TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH - MARKETING
KHOA KINH TẾ - LUẬT
BỘ MÔN LUẬT
ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG
HỌC PHẦN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
(Hệ chất lượng cao)
(Lưu hành nội bộ, dùng cho dạy và học trực tuyến)
Tp. Hồ Chí Minh – 2021
1
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
1.1. Nguồn gốc, bản chất, thuộc tính và chức năng của pháp luật
1.1.1. Nguồn gốc pháp luật
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, Nhà nước và pháp luật là "đôi bạn đồng hành", là hai
hiện tượng xã hội luôn gắn liền với nhau. Do đó nguyên nhân về sự ra đời của nhà nước
cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của pháp luật.
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, chưa có Nhà nước và pháp luật. Ở thời kỳ đó,
quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi các quy tắc hình thành một cách tự phát, xuất phát từ
nhu cầu, lợi ích chung của cả cộng đồng và cũng là lợi ích của mỗi thành viên trong cộng
đồng. Đó là những quy phạm xã hội, chủ yếu gồm: tập quán, các tín điều tơn giáo và những
quy phạm đạo đức...Các quy phạm này được đảm bảo thực hiện bằng sự tự giác của mỗi
người và bằng uy tín tự nhiên của các thủ lĩnh cộng đồng. Bên cạnh đó, kết cấu xã hội còn
hết sức đơn giản. Tổ chức đầu tiên của xã hội loài người là thị tộc, nhiều thị tộc hợp lại
thành bào tộc, nhiều bào tộc hợp thành bộ lạc...vì thế, chưa cần đến những quy tắc đa
dạng, phức tạp để quản lý xã hội.
Khi Nhà nước ra đời, đồng thời với việc thiết lập bộ máy nhà nước, giai cấp thống trị
đã đặt ra một loạt các quy tắc xử sự mới thể hiện ý chí của mình và bắt buộc các thành
viên trong xã hội phải tuân theo bằng chính sức mạnh của bộ máy nhà nước. Hệ thống các
quy phạm mới thể hiện ý chí của giai cấp thống trị chính là pháp luật.
Bằng sự thừa nhận của nhà nước, các quy tắc như đạo đức, phong tục tập quán phù
hợp với lợi ích của giai cấp thống trị bị biến đổi thành những quy tắc xử sự chung. Đây là
phương thức hình thành đầu tiên của pháp luật. Bên cạnh đó, thơng qua các hình thức
sáng tạo pháp luật, nhà nước đã tiến hành hoạt động xây dựng, bổ sung thêm các quy định
pháp luật mới các có tính quy phạm phổ biến. Đó chính là phương thức hình thành thứ
hai của pháp luật.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do nhà nước đặt
ra hoặc thừa nhận để điều chỉnh các quan hệ xã hội, thể hiện ý chí của nhà nước và được
nhà nước bảo đảm thực hiện.
1.1.2. Bản chất của pháp luật
Bản chất của pháp luật được thể hiện ở hai tính chất cơ bản là tính giai cấp và tính xã
hội.
Tính giai cấp
Pháp luật ln phản ánh ý chí của Nhà nước, của giai cấp thống trị. Sở dĩ như vậy là
vì, nhờ nắm trong tay quyền lực nhà nước nên giai cấp thống trị có điều kiện biến ý chí
của giai cấp mình thành ý chí nhà nước và thể hiện chúng trong các văn bản pháp luật.
2
Nói cách khác, pháp luật là sản phẩm của sự thể chế hóa ý chí của giai cấp thống trị. Mặt
khác, tính giai cấp của pháp luật cịn thể hiện ở chỗ mục đích của pháp luật là điều chỉnh
quan hệ giữa các tầng lớp xã hội, nhằm tạo ra một trật tự xã hội phù hợp với lợi ích của
giai cấp thống trị.
Tính xã hội
Nói đến tính xã hội của pháp luật cũng chính là nói tới vai trò xã hội, giá trị xã hội của
pháp luật. Pháp luật trong bất kỳ kiểu nhà nước nào cũng có tính chất này, tuy phạm vi và
mức độ thể hiện khác nhau. Tính chất xã hội của pháp luật thể hiện:
- Pháp luật là kết quả khái quát hóa các quan hệ xã hội cơ bản, quan trọng nhất thành
những mơ hình, khn mẫu của hành vi mang tính chuẩn mực.
- Pháp luật được ra đời từ nhu cầu quản lý xã hội về mọi mặt.
- Tính chất xã hội của pháp luật cịn thể hiện thơng qua các giá trị và vai trò của pháp
luật. Nhiều giá trị xã hội được đăng tải, được phản ánh trong pháp luật.
1.1.3. Thuộc tính của pháp luật
So với các quy phạm xã hội khác, pháp luật có những ưu thế vượt trội nhờ các thuộc
tính đặc trưng sau đây:
Tính quy phạm phổ biến
Xét về mặt từ ngữ, “quy phạm” có nghĩa là khn mẫu, mơ hình. Pháp luật có tính
quy phạm nghĩa là pháp luật là khuôn mẫu, chuẩn mực cho hành vi xử sự của con người
đã được xác định cụ thể. Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự, là mơ hình xử sự chung, là
khn mẫu của hành vi mà mọi chủ thể phải tuân theo.
Các quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trên lãnh thổ và theo thời gian. Việc
áp dụng những quy phạm này chỉ bị đình chỉ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền hủy bỏ,
bãi bỏ; sửa đổi, bổ sung hay thời hạn các quy phạm đã hết.
Tính xác định và chặt chẽ về hình thức
Pháp luật có tính xác định về hình thức có nghĩa là pháp luật được thể hiện dưới những
hình thức xác định.
Tính xác định và chặt chẽ về hình thức của pháp luật cịn thể hiện ở việc nội dung
pháp luật được sắp xếp, thể hiện theo hệ thống, cấu trúc nhất định được diễn đạt dưới văn
phong rõ ràng, chính xác dễ hiểu. Vì thế, việc sử dụng lối diễn đạt trừu tượng, khó hiểu là
điều tối kỵ khi xây dựng và soạn thảo văn bản pháp luật.
Tính được Nhà nước bảo đảm thực hiện
Nhà nước khơng những đảm bảo tính hợp lý về nội dung của pháp luật mà còn là chủ
thể đảm bảo cho pháp luật được thực hiện trong thực tế đời sống bằng quyền lực của mình.
Nhà nước bảo đảm thực hiện pháp luật thơng qua các hình thức:
+ Nhà nước trao cho các quy phạm pháp luật tính quyền lực bắt buộc đối với mọi cơ
quan, tổ chức và công dân.
3
+ Nhà nước đưa ra các biện pháp tổ chức tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp
luật.
+ Nhà nước thực hiện quyền áp dụng pháp luật đối với các hành vi vi phạm pháp luật,
các tranh chấp trong đời sống.
+ Nhà nước thực hiện sự cưỡng chế với nhiều hình thức khác nhau để khơi phục trật
tự pháp luật khi có vi phạm pháp luật.
1.1.4. Chức năng của pháp luật
Trong khoa học pháp lý, chức năng của pháp luật được hiểu là những phương diện,
những tác động của pháp luật đến các quan hệ xã hội thơng qua đó phản ảnh bản chất của
pháp luật. Pháp luật có ba chức năng cơ bản: chức năng điều chỉnh, chức năng bảo vệ và
chức năng giáo dục.
