Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

bai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.04 KB, 5 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI
KHOA TIỂU HỌC - MẦN NON
----------  -------

BÀI KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN
MÔN: PPDH Tiếng Việt 1

Giáo viên: ThS. Trần Dương Quốc Hòa
Sinh viên: Trần Thị Ngọc Ánh
Lớp: ĐH Tiểu học A - K5

NĂM 2017


BÀI KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN
MÔN: PPDH TIẾNG VIỆT 1

Được phân công về thực tập tại trường Tiểu học Quang Vinh và vào lớp 1,
được dự giờ vài tiết dạy mẫu. Sau khi kết thúc đợt thực tập, em có những
nhìn nhận và những thắc mắc của riêng bản thân
 Yêu cầu 1: Xem xét- đánh giá việc thực hiện 3 nguyên tắc dạy học Tiếng
Việt ở trường tiểu học
+ Nguyên tắc phát triển tư duy: để phát triển tư duy gắn liền với phát triển
ngôn ngữ cho học sinh tiểu học, trong dạy học Tiếng Việt, các giáo viên ở
trường
- Giáo viên chỉ rèn các thao tác tư duy ở một số bài khi có người đến dự
giờ lớp, mà không chú ý rèn trong mọi giờ học để học sinh rèn luyện tư
duy nhanh,chính xác và tích cực nên đa số học sinh còn bị động còn
chậm trong việc phân tích, so sánh. Như mơn học vần ở lớp 1, giáo viên
có rèn về so sánh 2 vần với nhau nên học sinh trả lời được nhưng khuôn
mẫu và khơng có cái khác lạ để học sinh tự tư duy.


- Giáo viên có giải thích nghĩa các từ mới, từ khó hiểu bằng cách nói trực
tiếp mà khơng có phương pháp để học sinh tự suy nghĩ tự nói ý kiến của
bản thân. Khi giáo viên giải nghĩa xong thì cũng khơng hỏi học sinh đã
hiểu chưa.
- Ngơn ngữ là công cụ để tư duy và tư duy là hiện thực trực tiếp của ngôn
ngữ. Ở trường tiểu học vẫn chưa phát triển hết được cái tư duy ở lứa tuổi


tiểu học, điều này phản ánh việc giáo viên chưa sử dụng triệt để công cụ
ngôn ngữ.
+ Nguyên tắc giao tiếp: do là học sinh lớp 1 nên giáo viên khi dạy tiếng việt
thì chỉ dạy giao tiếp đơn giản, đã lồng ghép những văn hóa ứng xử như nói
lời cảm ơn, lời xin lỗi và bên cạnh đó trong phần luyện nói thì giáo viên tổ
chức trao đổi với bạn cùng bàn nói nhau nghe, nói trước lớp. Nhưng nếu như
vậy khi nói trước lớp chỉ vài học sinh nói, khi nói với bạn cùng bàn thì có
vài học sinh nói rất tích cực nhưng cũng có rất nhiều học sinh khơng nói
được. Và vấn đề đó thì giáo viên khó hoặc khơng quan tâm được. Bên cạnh
đó khi học các bài về biển đảo, quê hương thì giáo viên có liên hệ với thực tế
và học sinh hiểu và nói được bản thân sẽ làm gì để thể hiện tình yêu quê
hương biển đảo.
+ Nguyên tắc chú ý đến tâm lí và trình độ Tiếng Việt vốn có của học sinh:
- Giáo viên có chú ý đến trình độ Tiếng Việt vốn có của học sinh, dạy học
theo trình độ chung của lớp và có chương trình dạy riêng cho 1 học sinh
chậm phát triển. Và với học sinh miền nam khi dạy học vần phần từ ứng
dụng, giáo viên đã thay các từ chỉ dùng ở miền Bắc thành các từ thông
dụng ở miền Nam giúp học sinh tiếp thu tốt hơn và dễ hiển hơn
- Nhưng giáo viên lại chưa chú ý đến tâm lí của học sinh, khi chuyển từ
hoạt động chủ đạo là vui chơi sang học tập thì học sinh vẫn chưa thích
nghi kịp, vẫn cịn nói chuyện, mất tập trung trong giờ học. Thay vì có
phương pháp để giúp các em tập trung hơn thì giáo viên thường hay la

mắng, điều này sẽ làm cho học sinh mang tâm lí nặng nề và khó tiếp thu
hơn.
- Giáo viên phát huy được tính chủ động của học sinh khi tổ chức thảo
luận nhóm đọc và ghép từ có nghĩa, vừa giúp các em trao đổi với nhau
vừa phát huy tinh thần làm việc nhóm, một hoạt động vừa học vừa chơi
giúp học sinh tham gia chủ động.


