Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Phân tích lipid bằng GC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (668.98 KB, 15 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP.HCM
KHOA: CƠNG NGHỆ THỰC PHẨM
------------------------------

TIỂU LUẬN
PHÂN TÍCH LIPIT BẰNG GC

GVHD :
HVTH:
Mã Sớ:
TP.Hồ Chí Minh, Tháng 9 Năm 2021


MỤC LỤC

MỤC LỤC HÌNH

2


I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ SẮC KÝ KHÍ (GC)
1. Định nghĩa
GC là viết tắt của Gas Chromatography, Sắc ký khí là một loại sắc ký phổ biến
được sử dụng trong hóa học phân tích để tách và phân tích các hợp chất có thể hóa
hơi mà khơng bị phân hủy. Các ứng dụng điển hình của GC bao gồm kiểm tra độ
tinh khiết của một chất cụ thể hoặc tách các thành phần khác nhau của hỗn hợp
(Harvey, 2000)
2. Nguyên lý hoạt động
Ngun tắc: dựa trên tính phân bớ mẫu ở dạng khí giữa hai pha tĩnh và pha động
Sắc ký khí là q trình tách các hợp chất trong một hỗn hợp bằng cách bơm một


mẫu khí hoặc lỏng vào pha động, thường được gọi là khí mang, và cho khí đi qua
pha tĩnh. Pha động thường là khí trơ hoặc khí khơng phản ứng như heli, argon, nitơ
hoặc hydro.
Pha tĩnh là một lớp mỏng nhỏ của chất lỏng nhớt trên bề mặt của các hạt rắn ở
một giá đỡ chất rắn trơ bên trong một mảnh thủy tinh hoặc ống kim loại được gọi là
cột. Bề mặt của các hạt rắn cũng có thể hoạt động như pha tĩnh trong một số cột.
Cột thủy tinh hoặc kim loại mà pha khí đi qua, được đặt trong tủ sấy nơi nhiệt độ
của khí có thể được kiểm. Chất khí được cột sắc ký hấp thụ và dần dần tách khỏi cột
đi theo dịng khí để ra ngồi theo từng chất riêng biệt. Chúng sẽ được ghi nhận bởi
đầu dò ở bên ngồi. Từ đó, bộ phận liên kết với sắc ký khí là máy tính sẽ tiến hành
phân tích. Máy sẽ xử lý các thông tin nhận được và hiển thị kết quả phân tích theo
dạng biểu đồ sắc ký. Chúng ta sẽ biết được thành phần nhờ vào giá trị thời gian lưu
thể hiện trên biểu đồ đó. Đây chính là kết quả tách các chất. Người ta có thể xác
định được thành phần, nồng độ các chất nhờ vào kết quả này (Harvey, 2000).

3


.
Hình 1. Thiết bị sắc ký khí (GC)
3. Hệ thống GC
Nguồn cung cấp khí mang
Có thể sử dụng bình chứa khí hoặc các thiết bị sinh khí (thiết bị tách khí N2 từ
khơng khí, thiết bị cung cấp khí H2 từ nước cất,…).
3.1.

Bộ lấy mẫu tự động.
Bộ lấy mẫu tự động là thiết bị đưa mẫu tự động vào đầu vào. Có thể đưa mẫu
vào bằng tay nhưng khơng cịn phổ biến nữa. Chèn tự động cung cấp độ chính xác
cao hơn và tới ưu hóa thời gian.

3.2.

Bộ lấy mẫu tự động cho các mẫu lỏng hoặc khí dựa trên một ớng tiêm siêu nhỏ.

Hình 2. Bộ lấy mẫu tự động
Lị cột
Dùng để điều khiển nhiệt độ cột phân tích
3.3.

Bộ tiêm mẫu
Bộ phận tiêm mẫu dùng để đưa mẫu vào cột phân tích theo với thể tích bơm có
thể thay đổi. Khi đưa mẫu vào cột, có thể sử dụng chế độ chia dịng (split) và khơng
chia dịng (splitless)
3.4.