Chức năng điều chỉnh
Chức năng điều chỉnh quả pháp luật được thể hiện:
Pháp luật là phương tiện quan trọng để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm trật tự hóa
các quan hệ xã hội. thông qua việc quy định quyền và nghĩa vụ nhất định đã được quy
định dưới hình thức cho phép, bắt buộc, ngăn cấm, khuyến khích đối với các chủ thể khi
tham gia các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh.
Chức năng bảo vệ
Pháp luật ra đời là để bảo vệ trật tự xã hội, bảo vệ cho lợi ích của giai cấp cầm quyền
và ở mức độ nào đó pháp luật cịn là phương tiện bảo vệ cho lợi ích hợp pháp của các chủ
thể khác trong xã hội.
Chức năng giáo dục
Pháp luật không chỉ là phương tiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội mà còn là nhân
tố tác động đến suy nghĩ, tình cảm, của con người, qua đó tạo nên những thay đổi nhất
định hành vi xử sự của họ.
1.2. Hệ thống pháp luật
1.2.1. Khái niệm hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật được hiểu là một chỉnh thể bao gồm cả cấu trúc bên trong của pháp
luật (hệ thống cấu trúc) và hình thức thể hiện ra bên ngồi của pháp luật (hình thức pháp
luật).
1.2.2. Hệ thống cấu trúc pháp luật
Hệ thống cấu trúc của pháp luật bao gồm ba thành tố là quy phạm pháp luật, chế định
pháp luật, ngành luật. Quy phạm pháp luật là thành tố nhỏ nhất trong hệ thống cấu trúc.
1.2.2.1. Quy phạm pháp luật
Khái niệm
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và
bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội theo trật tự nhất định mà nhà nước mong muốn.
4
Đặc điểm
Quy phạm pháp luật trước hết là một loại quy phạm xã hội dùng để điều chỉnh hành vi
của con người, hoạt động của tổ chức. Vì vậy, nó mang đầy đủ những đặc tính chung vốn
có của quy phạm xã hội như: là quy tắc xử sự chung, là khuôn mẫu để mọi người làm theo,
là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của con người. Ngồi những đặc
tính chung của quy phạm xã hội thì quy phạm pháp luật cịn có những đặc tính riêng:
- Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung
Tính bắt buộc chung của quy phạm pháp luật được hiểu là bắt buộc đối với mọi tổ
chức, cá nhân nằm trong hoàn cảnh, điều kiện mà quy phạm pháp luật đã quy định.
- Quy phạm pháp luật chỉ do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện
Các quy phạm pháp luật phải được ban hành, thừa nhận hoặc phê chuẩn bởi các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền theo một trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Bên cạnh
đó, nhà nước cũng thành lập một hệ thống cơ quan có chức năng kiểm tra, giám sát, cưỡng
chế... để đảm bảo cho các quy phạm pháp pháp luật được thực hiện trên thực tế một cách
chính xác, triệt để.
Nội dung của mỗi quy phạm đều chứa đựng quy tắc hành vi
Nội dung của mỗi quy phạm pháp luật thường chỉ ra quyền và nghĩa vụ pháp lý của
các bên tham gia vào quan hệ xã hội mà quy phạm pháp luật đó điều chỉnh.
Quy phạm pháp luật được thể hiện dưới hình thức xác định
Trong các nhà nước hiện nay, quy phạm pháp luật chủ yếu được ghi vào văn bản pháp
luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục nhất định. Nội
dung quy phạm pháp luật được sắp xếp theo cấu trúc nhất định và có tính thống nhất.
Ngồi ra, mỗi một quy phạm pháp luật không tồn tại một cách biệt lập, riêng lẻ mà giữa
chúng ln có mối quan hệ mật thiết, thống nhất với nhau tạo thành một chỉnh thể.
Cấu trúc của quy phạm pháp luật
Cấu trúc của quy phạm pháp luật chính là những thành phần tạo nên quy phạm pháp
luật.
Các bộ phận hợp thành của quy phạm pháp luật bao gồm: Giả định, quy định và chế
tài.
Giả định là một bộ phận của quy phạm pháp luật trong đó nêu lên những hồn cảnh,
điều kiện có thể xảy ra trong cuộc sống và cá nhân hay tổ chức nào ở vào những hồn
cảnh, điều kiện đó phải chịu sự tác động của quy phạm pháp luật đó.
Bộ phận giả định của quy phạm pháp luật trả lời cho câu hỏi: Tổ chức, cá nhân nào?
Khi nào? Trong những hoàn cảnh, điều kiện nào?
Giả định của quy phạm pháp luật có thể đơn giản (Chỉ nêu lên một hồn cảnh, điều
kiện) hoặc có thể phức tạp (nêu lên nhiều hoàn cảnh, điều kiện ).
5
-
Quy định là một bộ phận của quy phạm pháp luật trong đó nêu cách xử sự mà tổ
chức hay cá nhân ở vào hoàn cảnh, điều kiện đã nêu trong bộ phận giả định của quy phạm
pháp luật được phép hoặc buộc phải thực hiện.
Bộ phận quy định của quy phạm pháp luật trả lời câu hỏi: Phải làm gì? Được làm gì?
Khơng được làm gì? Làm như thế nào?
Mệnh lệnh được nêu ở bộ phận quy định của quy phạm pháp luật có thể dứt khốt (chỉ
nêu một cách xử sự và chủ thể phải xử sự theo mà khơng có sự lựa chọn), hoặc khơng dứt
khốt (nêu ra hai hoặc nhiều cách xử sự mà chủ thể có thể lựa chọn).
- Chế tài là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những biện pháp tác động
mà nhà nước dự kiến để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh.
Bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật trả lời cho câu hỏi: Hậu quả sẽ như thế nào
nếu vi phạm pháp luật, không thực hiện đúng mệnh lệnh của nhà nước đã nêu ở bộ phận
quy định của quy phạm pháp luật.
Các biện pháp tác động mà nhà nước nêu ra trong chế tài của quy phạm pháp luật rất
đa dạng. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, các chế tài gồm:
+ Chế tài hình sự
+ Chế tài hành chính
+ Chế tài dân sự
+ Chế tài kỷ luật
1.2.2.2. Chế định pháp luật
Chế định pháp luật là một nhóm quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh một nhóm quan
hệ xã hội có tính chất giống nhau hoặc có quan hệ mật thiết với nhau trong cùng một lĩnh
vực.
Chế định pháp luật mang tính chất nhóm tương ứng với tính chất của nhóm quan hệ
xã hội mà nó điều chỉnh. Tuy nhiên, bản thân từng chế định lại có sự liên hệ và tác động
qua lại với các chế định khác trong hệ thống pháp luật, bởi bản thân các nhóm quan hệ xã
hội được điều chỉnh bởi từng chế định không tồn tại biệt lập với nhau mà cùng tồn tại
trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.2.2.3. Ngành luật
Khái niệm
Ngành luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có đặc tính chung điều chỉnh các quan
hệ xã hội cùng loại trong một lĩnh vực nhất định với phương pháp điều chỉnh tương ứng.
Căn cứ phân chia ngành luật
Việt Nam phân định ngành luật trên cơ sở hai căn cứ chủ yếu là đối tượng điều chỉnh
và phương pháp điều chỉnh của ngành luật.
Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là những quan hệ xã hội có đặc điểm cùng
loại thuộc một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội được ngành luật đó tác động, chi
phối.