 Đánh giá các tiết dạy Tiếng Việt ở trường tiểu học theo các tiêu chí của 1 tiết
dạy tích cực:
 Mọi học sinh đều tham gia hoạt động:
Một bài học chia ra nhiều hoạt động và hoạt động nào mọi học sinh cũng
đều tham gia vì trước khi làm một hoạt động nào thì GV cũng đều cho
làm cá nhân để ai cũng có thể tham gia, sau đó thì cho thảo luận cặp và
thảo luận nhóm. Mơn học vần ai cũng tự viết và đọc cho nhau nghe rồi
cùng nhau luyện nói, với mơn luyện từ và câu các câu hỏi học sinh đều tự
trả lời và thảo luận trao đổi với bạn
 Tự học sinh sản sinh ra tri thức:
Học sinh có thể tự sản sinh ra tri thức: như môn học vần với hoạt động
thảo luận nhóm 4 ghép từ vào bảng cài lớn, học sinh đọc tiếng của
mình và ghép thành 1 từ có nghĩa với bạn, như vậy hoạt động đó làm
cho mình có thể tự vận động tư duy đọc kết hợp với suy nghĩ
 Khơng khí lớp học sinh động, vui vẻ, thoải mái:
Khi bắt đầu bài học GV luôn cho học sinh khởi động bằng bài hát
hoặc trò chơi nhỏ tạo khơng khí thoải mái
Trong q trình học ngồi phần bài giảng GV đã đưa nhiều tranh ảnh
hoặc kết hợp việc dùng powperpoint cho học sinh xem video sẽ giúp
học sinh học như chơi chơi như học, khơng bị gị bó, khn khổ
Giọng nói của GV ln vui tươi, có sự nhấn nhá trong câu nói
 Yêu cầu 2: Những băn khoăn, thắc mắc và đề xuất ý tưởng về giải pháp

khắc phục
- Những băn khoăn thắc mắc khi tiếp cận thực tế với các tiết dạy Tiếng
Việt ở trường tiểu học:
+ GV khơng ghi tên bài, phần viết bảng cịn chưa đúng mẫu một vài chữ
như chữ p


+ Khi phổ biến 1 hoạt động thảo luận nhóm khác với hoạt động vẫn
thường làm thì học sinh rất lúng túng không tiếp thu được làm mất nhiều
thời gian
+ Quy trình dạy từ bài này sang bài khác vẫn vậy khơng có nhiều thay
đổi nên khi có thêm hoạt động khác học sinh khó tiếp nhận.
+ Đa phần học sinh đã được học thêm nên biết trước, đến lớp cô cho cả
lớp đọc bài mà không dạy theo quy trình, như vậy thì một số học sinh
khơng học thêm sẽ không nắm bài được dẫn đến sự chênh lệch
+ Giáo viên không đứng lớp thường xuyên, rất hay ra ngồi. Như vậy
khơng biết ai đọc được và ai chưa đọc được.
- Đề xuất ý tưởng về giải pháp khắc phục:
+ Cần đan xen các hoạt độn mới vào các bài học để học sinh khi có hoạt
động khác sẽ dễ tiếp thu hơn và thêm hứng thú
+ Dù là học sinh đã học trước và với học sinh chưa học qua thì giáo viên
nên dạy theo quy trình sẽ giúp cho các em học trước nhớ lâu hơn còn các
em chưa học thì sẽ theo kịp bạn
+ Cần dành thời gian quan sát lớp để kịp thời giúp đỡ những học sinh còn
chậm



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×