4


Đầu dò.
Đầu dò dùng để phát hiện các thành phần của hỗn hợp được tách ra khỏi cột sắc
ký. Có hai loại máy dị chung: phá hủy và khơng phá hủy. Các thiết bị dò phá hủy
thực hiện sự biến đổi liên tục của nước chảy ra cột (đốt cháy, bay hơi hoặc trộn với
thuốc thử) với phép đo sau đó về một sớ đặc tính vật lý của vật liệu tạo thành
(plasma, sol khí hoặc hỗn hợp phản ứng). Các máy dị khơng phá hủy đo trực tiếp
một sớ đặc tính của chất tách khỏi cột (ví dụ hấp thụ UV) và do đó mang lại khả
năng thu hồi chất phân tích cao hơn.
3.5.

Có nhiều loại đầu dị khác nhau tùy theo mục đích phân tích như đầu dị ion hóa
ngọn lửa (FID-Flame Ioniation Detetor), đầu dị dẫn nhiệt (TCD-Thermal

Conductivity Detector), đầu dò cộng kết điện tử (ECD-Electron Capture Detector),
đầu dị quang hóa ngọn lửa (FPD-Flame Photometric Detector), đầu dị NPD (NPDNitrogen Phospho Detector), đầu dị khới phổ (MS-Mass Spectrometry)
Cột phân tích
Có 2 loại cột: cột nhồi và cột mao quản.
3.6.

Cột nhồi (packed column): pha tĩnh được nhồi vào trong cột, cột có đường kính
2-4mm và chiều dài 2-3m.

Hình 3. Cột nhồi
Cột mao quản (capillary): pha tĩnh được phủ mặt trong (bề dày 0.2-0.5µm), cột
có đường kính trong 0.1-0.5mm và chiều dài 30-100m

5


Hình 4. Cột mao quản
3.7.

Bộ phận ghi nhận tín hiệu

Bộ phận này ghi tín hiệu do đầu dị phát hiện.
Đới với các hệ thống HPLC hiện đại, phần này được phần mềm trong hệ thống ghi
nhận, lưu các thông số, sắc ký đồ, các thông số liên quan đến peak như tính đới
xứng, hệ sớ phân giải,… đồng thời tính tốn, xử lý các thơng sớ liên quan đến kết
quả phân tích.
In dữ liệu
Sau khi phân tích xong, dữ liệu sẽ được in ra qua máy in kết nối với máy tính có
cài phần mềm điều khiển.
3.8.


4. Ứng dụng của phương pháp sắc ký khí (GC)
Sắc ký khí được sử dụng để thay thế các phương pháp truyền thống để phân tách
các chất đem lại hiệu quả chính xác hơn. Phương thức này được sử dụng với nhiều
công dụng khác nhau. Trong đó, ứng dụng về mặt thực phẩm cũng là một yếu tớ
khơng thể bỏ qua khi nó rất gần gũi và thiết thực trong đời sống con người.
Trước tiên, ứng dụng của sắc kỵ khí trong thực phẩm là một ứng dụng nổi bật
của loại vật phẩm này mà chúng ta cần phải biết. Ứng dụng đầu tiên chính là phân
tích được các chất hữu cơ phức tạp, amino axit có trong thức ăn. Ngồi ra, chúng ta
cũng có thể phân tách được các thành phần chất béo, chất xơ,... Từ đó có thể lập
được bảng kế hoạch dinh dưỡng để ăn uống hợp lý và khoa học rõ ràng.
Một ứng dụng tuy rất đơn giản nhưng lại vơ cùng cần thiết của sắc ký khí trong
thực phẩm chính là sử dụng lại thức ăn đã qua chế biến. Thông thường, nếu không
ăn hết thức ăn, chúng ta sẽ bọc lại và cho vào tủ lạnh. Tuy nhiên, đây khơng phải là
một phương pháp bảo quản hồn tồn tới ưu. Nó chỉ có thể giúp kéo dài độ tươi
sống cũng như ngon lành của thực phẩm. Nhưng phương thức này không thể hạn
chế ngăn chặn các loại vi khuẩn, sinh vật xâm nhập vào thực phẩm. Đây là lúc mà
chúng ta cần dùng đến sắc ký khí để phân tách các chất. Nhờ đó mà người dùng mới
có thể biết được thực phẩm có cịn dùng được nữa hay đã đến lúc hết hạn sử dụng.
Như thế, ứng dụng của sắc ký khí trong thực phẩm đóng vai trò quan trọng trong
việc sử dụng thực phẩm. Chúng ta có thể điều chỉnh khẩu phần ăn, các loại thức ăn
để đảm bảo sức khỏe của mình. Ngồi ra, nó cũng giúp cho người dùng biết được
các thông tin cần thiết về các loại thực phẩm khác nhau. Từ đó có thể chọn ăn
những loại thực phẩm cung cấp nhiều chất dinh dưỡng và phù hợp với tiêu chí này.