6
Phương pháp điều chỉnh của một ngành luật là cách thức mà nhà nước sử dụng để tác
động vào các quan hệ xã hội mà ngành luật đó điều chỉnh. Có hai phương pháp điều chỉnh
điển hình thường được sử dụng là phương pháp thỏa thuận bình đẳng và phương pháp
quyền lực phục tùng.
1.2.2.4. Các ngành luật cơ bản trong hệ thống pháp luật Việt Nam
- Luật Hiến pháp: là một ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam,
bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản nhất về tổ chức và
thực hiện quyền lực Nhà nước, về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của cơng dân...
- Luật Hành chính: là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ pháp
sinh trong hoạt động chấp hành – điều hành của các cơ quan hành chính Nhà nước và các
quan hệ mang tính chất chấp hành - điều hành phát sinh từ hoạt động của các cơ quan Nhà
nước khác và các tổ chức đoàn thể xã hội khi thực chức năng quản lý hành chính.
- Luật Hình sự: là hệ thống các quy phạm pháp luật quy định hành vi nào bị coi là
tội phạm và hình phạt đối với người có hành vi phạm tội.
- Luật Tố tụng Hình sự: bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
- Luật Dân sự: là một ngành luật quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam,
bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các cá nhân,
tổ chức, pháp nhân và các chủ thể khác được xác lập dựa trên nguyên tắc bình đẳng về
mặt pháp lý, quyền tự định đoạt, quyền khởi kiện dân sự và trách nhiệm tài sản của những
chủ thể tham gia quan hệ đó.
- Luật Tố tụng dân sự: gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh giữa Tòa án, Viện kiểm sát, các đương sự và những người tham gia tố
tụng khác trong quá trình giải quyết vụ, việc dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản.
- Luật Kinh tế: bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình tổ chức, quản lý, hoạt động kinh doanh giữa các doanh nghiệp với
nhau, giữa doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế.
- Luật Lao động: bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ lao động
giữa người lao động làm công ăn lương với người sử dụng lao động và các quan hệ xã hội
liên quan đến quan hệ lao động.
- Luật Hôn nhân và gia đình: bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan
hệ hơn nhân - gia đình về nhân thân và tài sản.
- Luật Tài chính: bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực hoạt động tài chính của nhà nước, quá trình tạo lập, phân phối và
sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước.
- Luật Ngân hàng: bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng.
7
-
Luật Đất đai: bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai, trong đó đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
nhà nước làm đại diện chủ sở hữu.
Bên cạnh các ngành luật trong nước trên, để xây dựng và thực hiện pháp luật không
thể không kể đến bộ phận pháp luật quốc tế bao gồm hai bộ phận là công pháp quốc tế
và tư pháp quốc tế.
1.2.3. Hình thức pháp luật
1.2.3.1. Tập quán pháp
Là hình thức nhà nước thừa nhận một số tập quán đã lưu truyền trong xã hội, phù hợp
với lợi ích của giai cấp thống trị, nâng chúng lên thành những quy tắc xử sự chung được
nhà nước bảo đảm thực hiện.
1.2.3.2. Tiền lệ pháp (án lệ)
Là các quyết định có trước về từng vụ việc cụ thể của cơ quan hành chính, cơ quan xét
xử cấp trên, được nhà nước thừa nhận là khuôn mẫu để các cơ quan cấp dưới giải quyết
những vụ việc tương tự về sau (án lệ).
1.2.3.3. Văn bản quy phạm pháp luật
Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật
Điều 2 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 đã đưa ra khái niệm như
sau: Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành
theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này.
Văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhưng được ban hành không đúng thẩm quyền,
hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này thì khơng phải là văn bản quy phạm
pháp luật.
Đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật
- Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành theo trình tự, thủ tục, hình thức được pháp luật quy định.
- Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa đựng các quy tắc xử sự chung (các
quy phạm pháp luật).
- Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trong đời sống và trong mọi
trường hợp khi có sự kiện pháp lý xảy ra.
- Tên gọi, nội dung và trình tự ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật được
quy định cụ thể trong pháp luật.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam
Theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 80/2015/QH13 và Luật số
63/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật số 80/2015/QH13 thì hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay bao
gồm:
- Hiến pháp.
8
-
Bộ luật, luật (sau đây gọi chung là luật), nghị quyết của Quốc hội.
- Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên tịch giữa
Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đoàn Chủ tịch Ủy
ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
- Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đồn Chủ tịch
Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
-
Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao.
Thơng tư của Chánh án Tịa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; quyết
định của Tổng Kiểm tốn nhà nước. Thơng tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Không ban hành thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ.
- Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây
gọi chung là cấp tỉnh).
- Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt.
- Nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành
phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện).
- Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện.
- Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp
xã).
- Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã.
1.3. Quan hệ pháp luật
1.3.1. Khái niệm, đặc điểm của quan hệ pháp luật
Khái niệm quan hệ pháp luật
Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được quy phạm pháp luật điều chỉnh trong đó các
bên tham gia quan hệ có các quyền và nghĩa vụ được nhà nước bảo đảm thực hiện.
Đặc điểm của quan hệ pháp luật
Quan hệ pháp luật có những đặc điểm sau:
- Quan hệ pháp luật xuất hiện trên cơ sở quy phạm pháp luật.
- Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội mang tính ý chí.
9
-
Quan hệ pháp luật là quan hệ mà các bên tham gia quan hệ mang quyền và nghĩa
vụ pháp lý và việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý đó được đảm bảo bằng sự
cưỡng chế của nhà nước.
- Sự xuất hiện, thay đổi, chấm dứt các quan hệ pháp luật luôn gắn liền với sự kiện
pháp lý.
1.3.2. Cấu trúc của quan hệ pháp luật
Cấu trúc của quan hệ pháp luật bao gồm các bộ phận có những nét đặc thù riêng là:
chủ thể, nội dung và khách thể.
1.3.2.1. Chủ thể của quan hệ pháp luật
Chủ thể của quan hệ pháp luật là cá nhân, tổ chức đáp ứng các điều kiện do pháp luật
quy định và tham gia vào quan hệ pháp luật.
Điều kiện do nhà nước quy định để tổ chúc, cá nhân có thể tham gia quan hệ pháp luật
gọi là năng lực chủ thể.
Năng lực chủ thể
Năng lực chủ thể là khả năng của cá nhân, tổ chức thỏa mãn các điều kiện do pháp luật
quy định để có thể trở thành chủ thể của mỗi quan hệ pháp luật. Năng lực chủ thể gồm:
năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
- Năng lực pháp luật là khả năng của chủ thể được hưởng quyền và thực hiện nghĩa
vụ theo quy định của pháp luật khi tham gia vào quan hệ pháp luật.
- Năng lực hành vi là khả năng của chủ thể được nhà nước thừa nhận bằng hành vi
của mình có thể xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật khi tham
gia vào quan hệ pháp luật.
Các loại chủ thể
* Cá nhân: gồm có cơng dân, người nước ngồi và người khơng có quốc tịch, trong
đó cơng dân là loại chủ thể cá nhân quan trọng và phổ biến của các quan hệ pháp luật.
Công dân là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ pháp lý giữa cá nhân với nhà nước
thông qua các quy định của pháp luật. Với tư cách là cơng dân của một nhà nước, cá nhân
đó được nhà nước bảo hộ theo luật pháp quốc gia và luật quốc tế, đồng thời phải có nghĩa
vụ đối với nhà nước theo quy định của pháp luật.
