hơn hai thế kỉ trôi qua, vượt rào cản thời gian, câu thơ Nguyễn Du còn hôi hổi, thôi thúc lòng người thưởng thức dư vị ngọt ngào của tình yêu đôi lứa! Mối tình đẹp đẽ đang ở đỉnh điểm viên mãn của tình yêu thì cũng là lúc phải đối mặt với thử thách đầu tiên, đó là sự việc Sinh về hộ tang chú ở Liêu Dương. Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi!, ở trước đài trang tự tình, khi Kim Trọng bộc bạch: Gìn vàng giữ ngọc cho hay/ Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời, Thúy Kiều cũng bày tỏ nỗi lòng: Đã nguyền hai chữ “đồng tâm”/ Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai. Kim Trọng không cao đạo, kênh kiệu, giữ kẽ; Kiều chân thật, thề thốt, một sự gần gũi trong tâm hồn tưởng chừng xóa nhòa khoảng cách không gian và thời gian. Thử thách này, như quy luật sinh tồn không có gì đáng nói bởi thời gian tự nó sẽ đem lại cuộc sống bình thường mà không cần sự tác động nào. Nhưng thử thách lớn hơn, đó là gia đình nàng gặp biến cố. Trước tình huống gay cấn, Thúy Kiều sắc sảo và thông minh vốn sẵn tính trời, đang có một mối tình tuyệt đẹp, liệu nàng có cách gì để bảo vệ, gìn giữ tình yêu hay không? Hiểm họa đến với gia đình Kiều bởi một thằng bán tơ vu oan. Cân nhắc Bên tình, bên hiếu, bên nào nặng hơn?, nàng lựa chọn chữ hiếu, bán mình để cứu cha và em. Nếu như trong hoàn cảnh hoàn toàn bế tắc, không có một kẽ hở để tìm ra lối thoát thì việc bán mình hoàn toàn có lí. Nhưng trên thực tế, mọi cánh cửa giữa cuộc đời không hoàn toàn đóng lại, chỗ dựa cho nàng lúc này đó là Kim Trọng, người sẵn sàng đem vàng đá mà liều với thân để bảo vệ tình yêu. Truyện đã đặt nhân vật Thúy Kiều vào tình huống thử thách đầu tiên để thấy cách ứng xử của nàng ra sao. Nếu là người biết đối nhân xử thế, trước.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> tình huống như thế, đầu tiên nàng phải dựa vào yếu tố chủ quan là sự thông minh, sắc sảo của mình để nghĩ ra trăm phương nghìn kế. Mặt khác, phải dựa vào yếu tố khách quan để hỗ trợ, cùng giải quyết, đối phó. Tại sao nàng lại thụ động mà không vận dụng sự thông minh, sắc sảo để ứng đối trước tình thế? Là người coi trọng chữ tình, đã đặt niềm tin vào người yêu, tại sao nàng không nghĩ ra cách tìm gặp Kim Trọng để cùng nhau tháo gỡ bởi chàng Kim đã yêu và hẹn ước với nàng sâu sắc tới mức “Chưa chăn gối, cũng vợ chồng” cơ mà? Hơn thế, Kim Trọng là người có học, “Vốn nhà trâm anh”, dòng dõi gia thế, đỗ đạt làm quan, việc làm rõ trắng đen trước “thằng bán tơ” vu oan có gì là khó, chàng sẽ là điểm tựa tinh thần cho gia đình nàng lúc này.(“Nhân vật Thúy Kiều nhìn từ bi kịch ứng xử cá nhân”Cùng tác giả). Qua tìm hiểu một cách rất hệ thống về cách xử sự trước mọi vấn đề, ta thấy một sự thống nhất về cách ứng xử của Thúy Kiều, đó là thiếu linh hoạt trong ứng đối trước mọi tình thế giữa cuộc đời và thiếu niềm tin trong tình yêu. Thiếu niềm tin, khi tình yêu đứng trước thử thách, nàng không có ý thức bảo vệ nên dẫn đến bi kịch, một sự mất mát đau lòng. Trước khi Kiều bước vào chặng đường bất hạnh, cách xây dựng tình tiết của Truyện Kiều thay đổi so với Kim Vân Kiều truyện. Thanh Tâm Tài Nhân đã đặt ra giấc chiêm bao cho Kim Trọng kịp đến cứu Kiều trước khi lưu lạc, Rồi đó chọn ngày lễ thành hôn, đàn sáo nhã nhạc, đưa vào động phòng. Bỗng thấy người xem mặt ấy chỉ huy bọn hung đồ xông vào tận trong phòng bắt Thúy Kiều đem đi[...]. Thúy Kiều thét lên một tiếng lớn: “Tôi chết cháy mất thôi!” Tỉnh dậy, Thúy Kiều liền thở dài nói: “Giấc mộng nguy hiểm làm sao! Đại khái kết cuộc đời ta là như thế đấy! Ôi! Chàng Kim! Chàng Kim! Đôi ta thực là vô duyên vậy.”. Từ lời người tướng sĩ, giấc chiêm bao về Đạm Tiên, thì giờ đây, mơ giấc mơ Kim Trọng đến cứu nhưng không thể giải thoát, thì với Kiều âu cũng là số kiếp, như một sợi dây trói buộc, ám ảnh.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> để nàng tự chấp nhận nó trong bi kịch định mệnh. Khao khát động phòng cùng Kim Trọng, khao khát được cứu thoát càng tăng thêm tính bi kịch của câu chuyện tình Kim - Kiều, thu hút người đọc dõi theo mỗi chặng đường lưu lạc của Thúy Kiều trong thương cảm. Còn Nguyễn Du đã cắt bỏ chi tiết này, thay vào đó để cho Kiều tự dằn vặt Biết thân đến bước lạc loài/ Nhị đào thả bẻ cho người tình chung!. Những câu thơ độc thoại nội tâm thể hiện sự đớn đau, ân hận của Thúy Kiều trước tình yêu đối với Kim Trọng khi không để cho người tình chung bẻ nhị đào. Sự sáng tạo của Nguyễn Du đó là hướng nhân vật vào chiều sâu tâm lí, đẩy Thúy Kiều đến tận cùng của sự tiếc nuối. Trong tiếc nuối khôn cùng như vậy, thời gian chưa bức bách, Kim Trọng còn đó, địa chỉ rõ ràng Chung quanh vẫn đất nước nhà, thì sao thông minh, sắc sảo có thừa mà nàng không hề mảy may nghĩ đến việc tìm gặp Kim Trọng? Như thế, khác với Thanh Tâm Tài Nhân qua việc xây dựng chi tiết chiêm bao để hướng vào trọng tâm câu chuyện tình bi đát thì Nguyễn Du lại xây dựng chi tiết để Kiều tự bộc lộ suy nghĩ, hướng vào chủ đề câu chuyện ứng xử của Thúy Kiều. Xây dựng màn gặp gỡ, đính ước hội tụ tất cả vẻ đẹp của một tình yêu lí tưởng và đặt vào trong thử thách tai ương, để cho một mình Kiều đối phó, ta chỉ nhận thấy một sự mềm yếu, buông xuôi, phó mặc cho số phận mà không thấy dù một chút suy nghĩ và hành động hướng về việc bảo vệ, gìn giữ mối tình đẹp đẽ của mình. Và nhân vật Kim Trọng, một người có bản lĩnh sống có thừa Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều, có ý thức đương đầu trước mọi thử thách để bảo vệ tình yêu, có những ưu thế đủ khả năng thay đổi tình thế đã không xuất hiện khi gia đình Kiều gặp nạn. Với cách xây dựng tình tiết truyện như thế, cũng có nghĩa nhân vật chàng Kim, ở cuộc tình này, trong vai trò người yêu của Kiều nhằm mục đích để cho người đọc xem cách ứng xử của nàng trước tình yêu như thế nào. Như thế, tác phẩm đang gợi cho độc giả một cách nhận thức về vai.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> trò ứng xử trong tình yêu mà nhân vật Thúy Kiều là một hạn chế dễ nhận thấy. Khi tình yêu ở độ viên mãn nhất, do không biết cách ứng đối trước hoàn cảnh, Kiều đã không bảo vệ được hạnh phúc của mình. Khi tận cùng mất mát, trước tình yêu, Kiều có cách thể hiện ra sao? Chặng đường mười lăm năm lưu lạc nếm đủ những cay đắng, màn đoàn viên mừng mừng, tủi tủi, xiết bao là tình!, cơ hội nối lại mối tình xưa đang đặt ra cho Kiều sự lựa chọn. Kiều trở lại với Kim Trọng, chẳng ai có thể trách được nàng. Thúy Vân giãi bày nỗi niềm với Kiều Bây giờ gương vỡ lại lành, mong muốn Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì!. Còn Kim Trọng thì thông cảm với hoàn cảnh của nàng Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường và dang rộng tấm lòng chờ đón Hoa tàn mà lại thêm tươi/ Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa. Một sự đồng thuận khách quan là thế, nhưng từ phía chủ quan của Kiều, suy từ chặng đường lưu lạc và thực tại bây giờ, có nên chăng quay trở lại với Kim Trọng? Bản thân Kiều, trong cuộc đời đớn đau chìm nổi, đã ba lần nàng bước vào cửa Phật. Hai lần đầu ở Quan Âm Các và Chiêu ẩn, trong tình thế lựa chọn bất đắc dĩ, cửa chùa không giữ được chân nàng. Nhưng lần thứ ba, được Giác Duyên cứu, nương cửa Bồ Đề gần sông Tiền Đường trong sự phán xét phân minh Bán mình đã động hiếu tâm đến trời!, nàng bước vào kiếp tu hành trong sự lựa chọn Sự đời đã tắt lửa lòng/ Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!. Tình huống truyện mở ra, gia đình hội ngộ, cũng là một thử thách đối với lòng kiên trinh của nàng ở chốn tu hành. Đủ mặt một nhà, bản thân Kiều đã thỏa tấm lòng lâu nay!. Với ý định ban đầu rất rõ ràng Trùng sinh ân nặng biển trời/ Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi và ý thức gột rửa nghiệp chướng Dở dang, nào có hay gì?/ Đã tu, tu trót, qua thì, thì thôi!, nhưng rồi Nghe lời, nàng cũng chiều lòng/ Giã sư giã cảnh đều cùng.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> bước ra. Tâm không định, khó lòng trả nợ trước, nàng hoàn tục. Mùi thiền đã bén muối dưa/ Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng, nặng lòng trước chốn linh thiêng mà sao nàng còn xử sự như vậy? Có phải nàng là người cạn nghĩ, mọi việc xảy ra chỉ giải quyết bằng cảm tính chứ không phải ở chiều sâu trong suy nghĩ? Không phải là người sâu sắc, nên trong màn đoàn viên, cách ứng xử của Kiều trước tình yêu xem ra không phải đạo. Kiều đã rất hiểu mình Chữ Trinh đáng giá nghìn vàng/ Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa nên đã chối từ Kim Trọng Từ rày khép cửa phòng thu/ Chẳng tu thì cũng như tu mới là!. Vậy nhưng Nghe chàng nói đã hết điều/ Hai thân thì cũng quyết theo một bài, nàng trở lại với tình yêu, đã Động phòng dìu dặt chén mồi/ Bâng khuâng duyên mới, ngậm ngùi tình xưa. Không ai hiểu thì lẽ ra nàng phải tự hiểu mình! Trong hoàn cảnh Kiều, phải bán mình để báo hiếu, dù đẩy đến lầu xanh, cũng không thể coi khinh nàng được, chữ Trinh của nàng vẫn đáng giá ngàn vàng. Nhưng xem cách “tiếp khách” của nàng Miệt mài trong cuộc trụy hoan/ Càng quen thuộc nết, càng dan díu tình với Thúc Sinh, lúc này đang tư cách là “khách làng chơi” thì việc “đón tiếp” như thế, liệu chữ Trinh còn hay không? Không chỉ như thế, sau này với Từ Hải, mới Thiếp danh đưa đến lầu hồng/ Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa, một cách tận hưởng tình cảm hương lửa đương nồng, phải chăng là một sự dâng hiến? Trong chặng đường bất hạnh, được Thúc Sinh và Từ Hải cứu vớt, chữ Trinh dành cho Thúc Sinh và Từ Hải cũng là điều hợp lẽ. Nhưng giờ đây, trước Kim Trọng, Kiều vẫn coi Chữ Trinh còn một chút này, nàng đang đánh lừa ngay bản thân mình đấy chứ! Giá như nàng Kiều cự tuyệt tình yêu với Kim Trọng trong màn đoàn viên? Chính cách ứng xử của nàng bây giờ trước tình cảm Kim Trọng là một thái độ thiếu trân trọng trong tình yêu. Ba lần vào cửa Phật vẫn tu không trọn; có cơ hội quay lại tình yêu, hơn ai hết, dù biết.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> mình không xứng đáng nữa vẫn không khước từ. Thúy Kiều đã có thái độ sống không trân trọng cả chính bản thân mình. Theo một trình tự tìm hiểu, ta nhận thấy một sự thống nhất của Kiều trong ứng xử trước tình yêu. Một tình yêu đẹp đẽ nhất của đời người, nàng không có ý thức bảo vệ; một tình yêu mất mát đến tận cùng, nàng vẫn giằng níu trong luyến tiếc. Trong cách xây dựng truyện, Nguyễn Du đầy dụng ý khi để sự xuất hiện của Kim Trọng trong hai thời điểm của cuộc đời Kiều nhằm giúp ta nhận thấy cách ứng xử của nàng trước tình yêu. Và Kim Trọng, khi bên Kiều, với vai là nhân vật tâm lí đã thể hiện cảm xúc của mình, làm nên một tình yêu đẹp đẽ, kể cả lúc đoàn viên. Nhưng trong một số tình huống truyện, ta thấy nhân vật Kim Trọng được xây dựng rất mờ nhạt, không thống nhất, bởi đó là cách tác giả xây dựng kiểu nhân vật chức năng để hướng vào hoạt động của nhân vật chính. Như một sự bỏ ngỏ, gợi mở rất rõ ràng để xem khả năng tiếp nhận của độc giả, tác giả để một chàng trí thức thông minh mười năm đèn sách mới hiểu ra Họ Lâm Thanh với Lâm Tri/ Khác nhau một chữ, hoặc khi có lầm. Hay yêu đến cháy lòng Dường như bên nóc, trước thềm/ Tiếng Kiều đồng vọng, bóng xiêm mơ màng, vậy mà chần chừ đến năm năm sau, được Khâm ban sắc chỉ, Kim Trọng mới rủ Vương Quan Tiện đường cùng lại tìm nàng sau xưa. Cách xây dựng kiểu nhân vật chức năng như vậy không hề cá biệt trong văn học. Ngay ở văn học dân gian, truyện Con Rồng, cháu Tiên, có chi tiết giới thiệu Lạc Long Quân Thần dạy dân cách trồng trọt, chăn nuôi và cách ăn ở rồi sau đó mới gặp Âu Cơ, sinh ra những người con từ bọc trăm trứng là nguồn gốc dân tộc Việt. Như thế, vai trò Kim Trọng trong cuộc tình Thúy Kiều, nhân vật được xây dựng để làm “nhiệm vụ” yêu. Trong lúc đó, Đinh Bá Anh, trong bài viết “KimTrọng - Nhân vật văn chương vĩ đại của Nguyễn Du” (