6


II. PHÂN TÍCH LIPIT BẰNG SẮC KÝ KHÍ (GC)
1. Phân tích lipid bằng sắc ký khí (Cruz-Hernandez and Destaillats, 2012)

GC-FID được sử dụng để phân tích các axit béo tự do (FFAs) và acylglycerol
một phần như monoacylglycerol (MAG) hoặc diacylglycerol (DAG), và sterol sau
khi tạo dẫn xuất. Loại phân tích này rất hữu ích để xác định đặc điểm thành phần
của chất béo và dầu hoặc chất nhũ hóa và có thể được mở rộng sang cấu hình của
triacylglycerol (TAG), sáp hoặc este sterol bằng cách sử dụng pha tĩnh khơng bền
nhiệt. Ngồi phân tích các este axit béo với phát hiện FID, GC được sử dụng song
song với khối phổ (MS) để phân tích cấu trúc của axit béo. Các kỹ thuật khác nhau
đã được phát triển để xác định và định vị các liên kết đơi, vịng hoặc các nhóm
khác. Phân tích định lượng hoặc cấu trúc của các lipid phức tạp hơn như
glycerophospholipid hoặc TAG không thể thực hiện được bằng GC và yêu cầu sử
dụng các kỹ thuật sắc ký lỏng.
Điều chế axit béo metyl este
FAME có thể được điều chế từ các lipid cơ lập, hoặc trực tiếp bằng cách kết hợp
chiết xuất và quá trình chuyển hóa trong quy trình một bước. Các chất xúc tác được
sử dụng phổ biến nhất là axit clohydric (HCl), một chất xúc tác axit, được yêu cầu
khi có một lượng đáng kể axit béo tự do (FFA), este, ank-1-enyl ete, amin và
glycoside (trừ ete) trong mẫu cần phân tích. Dung dịch HCl/metanol (1 - 2 M)
chuyển đổi gớc plasmalogen (ank-1-enyl ete) trong chất béo thành đimetylaxetal
(DMA) và quá trình metyl hóa được hồn thành trong vịng vài phút ngoại trừ
sphingolipit. Một phương pháp thay thế đã được đề xuất để có hiệu quả với hiệu
suất FAME> 96% khi toluen, metanol và 8% dung dịch HCl được thêm liên tiếp
vào các mẫu lipid.
1.1.

Phân tích độ phân giải cao của đồng phân vị trí
Đồng phân vị trí Mặc dù đã cải thiện độ phân giải bằng cách sử dụng cột có độ
phân cực cao 100 m, việc tách một sớ axit béo như đồng phân hình học 18: 1 vẫn là
một thách thức đối với các pic chồng lên nhau. Một số axit béo không được phân
tách hoặc phân giải, ngay cả khi việc phân giải tốt nhiều axit béo được thực hiện
bằng cách sử dụng các cột và điều kiện sắc ký khác nhau; do đó, cần phải có có một

chương trình GC tới ưu để xác định tất cả các đồng phân cis và trans trong chất nền
lipid có những hạn chế của nó
1.2.