Người nước ngoài là người mang quốc tịch của nước khác với nước mà họ đang sinh
sống
Người không quốc tịch: là những người không mang quốc tịch của một nhà nước nào.
* Tổ chức: là một tập thể người liên kết chặt chẽ với nhau để thực hiện những công
việc, hoạt động chung nhằm đạt được mục đích nào đó. Trong xã hội có nhiều loại tổ chức
khác nhau và được tham gia vào các mối quan hệ pháp luật khác nhau. Sự khác nhau này
do năng lực chủ thể mà nhà nước quy định cho các loại tổ chức khác nhau. Các tổ chức là
chủ thể của quan hệ pháp luật bao gồm: pháp nhân, nhà nước và các tổ chức khác.
10
Pháp nhân: đây là những tổ chức được tạo ra để hoạt động vì lợi ích chung của
các thành viên tổ chức hoặc lợi ích của xã hội. Pháp nhân là khái niệm pháp lý phản ánh
địa vị pháp lý của tổ chức. Để được công nhận là pháp nhân, tổ chức phải thỏa mãn những
điều kiện sau:
- Là tổ chức hợp pháp
- Có cơ cấu thống nhất và hoàn chỉnh thể hiện ở sự tồn tại của cơ quan lãnh đạo và
các bộ phận cấu thành.
- Có tài sản độc lập và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó
- Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật và chịu trách nhiệm về hậu
quả phát sinh từ mọi hoạt động của pháp nhân.
Đối với pháp nhân, năng lực pháp luật và năng lực hành vi xuất hiện cùng một lúc,
vào thời điểm tổ chức được thành lập và được ghi nhận trong điều lệ, quy chế hoặc văn
bản của nhà nước.
Nhà nước được xem là chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật. Bởi lẻ, nhà nước
là tổ chức đại diện chính thức cho toàn xã hội nên nhà nước chỉ tham gia những quan hệ
xã hội cơ bản và quan trọng nhất như: quan hệ pháp luật hành chính, quan hệ pháp luật
hình sự, quan hệ pháp luật quốc tế...Nhà nước tự quyết định loại quan hệ pháp luật mà nhà
nước sẽ tham gia và tự quy định cho mình các quyền trong các quan hệ đó.
Các tổ chức khác là những tổ chức khơng có tư cách pháp nhân, bao gồm: các tổ
hợp tác, hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân, các đơn vị thành viên của pháp nhân,... Các
tổ chức này tham gia vào quan hệ pháp luật với năng lực chủ thể hạn chế hơn so với pháp
nhân. Điều đó thể hiện trong các ngành luật cụ thể.
1.3.2.2. Nội dung của quan hệ pháp luật
Nội dung của quan hệ pháp luật bao gồm quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể khi
tham gia vào quan hệ pháp luật và được Nhà nước đảm bảo thực hiện.
- Quyền pháp lý
Quyền pháp lý là khả năng xử sự mà pháp luật cho phép chủ thể được thực hiện khi
tham gia quan hệ pháp luật. Quyền pháp lý của chủ thể bao gồm những khả năng sau:
+ Chủ thể có thể tự xử sự theo cách thức nhất định mà pháp luật cho phép nhằm
đạt được lợi ích của mình.
+ Chủ thể có thể yêu cầu các chủ thể bên kia (chủ thể có liên quan trong quan hệ
pháp luật) thực hiện nghĩa vụ của họ (thực hiện những hành động nào đó để đáp ứng việc
thực hiện quyền của mình) hoặc yêu cầu họ chấm dứt các hành vi cản trở mình thực hiện
các quyền và nghĩa vụ.
+ Chủ thể có thể yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ lợi ích hợp
pháp của mình khi bị các chủ thể khác xâm hại.
- Nghĩa vụ pháp lý
11
Nghĩa vụ pháp lý của chủ thể là cách xử sự mà chủ thể phải thực hiện theo quy định
của pháp luật nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền của chủ thể khác.
Nghĩa vụ pháp lý bao gồm những xử sự bắt buộc sau:
+ Chủ thể phải tiến hành những hành vi nhất định.
+ Chủ thể phải kiềm chế không thực hiện một số hành vi nhất định.
+ Phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý khi xử sự không đúng với quy định bắt buộc
của pháp luật.
1.3.2.3. Khách thể của quan hệ pháp luật
Khách thể quan hệ pháp luật là lợi ích vật chất, tinh thần hoặc những lợi ích xã hội
khác mà chủ thể tham gia quan hệ pháp luật hướng tới, mong muốn đạt được khi tham gia
quan hệ pháp luật và vì chúng các chủ thể mới tham gia vào các quan hệ pháp luật.
1.3.3. Sự kiện pháp lý
Quan hệ pháp luật cụ thể được phát sinh, thay đổi, chấm dứt dưới tác động của ba yếu
tố: quy phạm pháp luật, chủ thể có năng lực chủ thể và sự kiện pháp lý. Trong ba yếu tố
đó, quy phạm pháp luật được xem là yếu tố tiền đề, năng lực chủ thể là yếu tố có khả năng
hiện thực hóa quan hệ pháp luật trong đời sống pháp lý, sự kiện pháp lý đóng vai trị cầu
nối giữa quan hệ pháp luật mơ hình (quan hệ pháp luật được dự kiến trong quy phạm pháp
luật) và quan hệ pháp luật hình thành trong đời sống pháp luật.
Khái niệm sự kiện pháp lý
Sự kiện pháp lý là những sự kiện cụ thể xảy ra đời sống phù hợp với những điều kiện,
hồn cảnh, tình huống được dự kiến trong quy phạm pháp luật mà sự xuất hiện hay mất đi
của những sự kiện này sẽ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật.
Phân loại sự kiện pháp lý
Sự kiện pháp lý được phân loại dựa trên nhiều cơ sở khác nhau nhưng phổ biến nhất
là dựa trên yếu tố ý chí.
- Căn cứ vào yếu tố ý chí, sự kiện pháp lý được phân thành sự biến và hành vi.
+ Sự biến là những hiện tượng tự nhiên và xã hội, không phụ thuộc vào ý chí các bên
tham gia quan hệ pháp luật, mà trong những trường hợp nhất định, pháp luật gắn sự xuất
hiện của chúng với sự hình thành ở các chủ thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý.
+ Hành vi pháp lý (hành động hoặc không hành động) là những sự kiện xảy ra theo
ý chí của con người, là hình thức biểu thị ý chí của các bên tham gia quan hệ pháp luật.
- Căn cứ vào số lượng các hoàn cảnh, điều kiện làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm
dứt quan hệ pháp luật, sự kiện pháp lý chia thành sự kiện pháp lý đơn giản và sự kiện
pháp lý phức tạp.
+ Sự kiện pháp lý đơn giản chỉ bao gồm một sự kiện thực tế mà pháp luật gắn sự
xuất hiện với sự phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật.
+ Sự kiện pháp lý phức tạp bao gồm một loạt các sự kiện mà chỉ với sự xuất hiện
của chúng các quan hệ pháp luật mới phát sinh, thay đổi hay chấm dứt.
12
1.4. Thực hiện pháp luật, vi phạm pháp luật, trách nhiệm pháp lý
1.4.1. Thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật được hiểu là một q trình hoạt động có mục đích của các chủ
thể pháp luật làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những
hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã xác định
có các hình thức thực hiện pháp luật sau:
1.4.1.1. Tuân thủ (tuân theo) pháp luật
Tuân thủ pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật
kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm.