<span class='text_page_counter'>(35)</span> chuong-vi-dai-cua-nguyen-du) cho rằng Kim Trọng là nhân vật văn chương “ruột” của Nguyễn Du, và là hóa thân của Nguyễn Du, là nhân vật được ông trao gửi những tâm sự thầm kín nhất. Nếu như Kim Trọng mang bóng dáng Nguyễn Du thì chắc chắn sự giải mã danh từ Lâm Thanh - Lâm Tri không tốn thời gian đến mười năm! Càng oan cho cụ Nguyễn, một thi sĩ đầy lòng trắc ẩn với cuộc đời, vậy mà khoảng cách dò ra manh mối người yêu bắt đầu từ năm thứ mười, mãi đến năm thứ mười lăm, khi đỗ đạt làm quan mới rủ người cất bước đi tìm! So sánh Kim Vân Kiều truyện và Truyện Kiều, ta thấy ưu điểm nổi bật của Nguyễn Du trong sáng tạo nghệ thuật. Ở Kim Vân Kiều truyện, cách diễn đạt của tác giả rất trần trụi, rất “thô” ở nhiều chi tiết, nhất là sắc thái nhân vật Kim Trọng thoạt thấy Thúy Kiều, liền dẫm chân nói: “Con người sao mà nhẫn tâm thế! Không đoái tưởng gì đến nhau cả, khiến tiểu sinh trông chết đi được!”. Còn ở Truyện Kiều, Nguyễn Du thể hiện cách giao tiếp thật tinh tế Trách lòng hờ hững với lòng/ Lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu!. Rõ ràng, việc chuyển đổi thể loại từ văn xuôi sang thơ, đó là điều quan trọng trong việc bộc lộ cảm xúc nhân vật cũng như thái độ tác giả trước hiện tượng được miêu tả. Nhưng điều khác nhau cơ bản của Truyện Kiều so với Kim Vân Kiều truyện là ý đồ tác giả thể hiện trong tác phẩm. Từ một câu chuyện thương tâm của nhân vật Thúy Kiều trong Kim Vân Kiều truyện, Nguyễn Du chuyển hướng chủ đề câu chuyện sang việc ứng xử của con người trước cuộc sống. Nhìn từ một loạt ứng xử hạn chế của Thúy Kiều ở mọi khía cạnh( “Nhân vật Thúy Kiều nhìn từ bi kịch ứng xử cá nhân” - Cùng tác giả), có thể thấy trong cuộc tình Kim - Kiều việc ứng xử của Kiều trước tình yêu như thế không có gì đáng lạ. Từ những dấu hiệu rõ ràng trong tác phẩm, ta nhận thấy nhân vật Kim Trọng trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du chính là nhân vật chức.

<span class='text_page_counter'>(36)</span> năng, là phương tiện để ta nhận thức rõ hơn về khả năng ứng xử của nhân vật Thúy Kiều trước tình yêu. Không những trong tình yêu, mà trước mọi vấn đề cuộc sống, cách ứng xử hạn chế của Kiều đã dẫn đến bi kịch cho chính cuộc đời nàng. Xây dựng nhân vật Thúy Kiều - câu chuyện của một bậc tài sắc, do hạn chế trong ứng xử nên phải hứng chịu bi kịch đau đớn giữa cuộc đời, chính là nỗi niềm trăn trở của Nguyễn Du. Ngậm ngùi, cay đắng dõi theo mỗi bước đường lưu lạc của Thúy Kiều, một tấm lòng trắc ẩn khi cái đẹp đang tự hủy diệt, Nguyễn Du muốn bày tỏ một thái độ sống rõ ràng nhất. Mỗi con người, dù tạo hóa ban cho nhiều lợi thế, nếu chỉ thụ động, đánh mất ý thức sống cá nhân - bản ngã của mình thì tự bản thân nó chẳng thể bảo tồn, phát huy để đem lại ý nghĩa cho cuộc đời mà Thúy Kiều là một ví dụ tiêu biểu! Ý THỨC, TRÁCH NHIỆM CÁ NHÂN TRƯỚC XÃ HỘI (Đọc “Truyện Kiều” của Nguyễn Du). Soi xét vấn đề bằng cái nhìn toàn diện, tổng quát trong bản chất tồn tại của nó, ta thấy bức tranh xã hội Truyện Kiều đúng như khẳng định của người kể chuyện (ở mức độ nào đó, có thể hiểu là Nguyễn Du): Bốn phương phẳng lặng; hai kinh vững vàng. Xã hội như thế, vấn đề còn lại là ý thức, trách nhiệm cá nhân trước xã hội như thế nào. Đâymới đích thực là điều đáng quan tâm. Tìm hiểu cách thức xây dựng tình tiết truyện, ta thấy xã hội được miêu tả trong Truyện Kiều là một xã hội quy củ, có luật pháp, tạo được niềm tin trong nhân dân. Đó là một xã hội có vua Bình thành công đức bấy nay/ Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao, có quan tổng đốc trọng thần với khả năng Kinh luân gồm tài và biết lấy lợi ích quốc gia làm đầu (Xem: “Cách hành xử của những người ở phương diện quốc gia”- Cùng tác giả), có quan huyện xử kiện sẵn sàng nghe lời kêu oan của dân tình Đã đưa đến trước cửa công/ Ngoài thì là lý, song trong là tình. Dù rằng từ câu chuyện oan gia.

<span class='text_page_counter'>(37)</span> của nhà họ Vương đã hiện hình một loạt nhân vật, sự việc thể hiện các mặt trái đạo lí, nhưng đó chỉ là một bộ phận, một mặt trong tổng thể xã hội. Cũng như mọi xã hội khác, xã hội ấy không thể tránh được các hiện tượng tiêu cực xảy ra ảnh hưởng đến cuộc sống con người. Người đọc không thể bằng cái nhìn kiểu Thầy bói xem voi để quy kết đó là bức tranh xã hội của Truyện Kiều. Có nên chăng từ sự việc oan trái xảy ra chỉ với phạm vi một gia đình, ở một thời điểm, trong một địa bàn quản lí (chứ đâu phải trong loạn lạc triền miên) mà coi đó là “xã hội thối nát của Truyện Kiều” (Lê Đình Kỵ - Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du), hay Chính quyền phong kiến là người thủ phạm đã làm cho nhà họ Vương vô tội phải tan nát (Đặng Thai Mai - Đặc sắc của văn học cổ điển Việt Nam qua nội dung Truyện Kiều)? Để thể hiện tính bền vững của bộ máy chính quyền trước các mặt trái xã hội, tác giả xây dựng tình huống thất bại của Từ Hải - thất bại của một thế lực hùng mạnh, cũng có nghĩa là, những hiện tượng có tính chất manh mún, ổ nhóm như sai nha, quan huyện ăn hối lộ, Tú Bà... cũng sẽ đợi ngày tận số. Điều đó khẳng định rằng sự ổn định của xã hội là tất yếu. Một xã hội qui củ từ trên xuống dưới như thế, nhưng ý thức, trách nhiệm của cá nhân trước xã hội như thế nào, đó là vấn đề Nguyễn Du đang đặt ra trong tác phẩm Truyện Kiều để độc giả cùng suy ngẫm. Trước tình huống thử thách éo le khi cha và em bị bắt, tài sản bị Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham, trong vai trò chủ sự gia đình, Kiều đã làm gì vượt lên hoàn cảnh? Mười lăm năm sống trong cảnh bình yên Êm đềm trướng rủ, màn che, tình huống bất trắc xảy ra, liệu nàng có biết đem Thông minh vốn sẵn tính trời, đem sắc sảo, đem tài để đối phó hoàn cảnh hay không? Không biết cách ứng đối trước hoàn cảnh, Kiều đã quyết định bán mình chuộc cha với mục đích có ba trăm lạng để “lo lót”. Từ chi tiết truyện này, có thể thấy Kiều rất thụ động trong giải quyết vấn đề. Thứ nhất, Kiều là người thông minh, sao chỉ nghĩ đến phương án duy nhất là bán mình? Hơn nữa mọi cánh cửa giữa cuộc đời không hoàn toàn đóng lại, chỗ dựa cho nàng lúc này đó là Kim Trọng, người sẵn sàng“ đem vàng đá mà liều với thân” để bảo vệ.

<span class='text_page_counter'>(38)</span> tình yêu (Xem thêm: “Vai trò Kim Trọng trong cuộc tình Kim Kiều”- Cùng tác giả) thì lẽ gì nàng không nghĩ đến lối thoát này? Thứ hai, sống trong xã hội có cả một bộ máy quy củ, khi bế tắc nhất cần sự che chở của pháp luật thì sao nàng lại chối bỏ? Với suy nghĩ chủ quan, thiển cận của cái nhìn bó hẹp Oan này còn một kêu trời, nhưng xa!, nàng chỉ nóng vội chuộc cha mà không nghĩ đến sự can thiệp của pháp luật để có cơ hội minh oan, làm rõ trắng đen. Trời không xa, bởi Thúc ông chỉ một sự bất hòa trong gia đình đã cáo quỳ cửa công, một niềm tin vào pháp luật và được giải quyết thỏa đáng giữa chốn công đường. Do thiếu hiểu biết, thiếu niềm tin, thiếu bản ngã sống, tất cả mọi ưu thế trời ban đã bị chính người trong cuộc vô hiệu hóa một cách tuyệt đối. Chính cách ứng xử của nàng tạo nên bi kịch. Và tình huống đầu tiên tạo nên bi kịch, cũng là nguyên nhân của chuỗi bi kịch trong cuộc đời Thúy Kiều (Xem thêm: “Nhân vật Thúy Kiều nhìn từ bi kịch ứng xử cá nhân” Cùng tác giả). Chưa dừng lại ở đó, quyết định của nàng dẫn đến điều tệ hại hơn khi nàng lôi kéo người khác vào xoáy lốc của sai lầm. Vô hình trung Họ Chung, một người Cũng trong nha dịch lại là từ tâm, trước cảnh ngộ nàng đã thương thầm xót vay, giúp Tính bài lót đó, luồn đây, vô tình tạo cơ hội cho một bộ phận trong bộ máy nhà nước như sai nha, quan xử kiện ăn hối lộ. Thúy Kiều là thường dân, lần đầu tiên gặp nạn, không biết cách kêu cứu thì là một lẽ; còn họ Chung, người làm việc nơi nha môn, ở trong bộ máy nhà nước thực thi luật pháp có vai vế nhất định, đã biết cách Khất từ tạm lĩnh Vương ông về nhà thì tại sao chỉ giúp nhà họ Vương “chạy án” mà không nghĩ đến việc giúp đối phó trước thằng bán tơ vu oan? Nếu người hiểu biết luật pháp như họ Chung không đồng lõa trong việc “chạy vạy” mà dựa vào pháp luật để xử lí thì dù bọn sai nha Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền có thể thao túng được không? Hay như việc mua bán Kiều cũng là việc làm lén lút, người môi giới mập mờ địa chỉ (mụ nào), kẻ đi mua không dám lộ tung tích (Lâm Tri thì lừa Lâm Thanh), giấy tờ kí nhận cũng chỉ trao tay. Tất cả những hành vi không dám công khai đó đủ thấy rằng những việc làm ấy là giấu giếm và pháp luật đang có uy quyền tuyệt đối. Xây dựng nhân vật họ Chung, phải chăng.