Ví dụ: các đồng phân trans -18:1 từ 6t- đến 11t-18:1 không được GC phân giải
tớt bằng cách sử dụng chương trình nhiệt độ điển hình và sự phân giải của các đồng
phân trans-18:1 cịn lại là 12t- đến 16t-18:1 có thể chồng lên nhau nhiều tùy thuộc
vào nồng độ tương đối của đồng phân 9c-18:1 chính, tải mẫu được áp dụng vào GC
và chương trình nhiệt độ được sử dụng. Việc đánh giá thấp các đỉnh này đơi khi
được báo cáo do phân tích sai hoặc không đầy đủ.

7


Hình 5. Sắc ký đồ GC một phần của vùng 18:1, 19:1 và 18:2. Từ trên cùng: phân
đoạn trans và cis 18:1 thu được từ hỗn hợp FAME cis 6-, cis 9- và cis 13-18: 1
sau hai lần brom hóa và khử liên tiếp, axit linoleic FAME được đồng phân hóa
bởi PTSA, phân đoạn trans và cis là 19:1 thu được bằng cách phân đoạn FAME
cis 10-19:1 sau sáu phản ứng, và hỗn hợp FAME đối chứng GLC 463.
1.3. Phân tích axit béo tự do
Các axit béo tự do (FFA) xuất hiện trong các loại mẫu khác nhau và các phương
pháp dựa trên GC khác nhau đã được phát triển để phân tích chúng. Trong các sản
phẩm thực phẩm như pho mát, FFA chuỗi ngắn còn được đặt tên là FFA hoạt tính
tạo mùi thơm (4:0 đến 10:0) có thể được phân tích bằng GC bằng cách sử dụng vi
phân pha rắn (SPME) và phát hiện FID hoặc MS. Các phương pháp này có thể được
sử dụng để phân tích sự phát triển của hương thơm phô mai chứa chủ yếu là FFA
chuỗi ngắn, nhưng khơng thích hợp để phân tích FFA chuỗi dài hoặc trung bình phổ
biến nhất do giới hạn của kỹ thuật SPME. Đối với FFA dài hơn, chẳng hạn như 12:0
đến axit béo chuỗi rất dài (ví dụ: 24:0), FFA nên được tạo dẫn xuất trước khi phân
tích. Có thể sử dụng nhiều loại dẫn xuất khác nhau như trimetylsilyl este TMS,

metyl hoặc etyl este. Hầu hết các phương pháp yêu cầu tinh chế FFA từ các chất
chiết xuất từ lipid.
Q trình metyl hóa FFA có thể đạt được bằng cách sử dụng bo triflorua, dung
dịch metanol của axit clohydric hoặc axit sulfuric, hoặc diazomethane. Methyl hóa
bằng cách sử dụng diazomethane tạo ra các mẫu rất sạch, nhưng vì lý do an tồn,
trimethylsilyldiazomethane là th́c thử được ưa chuộng hơn

8


Phân tích axit glycerol
Acylglycerol là các este axit béo của glycerol và bao gồm TAG, DAG và MAG.
Việc tách TAG bằng GC có thể đạt được khi sử dụng điều kiện nhiệt độ cao (>
3000C). Kỹ thuật này cho phép phân tách tốt TAG theo số lượng nguyên tử cacbon
của chúng nhưng bị hạn chế về độ phân giải do một số lý do như nhiệt độ cần thiết
để rửa giải TAG, độ bền nhiệt của chúng cũng như độ bền nhiệt của pha tĩnh trong
các điều kiện đó. Bất kể những hạn chế này, phân tích GC của TAG theo sớ carbon
của chúng có thể được thực hiện để đánh giá. Ví dụ, tính xác thực của chất béo sữa,
một sắc ký đồ điển hình của chất béo sữa TAG được thể hiện trong Hình
1.4.