1.4.1.2. Thi hành (chấp hành) pháp luật
Thi hành pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật
thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực.
1.4.1.3. Sử dụng (vận dụng) pháp luật
Sử dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật
thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép).
1.4.1.4. Áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật mà tổ chức cho các chủ thể pháp
luật thực hiện các quy định của pháp luật.
- Áp dụng pháp luật là hoạt động được tiến hành theo những trình tự, thủ tục, hình
thức chặt chẽ do pháp luật quy định.
- Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính cá biệt điều chỉnh các quan hệ xã hội
xác định.
- Áp dụng pháp luật là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo.
1.4.2. Vi phạm pháp luật
1.4.2.1. Khái niệm, dấu hiệu vi phạm pháp luật
Khái niệm vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm
pháp lý thực hiện, xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
13
Các dấu hiệu
Một hành vi bị coi là vi phạm pháp luật phải có đầy đủ 4 dấu hiệu sau đây:
- Vi phạm pháp luật là hành vi xác định của con người
- Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật
- Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi của chủ thể
- Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật do chủ thể có năng lực trách nhiệm
pháp lý thực hiện
1.4.2.2. Cấu thành vi phạm pháp luật
Cấu thành vi phạm pháp luật gồm 4 các yếu tố: Mặt khách quan của vi phạm pháp luật;
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật; Chủ thể của vi phạm pháp luật; Khách thể của vi
phạm pháp luật.
Mặt khách quan
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là toàn bộ các dấu hiệu bên ngoài của vi phạm
pháp luật gồm hành vi trái pháp luật, sự thiệt hại cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại cho xã hội.
- Hành vi trái pháp luật là những hành vi do chủ thể thực hiện dưới dạng hành động
hoặc không hành động, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, ví dụ hành
vi giết người, hành vi ngược đãi trẻ em... Nếu trên thực tế, chủ thể không thực hiện hành
vi trái pháp luật thì khơng có vi phạm pháp luật xảy ra.
- Sự thiệt hại cho xã hội là những thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần mà xã hội phải
gánh chịu. Việc xác định sự thiệt hại của xã hội chính là xác định mức độ nguy hiểm của
hành vi trái pháp luật. Ví dụ như thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, thu nhập...
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại cho xã hội, nghĩa
là sự thiệt hại cho xã hội phải do chính hành vi trái pháp luật đó trực tiếp gây ra. Trong
trường hợp giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại cho xã hội khơng có mối quan hệ
nhân quả thì khơng thể buộc chủ thể vi phạm phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại mà
không liên quan đến hành vi trái pháp luật mà họ gây ra.
Ngoài ra, trong mặt khách quan cịn có các dấu hiệu khác như: thời gian, địa điểm,
phương tiện, công cụ... vi phạm pháp luật.
Mặt chủ quan
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là toàn bộ các dấu hiệu bên trong của nó, bao gồm
yếu tố lỗi và các yếu tố có liên quan đến lỗi là động cơ, mục đích của chủ thể thực hiện vi
phạm pháp luật.
- Lỗi là trạng thái tâm lý phản ánh thái độ của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật
của mình, cũng như đối với hậu quả của hành vi đó. Lỗi được thể hiện dưới 2 hình thức:
lỗi cố ý và lỗi vơ ý.
Lỗi cố ý bao gồm:
14
+ Lỗi cố ý trực tiếp: chủ thể vi phạm nhìn thấy trước hậu quả thiệt hại cho xã hội do
hành vi của mình gây ra, mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.
+ Lỗi cố ý gián tiếp: Chủ thể vi phạm nhìn thấy trước hậu quả thiệt hại cho xã hội
do hành vi của mình gây ra, tuy không mong muốn nhưng để mặc cho hậu quả xảy ra.
Lỗi vơ ý bao gồm:
+ Lỗi vơ ý vì q tự tin: Chủ thể vi phạm nhìn thấy trước hậu quả thiệt hại cho xã hội
do hành vi của mình gây ra, nhưng hy vọng, tin tưởng điều đó khơng xảy ra hoặc nếu xảy
ra có thể ngăn chặn được.
+ Lỗi vô ý do cẩu thả: Chủ thể vi phạm không nhận thấy trước hậu quả nguy hiểm
cho xã hội do hành vi của mình gây ra, mặc dù có thể thấy hoặc cần phải nhận thấy trước.
- Động cơ là lý do thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
- Mục đích là kết quả cuối cùng mà chủ thể mong muốn đạt được khi thực hiện hành
vi vi phạm.
Trong mặt chủ quan, lỗi là dấu hiệu bắt buộc, cịn động cơ và mục đích khơng phải là
dấu hiệu bắt buộc. Trong thực tế có nhiều trường hợp, chủ thể thực hiện hành vi không có
mục đích và động cơ.
Chủ thể
Chủ thể vi phạm pháp luật có thể là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý.
Đối với cá nhân thì cá nhân đó phải đạt độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật, có
khả năng nhận thức, kiểm sốt và điều khiển được hành vi của mình. Những cá nhân khơng
có khả năng nhận thức, điều khiển hoạt động của bản thân thì khơng là chủ thể của vi
phạm pháp luật. Đối với tổ chức phải chú ý tới tư cách pháp nhân hoặc địa vị pháp lý của
tổ chức đó. Ở mỗi loại vi phạm pháp luật đều có cơ cấu chủ thể riêng, chúng ta sẽ xem xét
kỹ trong từng ngành khoa học pháp lý cụ thể.
Khách thể
Khách thể của vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng
bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại đến. Mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp
luật phụ thuộc vào tính chất của các quan hệ xã hội bị xâm hại, nói cách khác nó phụ thuộc
vào tính chất của khách thể.
1.4.2.3. Các loại vi phạm pháp luật
- Vi phạm hình sự (tội phạm)
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vơ ý, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ
kinh tế, nền văn hố, quốc phịng, an ninh, trật tự an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các
quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác. Chủ thể của
vi phạm hình sự là cá nhân, pháp nhân thương mại.
15
- Vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô
ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà khơng phải là tội phạm hình sự và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.
- Vi phạm dân sự
Vi phạm dân sự là những hành vi trái pháp luật, có lỗi của các cá nhân, tổ chức có
năng lực trách nhiệm dân sự, xâm hại tới các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân.
- Vi phạm kỷ luật
Vi phạm kỷ luật là những hành vi có lỗi, trái với những quy chế, quy tắc xác lập trật
tự trong nội bộ cơ quan, xí nghiệp, trường học..., nói khác đi, là khơng thực hiện đúng kỷ
luật lao động, học tập, phục vụ được đề ra trong cơ quan, xí nghiệp, trường học đó.
1.4.3. Trách nhiệm pháp lý
1.4.3.1. Khái niệm và đặc điểm
Trách nhiệm pháp lý là là một loại quan hệ pháp luật đặc biệt giữa nhà nước và chủ
thể vi phạm pháp luật, trong đó nhà nước buộc các chủ thể vi phạm phải gánh chịu những
hậu quả pháp lý bất lợi, các biện pháp cưỡng chế được quy định trong phần chế tài của
quy phạm pháp luật.