<span class='text_page_counter'>(39)</span> tác giả đang cảnh báo nhận thức của những người nắm trong tay luật pháp nên có cách hành xử theo luật lệ nhằm bảo vệ trật tự xã hội. Còn với Kiều, dù hành động vô thức, nàng đã trở thành kẻ tiếp tay cho những thế lực có nguy cơ làm bộ máy nhà nước nhiễu loạn. Do thiếu hiểu biết, chính nàng đẩy mình vào bi kịch và nàng trở thành kẻ thiếu ý thức, thiếu trách nhiệm trước xã hội. Phải chăng đó chính là TÂM - HỌA? Liên tưởng đến Lão Hạc của Nam Cao, ta thấy sự gặp gỡ của hai tác giả trong hai thời kì văn học về việc đề cập đến vai trò ứng xử của con người trước chữ Tâm. Tấm lòng của ông giáo với Lão Hạc được coi là “giá trị nhân đạo sâu sắc”, cái biểu hiện của tình thương yêu sẻ chia ông giáo dành cho lão Hạc nhưng thực chất đó biểu hiện của cái nhìn nông cạn, là sự thiển cận của ông giáo. Bởi thế, có những lúc giữa tình thương yêu và bi kịch khó tìm ra ranh giới (Xem thêm: “Lão Hạc”, một hướng tiếp cận mới - Cùng tác giả). Một sự cảnh tỉnh cái Tâm không đúng nghĩa! Thông minh vốn sẵn tính trời, nhưng xét cho cùng, ta thấy thật lãng phí khi giá trị trời ban ấy chỉ là thứ tài sản nàng đem cất giữ nó để được tôn thờ chứ không phải đưa vào cuộc sống nhằm bảo vệ sự tồn tại (Xem thêm: “Một góc nhìn về giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều” - Cùng tác giả). Có nên chăng căn cứ vào cách ứng xử của nhà họ Vương trong việc thiếu ý thức đấu tranh để bảo vệ chính mình, coi thường luật pháp, tạo cơ hội cho cái xấu lộng hành mà cho rằng “tất cả đạo lí phong kiến đều đảo lộn” (Lê Đình Kỵ - Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du)? Hay như Từ Hải, dù là đấng anh hào, trí dũng có thừa nhưng bản chất cũng chỉ là Giang hồ quen thú vẫy vùng, đã “đảo lộn” xã hội bằng các cuộc nội chiến và kết thúc cuộc đời là một thảm kịch trong mong muốn của bao người. Xây dựng chi tiết nói đến hiểm họa do thú vẫy vùng gây nên, trong Kim Vân Kiều truyện, Thanh Tâm Tài Nhân đã thể hiện bằng lời nói của Từ Hải: Những miền sông biển bị quân ta tàn sát, hầu hết quan phủ huyện và nhân dân thảy đều oán giận [...] muốn báo thù ta. Còn trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã khái quát bằng câu thơ cô đúc dưới góc nhìn của tầng lớp tu sĩ - Tam Hợp đạo cô - Hại một người, cứu muôn người. Dù hai tác phẩm khác nhau về thể loại nhưng đều.

<span class='text_page_counter'>(40)</span> phản ánh “tội” của Từ Hải đối với nhân dân. Như thế, từ Kiều đến họ Chung và Từ Hải, mỗi nhân vật đều có một vị trí xã hội khác nhau, đều có những ưu điểm, những thế mạnh nhất định nhưng do những hạn chế của mình trong xử sự đã làm ảnh hưởng đến tôn ti trật tự của xã hội. Như thế, phải chăng truyện đang đề cao vai trò ứng xử của con người trước mọi lĩnh vực cuộc sống? So sánh với Kim Vân Kiều truyện, ta thấy dù chỉ nói về một hiện tượng xã hội hay đề cập sự khuynh loát của đồng tiền, Truyện Kiều cũng có cách thể hiện riêng nhằm hướng tới tư tưởng chủ đề đã nêu trên. Xây dựng tình huống bất trắc xảy ra với nhà họ Vương, ở Kim Vân Kiều truyện ta thấy diễn biến sự việc xảy ra rất cụ thể, chi tiết từ việc hành hạ, ăn hối lộ của sai nha, quan huyện rất công khai đựng bạc vào một cái tráp, rồi mọi người nhất tề vào thành, đến dinh Binh mã ty. Chung Sự cùng cha con nhà họ Vương vào nha môn gõ ba tiếng bang rồi đi thẳng vào nhà sau, yết kiến quan Binh mã sứ họ Dương, nói rõ việc trước. Rồi bọn trộm cướp cũng đối thoại với người bị hại một cách ngang nhiên chúng tôi giận ông ta vô tình mà đổ vấy cho. Thanh Tâm Tài Nhân kể và tả khách quan hoạt động mặt trái sự việc nhằm góp phần tăng tính bi kịch tan nát của nhà họ Vương. Còn ở Truyện Kiều, sự việc được diễn tả khái quát hơn và không lộ liễu như Kim Vân Kiều truyện. Quan ăn hối lộ không xuất hiện trực tiếp, họ Chung phải tính bài để liệu việc. Cách đưa tiền cũng “khoác áo” lễ tâm chứ không phải thể hiện một cách trần trụi. Tại sao là người biết thu xếp mọi việc êm đẹp cho nhà họ Vương bằng cách đưa hối lộ thì tại sao không dùng khôn ngoan đó để xử sự, ứng đối hoàn cảnh khi biết họ bị oan? Xây dựng nhân vật họ Chung, một người từ tâm, khéo léo dàn đặt việc đời lại nằm trong bộ máy nhà nước, hiểu luật pháp mà hùa theo những việc làm sai trái, có phải Nguyễn Du đang đề cập đến vai trò, ý thức trách nhiệm của con người trước xã hội hay không? Hướng con người đến khả năng ứng xử trước mọi mặt cuộc sống nhằm đưa lại sự bình yên cho gia đình cũng như xã hội, đó là tư tưởng chủ đạo trong Truyện Kiều. Dù là chi tiết phụ, nhưng với cách thức sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Du, nó cũng chứa đầy dụng ý. Chỉ sự việc không thống nhất quan điểm trong.

<span class='text_page_counter'>(41)</span> việc Thúc Sinh lấy Kiều làm vợ lẽ mà cha con họ Thúc bất bình. Sự việc này trong Kim Vân Kiều truyện kể: sau khi quát con, Thúc ông chạy thẳng ra ngoài. Vừa may gặp quan phủ đi qua, Thúc Chính liền la lớn kêu oan. Còn ở Truyện Kiều, việc này đã thể hiện cách ứng xử của Thúc ông qua việc cáo quỳ cửa công trong chủ ý chứ không phải may gặp. Sự thay đổi đó chẳng phải Nguyễn Du đang đề cập đến ý thức của cá nhân trong việc hướng tới pháp luật hay sao? Như thế, cách xử lí các hiện tượng trong cuộc sống giữa hai tác phẩm đã có sự thay đổi về chất, một sự sáng tạo của Nguyễn Du trong việc đề cao ý thức, trách nhiệm của mỗi cá nhân trước xã hội- sống trong xã hội quy củ cần phải tôn trọng pháp luật. Vấn đề đồng tiền trong Truyện Kiều xưa nay được bàn luận rất nhiều. Trong hai tác phẩm đều nói về đồng tiền, nhưng trong mọi xã hội nó chỉ là thước đo giá trị kinh tế, vấn đề là trước đồng tiền con người xử sự như thế nào. Trong Kim Vân Kiều truyện, đồng tiền được nói đến với giá trị trao đổi bởi thế theo diễn biến mạch truyện kể về câu chuyện Thúy Kiều đã có chi tiết khi Kiều trả ơn việc giúp đỡ, họ Chung liền từ chối Tôi không nghĩ đến việc nặn tiền của cô, nếu định nặn tiền, thì e rằng cả trăm lạng ấy đã rơi vào tay tôi rồi. Tôi đã đã không nghĩ tới việc nặn tiền của cô, có đâu lại nhận số bạc năm mươi lạng này do cô đưa?. Nhưng đến Truyện Kiều, tại sao Nguyễn Du đã cắt bỏ chi tiết này? Xây dựng hoạt động của đồng tiền trước đối tượng tha hóa như sai nha, quan huyện ăn hối lộ, Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Bạc Hạnh và trước đối tượng nạn nhân của đồng tiền như Thúy Kiều, Nguyễn Du gợi mở suy nghĩ về cách ứng xử của con người trước đồng tiền như thế nào. Không những trong xã hội Truyện Kiều mà tất thảy mọi xã hội, đối với lũ tha hóa thì đồng tiền trở thành mặt trái xã hội đã được khai thác một cách triệt để. Vậy nhưng với Thúy Kiều, một người có tâm cứu cha đã trở thành nạn nhân của đồng tiền, vậy mà khi có trong tay tiền tài, quyền lực nàng đã tự biến mình thành kẻ tham lam trước đồng tiền. Một tình huống thử thách Kiều không vượt qua đó là lễ nhiều của Hồ Tôn Hiến đã mua chuộc được nàng - phu nhân của bậc đại vương có nửa sơn hà. Tập trung dồn đồng.

<span class='text_page_counter'>(42)</span> tiền vào hoạt động chỉ với hai đối tượng, Nguyễn Du đang hướng người đọc nhận thức cách xử sự trước đồng tiền. Như thế, thay đổi tình tiết từ hiện tượng xảy ra ở nhà họ Vương và hoạt động của đồng tiền khác với Kim Vân Kiều truyện, đó là ý đồ tác giả khi xây dựng truyện với mục đích hướng vào câu chuyện ứng xử của con người- vấn đề chính đặt ra trong tác phẩm. Sự sáng tạo của Nguyễn Du đã làm nên kiệt tác Truyện Kiều để ai đã đọc đều phải suy ngẫm về lẽ sống con người. Tìm hiểu Truyện Kiều có nên chăng cứ mổ xẻ vào các hiện tượng xã hội hay hoạt động của đồng tiền để lên án? Từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, vấn để đặt ra chỉ là câu chuyện đầy tính bi kịch của một bậc tài sắc, nhưng đến Truyện Kiều của Nguyễn Du đã hướng người đọc về những nhận thức trong cuộc sống. Bằng sáng tạo nghệ thuật của mình, Nguyễn Du coi những mặt trái xã hội chỉ là tư liệu để trên cơ sở đó gửi gắm bức thông điệp của mình. Ngẫm nghĩ và soi xét, ta càng thấy thú vị bởi vấn đề Nguyễn Du đặt ra trong tác phẩm - câu chuyện ứng xử của con người đã đi trước thời đại để hôm nay loài người đang rốt ráo những bài học về KĨ NĂNG SỐNG! Chú thích Ghi chú: 1. Những đoạn trích Truyện Kiều trong văn bản Truyện Kiều của Soạn giả: G.S. Vũ Ngọc Khánh, Nhà xuất bản Thanh Hóa. 2. Những đoạn trích Kim Vân Kiều truyện trong văn bản Kim Vân Kiều truyện của dịch giả Nguyễn Đức Vân, Nguyễn Khắc Hanh, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm.. CHỮ TÂM KIA MỚI BẰNG BA CHỮ TÀI (Đọc “Truyện Kiều” của Nguyễn Du). Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài là câu Kiều được bạn đọc vận dụng nhiều nhất trong giao tiếp khi có một hoàn cảnh thích ứng muốn đề cao cái tâm trong cuộc sống (Theo cách hiểu từ cái tâm trong việc bán mình cứu cha của Kiều đã được khái quát lên như vậy). Nhưng đọc kĩ văn bản, ta bỗng chột dạ, Nguyễn Du đang.