Hình 6. Sắc ký đồ GC của triacylglycerol chất béo trong sữa nguyên chất (TAG)
được phân tích trên một cột mao quản hình ống hở cực ngắn.
1.5. Phân tích sterols, sterol esters và steryl glycosides
Cholesterol hoặc sterol có nguồn gớc thực vật như campesterol, stigmasterol, và
b-sitosterol được GC phân tích dưới dạng TMS hoặc các dẫn xuất khác của chúng.
Cần tách phần khơng xà phịng hóa khỏi dịch chiết lipid để tách sterol; bước này
cũng cho phép thủy phân các este steryl và phần thu được có thể được phân tích sau
q trình silyl hóa. Epicoprostanol thường được sử dụng như một chất chuẩn nội và
sắc ký đồ điển hình của cơng thức phytosterol trong chế độ ăn ́ng được thể hiện

trong Hình
Phương pháp luận này được sử dụng để mô tả đặc điểm của sterol trong các tình
hình khác nhau như mơ tả đặc tính của dầu thực vật, tính xác thực của thành phần,
kiểm tra chất lượng của các sản phẩm thực phẩm được tăng cường sterol thực vật,
dinh dưỡng lâm sàng hoặc sinh học lâm sàng. Các este sterol có thể được phân tích
trực tiếp mà khơng cần thủy phân trước gớc acyl và tạo dẫn xuất TMS như được chỉ

9


ra đối với các este cholesteryl trong lipid huyết tương. GC cũng có thể được sử
dụng để phân tích glycoside acyl steryl.

Hình 7. Sắc ký đồ khí của dẫn xuất TMS của phytosterol thu được từ sữa được
pha chế với cơ đặc sterol được nhũ tương hóa
1.6. Phân tích các lớp Lipid
Các phương pháp có sẵn để phân tích FFA, sterol, sáp, MAG, DAG, TAG, hoặc
các chất béo khác bằng GC-FID hoặc GC-MS sau q trình silyl hóa. Một sớ
phương pháp đã được phân tích đồng thời các lớp lipid này trong các loại chất nền
khác nhau. Cần có một chương trình nhiệt độ rộng để rửa giải các dẫn xuất TMS
nhẹ như glycerol tri-TMS và TAG cao phân tử. Phương pháp chuẩn cho chất nhũ
hóa dựa trên MAG và DAG cũng có thể được sử dụng để tách glycerol, FFA, MAG,
DAG và TAG trong các mẫu phức tạp như dầu thô. Để xác định định lượng các lớp
lipid trung tính sau khi silyl hóa, nên sử dụng chất chuẩn nội cho mỗi lớp lipid vì hệ
sớ đáp ứng của các lớp khác nhau có thể khác nhau đáng kể. Các sắc ký đồ thu được
có thể rất phức tạp bằng cách phân tích sản phẩm chưng cất bằng máy khử mùi. Do
đó, ngồi các lớp phong phú nhất như FFA, MAG, DAG và TAG, các chất tan trong
mỡ khác như vitamin E, sterol và hydrocacbon cũng sẽ có trong mẫu. Việc sử dụng
hỗn hợp các chất chuẩn tinh khiết là rất hữu ích để xác định các lớp lipid khác nhau


10


và giảm thiểu các vấn đề nhận dạng.

Hình 8. Sắc ký khí của các dẫn xuất TMS của bề mặt lipid thu được bằng
phương pháp sắc ký khí nhiệt độ cao-khối phổ.
2. Phân tích cặn hữu cơ có nguồn gốc khảo cổ bằng phương pháp sắc ký khí
nhiệt độ cao và sắc ký khí khối phổ (Evershed và cộng sự, 1990)
Chuẩn bi mẫu.
Tách mẫu

2.1.