Từ khái niệm, trách nhiệm pháp lý có các đặc điểm sau:
- Cơ sở thực tế của trách nhiệm pháp lý là vi phạm pháp luật.
- Cơ sở pháp lý của trách nhiệm pháp lý là quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
- Trách nhiệm pháp lý gắn liền với cưỡng chế nhà nước.
1.4.3.2. Các loại trách nhiệm pháp lý
Tương ứng với loại vi phạm pháp luật, có các loại trách nhiệm pháp lý sau :
Trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm pháp lý hình sự là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất do Tòa án
nhân danh Nhà nước áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội được quy định
trong Bộ luật hình sự.
Trách nhiệm hành chính
Trách nhiệm pháp lý hành chính là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ quan quản lý
nhà nước áp dụng đối với mọi chủ thể khi họ vi phạm pháp luật hành chính.
Trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm pháp lý dân sự là loại trách nhiệm pháp lý do Tòa án áp dụng đối với mọi
chủ thể khi họ vi phạm pháp luật dân sự.
Trách nhiệm kỷ luật
Trách nhiệm pháp lý kỷ luật là loại trách nhiệm pháp lý do thủ trưởng các cơ quan, xí
nghiệp…áp dụng đối với cán bộ, cơng nhân viên của cơ quan, xí nghiệp mình khi họ vi
phạm nội quy, quy chế nội bộ cơ quan.
16
1.4.4. Mối quan hệ giữa vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lý có mối quan hệ chặt chẽ với vi phạm pháp luật, có thể nói đây lả
mối quan hệ nhân quả, theo đó vi phạm pháp luật là nguyên nhân, là cơ sở để xác định
trách nhiệm pháp lý. Do vậy, mức độ vi phạm pháp luật càng nghiêm trọng thì chủ thể sẽ
gánh chịu trách nhiệm pháp lý càng nặng; vi phạm pháp luật loại nào sẽ chịu loại trách
nhiệm pháp lý tương ứng. Tuy nhiên, một hành vi trái pháp luật có thể gây ra một hoặc
nhiều vi phạm pháp luật, nên chủ thể cũng sẽ phải gánh chịu một hoặc nhiều trách nhiệm
pháp lý.
17
CHƯƠNG 2
PHÁP LUẬT VỀ TÀI SẢN, QUYỀN SỞ HỮU VÀ THỪA KẾ
2.1. Tài sản
2.1.1. Khái niệm tài sản
Căn cứ Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015), tài sản được quy định như
sau:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài
sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”.
Vật
Xem xét các quy định về tài sản và quyền sở hữu trong BLDS 2015, vật được xem là
tài sản phải đáp ứng các điều kiện sau:
- Là một bộ phận của thế giới vật chất.
- Thỏa mãn nhu cầu về vật chất hoặc tinh thần của con người.
- Con người có thể chiếm hữu (nắm giữ, quản lý).
Tiền
Xét về hình thức tồn tại, tiền chính là vật vì tiền được làm từ giấy hoặc kim loại. Xét
dưới góc độ pháp lý, giữa tiền và vật có những điểm khác biệt sau:1
Thứ nhất, vật có thể do nhiều chủ thể khác nhau tạo ra, còn tiền chỉ do nhà nước độc
quyền phát hành.
Thứ hai, đối với vật thì chúng ta có thể khai thác cơng dụng hữu ích từ chính vật đó,
cịn tiền thì khơng thể khai thác cơng dụng hữu ích từ chính đồng tiền giấy hay đồng tiền
xu.
Thứ ba, vật được xác định số lượng bằng những đơn vị đo lường thơng thường thơng
dụng (tấn, tạ, kilogam, mét...) cịn tiền lại được xác định theo mệnh giá của đồng tiền đó
như 500.000 đồng, 200.000 đồng, 100.000 đồng...
Thứ tư, chủ sở hữu có tồn quyền đối với vật và có thể thực hiện ba quyền chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt vật đó, nếu việc thực hiện quyền đó khơng ảnh hưởng đến lợi ích của
nhà nước, lợi ích cơng cộng, lợi ích của các chủ thể khác. Nhưng người có tiền (chủ sở
hữu) không thể thực hiện quyền chủ sở hữu như đối với tài sản thông thường, mà phải
tuân theo những quy định nghiêm ngặt của nhà nước.
Ngoài những điểm khác biệt trên, cần chú ý tiền chỉ được coi là tài sản khi chúng có
giá trị lưu hành.
Hồng Thế Liên, Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2005 (tập 1), Nxb Chính trị quốc gia, năm 2008, Trang
358 - Trang 359.
1
18
Giấy tờ có giá
BLDS 2015 khơng định nghĩa cụ thể giấy tờ có giá là gì mà chỉ nêu giấy tờ có giá là
một loại tài sản. Theo Khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010; Khoản
1 Điều 3 Thông tư 04/2016/TT-NHNN và Khoản 1 Điều 2 Thông tư 01/2012/TT-NHNN,
đồng thời, căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành như Luật các công
cụ chuyển nhượng 2005, Pháp lệnh ngoại hối 2005…nhận thấy giấy tờ có giá có các đặc
điểm sau:
- Trị giá được bằng tiền.
- Xác nhận quyền tài sản của một chủ thể xác định.
- Chỉ được phát hành bởi một số chủ thể đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.
Quyền tài sản
Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối
tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác (Điều 115 BLDS
2015).
Từ quy định trên, quyền tài sản có các đặc điểm sau:
- Trị giá được bằng tiền.
- Có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự.
2.1.2. Các loại tài sản
Theo quy định tại Chương VII Bộ luật dân sự 2015, tài sản gồm các loại sau:
2.1.2.1. Bất động sản và động sản
Căn cứ vào thuộc tính có thể dịch chuyển hay không dịch chuyển của tài sản mà tài
sản được chia thành bất động sản và động sản. Bất động sản là những tài sản khơng thể di
dời, cịn động sản là những tài sản có thể di dời được, cụ thể Điều 107 BLDS 2015 quy
định:
1. Bất động sản bao gồm:
a) Đất đai;
b) Nhà, cơng trình xây dựng gắn liền với đất đai;
c) Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, cơng trình xây dựng;
d) Tài sản khác theo quy định của pháp luật.
2. Động sản là những tài sản khơng phải là bất động sản”.
Bên cạnh đó, Khoản 2, Điều 105 BLDS 2015 quy định bất động sản và động sản có thể
là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.
2.1.2.2. Hoa lợi, lợi tức
Hoa lợi là sản vật tự nhiên mà tài sản mang lại. Lợi tức là các khoản lợi thu được từ
việc khai thác tài sản (Đ.109 BLDS 2015).
2.1.2.3. Tiền và Giấy tờ có giá
Như đã phân tích trong phần “Khái niệm tài sản”, tiền và giấy tờ có giá là các loại tài
sản mang tính chất đặc biệt.
19
Tiền
Hiện nay, ngoài tiền đồng do ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành được phép sử
dụng thì nhà nước Việt Nam cũng cho phép việc sử dụng ngoại tệ làm phương tiện thanh
toán theo quy định pháp luật.
Giấy tờ có giá
Bộ luật Dân sự năm 2015 thừa nhận giấy tờ có giá là một loại tài sản nhưng không
quy định cụ thể về loại tài sản này. Căn cứ vào nội dung giải đáp về giấy tờ có giá tại Cơng
văn 141/TANDTC-KHXX, có thể liệt kê một số loại giấy tờ có giá như sau: Hối phiếu địi
nợ, trái phiếu Chính phủ, các loại chứng khốn...