<span class='text_page_counter'>(43)</span> nói chữ Tâm kia, một chữ Tâm rất riêng chứ đâu phải chữ Tâm chung chung. Như một sự gợi mở, ta thấy chữ Tâm đã được Nguyễn Du đề cập ở những khía cạnh khác nhau chứ không đơn nghĩa. Chữ Tâm kia là chữ Tâm nào vậy? Trong Truyện Kiều, chữ Tâm được dùng năm lần ở những ngữ cảnh khác nhau. Chữ Tâm đầu tiên được dùng ở đoạn kể Kim Trọng chia tay Kiều để về hộ tang chú, Kiều thề thốt Đã nguyền hai chữ “đồng tâm”/ Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai để khẳng định lòng chung thủy của mình trước tình yêu. Tiếp đến là chữ Tâm dùng chỉ họ Chung, một người “được coi” là từ tâm, sẵn sàng giúp đỡ người khác khi gặp hoạn nạn, cụ thể ở đây là giúp nhà họ Vương lo lót “chạy án”. Chữ Tâm tiếp theo dành cho Thúy Kiều hai lần dưới góc nhìn của Tam Hợp đạo cô Bán mình đã động hiếu tâm đến trời và của Đạm Tiên Tâm thành đã thấu đến trời khi Kiều bán mình chuộc cha và em. Chữ Tâm cuối cùng là của người kể chuyện (tạm hiểu là Nguyễn Du) khi kết thúc thiên truyện Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài. Chữ tâm kia (chứ không phải chữ tâm), viết như thế không biết cụ Nguyễn có dụng ý gì đây? Trong dòng mạch kể chuyện, mặc dù đã đan xen yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị luận nhưng chưa hề một lần Nguyễn Du dành chữ Tâm cho Kiều. Để chữ Tâm của Kiều dưới góc nhìn của Tam Hợp đạo cô và Đạm Tiên (Đạm Tiên Cùng người một hội, một thuyền đâu xa với Kiều, vì thế ta chỉ xem xét vấn đề từ phía Tam Hợp đạo cô), như thế có phải Nguyễn Du đã tạo sự đánh giá rất khách quan hoạt động của nhân vật hay không? Trong Truyện Kiều, sự nhìn nhận của Tam Hợp đạo cô về hành động bán mình của Kiều được đánh giá rất cao, đã động hiếu tâm đến trời. Còn ở Kim Vân Kiều truyện, khi gia đình Kiều trong cảnh gặp khổ nạn, nàng đã hiếu thảo một lòng. Dù gián tiếp hay trực tiếp, cả hai tác phẩm, dưới góc nhìn của Tam Hợp đạo cô đã thống nhất việc đề cao chữ Tâm của Kiều trong hành động bán mình chuộc cha. Đó cũng là cách hiểu truyền thống của người tiếp nhận khi tìm hiểu Truyện Kiều. Bởi thế, Nguyễn Đôn Phục đã coi cái Tâm cứu cha của Kiều là điều hiếm thấy Tự mình cân nhắc.

<span class='text_page_counter'>(44)</span> ngay lấy chữ tình, chữ hiếu, xem bên nào nặng hơn, rồi quyết ngay một bề, làm thân trâu ngựa để chuộc tội cho cha; coi vậy thời làm được một người, kén chọn được một chữ mà cầm, cũng khó lắm thay! (Trích “Văn chương và nhân vật trong Truyện Thúy Kiều”). Hay Lê Đình Kỵ đã đánh giá rất cao quyết định của Kiều Hành động như một liệt nữ, đã nêu tấm gương cao cả về sự hi sinh không bờ bến (Trích “Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du”). Ta không thể phủ nhận cái tâm của Kiều trong việc chọn chữ hiếu đã bán mình, giá trị đạo đức của con người luôn luôn được đề cao, trân trọng, nhưng sự hi sinh của Thúy Kiều trong tình huống này chưa thực sự có ý nghĩa bởi đặt vào hoàn cảnh cụ thể, nếu biết kết hợp nhiều yếu tố, ta thấy có thể thay đổi được tình thế hiện tại. Mổ xẻ tác phẩm từ các tình tiết xây dựng truyện theo một hệ thống mang tính logic, ta thấy Truyện Kiều của Nguyễn Du không đề cập chữ Tâm theo cách hiểu xưa nay. Dựa vào nội dung biểu đạt của tác phẩm, ở góc độ nhìn nhận khác, ta thấy Bi kich đầu tiên, cũng là nguyên nhân của chuỗi bi kịch trong cuộc đời Thúy Kiều là bán mình chuộc cha và em. Chỉ nhìn ở hành động, nàng quả là người hiếu nghĩa, sự hi sinh thật đáng ngợi ca! Nhưng xét theo tác động của sự việc thì hành động này là biểu hiện của cách xử sự vội vàng, thiếu suy đoán (xem thêm: “Nhân vật Thúy Kiều nhìn từ bi kịch ứng xử cá nhân” – Cùng tác giả). Chính cách xử sự nông cạn dẫn đến hành động vô thức, nàng đã trở thành kẻ tiếp tay cho những thế lực có nguy cơ làm bộ máy nhà nước nhiễu loạn. Do thiếu hiểu biết, chính nàng đẩy mình vào bi kịch và nàng trở thành kẻ thiếu ý thức, thiếu trách nhiệm trước xã hội. Phải chăng đó chính là TÂM - HỌA?(xem thêm: “Ý thức, trách nhiệm cá nhân trước xã hội”) Có một điều tưởng như mâu thuẫn trong cách thể hiện của Nguyễn Du: ông đã luôn dùng ngôn ngữ ước lệ để tôn thờ vẻ đẹp hình thức của Kiều trong mọi hoàn cảnh, nhưng phân tích tình huống truyện, ta lại thấy ông không hề đồng tình về cách ứng xử của nàng trước cuộc sống. Một cái bình tuyệt mĩ chỉ chứa đựng những bông hoa tương xứng để tỏa hương giữa cuộc đời. Phải chăng Nguyễn Du đang khao khát cái đẹp hoàn hảo ở đứa con tinh.

<span class='text_page_counter'>(45)</span> thần của mình? Có lẽ vậy mà từ góc nhìn riêng của mình, ông đã cân nhắc kĩ lưỡng đến mức không dành cho Kiều một chữ Tâm? Không dành chữ tâm cho Kiều, vậy chữ tâm của nhân vật nào tương ứng với chữ Tâm kia? Nếu chữ tâm của Kiều, chữ tâm của hành động vô thức đã đưa đến tai họa thì rõ ràng chữ tâm của nhân vật nào đó phải là chữ tâm của hành động có ý thức để vượt lên hoàn cảnh nhằm đưa lại điều tốt đẹp cho mình và làm cho cuộc sống có ý nghĩa? Bằng sự liên tưởng hợp lí, ta nghĩ ngay đến nhân vật Hoạn Thư. Thứ nhất, đứng trước thử thách của hôn nhân, với cái tâm làm vợ, Hoạn Thư đã biết tìm mọi cách dành lại chồng để giữ gia đình yên ấm. Thứ hai, trước thử thách của chính mình trong màn báo oán, tình thế vô cùng nguy hiểm, tính mạng đang như “cá nằm trên thớt”, Hoạn Thư đã biết vận dụng tài ứng xử để thoát hiểm, đó cũng là cách biết cứu, biết thương lấy chính mình - một lòng hướng về sự sống, không phó thác cho hoàn cảnh. Thứ ba, khi xử lí tình địch Tình huống truyện từ chỗ căng kéo đã bất ngờ chùng xuống, “Chút tình” khép lại màn diễn, đồng thời tấm lòng bao dung, độ lượng, sự hiểu biết của Hoạn Thư “Tài nên trọng mà tình nên thương” đã mở đường sống cho Thúy Kiều “Áo xanh đổi lấy cà sa/ Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền” trong không gian thanh tịnh ở Quan Âm các để “giữ chùa chép kinh”. Cho đến giờ Thúc Sinh đâu đã thật lẽ với Hoạn Thư, vậy mà nàng vẫn dành cho tình địch một cuộc sống yên ấm trong không gian đẹp đẽ, thanh tĩnh ở gia đình họ Hoạn “Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa/ Có cổ thụ, có sơn hồ” để tu tịnh. Khi Thúy Kiều chạy trốn đã cắp theo “chuông vàng, khánh bạc” - những đồ thờ quí giá trong chùa vướng điều cấm kị nhất ít ai dám làm, tiểu thư không hề truy đuổi (xem thêm: “Một góc nhìn về giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều” Cùng tác giả). Bao dung, độ lượng, mở đường sống cho “kẻ không đội trời chung” là biểu hiện cái tâm của một con người. Rồi tiếp đến chữ tâm thứ tư, đó là khi đứng trước tình địch, lợi thế tài năng của Kiều được Hoạn Thư trân trọng, đề cao một cách triệt để (Trong lúc đó, trước cách ứng xử của Hoạn Thư khi Thúc Sinh đi gặp Kiều ở Quan Âm các, do kinh hãi Kiều phải thốt lên ấy mới tài chứ đâu phải một cách thừa nhận). Một người dám trực tiếp thừa.

<span class='text_page_counter'>(46)</span> nhận tài năng của người khác, người ấy lại là địch thủ của mình thì cái tâm đó lại càng lớn lao. Như thế, chính tiểu thư họ Hoạn là người biết vận dụng tài năng ứng xử trong việc chống chọi trước nguy hiểm để gìn giữ bản thân, biết tìm cách đưa lại hạnh phúc cho gia đình, sống đúng đồng đúng lượng để đem lại điều tốt đẹp cho cuộc sống, như thế chẳng phải chữ tâm vừa nói đến là chính cái tâm của nhân vật Hoạn Thư hay sao? Cả thiên truyện không hề có chữ Tâm nào trực tiếp dùng cho Hoạn Thư, một chữ Tâm ngầm ẩn, như thế chẳng phải là cách Nguyễn Du đã dành cho người đọc một sự soi xét thỏa đáng, khách quan và cũng phải rất tinh tế khi tiếp nhận? Nếu Tâm của Kiều là TÂM - HỌA thì tâm của Hoạn Thư sẽ là TÂM – PHÚC! Chữ Tâm kia, một chữ Tâm rất cụ thể, chứ không mang nét nghĩa chung chung. Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài, cái chữ Tâm bằng ba chữ Tài ấy, cũng có nghĩa trong chữ Tâm kia đã bao hàm chữ Tài rồi, một chữ Tài có giá trị ứng dụng thiết thực trong cuộc sống - tài trí của con người. Trong biện pháp nghệ thuật so sánh Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài, nếu Chữ Tâm kia dùng để chỉ nhân vật họ Hoạn thì tương đồng với nó, chữ Tài sẽ được dùng để chỉ một nhân vật nào đấy được đưa ra so sánh với Hoạn Thư. Trong câu thơ Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài, chữ Tài được dùng để chỉ nhân vật nào? Về chữ Tài trong Truyện Kiều được dùng cho nhiều nhân vật ở các phương diện khác nhau. Đạm Tiên Nổi danh tài sắc một thì; Kim Trọng Phong tư tài mạo tót vời, là kẻ thiên tài; Thúc Sinh thực là tài tử; Từ Hải lược thao gồm tài, thiên tài; Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài. Riêng với Kiều, chí ít cũng mười bảy lần ông nói về chữ Tài ở nhiều khía cạnh khác nhau. Không dành cho Kiều một chữ Tâm nhưng Nguyễn Du đã rất khách quan khi ca ngợi tài đàn, hát, thơ, họa của Kiều. Từ nhìn nhận của Kim Trọng Khen: Tài nhả ngọc phun châu, hoặc cân nhắc của Mã Giám sinh cân sắc, cân tài, đến quan phủ phải thốt lên Tài này, sắc ấy nghìn vàng chưa cân, hay Thúc ông trọng vì tài, rồi họ Đô nhận xét tài sắc ai bì. Đặc biệt Hoạn Thư - tình địch của Kiều cũng đã bốn lần nhắc về chữ Tài, khi thì thương tài, khi thì đề cao tài nên trọng, khi thì tiếc hữu tài vô duyên, khi thì khen Nghìn vàng thật cũng nên mua lấy tài. Với.

<span class='text_page_counter'>(47)</span> Nguyễn Du cũng đã ca ngợi Sắc đành đòi một, tài đành họa hai của Kiều. Như thế, ở mọi góc nhìn để soi chiếu, tài năng của Kiều đều được khẳng định. Trong các nhân vật được ghi nhận bằng chữ Tài, chỉ có nhân vật Thúc Sinh và Thúy Kiều có mối quan hệ với Hoạn Thư, như thế dấu hiệu chữ tài dùng để chỉ nhân vật trong sự so sánh với Hoạn Thư không ai khác ngoài một trong hai nhân vật này. Điều dễ nhận thấy là trong mối liên quan với Hoạn Thư, Thúc Sinh là chồng nhưng rất nhợt nhạt, không biết xử sự theo cách đàn ông, không còn đáng mặt đàn ông lại thì sao có thể đem chữ Tài trong câu thơ Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài dùng cho chàng Thúc trong sự so sánh với Hoạn Thư. Bằng phép loại trừ, nếu chữ Tâm kia dùng chỉ Hoạn Thư thì rõ ràng chữ Tài trong câu thơ trên sẽ được dùng để chỉ Thúy Kiều bởi dựa vào cách thức xây dựng tình huống truyện, ta thấy giữa Hoạn Thư và Kiều đã từng có những cuộc đối mặt đầy kịch tính, vì thế so sánh Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài trong sự hơn thua giữa Hoạn Thư với Kiều mới là điều hợp lí. Ba lần Kiều gộp lại mới bằng được Hoạn Thư, vì sao có sự không ngang bằng ấy? Hạ thấp Kiều so với Hoạn Thư, câu thơ trữ tình ngoại đề của Nguyễn Du đã thể hiện cách phán xét của tác giả đối với nhân vật Thúy Kiều và đề cao Hoạn Thư. Tài đến thế nhưng Kiều đã không biết đem tài năng phục vụ cho cuộc sống của chính mình, vì thế không ít lần Nguyễn Du xót xa về chữ tài của Kiều Thương ôi tài sắc bậc này, hoặc Hại thay, mang lấy sắc tài làm chi!. Xây dựng nhân vật Thúy Kiều, một bậc tài sắc có một không hai nhưng trước thử thách chông gai đã không thể vượt qua, Nguyễn Du bộc lộ một thái độ rất rõ ràng khi tài năng đang bị phí phạm Có Tài mà cậy chi Tài?/ Chữ Tài liền với chữ Tai một vần. Một người tài năng mức ấy, vậy mà nàng đã để cho lãng phí, chỉ đưa đơn thuần cái tâm đối phó thử thách để rồi nhận lấy thất bại cay đắng giữa cuộc đời. Đọc Truyện Kiều, ta thấy một cái tâm cứu cha, nhưng cái tâm đặt không đúng chỗ nên không được Nguyễn Du đề cao Đã mang lấy nghiệp vào thân/ Cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa. Đối phó hoàn cảnh bằng sự lựa chọn bán mình (chứ không phải bán cơ đồ, tài sản hay dựa vào các yếu tố khác), nên chính cái Tâm vội vã, không suy nghĩ đắn đo sâu sắc đã gieo nên.