Bước đầu tiên để nghiên cứu lipid cổ trong đồ gốm cổ là tách chúng ra khỏi nền
gớm bằng cách chiết chúng trong dung mơi thích hợp, ví dụ như trong hỗn hợp 2:1
(theo thể tích) của cloroform (CH-Cl3) và metanol (CH3 -OH). Lipid sẽ dễ dàng hịa
tan trong chất này nhưng vì những dung mơi này chỉ có thể chiếm một lượng cớ
định, nên tỷ lệ chất béo trong dung dịch có thể khác với tỷ lệ chất béo trong cặn.
Xử lý mẫu

11


Cặn khơ được hấp thụ một lượng nhỏ, ví dụ 100 μ trong dung mơi. Điều này có
thể giớng như được sử dụng cho quá trình chiết hoặc một phương pháp được coi là
phù hợp hơn cho các bước tiếp theo trong phân tích, chẳng hạn như etyl-axetat
(CH3-COO-C2H5), axetyl-axetat hoặc iso-octan. Thêm kali hoặc natri hydroxit
(tương ứng là KOH hoặc NaOH) vào huyền phù sẽ xà phịng hóa chất béo do đó
làm tăng nồng độ axit béo tự do. Ngồi ra, q trình xà phịng hóa có thể được thực

hiện ở giai đoạn trước với bột gớm cịn cịn lại. Việc bổ sung một lượng đã biết của
hợp chất đã biết, chất chuẩn nội, sẽ cho phép tính gần đúng nồng độ của các hợp
chất được tìm thấy trong cặn khi chiều cao ở đỉnh của nó trên sắc ký đồ được so
sánh với chiều cao của các phân tử trong mẫu. tiêu chuẩn nội bộ không tạo điều
kiện cho phân tích định tính. Lưu ý rằng bất kỳ xử lý bổ sung nào đối với mẫu sẽ
làm tăng khả năng nhiễm bẩn.
Để nhiều lipid đi qua máy sắc ký khí, nên làm cho chúng ít phân cực hơn và bền
nhiệt hơn bằng cách thay thế hydro hoạt tính của nhóm COOH bằng một nhóm
khơng phân cực, một q trình được gọi là quá trình tạo dẫn xuất.
Phương pháp.
Các phương pháp thường được sử dụng bao gồm ester hóa (metyl hóa) và silyl
hóa
2.2.

Trong q trình este hóa, hydro hoạt hóa được thay thế bằng nhóm metyl (CH3)
biến các axit béo thành metyl ester của axit béo (FAME). Thay thế hydro hoạt hóa
bằng nhóm trimetylsilyl (TMS) (Si- (CH3)3) được gọi là q trình silyl hóa. Một sớ
lượng lớn các chất tạo dẫn xuất có sẵn trên thị trường, bao gồm cả methanolic HCl
và diazomethane để este hóa, và N, O-bis (trimethylsilyl) trifluoroacetamide
(BSTFA), có hoặc khơng có 1% trimethylchlorsilane (TMCS), để khử trùng mẫu.
Để các phản ứng này xảy ra, cần phải đun nóng mẫu, thường đến 60°C trong thời
gian một giờ, điều này sẽ đồng thời kích thích các phản ứng khơng mong ḿn, bao
gồm cả q trình oxy hóa. Để giảm thao tác với mẫu, cặn có thể được chiết xuất
thành tác nhân vừa xà phịng hóa vừa tạo dẫn xuất mẫu trong khi nó bay hơi trong
máy sắc ký khí, chẳng hạn như tetramethyl-amoni hydroxit (TMAH) hoặc
trimethyl-trifluorotolylammonium hydroxit (TMTFTH).
Phân tích bằng sắc ký khí (GC)
1 μl mẫu được bơm vào đầu vào mẫu được làm nóng đến nhiệt độ cao cố định
(200-300°C). Dung môi, mẫu và phụ gia (như chất tạo dẫn xuất dư và chất chuẩn
2.3.


12


nội) sẽ nhanh chóng bớc hơi và được khí mang lên cột. Một cửa ra thay đổi cho
phép điều chỉnh lượng mẫu thực sự đi qua cột. Để có được độ phân giải tới đa, các
mẫu có nồng độ cấu tử cao được tách thành một phần đi lên cột và một phần thốt
ra khỏi thiết bị mà khơng cần phân tích. Các mẫu có hàm lượng cấu tử thấp, sẽ bao
gồm nhiều mẫu khảo cổ, có thể được đưa vào cột khơng tách rời.