2.1.2.4. Vật
Theo quy định của BLDS 2015, vật được phân loại như sau:
Vật chính và vật phụ
Vật chính là vật độc lập, có thể khai thác cơng dụng theo tính năng. Vật phụ là vật trực
tiếp phục vụ cho việc khai thác cơng dụng của vật chính, là một bộ phận của vật chính,
nhưng có thể tách rời vật chính (Điều 110 BLDS 2015).
Vật chia được và vật không chia được
Vật chia được là vật khi bị phân chia vẫn giữ nguyên tính chất và tính năng sử dụng
ban đầu. Vật không chia được là vật khi bị phân chia thì khơng giữ ngun được tính chất
và tính năng sử dụng ban đầu (Điều 111 BLDS 2015).
Vật tiêu hao và vật không tiêu hao
Vật tiêu hao là vật khi đã qua một lần sử dụng thì mất đi hoặc khơng giữ được tính
chất, hình dáng và tính năng sử dụng ban đầu. Vật không tiêu hao là vật khi đã qua sử
dụng nhiều lần mà cơ bản vẫn giữ được tính chất, hình dáng và tính năng sử dụng ban đầu
(Điều 112 BLDS 2015).
Vật cùng loại và vật đặc định
Vật cùng loại là những vật có cùng hình dáng, tính chất, tính năng sử dụng và xác định
được bằng những đơn vị đo lường. Vật đặc định là vật phân biệt được với các vật khác
bằng những đặc điểm riêng về ký hiệu, hình dáng, màu sắc, chất liệu, đặc tính, vị trí (Điều
113 BLDS 2015).
Vật đồng bộ
Vật đồng bộ là vật gồm các phần hoặc các bộ phận ăn khớp, liên hệ với nhau hợp thành
chỉnh thể mà nếu thiếu một trong các phần, các bộ phận hoặc có phần hoặc bộ phận khơng
đúng quy cách, chủng loại thì khơng sử dụng được hoặc giá trị sử dụng của vật đó bị giảm
sút (Điều 114 BLDS 2015).
2.1.2.5. Quyền tài sản
Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng
quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác (Đ.115 BLDS 2015).
2.2. Quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
20
2.2.1. Quyền sở hữu
2.2.1.1. Khái niệm sở hữu và quyền sở hữu
Ở đây, cần có sự phân biệt rõ ràng giữa khái niệm “sở hữu” và khái niệm “quyền sở
hữu” vì “sở hữu” là một quan hệ xã hội tồn tại một cách khách quan, vĩnh viễn còn “quyền
sở hữu” là các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, luôn luôn biến đổi phụ thuộc
vào các điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Theo quy định tại Đ.158 BLDS 2015, quyền sở hữu được hiểu bao gồm quyền chiếm
hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp
luật.
2.2.1.2. Nội dung quyền sở hữu
Quyền chiếm hữu
Theo quy định tại Điều 179 BLDS 2015 thì “Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi
phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản”.
BLDS 2015 đã phân chia chiếm hữu thành các trường hợp sau:
- Chiếm hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu.
- Chiếm hữu ngay tình và chiếm hữu khơng ngay tình (Điều 180, Đ.181 BLDS 2015).
- Chiếm hữu liên tục và chiếm hữu công khai (Điều 182, Đ.183 BLDS 2015).
- Chiếm hữu có căn cứ pháp luật (chiếm hữu hợp pháp) và chiếm hữu khơng có căn cứ
pháp luật (chiếm hữu bất hợp pháp) (Điều 165 BLDS 2015).
Quyền sử dụng
Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản (Đ.189
BLDS 2015)
Quyền định đoạt
Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu
dùng hoặc tiêu hủy tài sản (Điều 192 BLDS 2015).
2.2.1.3. Các căn cứ xác lập, chấm dứt quyền sở hữu và các hình thức sở hữu
Căn cứ xác lập quyền sở hữu
Theo quy định của BLDS 2015, quyền sở hữu được xác lập trong các các trường hợp
sau:
- Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, do hoạt động sáng tạo ra đối
tượng quyền sở hữu trí tuệ. (Đ.222 BLDS 2015)
- Chuyển giao quyền sở hữu theo thoả thuận (Đ.223 BLDS 2015)
- Thu hoa lợi, lợi tức (Đ.224 BLDS 2015)
- Do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến (Đ.225, Đ.226, Đ.227 BLDS 2015)
- Tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu (Đ.228 BLDS 2015)
- Tài sản bị chơn giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy (Đ.229 BLDS 2015)
- Tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên (Đ.230 BLDS 2015)
- Gia súc bị thất lạc (Đ.231 BLDS 2015)
21
- Gia cầm bị thất lạc (Đ.232 BLDS 2015)
- Vật ni dưới nước (Đ.233 BLDS 2015)
Ngồi ra, việc xác lập quyền sở hữu do thừa kế hoặc theo bản án, quyết định của Toà
án, theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác. Bên cạnh đó, BLDS 2015
xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu, theo đó người chiếm hữu, người được lợi về tài sản
khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, cơng khai trong thời hạn 10 năm đối
với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời
điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp người chiếm hữu tài sản thuộc hình thức sở hữu
nhà nước khơng có căn cứ pháp luật thì dù ngay tình, liên tục, cơng khai, dù thời gian
chiếm hữu là bao lâu cũng không thể trở thành chủ sở hữu tài sản đó.
Căn cứ chấm dứt quyền sở hữu
Theo quy định tại điều 237 BLDS 2015, quyền sở hữu chấm dứt trong trường hợp sau
đây:
- Chuyển giao quyền sở hữu (Đ.238 BLDS 2015)
- Từ bỏ quyền sở hữu (Đ.239 BLDS 2015)
- Tài sản mà người khác đã được xác lập quyền sở hữu (Đ.240 BLDS 2015)
- Xử lý tài sản để thực hiện nghĩa vụ của chủ sở hữu (Đ.241 BLDS 2015)
- Tài sản bị tiêu huỷ (Đ.242 BLDS 2015)
- Tài sản bị trưng mua, bị tịch thu (Đ.243,244 BLDS 2015)
Các hình thức sở hữu
Bộ luật dân sự năm 2015 đã quy định chi tiết các hình thức sở hữu như sau:
- Sở hữu toàn dân (Đ.197 - Đ.204 BLDS 2015)
- Sở hữu riêng (Đ205, Đ.206 BLDS 2015)
- Sở hữu chung (Đ.207 - Đ.220 BLDS 2015)
2.2.1.4. Bảo vệ quyền sở hữu
Khái niệm bảo vệ quyền sở hữu
Dưới góc độ pháp luật dân sự, bảo vệ quyền sở hữu là việc chủ sở hữu, người chiếm
hữu hợp pháp có thể tự mình hoặc u cầu tồ án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc
người có hành vi xâm phạm phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật
việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu
- Đòi lại tài sản (Đ.166,167,168 BLDS 2015)
Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền địi lại tài sản từ người
chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật.
Chủ sở hữu khơng có quyền địi lại tài sản từ sự chiếm hữu của chủ thể đang có quyền
khác đối với tài sản đó.
Quyền địi lại tài sản của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp được hiểu theo 2 khía
cạnh sau:
22
Thứ nhất, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp tự mình u cầu người được lợi về
tài sản khơng có căn cứ pháp luật phải trả lại tài sản.