<span class='text_page_counter'>(48)</span> nghiệp chướng đầu tiên của đời nàng. Thật đáng tiếc cho nhân vật Thúy Kiều, một bậc tài sắc, thông minh nhưng chẳng thắng nổi tai ương, chướng ngại giữa cuộc đời, rốt cuộc chỉ chuốc lấy những tai họa vào mình. Không đồng tình về Kiều nhưng Nguyễn Du đã đề cao tiểu thư họ Hoạn. Một Hoạn Thư không có lợi thế như Kiều, vậy mà trước thử thách, khi cái chết kề tận cổ vẫn biết cách đấu tranh dành giật sự sống trong kiêu hãnh. Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài, qua cách so sánh ấy, phải chăng Nguyễn Du đã ca ngợi, trân trọng người phụ nữ có những phẩm chất tốt đẹp, sống có hiểu biết và biết cách đối nhân xử thế giữa cuộc đời? Như thế, ngoài tài năng trời ban, có năng khiếu về nhiều lĩnh vực, con người cần phải có tài ứng xử để khi tai ương ập xuống sẵn sàng đối phó nhằm bảo vệ chính mình và đem lại ý nghĩa cho cuộc sống. Theo như phân tích trên, ta có thể đặt giả thiết: trong câu thơ Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài, có thể chữ Tâm Kia chỉ nhân vật Hồ Tôn Hiến và chữ Tài chỉ Từ Hải thì sao? Dựa vào cách xây dựng nhân vật trong tác phẩm Truyện Kiều, suy luận ấy cũng có phần hợp lí. Là một Quan tổng đốc trọng thần, bằng tấm lòng tận trung cùng mưu lược tài tình trong hành xử việc nước, Hồ Tôn Hiến đã có công lớn trong việc thống nhất giang sơn, như thế cũng đã thể hiện cái Tâm đối với đất nước(xem thêm: “Cách hành xử của những người ở phương diện quốc gia” - Cùng tác giả). Từ Hải cũng rất tài năng Côn quyền hợp sức, lược thao gồm tài nhưng do thiếu khả năng ứng xử nên đã thất bại trước mưu lược của Hồ Tôn Hiến. Và như thế chữ Tâm kia (Hồ Tôn Hiến) cũng có thể so sánh với chữ Tài (Từ Hải) trong sự hơn thua. Mặc dù có thể đặt giả thiết như vậy, nhưng soi xét tác phẩm một cách tổng thể trong hệ thống logic xây dựng truyện, ta thấy Nguyễn Du muốn thông qua hình tượng nhân vật chính - Thúy Kiều nhằm thể hiện tư tưởng chủ đề của truyện - bài học của cách ứng xử của con người (xem thêm: “Cách hành xử của những người ở phương diện quốc gia” - Cùng tác giả). So sánh thất bại của Từ Hải và Thúy Kiều trong việc ứng xử, cách xây dựng truyện trong việc thể hiện ứng xử của Thúy Kiều đa dạng, toàn diện hơn và được soi chiếu ở nhiều điểm nhìn khác nhau. Hơn nữa, trong 3254 câu của Truyện Kiều, câu Chữ.

<span class='text_page_counter'>(49)</span> Tâm kia mới bằng ba chữ Tài đứng ở vị trí 3252, cũng có nghĩa nằm ở phần kết thúc truyện thể hiện ý đồ “chốt” lại vấn đề chính đặt ra trong tác phẩm. Từ điều đã phân tích, ta có thể khẳng định Nguyễn Du dành chữ Tâm kia cho nhân vật Hoạn Thư, chữ Tài cho nhân vật Thúy Kiều. Thật thú vị về những câu mở đầu và kết thúc Truyện Kiều khi Nguyễn Du đều nói đến chữ Tài, chữ Mệnh nhưng không đồng nhất về nội dung phản ánh. Chữ Tài, chữ Mệnh khéo là ghét nhau, sao cứ phải được cái này thì phải kém cái kia khi mà trước thử thách vẫn có những lợi thế nhất định mà mình không cố giành lấy, không có ý thức đấu tranh cho sự tồn tại, phát triển? Xây dựng nhân vật Hoạn Thư bên cạnh Kiều, ta nhận ra rằng cùng một sự việc đấu tranh bảo vệ mình, tại sao Kiều có ưu thế nhất định nhưng đã thất bại, còn Hoạn Thư không được trời ban thông minh, tài năng như Kiều vẫn chiến thắng? Một cuộc đọ sức công bằng. Không ai ngăn cản Kiều trong việc đấu tranh để bảo vệ mình, không ai mở đường cho Hoạn Thư chiến thắng, tất cả dồi dào ra đấy, chỉ có điều Kiều không biết cách dành lấy để rồi chữ tài, chữ mệnh đã trở nên xung khắc. Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài, chắc Nguyễn Du rất đau lòng khi không còn hy vọng về sự chứng tỏ tài năng của Kiều trước cuộc sống! Giá như Kiều biết cách ứng xử giữa cuộc đời để giành lấy những gì tốt đẹp cho mình? Cứ nghĩ câu thơ Chữ Tài, chữ Mệnh dồi dào cả hai ta lại tiếc cho một bậc tài năng xuất chúng nhưng chỉ biết sử dụng bó hẹp trong giới hạn trời ban để rồi trước những vấn đề xảy ra trong thực tế chỉ giải quyết như một công cụ. Chữ Tài, chữ Mệnh dồi dào cả hai, câu thơ đầy tính triết lí gợi cho chúng ta một ý thức sống tích cực để dành lấy điều tốt đẹp nhất trong những điều kiện, hoàn cảnh có thể! Chú thích 1. Những đoạn trích Truyện Kiều trong bài được lấy từ Truyện Kiều của soạn giả G.S. Vũ Ngọc Khánh, Nhà xuất bản Thanh Hóa. 2. Những đoạn trích Kim Vân Kiều truyện trong bài được lấy từ Kim Vân Kiều truyện do Nguyễn Đức Vân, Nguyễn Khắc Hanh dịch, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm..

<span class='text_page_counter'>(50)</span> QUÊ HƯƠNG, MIỀN THAO THỨC (Đọc thơ chữ Hán của Nguyễn Du). Vì nhiều lí do, thơ chữ Hán của Nguyễn Du chưa được sưu tập đầy đủ và giữa các tài liệu cũng chưa thống nhất về số bài. Theo nhóm biên soạn Lê Thước, Trương Chính thì thơ chữ Hán Nguyễn Du mới sưu tầm được 204 bài, còn Trịnh Nguyễn Đàm Giang đã sưu tầm 249 bài. Tuy thế, từ những tài liệu hiện hành của ba tập Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục, ta cũng có cơ sở để tìm hiểu một cách sâu sắc về thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Ra đời trong bối cảnh xã hội Việt Nam vào cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX, thơ chữ Hán Nguyễn Du đã nói lên được nỗi niềm của một nhà nho trước thời cuộc. Nhà nho ấy, với tư tưởng trung thần, giữa thời loạn lạc thay vua đổi chúa đã thể hiện thái độ độc lập nên bản thân chịu ảnh hưởng của biến động lịch sử. Trước hiện thực xã hội Việt Nam cũng như Trung Quốc, thơ chữ Hán của Nguyễn Du bao hàm nhiều vấn đề. Nhưng trong nỗi đau chung của con người, tác giả dành một góc riêng nói về bản thân mình khi chính trước thời cuộc ông đã mất đi gia đình đầy quyền uy danh giá của bậc danh gia vọng tộc ngay trên đất Hồng Lĩnh. Có phải vì thế mà ông đã viết nên trang nhật kí gửi gắm tâm tư trăn trở với cuộc đời? Có phải vì thế mà bóng dáng quê hương Hồng Lĩnh là miền thao thức của một cõi lòng? Hình bóng quê hương Hồng Lĩnh được khắc họa rõ nét trên mỗi chặng đường thơ chữ Hán Nguyễn Du. Từ cách thể hiện cảm xúc của nhà thơ, ta cảm nhận được một cách nhìn về thời thế trong sự nuối tiếc đến khôn cùng của một tấm lòng phiền muộn, dằn vặt,ưu tư. Dù đi xa hay ở trên chính mảnh đất quê hương, dù thuở hàn vi hay lúc làm quan, trên mỗi trang viết của ông, đề tài quê hương được diễn tả bằng không gian cách trở - day dứt nỗi niềm và tính bằng thời gian suy tư - hằn trên mái đầu tóc bạc. Không gian cách trở của chặng đường mười năm gió bụi thời loạn lạc (1786-1795), ta thấy trong sự cách xa Quỳnh Châu - Hồng Lĩnh, hình ảnh quê hương là cả sự ám ảnh tâm can nhà thơ: Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán Ở Hồng Lĩnh không có nhà, anh em tan tác.

<span class='text_page_counter'>(51)</span> (Quỳnh - Hải nguyên tiêu - Theo bản dịch cũ) Trước vẻ đẹp thiên nhiên bất biến vĩnh hằng, giữa đêm rằm tháng giêng, lẽ ra tâm hồn nghệ sĩ bay bổng cùng trăng sao, vậy nhưng thú vui ngày xuân ấy không chiếm hữu được trái tim thi nhân khi mà cảnh người thân ly tán đang khuấy động dòng mạch ưu tư. Trong cảnh tan tác đó, ai bên nhà thơ chia sẻ cay đắng nếu như không có trăng từ xa đến thăm? Trước hiện thực phũ phàng, trong cảnh cùng đường, cảm động trước sự không thay đổi của thiên nhiên, Nguyễn Du ngộ ra sự đen bạc của tình người trong cảnh sa cơ. Xa xôi cách trở, dù khi có công danh (làm quan ở Bắc Hà từ 1802đến 1804), nỗi niềm nhà thơ cũng lộ rõ từ ước muốn trở về nơi xóm cũ để chơi với con vượn, con hạc. Có lẽ vì thế mà một dáng mây, một lớp sóng trong sự chiêm nghiệm biến động của thời gian, ông cũng thấm hiểu sự cô độc của mình. Giữa không gian vời vợi, tình cảm nhớ núi Hồng ngàn dặm, nhân vật trữ tình Cố rán mắt nhìn xem quê hương mình ở chỗ nào nhưng cũng chỉ nhận ra sự mờ nhạt của vài chấm nhỏ. Phải chăng đó là cách nhà thơ nói đến cái mất mát về sự lớn lao của quê hương trong tiềm thức? Một nhà nho mang tư tưởng trung quân nhưng trong thực tế làm quan, Nguyễn Du đã cảm nhận được về sự thay thời đổi thời thế nên ông đang sống trong tâm trạng : Anh hùng tâm sự hoang trì sính Tâm sự anh hùng đã nguội lạnh, không nghĩ đến chuyện rong ruổi. (Xuân tiêu lữ thứ - Nguyễn Văn Tú dịch) Thế hùng tâm, chất tráng chí với hoài bão phục quốc của Nguyễn Du tan biến đâu mất mà giờ đây nguội lạnh cả nguồn cảm hứng xông pha? Sau mười năm phiêu bạt quê người (1786-1795) và bảy năm ẩn dật ở quê hương (1796-1802) những tưởng ra làm quan để giúp đời nhưng rồi mỗi bước chân Nguyễn Du đã đo được những nỗi buồn thế sự trong thất vọng nên giấc.

<span class='text_page_counter'>(52)</span> mộng đẹp đã bị xóa nhòa, ông thay đổi quan niệm sống trong sự lự chọn cõi thực - cõi mộng Danh lợi cuối cùng rồi sẽ tiêu tan hết/ Sao bằng kịp thời theo đạo thần tiên. Khoảng cách càng xa, nỗi niềm nhân vật trữ tình càng khắc khoải. Những tháng năm làm chánh sứ ở Trung Quốc, niềm tâm sự của Nguyễn Du qua Bắc Hành tạp lục rất phức tạp, đa dạng. Dù thế, muôn dặm nhớ quê hương, quay đầu nhìn lại, Hồng Lĩnh vẫn đau đáu trang thơ. Những điều trông thấy nơi đất người Mới ngày trước, đất Hà - nam, Hà - bắc còn giặc giã, lòng nhà thơ nhoi nhói: Vu đồ thiên lý chính tư qui Ba ba bạch phát hồng trần lộ Đường quanh nghìn dặm ngao ngán lòng nhớ quê Giữa đám bụi hồng, làn tóc trắng phau (Tổ - sơn đạo trung - Phạm Khắc Hoan và Lê Thước dịch) Mượn cảnh gửi tình, từ một không gian giặc giã, trong sự liên tưởng nhà thơ nghĩ đến vận mệnh quê hương, đất nước. Sự kình địch phe phái, tranh giành ngôi vị, nội chiến liên miên, con người sống trong đe dọa về mạng sống, tinh thần. Trước hiện thực xã hội như thế, dù trong không gian cách trở ở biên độ địa lí xa xôi nhất, nỗi niềm về quê hương vẫn canh cánh cõi lòng. Xa quê trên bước đường lưu lạc hay làm quan, dòng tâm sự được gửi gắm trong thơ cũng thường dễ thấy trên diễn đàn thi ca. Nhưng trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, không gian - nỗi niềm được thể hiện bằng một nét khác biệt, linh hoạt nhất. Đó là chỉ vừa bước ra khỏi dấu mốc đất quê, ranh giới chỉ là bước chân bên này, bên kia trong giây phút ngoảnh nhìn, vậy mà người đất khách đã trong trạng thái nước mắt rơi: Tài qua Long - vĩ thủy Tiện thị dị hương nhân.