Hình 8: Một phần (10-33 phút) của sắc ký đồ của cặn còn lại trong chất nền của
một tàu gốm mới, không tráng men và không tráng men sau khi nấu một con cá
mú san hô đốm hoặc cá hồi san hô đỏ). Đỉnh cao nhất, ở 23,28 phút trong. EI +:
điện tử tác động ion dương; TOF: máy phân tích khối lượng thời gian tắt đèn;
TIC: tổng dòng ion (theo đơn vị tùy ý).

13


Hình 9: Xác định các đỉnh trên sắc ký đồ trong Hình 5
Kết quả
Mỗi đỉnh trên sắc ký đồ đại diện cho ít nhất một phân tử trong mẫu và một phổ
khới có thể được tạo ra từ mỗi đỉnh này. Mặc dù trường hợp này hiếm khi xảy ra,
các đỉnh sắc ký có thể đại diện cho nhiều hơn một phân tử nếu độ phân giải của cột
GC không đủ để phân tách chúng.
2.4.

Các phân tử được phát hiện trong cặn hữu cơ trong đồ gốm cổ chỉ là những phân
tử cịn lại trong nền gớm, hịa tan trong dung mơi chiết, tồn tại trong q trình chuẩn
bị mẫu, đi qua máy sắc ký khí và ion hóa trong khới phổ. Như thể hiện trong hình 5

và 6, nhiều phân tử thỏa mãn các tiêu chí này. Tuy nhiên, một số phải được coi là
kết quả của sự nhiễm bẩn mẫu
Một cách tiếp cận khác để giải thích các tàn dư hữu cơ khảo cổ học là so sánh sự
phong phú của các axit béo được thu hồi với các axit béo cịn lại. Đơi khi có thể thu
được kết quả với một tỷ lệ đơn giản, chẳng hạn như C16:0/C18: 0 (tỷ lệ axit
palmitic/stearic, tỷ lệ P/S), hoặc sau khi vẽ hai tỷ lệ trong biểu đồ hai chiều, ví dụ
C16:1/C18:1 so với (C15:0 + C17:0)/C18:0 trên thang logarit kép

III.

KẾT LUẬN

Lipid trong thực phẩm chứa nhiều loại axit béo khác nhau về độ dài chuỗi, mức
độ không bão hịa, vị trí và cấu hình của các liên kết đơi và sự hiện diện của các
nhóm chức năng đặc biệt. Sắc ký khí mao quản cung cấp khả năng tách axit béo
tuyệt vời. Cột mao quản silica nung chảy với pha tĩnh có độ phân cực trung bình và
pha tĩnh methylsilicone không phân cực tách thành công hầu hết các axit béo tự
nhiên. Các ứng dụng đặc biệt, chẳng hạn như tách hỗn hợp axit béo cis-trans phức
tạp và axit béo mạch vòng, yêu cầu các điều kiện sắc ký cụ thể, bao gồm việc sử
dụng cột mao quản rất dài hoặc nhiều pha tĩnh phân cực hơn. Các phương pháp tạo
dẫn xuất để điều chế các este axit béo cũng cần được tới ưu hóa để thu được kết quả
định lượng chính xác. Bài báo này xem xét các kỹ thuật tạo dẫn xuất, cột mao quản
và pha tĩnh thường được sử dụng trong sắc ký khí của axit béo trong thực phẩm.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
CRUZ-HERNANDEZ, C. & DESTAILLATS, F. 2012. Analysis of lipids by
gas chromatography. Gas chromatography. Elsevier, Waltham, 529-544.

EVERSHED, R. P., HERON, C. & GOAD, L. J. 1990. Analysis of organic
residues of archaeological origin by high-temperature gas
chromatography and gas chromatography-mass spectrometry. Analyst,
115, 1339-1342.
HARVEY, D. 2000. Modern analytical chemistry, McGraw-Hill New York.
SHANTHA, N. & NAPOLITANO, G. E. 1992. Gas chromatography of fatty
acids. Journal of Chromatography A, 624, 37-51.

15



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×