Thứ hai, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền kiện người được lợi về tài
sản khơng có căn cứ pháp luật ra trước Tòa án buộc họ phải trả lại tài sản.
Người chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật có
nghĩa vụ hồn trả tài sản theo quy định của pháp luật, cụ thể: Người chiếm hữu, sử dụng
tài sản, được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật và khơng ngay tình phải trả lại tài
sản cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Người chiếm hữu, sử dụng tài sản, được
lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình có các phương thức xử lý như
sau:
+ Người chiếm hữu tài sản khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình đối với tài sản
là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp
chỉ có quyền địi lại tài sản khi người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thơng
qua hợp đồng khơng có đền bù với người khơng có quyền định đoạt tài sản hoặc trong
trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản thơng qua hợp đồng có đền bù
thì chủ sở hữu có quyền địi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường
hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.
+ Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền địi lại tài sản là động sản phải
đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu tài sản khơng có căn cứ pháp
luật nhưng ngay tình trừ 2 trường hợp sau:
Thứ nhất, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp không có quyền địi lại tài sản là
động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người thứ ba chiếm hữu ngay
tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá.
Thứ hai, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp khơng có quyền địi lại tài sản là động
sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người thứ ba chiếm hữu ngay tình
giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là
chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này khơng phải là chủ sở hữu tài sản do bản án,
quyết định bị huỷ, sửa.
Ngoài ra, cần lưu ý rằng trong mọi trường hợp thì chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp
pháp khơng thể địi lại tài sản từ người chiếm hữu, người được lợi về tài sản khơng có căn
cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, cơng khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản,
30 năm đối với bất động sản mà họ đã trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt
đầu chiếm hữu, trừ trường hợp tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước khơng có căn cứ
pháp luật thì dù ngay tình, liên tục, cơng khai, dù thời gian chiếm hữu là bao lâu cũng
không thể trở thành chủ sở hữu tài sản đó
- Quyền yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền
sở hữu, quyền khác đối với tài sản (Đ.169 BLDS 2015)
23
Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản, chủ thể có quyền yêu cầu
người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó hoặc có quyền u cầu
Tịa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm.
- Yêu cầu bồi thường thiệt hại (Đ.170 BLDS 2015)
Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu người có hành vi
xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản bồi thường thiệt hại.
2.2.2. Các quyền khác đối với tài sản (từ Điều 245 đến Điều 273 BLDS 2015)
2.2.2.1. Khái niệm
Theo Điều 245 BLDS năm 2015 thì Quyền khác đối với tài sản bao gồm:
- Quyền đối với bất động sản liền kề;
- Quyền hưởng dụng;
- Quyền bề mặt.
Chủ sở hữu đối với tài sản sẽ được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối
với tài sản nhưng không được trái với quy định của pháp luật, gây thiệt hại hoặc làm ảnh
hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác. Các chủ thể có quyền khác đối với tài sản được pháp luật dân sự cho phép
thực hiện mọi hành vi trong phạm vi quyền được quy định cụ thể tại Bộ Luật dân sự, luật
khác có liên quan nhưng các hành vi này không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng
đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu
tài sản hoặc của người khác.
2.2.2.2. Nội dung các quyền khác đối với tài sản
Quyền đối với bất động sản liền kề
Quyền đối với bất động sản liền kề được quy định cụ thể trong Bộ luật dân sự 2015
bao gồm các quyền về cấp, thoát nước; quyền về tưới, tiêu; quyền về lối đi qua; quyền về
mắc đường dây tải điện, đường dây thông tin liên lạc.
- Quyền về cấp, thoát nước; tưới, tiêu (Điều 252 và Điều 253 BLDS 2015)
Theo quy định tại Điều 252 và Điều 253 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về
quyền cấp thoát nước qua bất động sản liền kề và quyền tưới nước, tiêu nước trong canh
tác như sau:
- Trường hợp do vị trí tự nhiên của bất động sản mà việc cấp, thoát nước buộc phải
qua một bất động sản khác thì chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua phải dành một
lối cấp, thốt nước thích hợp, khơng được cản trở hoặc ngăn chặn dịng nước chảy.
- Người sử dụng lối cấp, thoát nước phải hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại cho
chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua khi lắp đặt đường dẫn nước; nếu gây thiệt hại
thì phải bồi thường. Trường hợp nước tự nhiên chảy từ vị trí cao xuống vị trí thấp mà gây
thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua thì người sử dụng lối cấp, thốt
nước khơng phải bồi thường thiệt hại.
24
- Người có quyền sử dụng đất canh tác khi có nhu cầu về tưới nước, tiêu nước, có
quyền yêu cầu những người sử dụng đất xung quanh để cho mình một lối dẫn nước thích
hợp, thuận tiện cho việc tưới, tiêu; người được yêu cầu có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó;
nếu người sử dụng lối dẫn nước gây thiệt hại cho người sử dụng đất xung quanh thì phải
bồi thường.
- Quyền về lối đi qua (Điều 254 BLDS 2015)
Theo Điều 254 BLDS năm 2015 quy định cho chủ sở hữu bất động sản được quyền
yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc dành cho mình lối đi ngay cả trong trường hợp
lối đi đã có nhưng không đủ để được coi là hợp lý, cụ thể như sau:
- Chủ sở hữu có bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu
khác mà khơng có hoặc khơng đủ lối đi ra đường cơng cộng, có quyền u cầu chủ sở hữu
bất động sản vây bọc dành cho mình một lối đi hợp lý trên phần đất của họ. Lối đi được
mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc
điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất
cho bất động sản có mở lối đi. Chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền về lối đi qua phải
đền bù cho chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
- Vị trí, giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên thỏa thuận,
bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên; nếu có tranh chấp về lối
đi thì có quyền u cầu Tịa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác xác định. Trường
hợp bất động sản được chia thành nhiều phần cho các chủ sở hữu, chủ sử dụng khác nhau
thì khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người phía trong theo quy định mà khơng có đền
bù.
- Quyền về mắc đường dây tải điện, đường dây thông tin liên lạc (Điều 255 BLDS
2015)
Theo Điều 255, Bộ luật dân sự 2015 thì chủ sở hữu bất động sản có quyền mắc
đường dây tải điện, thông tin liên lạc qua bất động sản của các chủ sở hữu khác một cách
hợp lý, nhưng phải bảo đảm an toàn và thuận tiện cho các chủ sở hữu đó; nếu gây thiệt hại
thì phải bồi thường.
Về quyền hưởng dụng (Điều 257 - Điều 266 BLDS 2015):
Theo Điều 257 Bộ luật dân sự 2015, quyền hưởng dụng là quyền của chủ thể được
khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ
thể khác trong một thời hạn nhất định.
Về quyền bề mặt (Điều 267 - Điều 273 BLDS 2015)
Điều 267 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) quy định “Quyền bề mặt là quyền của một
chủ thể đối với mặt đất, mặt nước, khoảng khơng gian trên mặt đất, mặt nước và lịng đất
mà quyền sử dụng đất đó thuộc về chủ thể khác”.
- Căn cứ xác lập quyền bề mặt: Quyền bề mặt được xác lập thông qua theo thỏa
thuận; theo di chúc; hoặc theo quy định của pháp luật (Điều 268 BLDS 2015)
25