<span class='text_page_counter'>(53)</span> Bạch phát sa trung hiện. Vừa sang sông Long - vĩ Đã là người đất khách. Giữa bãi cát, càng trông rõ mái đầu tóc bạc. (Độ Long- vĩ giang- Phạm Khắc Hoan và Lê Thước dịch) Nếu như trong Bắc hành tạp lục, không gian địa lí - cách trở dài nhất thì trong Thanh Hiên thi tập, không gian ấy được tính bằng khoảng cách ngắn nhất. Nhớ quê đến mức vừa ra khỏi đất quê đã nước mắt rơi hay đau lòng vì một người con Hồng Lĩnh có một bề dày lịch sử gia tộc huy hoàng giờ đây đang trong cảnh ngộ ôm mối hận Bình- chương? Như thể chẳng cất nổi bước chân, tình cảm nhà thơ được thể hiện một cách tinh tế, sâu lắng để rồi ta cảm nhận được sự đồng vọng trong tâm hồn giữa nhà thơ và bạn bè thân thích. Con người Nguyễn Du thuộc về Hồng Lĩnh bằng một sự trao gửi tấm tình chứ không phải một nơi nào khác! Từ tình cảm dành cho quê hương, trên mọi điểm nhìn, Nguyễn Du gửi gắm vào trang thơ dòng tâm sự sâu thẳm của một nhà nho có tinh thần trách nhiệm với quê hương, đất nước. Như vậy, dù ở nơi đâu, vị trí nào, khoảng cách - nỗi niềm tâm sự của nhà thơ về nhân tình thế thái cũng được diễn tả một cách sâu sắc nhất. Cũng trong đề tài quê hương, lấy quê hương để bộc lộ nỗi niềm, Lí Bạch thức dậy cả nguồn cảm hứng để làm nên Tĩnh dạ tứ nổi tiếng: Cử đầu vọng minh nguyệt Đê đầu tư cố hương Ngẩng đầu nhìn trăng sáng Cúi đầu nhớ cố hương. (Tương Như dịch) Trong buổi thịnh Đường, với khát vọng mang áng văn chương làm đẹp cho đời, Thi Tiên đi thăm thú mọi miền đất nước để làm nên những tác phẩm bất.

<span class='text_page_counter'>(54)</span> hủ trên thi đàn nhân loại. Bởi thế, mạch nguồn sáng tác của Tĩnh dạ tứ được khơi dậy từ một đêm trăng ở đất khách trong dòng cảm xúc hồi tưởng khoáng đạt để ta cảm nhận được tình cảm quê hương luôn thường trực trong tâm hồn nhà thơ bằng tất cả sự khao khát trong tâm thức. Nhưng với Nguyễn Du, sống trong thời buổi suy mạt của chế độ phong kiến Lê - Nguyễn, từ bối cảnh lịch sử ấy ông có cách thể hiện hoàn toàn khác. Trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, hình ảnh gia đình, quê hương đau đáu nỗi niềm trên mỗi bước đường của ông. Đứa con tinh thần ấy được thai nghén và sinh ra từ sự trăn trở, dằn vặt, khắc khoải, tù túng trước hiện thực thời đại ông đang sống nên bản thân nó không thoát ra được để rồi nỗi uất sầu đọng lại trên câu chữ. Như vậy, cùng viết về đề tài quê hương, nhưng theo từng khoảng cách không gian, bối cảnh lịch sử, cách thể hiện của thi nhân cũng có sự khác biệt. Từ trang sách viết về quê hương cũng là cách thể hiện tinh tế nỗi niềm nhà thơ gửi gắm. Bằng sự diễn tả tâm trạng theo dòng mạch thời gian - tâm tưởng, suy tư, ta nhận ra trong sự biến đổi cơ thể in hằn dấu ấn thời gian lên mái tóc, đầu bạc, tóc bạc đã được Nguyễn Du nhắc rất nhiều lần trong thơ chữ Hán. Từ cảnh ở trọ lâu ngày nơi đất khách, nhân vật trữ tình cảm nhận về độ vận hành nhanh chóng của thời gian trong sự vô vị, ta thấy được tâm trạng bế tắc trước thời cuộc: Trù trướng lưu quang thôi bạch phát, Nhất sinh u tử vị tăng khai. Bùi ngùi nỗi thời giờ thấm thoát làm cho tóc chóng bạc, Suốt đời mối u sầu chưa hề gỡ ra. (Thu chí - Phạm Khắc Hoan và Lê Thước dịch) Mối u sầu đeo đẳng trong buổi loạn li, trên bước đường bế tắc chốn đoạn trường dâu bể, bất lực chẳng thể gỡ ra, nỗi lòng của nhà thơ uất tụ, dồn.

<span class='text_page_counter'>(55)</span> nén để rồi vết thời gian nhuộm từng sợi tóc trong sự trơ trọi cùng cực. Tóc chóng bạc, sức trai ba mươi chẳng kháng cự nổi sự biến đổi cơ thể trong dấu hiệu suy sụp về tinh thần. Vì sao? Mối u sầu khi bản thân Suốt năm đau ốm, còn Quê nhà trong cơn binh lửa, mình ở xa muôn dặm nước mắt tuôn rơi cùng cảnh Em trai, em gái ở quê nhà bấy lâu bặt tin tức đã gieo vào tâm hồn nhà thơ bao nỗi ưu phiền. Nói về bản thân, về quê hương nhưng ta nhận thấy đó là cách nhà thơ bộc lộ một thái độ phản ánh hiện thực về bức tranh xã hội đương thời. Trong Mối u sầu, nhà thơ mượn tửu giải khuây nhưng càng uống càng tỉnh bởi Thế sự như mây nổi thật đáng buồn đã hằn sâu trong kí ức. Năm tháng ngầm thôi thúc đầu bạc, thời gian - thước đo lòng người. Bạc đầu lo nghĩ sự đời, buồn nỗi buồn thế sự, sống giữa đất quê, thương cảm trước số phận con người, nhân vật trữ tình khó cất được nỗi lòng: Ngã vọng Lam Giang đầu Thốn tâm thường chủy chủy Ta nhìn ra sông Lam Lòng thường lo ngay ngáy (Lam Giang - Phạm Khắc Hoan và Lê Thước dịch) Một biến động của thiên nhiên cũng tác động vào suy nghĩ của nhà thơ để rồi lo lắng về bờ sông lở hay con sóng dâng cũng thành nỗi niềm trăn trở trước sinh mạng con người của quê hương. Nếu không may sẩy chân sẽ chìm lỉm, không biết đâu là cùng, số phận con người mỏng manh đến thế. Có phải chỉ là nỗi lo lắng của nhà thơ hay tiếng kêu cứu của “dân đen” trước xã hội? Từ tấm lòng yêu thương về con người của quê hương, nhân vật trữ tình đã nói lên tiếng nói hiện thực về một xã hội đang mục ruỗng. Những tưởng có công danh sẽ vơi nhẹ nỗi lòng, nhưng thời gian - suy tư không dấu nổi trên mái tóc:.

<span class='text_page_counter'>(56)</span> Bồi hồi đối cảnh độc vô ngữ Bạch phát sổ hành thùy ngã khâm Một mình bồi hồi ngắm bóng chẳng nói gì Mấy sợi tóc bạc phất phơ rủ xuống vạt áo. (La- phù giang thủy các, độc tọa - Theo bản dịch cũ) Lòng nhớ núi Hồng hiện hữu qua từng cử chỉ tựa lan can cùng trạng thái chẳng nói gì, ta đọc thấy nội tâm nhà thơ đang ngổn ngang nhớ - lo nghĩ về quê hương, về thời cuộc mà bản thân mình đang trong cảnh bất lực. Nhớ quê hương, thôi thúc khát vọng trở về thật mãnh liệt: Hồng Lĩnh hữu nhân lai tố chủ Bạch đầu vô lại bất hoàn gia. Từ nay Hồng Lĩnh có người về làm chủ (Còn ta) đầu bạc, không nên trò trống gì mà vẫn không về nhà. (Tống Nguyễn Sĩ Hữu Nam qui - Nguyễn Văn Tú dịch) Vẫn là cách dùng hình ảnh đầu bạc để diễn tả tâm trạng của mình, ta đọc được trong nỗi vui mừng khôn xiết khi bạn về quê hương là một sự ngậm ngùi trước hoàn cảnh bất lực, bế tắc của nhà thơ. Nguyễn Du cay đắng về số phận: Sinh bình văn thái tàn lung phượng, Phù thế công danh tẩu hác xà. Cái văn vẻ lúc bình sinh xơ xác như con phượng trong lồng Công danh trên cõi đời tuột mất như rắn chạy vào hang. (Tống Nguyễn Sĩ Hữu Nam qui - Nguyễn Văn Tú dịch) Một thời thế mà tài năng đang bị trói buộc, đi vào ngõ cụt, vậy nhưng Nguyễn Du không đầu hàng hoàn cảnh. Một mình khêu ngọn đèn trong đêm bắt đầu dài/ Vắt tóc vẫn lo cho cái chí nguyện trong những ngày chót. Như vậy, khoảng cách địa lý trở thành khoảng cách - thước đo nỗi niềm, độ dài năm tháng trở thành thời gian ưu phiền - tâm tưởng bám theo một quãng đời.

<span class='text_page_counter'>(57)</span> đã phủ trùm lên mái tóc (mà đáng ra cái độ tuổi chưa đến mức phải bạc đầu). Qua cách thể hiện không gian, thời gian tâm trạng, Nguyễn Du - một tấm lòng, một nhân cách, một trí tuệ lấp lánh trên trang sách chữ Hán nói riêng và sự nghiệp văn chương của ông nói chung. Dù nhà thơ luôn sống trong tâm trạng day dứt, ưu tư, uất sầu đến cao độ về thời cuộc nhưng không bị hoàn cảnh chi phối. Điều ta nhận thấy trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du là bản lĩnh sống của một bậc nho gia trường trụ giữa thời gian. Cùng chung số phận nhà nho bất lực dưới chế độ phong kiến, nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng bộc lộ một nỗi niềm trăn trở Bảng lảng lòng quê không chợp được/ Mơ màng cuộc thế cũng cầm bằng (Đêm đông cảm hoài). Lo nghĩ về bản thân, quê hương đất nước đến mức Tóc bạc bao giờ không biết (Tự thuật). Những nhà nho bất lực, bế tắc trước thời cuộc, nhưng họ có khuất phục hoàn cảnh hay không? Nguyễn Khuyến từng nói: Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già (Ngày xuân răn con cháu); Nguyễn Du cũng bộc bạch trong Lưu biệt Nguyễn Đại Lang (Vũ Tam Tập dịch): Loạn thế nam nhi tu đối kiếm (Trai thời loạn nhìn thanh gươm mà thẹn). Cùng nói đến chữ thẹn, một cách nói khiêm nhường trong thời loạn của bậc nho gia hay biểu hiện thái độ phản ứng trước xã hội? Dù không cùng thời gian nhưng cả hai nhà thơ có những chỗ tương đồng trong cảnh ngộ. Vượt lên hoàn cảnh sống, họ đã để lại là cả một giá trị tinh thần trên trang sách, đem lại niềm tự hào cho quê hương, đất nước. Với Nguyễn Du, dù trong cảnh đói rét, phải lăn lộn trong đám bùn dơ nhưng văn tự của ông vẫn nảy nở. Nhà thơ mượn chuyện con bướm để thể hiện một thái độ - quan niệm sống của mình về giá trị đích thực của văn chương: Vấn đạo dã ưng cam nhất tử Dâm thư do thắng vị hoa mang. Được nghe đạo lý rồi chết cũng cam, Ham mê sách còn hơn mải miết vì hoa. ( Điệp tử thư trung - Phạm Khắc Hoan và Lê Thước dịch) Trong thơ chữ Hán, rất nhiều bài thơ Nguyễn Du đề cập đến thơ phú, sách vở: Bất dung trần cấu tạp thanh hư/Không cho bụi bặm lẫn vào trang sách (Ngọa bệnh), Tứ bích đồ thư bất yếm đa/ Sách vở đầy bốn vách, bao nhiêu cũng vừa (Tạp ngâm I), Chẩm bạn thúc thư phù bệnh cốt / Cạnh gối có chồng sách đỡ tấm thân bệnh tật (Tạp ngâm II)...Rõ ràng, trước thăng trầm cuộc sống, văn chương, sách vở đã thuộc về đời sống tinh thần của Nguyễn Du, và chính ông đã biết trân trọng, phát huy giá trị tinh thần ấy. Dẫu biết rằng sáng tác của bản thân có thể chưa có giá trị trong thời hiện tại Văn tự hà tằng vi ngã dụng/ Văn tự nào đã dùng được việc gì cho ta (Khất thực - Phạm Khắc Hoan và Lê Thước dịch), nhưng Nguyễn Du đã ấp ủ, ươm mầm để đời sau đồng cảm, sẻ chia trước nỗi niềm tâm tư, nhân tình thế thái của một khát vọng sống mãnh liệt..

<span class='text_page_counter'>(58)</span> Cứ nghĩ về cuộc đời một con người Thân mình xương bọc da trong cảnh đói rét, khi Bệnh đến trong bước đường giang hồ đã lâu ngày giữa chốn đất khách, phải cân nhắc Gặp đời loạn vì muốn giữ toàn sinh mệnh nên luôn luôn sợ người ta, ta vô cùng khâm phục nghị lực sống phi thường của nhà thơ. Nguyễn Du đã giành dật sự sống, giành dật chữ nghĩa văn chương để cái tài, cái tâm được tỏa sáng vào từng trang sách cuộc đời. Đến với thơ chữ Hán của Nguyễn Du, ta cảm thấy sự lớn lao của tâm hồn, trí tuệ, nhân cách, thái độ ứng xử của thi hào. Có lẽ từ chính thái độ sống của mình trước hoàn cảnh nghiệt ngã nên khi gặp nhân vật Thúy Kiều, từ trọng tâm câu chuyện chỉ đề cập đến sự bế tắc của một bậc tài hoa thấm đẫm bi kịch trong Kim Vân Kiều truyện thì với Nguyễn Du, ông đã sáng tạo thành câu chuyện ứng xử trong Truyện Kiều (xem thêm: Nhân vật Thúy Kiều nhìn từ bi kịch ứng xử cá nhân - Cùng tác giả) để rồi kiệt tác văn chương của thi hào trở thành niềm khao khát của bao thế hệ trong nhân loại. Giữa cảnh đời gập ghềnh chông gai, cái không mất đi trong tâm hồn nhà thơ là niềm tự hào Lam thủy Hồng sơn vô hạn thắng/ Sông Lam núi Hồng đẹp vô cùng (Phúc Thực Đình - Phạm Khắc Hoan và Ngô Ngọc Can dịch), và nhà thơ chính là niềm tự hào của quê hương, đất nước qua cảm nhận của Chế Lan Viên Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn (Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng? ). Cảm động thay, Bên mộ Nguyễn Du, nhà thơ Vương Trọng đã cất lên tiếng nói tri ân và ước nguyện của hậu thế dành cho thi hào: Bao giờ cây súng rời vai Nung vôi chở gạch tượng đài xây lên Trái tim lớn giữa thiên nhiên Tình thương nối nhịp suốt nghìn dặm xa... Bất chấp rào cản thời đại và hoàn cảnh sống, cái tài, cái tâm của Nguyễn Du đã phát huy cao độ, mang lại giá trị văn hóa phát sáng đến mọi thời đại, dâng cái đẹp cho đời trường tồn theo dòng chảy thời gian. Như vậy, từ tấm lòng một người con dành cho quê hương, nhân vật trữ tình đã gửi vào trang thơ bao nỗi niềm tâm sự của một nhà nho bất lực trước thời cuộc nhưng không khuất phục hoàn cảnh, đã ươm gieo vào trang sách sự sống cho đời. Phải chăng đó là khát vọng sống của chính bản thân nhà thơ và cũng là khát vọng về sự thay đổi của xã hội? Một giá trị nhân sinh, một tinh thần nhân đạo cao cả đã làm nên giá trị pho sách chữ Hán của Nguyễn Du. Nguyễn Du thuộc về Hồng Lĩnh và Hồng Lĩnh tự hào khi có một người con làm rạng danh đất Lam Hồng. Tạo hóa ban tặng tài năng, bất chấp hoàn cảnh tiêu cực, Nguyễn Du hóa thân vào văn chương để dâng tặng cái đẹp cho cuộc đời, nâng cao tầm vóc văn học Việt Nam và nhân loại..

<span class='text_page_counter'>(59)</span> Ghi chú: Những tư liệu trong bài viết lấy từ sách “Thơ chữ Hán Nguyễn Du” (Nhóm biên soạn Lê Thước, Trương Chính) - Nhà xuất bản Văn học, 1978. CHỮ TÂM KIA MỚI BẰNG BA CHỮ TÀI (Đọc “Truyện Kiều” của Nguyễn Du). Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài là câu Kiều được bạn đọc vận dụng nhiều nhất trong giao tiếp khi có một hoàn cảnh thích ứng muốn đề cao cái tâm trong cuộc sống (Theo cách hiểu từ cái tâm trong việc bán mình cứu cha của Kiều đã được khái quát lên như vậy). Nhưng đọc kĩ văn bản, ta bỗng chột dạ, Nguyễn Du đang nói chữ Tâm kia, một chữ Tâm rất riêng chứ đâu phải chữ Tâm chung chung. Như một sự gợi mở, ta thấy chữ Tâm đã được Nguyễn Du đề cập ở những khía cạnh khác nhau chứ không đơn nghĩa. Chữ Tâm kia là chữ Tâm nào vậy? Trong Truyện Kiều, chữ Tâm được dùng năm lần ở những ngữ cảnh khác nhau. Chữ Tâm đầu tiên được dùng ở đoạn kể Kim Trọng chia tay Kiều để về hộ tang chú, Kiều thề thốt Đã nguyền hai chữ “đồng tâm”/ Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai để khẳng định lòng chung thủy của mình trước tình yêu. Tiếp đến là chữ Tâm dùng chỉ họ Chung, một người “được coi” là từ tâm, sẵn sàng giúp đỡ người khác khi gặp hoạn nạn, cụ thể ở đây là giúp nhà họ Vương lo lót “chạy án”. Chữ Tâm tiếp theo dành cho Thúy Kiều hai lần dưới góc nhìn của Tam Hợp đạo cô Bán mình đã động hiếu tâm đến trời và của Đạm Tiên Tâm thành đã thấu đến trời khi Kiều bán mình chuộc cha và em. Chữ Tâm cuối cùng là của người kể chuyện (tạm hiểu là Nguyễn Du) khi kết thúc thiên truyện Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài. Chữ tâm kia (chứ không phải chữ tâm), viết như thế không biết cụ Nguyễn có dụng ý gì đây? Trong dòng mạch kể chuyện, mặc dù đã đan xen yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị luận nhưng chưa hề một lần Nguyễn Du dành chữ Tâm cho Kiều. Để chữ Tâm của Kiều dưới góc nhìn của Tam Hợp đạo cô và Đạm Tiên (Đạm Tiên Cùng người một hội, một.

<span class='text_page_counter'>(60)</span> thuyền đâu xa với Kiều, vì thế ta chỉ xem xét vấn đề từ phía Tam Hợp đạo cô), như thế có phải Nguyễn Du đã tạo sự đánh giá rất khách quan hoạt động của nhân vật hay không? Trong Truyện Kiều, sự nhìn nhận của Tam Hợp đạo cô về hành động bán mình của Kiều được đánh giá rất cao, đã động hiếu tâm đến trời. Còn ở Kim Vân Kiều truyện, khi gia đình Kiều trong cảnh gặp khổ nạn, nàng đã hiếu thảo một lòng. Dù gián tiếp hay trực tiếp, cả hai tác phẩm, dưới góc nhìn của Tam Hợp đạo cô đã thống nhất việc đề cao chữ Tâm của Kiều trong hành động bán mình chuộc cha. Đó cũng là cách hiểu truyền thống của người tiếp nhận khi tìm hiểu Truyện Kiều. Bởi thế, Nguyễn Đôn Phục đã coi cái Tâm cứu cha của Kiều là điều hiếm thấy Tự mình cân nhắc ngay lấy chữ tình, chữ hiếu, xem bên nào nặng hơn, rồi quyết ngay một bề, làm thân trâu ngựa để chuộc tội cho cha; coi vậy thời làm được một người, kén chọn được một chữ mà cầm, cũng khó lắm thay! (Trích “Văn chương và nhân vật trong Truyện Thúy Kiều”). Hay Lê Đình Kỵ đã đánh giá rất cao quyết định của Kiều Hành động như một liệt nữ, đã nêu tấm gương cao cả về sự hi sinh không bờ bến (Trích “Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du”). Ta không thể phủ nhận cái tâm của Kiều trong việc chọn chữ hiếu đã bán mình, giá trị đạo đức của con người luôn luôn được đề cao, trân trọng, nhưng sự hi sinh của Thúy Kiều trong tình huống này chưa thực sự có ý nghĩa bởi đặt vào hoàn cảnh cụ thể, nếu biết kết hợp nhiều yếu tố, ta thấy có thể thay đổi được tình thế hiện tại. Mổ xẻ tác phẩm từ các tình tiết xây dựng truyện theo một hệ thống mang tính logic, ta thấy Truyện Kiều của Nguyễn Du không đề cập chữ Tâm theo cách hiểu xưa nay. Dựa vào nội dung biểu đạt của tác phẩm, ở góc độ nhìn nhận khác, ta thấy Bi kich đầu tiên, cũng là nguyên nhân của chuỗi bi kịch trong cuộc đời Thúy Kiều là bán mình chuộc cha và em. Chỉ nhìn ở hành động, nàng quả là người hiếu nghĩa, sự hi sinh thật đáng ngợi ca! Nhưng xét theo tác động của sự việc thì hành động này là biểu hiện của cách xử sự vội vàng, thiếu suy đoán (xem thêm: “Nhân vật Thúy Kiều nhìn từ bi kịch ứng xử cá nhân” – Cùng tác giả). Chính cách xử sự nông cạn dẫn đến hành động vô thức, nàng đã.

<span class='text_page_counter'>(61)</span> trở thành kẻ tiếp tay cho những thế lực có nguy cơ làm bộ máy nhà nước nhiễu loạn. Do thiếu hiểu biết, chính nàng đẩy mình vào bi kịch và nàng trở thành kẻ thiếu ý thức, thiếu trách nhiệm trước xã hội. Phải chăng đó chính là TÂM - HỌA?(xem thêm: “Ý thức, trách nhiệm cá nhân trước xã hội”) Có một điều tưởng như mâu thuẫn trong cách thể hiện của Nguyễn Du: ông đã luôn dùng ngôn ngữ ước lệ để tôn thờ vẻ đẹp hình thức của Kiều trong mọi hoàn cảnh, nhưng phân tích tình huống truyện, ta lại thấy ông không hề đồng tình về cách ứng xử của nàng trước cuộc sống. Một cái bình tuyệt mĩ chỉ chứa đựng những bông hoa tương xứng để tỏa hương giữa cuộc đời. Phải chăng Nguyễn Du đang khao khát cái đẹp hoàn hảo ở đứa con tinh thần của mình? Có lẽ vậy mà từ góc nhìn riêng của mình, ông đã cân nhắc kĩ lưỡng đến mức không dành cho Kiều một chữ Tâm? Không dành chữ tâm cho Kiều, vậy chữ tâm của nhân vật nào tương ứng với chữ Tâm kia? Nếu chữ tâm của Kiều, chữ tâm của hành động vô thức đã đưa đến tai họa thì rõ ràng chữ tâm của nhân vật nào đó phải là chữ tâm của hành động có ý thức để vượt lên hoàn cảnh nhằm đưa lại điều tốt đẹp cho mình và làm cho cuộc sống có ý nghĩa? Bằng sự liên tưởng hợp lí, ta nghĩ ngay đến nhân vật Hoạn Thư. Thứ nhất, đứng trước thử thách của hôn nhân, với cái tâm làm vợ, Hoạn Thư đã biết tìm mọi cách dành lại chồng để giữ gia đình yên ấm. Thứ hai, trước thử thách của chính mình trong màn báo oán, tình thế vô cùng nguy hiểm, tính mạng đang như “cá nằm trên thớt”, Hoạn Thư đã biết vận dụng tài ứng xử để thoát hiểm, đó cũng là cách biết cứu, biết thương lấy chính mình - một lòng hướng về sự sống, không phó thác cho hoàn cảnh. Thứ ba, khi xử lí tình địch Tình huống truyện từ chỗ căng kéo đã bất ngờ chùng xuống, “Chút tình” khép lại màn diễn, đồng thời tấm lòng bao dung, độ lượng, sự hiểu biết của Hoạn Thư “Tài nên trọng mà tình nên thương” đã mở đường sống cho Thúy Kiều “Áo xanh đổi lấy cà sa/ Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền” trong không gian thanh tịnh ở Quan Âm các để “giữ chùa chép kinh”. Cho đến giờ Thúc Sinh đâu đã thật lẽ với Hoạn Thư, vậy mà nàng vẫn dành cho tình địch một cuộc sống yên ấm trong không gian đẹp đẽ, thanh.

<span class='text_page_counter'>(62)</span> tĩnh ở gia đình họ Hoạn “Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa/ Có cổ thụ, có sơn hồ” để tu tịnh. Khi Thúy Kiều chạy trốn đã cắp theo “chuông vàng, khánh bạc” - những đồ thờ quí giá trong chùa vướng điều cấm kị nhất ít ai dám làm, tiểu thư không hề truy đuổi (xem thêm: “Một góc nhìn về giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều” Cùng tác giả). Bao dung, độ lượng, mở đường sống cho “kẻ không đội trời chung” là biểu hiện cái tâm của một con người. Rồi tiếp đến chữ tâm thứ tư, đó là khi đứng trước tình địch, lợi thế tài năng của Kiều được Hoạn Thư trân trọng, đề cao một cách triệt để (Trong lúc đó, trước cách ứng xử của Hoạn Thư khi Thúc Sinh đi gặp Kiều ở Quan Âm các, do kinh hãi Kiều phải thốt lên ấy mới tài chứ đâu phải một cách thừa nhận). Một người dám trực tiếp thừa nhận tài năng của người khác, người ấy lại là địch thủ của mình thì cái tâm đó lại càng lớn lao. Như thế, chính tiểu thư họ Hoạn là người biết vận dụng tài năng ứng xử trong việc chống chọi trước nguy hiểm để gìn giữ bản thân, biết tìm cách đưa lại hạnh phúc cho gia đình, sống đúng đồng đúng lượng để đem lại điều tốt đẹp cho cuộc sống, như thế chẳng phải chữ tâm vừa nói đến là chính cái tâm của nhân vật Hoạn Thư hay sao? Cả thiên truyện không hề có chữ Tâm nào trực tiếp dùng cho Hoạn Thư, một chữ Tâm ngầm ẩn, như thế chẳng phải là cách Nguyễn Du đã dành cho người đọc một sự soi xét thỏa đáng, khách quan và cũng phải rất tinh tế khi tiếp nhận? Nếu Tâm của Kiều là TÂM - HỌA thì tâm của Hoạn Thư sẽ là TÂM – PHÚC! Chữ Tâm kia, một chữ Tâm rất cụ thể, chứ không mang nét nghĩa chung chung. Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài, cái chữ Tâm bằng ba chữ Tài ấy, cũng có nghĩa trong chữ Tâm kia đã bao hàm chữ Tài rồi, một chữ Tài có giá trị ứng dụng thiết thực trong cuộc sống - tài trí của con người. Trong biện pháp nghệ thuật so sánh Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài, nếu Chữ Tâm kia dùng để chỉ nhân vật họ Hoạn thì tương đồng với nó, chữ Tài sẽ được dùng để chỉ một nhân vật nào đấy được đưa ra so sánh với Hoạn Thư. Trong câu thơ Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài, chữ Tài được dùng để chỉ nhân vật nào? Về chữ Tài trong Truyện Kiều được dùng cho nhiều nhân vật ở các phương diện khác nhau. Đạm Tiên Nổi danh tài sắc một thì; Kim.

<span class='text_page_counter'>(63)</span> Trọng Phong tư tài mạo tót vời, là kẻ thiên tài; Thúc Sinh thực là tài tử; Từ Hải lược thao gồm tài, thiên tài; Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài. Riêng với Kiều, chí ít cũng mười bảy lần ông nói về chữ Tài ở nhiều khía cạnh khác nhau. Không dành cho Kiều một chữ Tâm nhưng Nguyễn Du đã rất khách quan khi ca ngợi tài đàn, hát, thơ, họa của Kiều. Từ nhìn nhận của Kim Trọng Khen: Tài nhả ngọc phun châu, hoặc cân nhắc của Mã Giám sinh cân sắc, cân tài, đến quan phủ phải thốt lên Tài này, sắc ấy nghìn vàng chưa cân, hay Thúc ông trọng vì tài, rồi họ Đô nhận xét tài sắc ai bì. Đặc biệt Hoạn Thư - tình địch của Kiều cũng đã bốn lần nhắc về chữ Tài, khi thì thương tài, khi thì đề cao tài nên trọng, khi thì tiếc hữu tài vô duyên, khi thì khen Nghìn vàng thật cũng nên mua lấy tài. Với Nguyễn Du cũng đã ca ngợi Sắc đành đòi một, tài đành họa hai của Kiều. Như thế, ở mọi góc nhìn để soi chiếu, tài năng của Kiều đều được khẳng định. Trong các nhân vật được ghi nhận bằng chữ Tài, chỉ có nhân vật Thúc Sinh và Thúy Kiều có mối quan hệ với Hoạn Thư, như thế dấu hiệu chữ tài dùng để chỉ nhân vật trong sự so sánh với Hoạn Thư không ai khác ngoài một trong hai nhân vật này. Điều dễ nhận thấy là trong mối liên quan với Hoạn Thư, Thúc Sinh là chồng nhưng rất nhợt nhạt, không biết xử sự theo cách đàn ông, không còn đáng mặt đàn ông lại thì sao có thể đem chữ Tài trong câu thơ Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài dùng cho chàng Thúc trong sự so sánh với Hoạn Thư. Bằng phép loại trừ, nếu chữ Tâm kia dùng chỉ Hoạn Thư thì rõ ràng chữ Tài trong câu thơ trên sẽ được dùng để chỉ Thúy Kiều bởi dựa vào cách thức xây dựng tình huống truyện, ta thấy giữa Hoạn Thư và Kiều đã từng có những cuộc đối mặt đầy kịch tính, vì thế so sánh Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài trong sự hơn thua giữa Hoạn Thư với Kiều mới là điều hợp lí. Ba lần Kiều gộp lại mới bằng được Hoạn Thư, vì sao có sự không ngang bằng ấy? Hạ thấp Kiều so với Hoạn Thư, câu thơ trữ tình ngoại đề của Nguyễn Du đã thể hiện cách phán xét của tác giả đối với nhân vật Thúy Kiều và đề cao Hoạn Thư. Tài đến thế nhưng Kiều đã không biết đem tài năng phục vụ cho cuộc sống của chính mình, vì thế không ít lần Nguyễn Du xót xa về chữ tài của Kiều Thương ôi tài sắc bậc này, hoặc Hại thay, mang lấy sắc.

<span class='text_page_counter'>(64)</span> tài làm chi!. Xây dựng nhân vật Thúy Kiều, một bậc tài sắc có một không hai nhưng trước thử thách chông gai đã không thể vượt qua, Nguyễn Du bộc lộ một thái độ rất rõ ràng khi tài năng đang bị phí phạm Có Tài mà cậy chi Tài?/ Chữ Tài liền với chữ Tai một vần. Một người tài năng mức ấy, vậy mà nàng đã để cho lãng phí, chỉ đưa đơn thuần cái tâm đối phó thử thách để rồi nhận lấy thất bại cay đắng giữa cuộc đời. Đọc Truyện Kiều, ta thấy một cái tâm cứu cha, nhưng cái tâm đặt không đúng chỗ nên không được Nguyễn Du đề cao Đã mang lấy nghiệp vào thân/ Cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa. Đối phó hoàn cảnh bằng sự lựa chọn bán mình (chứ không phải bán cơ đồ, tài sản hay dựa vào các yếu tố khác), nên chính cái Tâm vội vã, không suy nghĩ đắn đo sâu sắc đã gieo nên nghiệp chướng đầu tiên của đời nàng. Thật đáng tiếc cho nhân vật Thúy Kiều, một bậc tài sắc, thông minh nhưng chẳng thắng nổi tai ương, chướng ngại giữa cuộc đời, rốt cuộc chỉ chuốc lấy những tai họa vào mình. Không đồng tình về Kiều nhưng Nguyễn Du đã đề cao tiểu thư họ Hoạn. Một Hoạn Thư không có lợi thế như Kiều, vậy mà trước thử thách, khi cái chết kề tận cổ vẫn biết cách đấu tranh dành giật sự sống trong kiêu hãnh. Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài, qua cách so sánh ấy, phải chăng Nguyễn Du đã ca ngợi, trân trọng người phụ nữ có những phẩm chất tốt đẹp, sống có hiểu biết và biết cách đối nhân xử thế giữa cuộc đời? Như thế, ngoài tài năng trời ban, có năng khiếu về nhiều lĩnh vực, con người cần phải có tài ứng xử để khi tai ương ập xuống sẵn sàng đối phó nhằm bảo vệ chính mình và đem lại ý nghĩa cho cuộc sống. Theo như phân tích trên, ta có thể đặt giả thiết: trong câu thơ Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài, có thể chữ Tâm Kia chỉ nhân vật Hồ Tôn Hiến và chữ Tài chỉ Từ Hải thì sao? Dựa vào cách xây dựng nhân vật trong tác phẩm Truyện Kiều, suy luận ấy cũng có phần hợp lí. Là một Quan tổng đốc trọng thần, bằng tấm lòng tận trung cùng mưu lược tài tình trong hành xử việc nước, Hồ Tôn Hiến đã có công lớn trong việc thống nhất giang sơn, như thế cũng đã thể hiện cái Tâm đối với đất nước(xem thêm: “Cách hành xử của những người ở phương diện quốc gia” - Cùng tác giả). Từ Hải cũng rất tài năng Côn quyền hợp sức, lược thao gồm tài nhưng do.

<span class='text_page_counter'>(65)</span> thiếu khả năng ứng xử nên đã thất bại trước mưu lược của Hồ Tôn Hiến. Và như thế chữ Tâm kia (Hồ Tôn Hiến) cũng có thể so sánh với chữ Tài (Từ Hải) trong sự hơn thua. Mặc dù có thể đặt giả thiết như vậy, nhưng soi xét tác phẩm một cách tổng thể trong hệ thống logic xây dựng truyện, ta thấy Nguyễn Du muốn thông qua hình tượng nhân vật chính - Thúy Kiều nhằm thể hiện tư tưởng chủ đề của truyện - bài học của cách ứng xử của con người (xem thêm: “Cách hành xử của những người ở phương diện quốc gia” - Cùng tác giả). So sánh thất bại của Từ Hải và Thúy Kiều trong việc ứng xử, cách xây dựng truyện trong việc thể hiện ứng xử của Thúy Kiều đa dạng, toàn diện hơn và được soi chiếu ở nhiều điểm nhìn khác nhau. Hơn nữa, trong 3254 câu của Truyện Kiều, câu Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài đứng ở vị trí 3252, cũng có nghĩa nằm ở phần kết thúc truyện thể hiện ý đồ “chốt” lại vấn đề chính đặt ra trong tác phẩm. Từ điều đã phân tích, ta có thể khẳng định Nguyễn Du dành chữ Tâm kia cho nhân vật Hoạn Thư, chữ Tài cho nhân vật Thúy Kiều. Thật thú vị về những câu mở đầu và kết thúc Truyện Kiều khi Nguyễn Du đều nói đến chữ Tài, chữ Mệnh nhưng không đồng nhất về nội dung phản ánh. Chữ Tài, chữ Mệnh khéo là ghét nhau, sao cứ phải được cái này thì phải kém cái kia khi mà trước thử thách vẫn có những lợi thế nhất định mà mình không cố giành lấy, không có ý thức đấu tranh cho sự tồn tại, phát triển? Xây dựng nhân vật Hoạn Thư bên cạnh Kiều, ta nhận ra rằng cùng một sự việc đấu tranh bảo vệ mình, tại sao Kiều có ưu thế nhất định nhưng đã thất bại, còn Hoạn Thư không được trời ban thông minh, tài năng như Kiều vẫn chiến thắng? Một cuộc đọ sức công bằng. Không ai ngăn cản Kiều trong việc đấu tranh để bảo vệ mình, không ai mở đường cho Hoạn Thư chiến thắng, tất cả dồi dào ra đấy, chỉ có điều Kiều không biết cách dành lấy để rồi chữ tài, chữ mệnh đã trở nên xung khắc. Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài, chắc Nguyễn Du rất đau lòng khi không còn hy vọng về sự chứng tỏ tài năng của Kiều trước cuộc sống! Giá như Kiều biết cách ứng xử giữa cuộc đời để giành lấy những gì tốt đẹp cho mình? Cứ nghĩ câu thơ Chữ Tài, chữ Mệnh dồi dào cả hai ta lại tiếc cho một bậc.

<span class='text_page_counter'>(66)</span> tài năng xuất chúng nhưng chỉ biết sử dụng bó hẹp trong giới hạn trời ban để rồi trước những vấn đề xảy ra trong thực tế chỉ giải quyết như một công cụ. Chữ Tài, chữ Mệnh dồi dào cả hai, câu thơ đầy tính triết lí gợi cho chúng ta một ý thức sống tích cực để dành lấy điều tốt đẹp nhất trong những điều kiện, hoàn cảnh có thể! Chú thích 1. Những đoạn trích Truyện Kiều trong bài được lấy từ Truyện Kiều của soạn giả G.S. Vũ Ngọc Khánh, Nhà xuất bản Thanh Hóa. 2. Những đoạn trích Kim Vân Kiều truyện trong bài được lấy từ Kim Vân Kiều truyện do Nguyễn Đức Vân, Nguyễn Khắc Hanh dịch, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm.

<span class='text_page_counter'>(67)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×